
Nghi-Thức Hành-Lễ:
- Thượng-Sớ Tân-Cố Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài để tại Giáo-Tông-Đường. Hiệp-Thiên-Đài và Phước-Thiện để tại Hộ-Pháp-Đường.
- Lễ
Thành-Phục phát tang (có lập nghi Tổ-Tông).
- Lễ
Tế-Điện, Cầu-Siêu, nhập Bửu-Tháp đều được đọc kinh như thường-lệ.
b. Chức-Sắc
Thiên-Phong từ phẩm Chánh-Phối-Sư đổ xuống Giáo-Hữu và các phẩm tương-đương
qui-vị thì hành-lễ Tế-Điện tại tư-gia, không di linh-cữu vô Báo-Ân-Từ và
Đền-Thánh, không chèo hầu, chỉ được chèo đưa.
(Nếu không có tư-gia thì hành-lễ tại Khách-Đình.)
***
15 . Nghi-Thức Thờ Tại Tư-Gia
Người đã nhập-môn vào
Đạo Cao-Đài thì phải lập Thiên-Bàn thờ Đức CHÍ-TÔN tại tư-gia. Thiên-Bàn phải đặt nơi thanh-khiết,
trang-trọng nhứt, tốt hơn hết là giữa nhà.
Cách sắp-đặt trên
Thiên-Bàn như sau:
Chuông, mõ để nơi bàn kinh. Trên bàn kinh nầy không có hình-ảnh, lư hương,
trà, nước, bông, trái cây chi cả.
Trên bàn-thờ Đức CHÍ-TÔN cũng như bàn kinh, không
thờ hình-ảnh, bửu-tượng của các bậc tiền-bối hoặc các hình-ảnh khác.
Nơi Thiên-Bàn thường ngày đốt một ngọn đèn gọi là
Thái-Cực Đăng, không nên để tắt.
Nơi nhà đạo-hữu, trước khi sửa-soạn cúng Tứ-Thời
thì đánh ba tiếng chuông, lúc cúng rồi cũng đánh ba tiếng chuông là đủ chớ
không có kệ (“Kinh-Lễ” trang 6).
***
16 . Ý-Nghĩa Khái-Quát Mỗi Phẩm-Vật
Trên Thiên-Bàn Tư-Gia
Hội-Thánh dạy:
Người Đạo thờ Đức CHÍ-TÔN theo hình chữ Chủ với 12 phẩm-vật; tượng-trưng Thập-Nhị Khai-Thiên, là Chúa cả Càn-Khôn
Thế-Giới, do Đức Ngài làm chủ mà độ dẫn chúng-sanh. Khi sắp-đặt phẩm-vật trên Thiên-Bàn phải cho
thật ngay-ngắn, nếu sắp không ngay thì trật nét chữ, trật một nét thì không
chánh đáng ...
- Thánh-Tượng Thiên-Nhãn và Đèn Thái-Cực: Tượng-trưng
Đức Thượng-Đế, là Đấng Thánh-Hoàng trước ngôi Thái-Cực; Ngọn đèn Thái-Cực luôn luôn thắp sáng, còn
gọi là Vô-Cực-Đăng, soi-sáng đầy trong Vũ-Trụ.
Thầy dạy "... Ngọn đèn các con thờ chính giữa, đó là giả
mượn làm tâm đăng, Phật, Tiên truyền Đạo cũng do đó, các con thành Đạo cũng tại
đó, nó ngay chính giữa, không lay-động xao-xuyến ... Nhơn-vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ
đó mà an-vui. Trời-Đất nhờ đó mà
quang-minh trường-cửu, người tu-hành nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên siêu-phàm nhập
Thánh, hễ chinh qua bên tả thì tả Đạo, xề qua bên hữu thì bàn-môn, ngay chính
giữa là Chánh-Đạo. Các con nên tường lý
ấy. Lý ấy ở trong tâm, tâm an-tịnh vô-vi
tự-nhiên bất-động là Chánh-Đạo, tâm còn tính mưu tà chước quỉ, độc-ác,
hiểm-sâu, ấy là bàn-môn tả Đạo chớ chi các con???”
- Bông:
Biểu-hiện cho sự xinh-tươi tốt-đẹp, chỉ về Tinh. Năm sắc hoa chỉ về năm sắc dân trên hoàn-cầu,
ngày nào năm sắc dân trên quả Địa-Cầu nầy biết nhìn Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế là
Chúa cả Càn-Khôn Vạn-Loại là Cha chung đồng dâng hiến lễ hòa lên Ngài, thì ngày
ấy là ngày Đại-Đồng Huynh-Đệ. Và cũng tượng-trưng Ngũ-Hành: Kim "Trắng",
Mộc "Xanh", Thủy "Đen", Hỏa"Đỏ" và Thổ "Vàng".
- Trái: Tượng-trưng cho bốn mùa khí-hậu ôn-hòa,
muôn-loài sanh-trưởng, đơm bông trổ trái tức là Lưỡng-Nghi sanh Tứ-Tượng. Hậu-Thiên Ngũ-Vị, đối với Tiên-Thiên
Ngũ-Khí; Và còn biểu-hiện cho người
tu-hành đắc-quả.
- Nước Trà
bên hữu: Ấy là Âm. Tượng-trưng cho Thần, tức là linh-hồn.
- Nước Trắng
bên tả: Ấy là Dương. (Là sự-sống Đức CHÍ-TÔN ban cho để nuôi-nấng muôn-loài
vạn-vật ...)
Khi cúng rót nước 8/10 phân (tượng-trưng cho
Bát-Hồn vận-chuyển do Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu dùng Âm-Quang biến-tạo và cũng có nghĩa
là 8 món báu trong cái túi Vạn-Bửu Nang, là Bát-Bửu linh-đơn ta mang theo lúc
đi đầu kiếp là: Trung, Hiếu, Lễ, ...)
- Ba ly rượu: Tượng-trưng cho Khí, là Hư-Vô Chi-Khí
do Đức Phật-Mẫu chưởng-quản; Khi cúng
Tứ-Thời rót 3/10 phân mỗi ly là Tam-Tài, Tam-Qui hay ba bực Thượng, Trung,
Hạ. Khi dâng Tam-Bửu rót ly giữa 9/10
tượng-trưng cho Cửu-Thiên Khai-Hóa. Vì
số 9 là số Trời-Đất đã định.
- Hai cây đèn ngoài: Là Lưỡng-Nghi quang;
tượng-trưng Nhựt-Nguyệt, Âm-Dương soi-sáng khắp Càn-Khôn Thế-Giới (tức là Thái-Cực
sanh Lưỡng-Nghi.)
- Lư Hương: Tượng-trưng Càn-Khôn Vũ-Trụ và sự sanh
biến vô cùng, tức là Tứ-Tượng biến Bát-Quái, Bát-Quái biến-hóa vô cùng. Cúng đốt 5 cây hương, xá 3 xá rồi cắm:
1. Cây thứ 1 ở giữa, tượng-trưng ngôi Thiên, hay là
Phật.
2. Cây thứ 2 ở bên trái (ngoài nhìn vô),
tượng-trưng ngôi Địa, hay là Pháp.
3. Cây thứ 3 ở bên phải (ngoài nhìn vô),
tượng-trưng ngôi Nhơn, hay là Tăng.
4. Cây thứ 4 ở bên trái (ngoài nhìn vô), gọi là Âm.
5. Cây thứ 5 ở bên phải (ngoài nhìn vô), gọi là
Dương.
Hàng trong 3 cây gọi là Án Tam-Tài (Thiên, Địa,
Nhơn). Hiệp 5 cây lại gọi là Tượng
Ngũ-Khí là Bát-Quái sanh Ngũ-Hành, Ngũ-Hành biến Ngũ-Khí, Ngũ-Khí biến
Ngũ-Sắc. Ngũ-Khí tức là Ngũ-Hành chi
Khí; Còn gọi là qui Tam-Giáo, hiệp
Ngũ-Chi, hay qui-nguyên phục-nhứt.
***
17 . Giờ Cúng
Một ngày đêm có 24 giờ, chia ra 12 tức là Thập-Nhị
Thời-Thần. Mỗi thời có 2 giờ.
- Tý: Từ 11 giờ khuya đến 1 giờ sáng.
- Ngọ: từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều.
- Mẹo: Từ 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng.
- Dậu: Từ 5 giờ chiều đến 7 giờ chiều.
Thời Tý cúng đúng 12 giờ khuya, giữa của thời; là
trung hòa chi Đạo, là giờ giáp giới, ngày củ hết, ngày mới bắt-đầu. Trí trung hòa, Thiên-Địa vị yên, vạn-vật dục
yên. Trung là cái gốc lớn của thiên-hạ,
Hòa là cái đạt Đạo của Thiên-Hạ. Cùng
cực cả Trung và Hòa, thì Trời-Đất định vị, vạn-vật hóa-sanh. Đức CHÍ-TÔN dạy: “Tý, Ngọ cúng rượu. Mẹo, Dậu cúng Trà” là ý-nghĩa huyền-vi
cao-siêu, để cho con cái của Ngài hưởng Bí-Pháp vô-vi, là cái đặc-ân vô-giá của
Ngài ban cho.
- Thời Tý là
cực Âm sanh Dương, là thời Ngươn-Khí của Đức CHÍ-TÔN phát-khởi. Cúng giờ nầy ta hưởng Khí Sanh-Quang làm cho
trí-não ta sáng-suốt và khí-phách ta được cường-lực mạnh-mẽ. (Do nhứt điểm
Dương sanh chi Thủy, vận-chuyển Càn-Khôn hóa-sanh vạn-vật.)
- Thời Ngọ
là thời cực Dương sanh Âm, là nguồn tịnh-dưỡng Ngươn-Khí, cúng giờ nầy ta hưởng
Khí Sanh-Quang của Đức CHÍ-TÔN, khí-phách ta được an-tịnh. (Lúc Ngươn-Khí Đức CHÍ-TÔN đến buổi
cực-thạnh, đầy-đủ ánh-sáng Dương-Quang soi thấu cả nguồn sanh khí của toàn-thể
vạn-vật.)
- Thời Mẹo
là thời Ngươn-Thần, gọi rằng Thủy-Hỏa Ký-Tế, vạn-loại hữu-sanh, cúng giờ nầy
hưởng được Thần-lực Đức CHÍ-TÔN, làm cho Chơn-Thần ta được tráng-kiện.
- Thời Dậu
là thời Ngươn-Thần Đức CHÍ-TÔN giáng-hạ, do Âm-Dương giao-thới, thủy-hỏa ký-tế,
vạn-loại toại yên, cúng giờ nầy ta được hàm dưỡng Chơn-Thần an-tịnh.
- “...
Đức CHÍ-TÔN biểu ta mỗi ngày phải dâng 3 món trọng-hệ hơn hết là Tinh,
Khí, Thần; Thường ngày chúng-ta chỉ lấy
Khí, Thần dâng mà thôi, còn Tinh thì Tiểu hay Đại-Đàn mới có. Ngài chán biết thi hài của chúng-ta chẳng
phải chúng-ta làm chủ; Nếu đòi quả-quyết
nó thì nó đi đặng phụng-sự cho vạn-linh, thì không có làm gì được, nên Ổng
không buộc mà để cho nó có quyền tự-do định phận của nó ...” (Đức Hộ-Pháp Bí-Pháp trang 43.)
- Con người
sống và đủ sáng-suốt thì phải có đủ ba thể:
Tinh, Khí, Thần; Không thể thiếu
một. “Nếu
Chơn-Thần vắng thì chắc là xác không biết đường đi mà chớ ...” và “...
Chơn-Thần dìu-dắt đồng sống với xác đặng hộ xác, tương sanh ...” (Lời Phê của Đức Hộ-Pháp).
- Và Lời-Phê
của Đức Hộ-Pháp trang 10 (mới in 1999) “... Khi đau ốm nằm dưỡng bệnh hễ nghe thời cúng
là ngồi dậy dâng Tam-Bửu cho Đức CHÍ-TÔN ...”
Vậy cúng Tứ-Thời mặc dầu dâng một Bửu, nhưng khi
nguyện dâng đủ Tinh, Khí, Thần, cả 3 thể hiệp nhứt, gọi là tế vật sống.
(Giáo-Sư Thái-Long-Thanh)
Chú-ý: Diêu-Trì-Cung là nơi trọn quyền nữ phái ở
Thiêng-Liêng. Khi có Lễ Hội-Yến mới có
nam phái đến dự. Đền-Thờ Phật-Mẫu ở
thế-gian cũng vậy. Vì thế căn giữa và căn bên hữu là của nữ phái. Còn nam phái
dành một căn bên tả mà thôi (coi như khách). Ở đây phải hiểu Âm-Dương
phân-biệt, Cung-Diêu-Trì dưới quyền Phật-Mẫu. Còn Đền-Thánh là tượng-trưng
Bạch-Ngọc-Kinh tại thế, cũng như Bạch-Ngọc-Kinh dưới quyền Đức CHÍ-TÔN là
Triều-Nghi.
- Nên khi
cúng Cửu-Phẩm Thần-Tiên lập vị ... Đó là Thể-Pháp. Khi đạt-vị về Bạch-Ngọc-Kinh ngự Liên-Đài có
khác ... Cúng Thầy là phẩm-vị áo mão Triều-Nghi khác hơn mặt Hành-Chánh. (Ở Đền-Thánh cúng lớn trước nhỏ sau, còn
địa-phương thì ai có trách-nhiệm quì trước, nghĩa là những người cầm quyền
Hành-Chánh-Đạo.)
***
18 . Chuông U-Minh
Hằng năm, tại Tòa-Thánh và các Thánh-Thất, Điện-Thờ
Phật-Mẫu địa-phương có dọng chuông U-Minh trong ba kỳ Thượng-Ngươn, Trung-Ngươn
và Hạ-Ngươn. Cách thiết-lễ dọng chuông
U-Minh như sau:
Chức-Sắc hoặc Chức-Việc đương quyền Hành-Chánh nơi
Thánh-Thất, Điện-Thờ Phật-Mẫu sau khi cúng Đàn mùng một tháng Giêng, mùng 1
tháng 7, mùng 1 tháng 10, mặc Thiên-Phục hoặc Đạo-Phục (Bàn Trị-Sự) đến
cầu-nguyện nơi Bửu-Điện Đức CHÍ-TÔN hoặc Phật-Mẫu rồi mới đến khai U-Minh. Có đọc Kệ, sau mỗi câu Kệ dọng một tiếng
chuông. Khi dứt 35 câu Kệ mới giao lại
cho vị khác và phân-công Chức-Việc dọng U-Minh cho đến hết thời-gian qui-định
(từ mùng một đến hết ngày rằm mỗi tháng nêu trên, cách độ 3 phút dọng một
tiếng.) 35 câu Kệ như sau:
1. Hồng Chung Sơ Khấu Bảo Kệ Cao Ngâm.
2. Thượng Thông Thiên-Đàng Hạ Triệt Địa-Phủ.
3. Khánh Chúc Tam-Kỳ Hoằng-Khai Đại-Đạo.
4. Càn-Khôn Đại Thống Phổ Cập Ngũ-Châu.
5. Ân Đức
Hóa Thâm Cao Thăng Đạo Vị.
6. Tam Thế Tứ Sanh Chi Nội Các Miễn Luân-Hồi.
7. Cửu U Thập Loại Chi Trung Tất Ly Khổ-Hải.
8. Ngũ Phong Thập Võ Miễn Tạo Cơ Cẩn Chi Tai.
9. Nam Mẫu Đông Giao Cự Triêm Nghiêu-Thuấn Chi
Nhựt.
10. Can Qua Vĩnh Tức Giáp Mã Hưu Chinh.
11. Trận Bại Thương-Vong Cụ Sanh Tịnh-Độ.
12. Phi Cầm Tẩu Thú La Võng Bất Phùng.
13. Lăng Tử Cô-Nhi Tảo Hồi Hương Lý.
14. Vô Biên Thế-Giới Địa Cửu Thiên Trường.
15. Viễn Cận Đàn Na Tăng Viên Phước Thọ.
16. Thánh Tòa Trần Tịnh Đạo Pháp Trường Hưng.
17. Thổ-Địa Long-Thần
An Tăng Hộ-Pháp.
18. Phụ-Mẫu Sư-Trưởng
Lục Thân Quyến Thuộc.
19. Lịch Đại Tiên Vong
Đồng Đăng Giác Ngạn.
20. Nam -Mô
Huyền-Khung Cao-Thượng-Đế Ngọc-Hoàng Đại-Thiên-Tôn.
21. Nam-Mô Diêu-Trì
Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn.
22. Nam -Mô Tây-Phương Giáo-Chủ
Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn.
23. Nam-Mô Thái-Thượng Đạo-Tổ Tam-Thanh Ứng-Hóa
Thiên-Tôn.
24. Nam-Mô Khổng-Thánh Tiên-Sư Hưng-Nho Thạnh-Thế
Thiên-Tôn.
25. Nam-Mô Thường-Cư Nam-Hải Quan-Âm Như-Lai.
26. Nam-Mô Lý-Đại-Tiên-Trưởng Kiêm Giáo-Tông
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
27. Nam-Mô Hiệp-Thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân.
28. Nam-Mô Gia-Tô Giáo-Chủ Cứu-Thế Thiên-Tôn.
29. Nam-Mô Thái-Công Tướng-Phụ Quản-Pháp Thiên-Tôn.
30. Nam-Mô Tam-Châu Bát-Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn.
31. Nam-Mô Thập-Phượng Chư Phật, Vạn Chưởng Chư
Tiên Liên-Đài Chi Hạ.
32. Nam-Mô Sơ-Hội Long-Hoa Thanh-Vương Đại-Hội,
Nhiên-Đăng Cổ-Phật Chưởng-Giáo Thiên-Tôn.
33. Nam-Mô Nhị-Hội Long-Hoa Hồng-Vương Đại-Hội,
Di-Đà Cổ-Phật Chưởng-Giáo Thiên-Tôn.
34. Nam-Mô Tam-Hội Long-Hoa Bạch-Vương Đại-Hội,
Di-Lạc Cổ-Phật Chưởng-Giáo Thiên-Tôn.
Nam-Mô Liệt-Thánh Đàn-Tràng Hòa-Nam Khể-Thủ.
***
19. Ảnh-Hưởng Tiếng Chuông U-Minh
và Ý-Nghĩa Đại-Cương Những
Câu Kệ
Chuông Thần vừa điểm, lời Kệ trổi giọng khấu cất
cao ngân, trên thấu 9 từng Trời, dưới thông miền Địa-Phủ (U-Minh Giới).
- Cầu chúc
cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ được hoằng-khai nhanh chóng, thống-nhứt Càn-Khôn, phổ
cập Ngũ-Châu vạn quốc.
- Cầu chúc
Tòa-Thánh an-bình, Đạo Pháp chấn-hưng trường-cửu.
- Cầu chúc
cho những người phiêu-bạc, cô-độc sớm sum-họp làng xưa xóm cũ, cùng tất cả
nhơn-sanh tăng thêm phước thọ.
- Cầu chúc
Thổ-Địa, Long-Thần giữ an bá-tánh.
- Cầu chúc
cho các loài tứ sanh: Thai-Sanh,
Noãn-Sanh, Thấp-Sanh, Hóa-Sanh được khai cơ chuyển kiếp thoát đọa luân-hồi,
những loài cầm-thú bay, chạy lánh khỏi bẫy rập, lưới giăng.
- Cầu cho
phong vũ điều-hòa vạn-vật tốt tươi, đâm chồi nẩy lộc tạo cho chúng-sanh ấm no
hạnh-phúc, như tháng Thuấn ngày Nghiêu.
- Cầu-nguyện
cho nhơn-loại hưởng ân thâm của Đức CHÍ-TÔN
và đạt Đạo cao thăng Thiên-vị, cùng tất cả Cửu-Huyền Thất-Tổ và những
chơn-linh qui-liễu nay được ân-xá của Đức CHÍ-TÔN, đều được qua bờ giác ngạn,
nhẹ-nhàng siêu-thoát.
***
20 . Nhạc-Lý Cúng Đàn
Lễ cúng Đàn nơi Tòa-Thánh khi
Nhạc Tấu Huân Thiên, thì nhạc đánh tiếp-giá ba hồi chín chập để rước Đức
CHÍ-TÔN và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Sau phần
tiếp-giá nhạc đờn 7 bài và ý-nghĩa như sau:
1. Trước đờn bài “Xàng-Xê”. Nghĩa là khi Trời-Đất mới sơ-khai chưa phân
thanh-trược, nên còn hổn-độn ...
2. Kế đờn bài “Ngũ Đối Thượng”, hay gọi là bài
Thượng, nghĩa là khí Thanh bay lên làm Trời ...
3. Kế nữa đờn bài “Ngũ Đối Hạ”, gọi tắt là bài Haï,
nghĩa là khí trược lắng xuống thành Đất ...
4. Tiếp đờn bài “Long Đăng”, nghĩa là mặt Nhựt
chiếu sáng, nóng làm hơi nước bốc từ Đất lên thành mây ...
5. Kế đờn bài “Long Ngâm”, nghĩa là mây gặp khí
lạnh rơi xuống làm mưa từ Trời sa xuống Đất ...
6. Tiếp nữa đờn bài “Vạm Giá”, nghĩa là nước hợp
với Đất biến sanh cây cỏ, vạn-vật, loài người gọi chung là chúng-sanh ...
7. Bài thứ 7 là “Tiểu-Khúc”, nghĩa là khi có Đất
mới định danh nào là Kim-Thạch, Thảo-Mộc, Thú-Cầm, đến Loài-Người ...
Đức Hộ-Pháp thỉnh-giáo Đức CHÍ-TÔN:
- Vì sao phải đờn như thế?
Đức Đại Từ-Phụ trả lời:
- Thầy thích
cho nghe những bản ấy, vì nó do ý-nghĩa của tạo Thiên lập Địa buổi mới có
Trời-Đất.
Còn khi dâng Tam-Bửu đờn bài “Đảo Ngũ Cung”.
- Đảo là quay trở lại “là qui cổ”
hay “vạn thù qui nhứt bổn” ...
Vì sự cần ích như thế nên chúng-ta không được quyền bớt bài nào, dẫu
có hơi lâu ráng chịu mỏi để hòa-đồng
cùng vạn-vật cho vẹn ý-nghĩa câu:
“Bát-Hồn vận-chuyển ca Huỳnh-Lão,
Vạn-vật đồng thinh niệm Chí-Tôn.”
Đức Hộ-Pháp hỏi tiếp:
- Bạch Thầy, nếu lấy những bài đó để
hiến-lễ thì ra Thầy tư vị dân-tộc Việt-Nam hay sao?
Đức CHÍ-TÔN trả lời:
- Trên
thế-gian nầy chưa có dân-tộc nào có nền âm-nhạc cổ để rước Thầy mà đủ ý-nghĩa
như dân-tộc Việt-Nam, nên Thầy chọn nó làm tiêu-biểu cho toàn-cầu nhơn-loại noi
theo.
Chú-ý: Mỗi
năm có bốn kỳ Đàn lớn là Lễ Tam-Ngươn và Vía Đức CHÍ-TÔN đờn đủ 7 bài, còn Đại-Đàn vía các Đấng như:
Tam-Giáo, Tam-Trấn, ... bớt hai bài “Long Ngâm và Vạm-Giá.”
Còn Tiểu-Đàn đờn 3 bài: “Ngũ
Đối Hạ, Long-Đăng, Tiểu-Khúc.”
- Chỉ có nơi
Tòa-Thánh mới có cúng Đại và Tiểu-Đàn mà thôi, vì: Đại-Đàn Tòa-Thánh có đi Hoán-Đàn, có chỉnh
xác cúng phẩm, có Ngọc-Hàm, có Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài trấn Thần Tam-Bửu. Lễ-sĩ điện từ Nghi-Ngoại.
- Còn
Tiểu-Đàn thì Lễ-sĩ đi thảo (là bưng cúng phẩm lên đến Nội-Nghi quì xuống rồi
mới bắt-đầu Thài.)
- Còn nơi
Điện-Thờ Phật-Mẫu (Báo-Ân-Từ) cúng Đại-Đàn luôn và đờn 3 bài như Tiểu-Đàn
Đền-Thánh, chỉ có Tam-Ngươn thì đờn 5 bài như Đền-Thánh vía các Đấng Tam-Giáo.
- Nơi Thánh-Thất
và Điện-Thờ Phật-Mẫu địa-phương cúng Đại-Đàn luôn (là Lễ điện từ Ngoại-Nghi vô
Nội-Nghi) và đờn 3 bài như Tiểu-Đàn Đền-Thánh.
***
21 . Lễ-phục của trò lễ mặc
khi cúng Đàn nơi Đền-Thánh
và Thánh-Thất
- Vía Đức Phật-Mẫu, Đức Thích-Ca, Đức Quan-Thế-Âm,
... Lễ mặc sắc-phục màu vàng.
- Sóc-Vọng, Vía Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ, Đức
Lý-Đại-Tiên, ...Lễ mặc sắc-phục màu xanh.
- Vía Đức Khổng-Thánh, Đức Quan-Thánh Đế-Quân, Đức
Chúa Jesus Christ, Lễ mặc sắc-phục màu đỏ.
(Nghĩa là hàng Phật mặc áo vàng, hàng Tiên mặc áo xanh và hàng Thánh mặc
áo đỏ.)
- Cúng Đàn
Phật-Mẫu trò lễ luôn luôn mặc áo màu vàng.
*
* *
22 . Sơ Đồ Cúng Sao Hội
Bàn Cúng Sao (phải thấp hơn bàn kinh)
23.
Nghi-Thức Cúng Sao Hội
(Ngày mùng 8 tháng Giêng
AL hằng năm)
- 6 giờ
chiều (18 giờ): Cúng thời Dậu bình
thường.
- 7 giờ
chiều (19 giờ): Thiết-lễ cúng Sao.
- Vị
Chức-Sắc hay Chức-Việc đương quyền Hành-Chánh (nơi Thánh-Thất hay Điện-Thờ)
chứng Đàn quì trước bàn Kinh. Cầu-nguyện
cho nhơn-sanh, bá-tánh ... Cầu-an cho
bổn-đạo nơi mình quản-nhiệm.
- Đồng-nhi
tụng Kinh Di-Lạc Chơn-Kinh từng đợt, đồng-đạo quì sau đến khi hết người tụng
mới thôi. Nhưng thời-gian phải xong
trước 12 giờ khuya (để đi cúng vía Đức Chí-Tôn).
- Còn vị
chứng Đàn (nếu không có Nam thì nữ) chỉ quì biến Kinh đầu-tiên. Sau đó chờ
bổn-đạo hết tụng kinh, vào cầu-nguyện rồi thỉnh danh-sách xuống đốt.
*
* *
24.
Bàn Thờ Cúng Cầu-Siêu Hội
Bàn 2: (dọn kế bàn 1, thấp hơn một chút, dành cho
các vị Nhơn và Địa-Thần.)
- Ngang: 1.2 tấc
- Dài: 9 tấc
- Tính từ trên đầu xuống
- Phần trên đầu hình Bát-Quái. Chính giữa chữ vạn
màu trắng, nền đỏ, vòng thứ 2 màu xanh và vòng thứ 3 màu vàng.
Đính chánh: Lòng Phan trên đây, xin bỏ chữ sơ (sơ
ngoạt) mà thay bằng Chánh ngoạt (nếu là tháng Giêng)
*
* *
25.
Tang-Lễ ở Nước Ngoài
Trong “Pháp-Chánh-Truyền”dạy: “... Như ngày kia Đạo
xuất dương ra Ngoại-Quốc thì sẽ có nhiều dân-tộc chẳng có thể thờ phượng như
Nam ...” và “... Biết đâu ngày kia các
vị ấy (GS) còn phải thuyên-bổ đi phổ-thông Chơn-Đạo của Thầy trong một nước,
hay một dân-tộc nào mà phong-hóa không thể tùng Đạo-Luật đặng; Nếu không chế giảm cho phù-hợp thức-lệ
lễ-nghi của sắc-dân ấy, thì khó mà độ-rỗi cho đặng ...” (“Pháp-Chánh-Truyền”, trang 47 và 44).
Lời tiên-tri của Thầy nay đã hẳn.
Mà Thầy dạy là dạy hàng phẩm Giáo-Hữu, Giáo-Sư được
lãnh-lịnh Hội-Thánh thuyên-bổ đi địa-phương (xuất-sư), có người đưa đón chúc
mừng. Còn chúng-ta nay đa-số là Tín-Đồ,
ra đi không được lịnh Hội-Thánh, không một lời giáo-huấn, chẳng một tiếng
chúc-mừng, lại gặp lúc cơ Đạo chinh-nghiêng, Hội-Thánh bị giải-thể việc
thỉnh-giáo có chăng chỉ là tính cách cá-nhân đối với một số Chức-Sắc còn giữ
được sự trung-nghĩa với Hội-Thánh, với Đạo và hiếu-hạnh với Đức CHÍ-TÔN, Đức
Phật-Mẫu.
Do đó tạm-thời anh em ta xúm-xít nhau, mượn quyền
của nhơn-sanh, linh-động, uyển-chuyển trong hoàn-cảnh hiện-tại, để phù-hợp
phong-hóa nơi xứ người, (mà không vượt ra ngoài Thánh-ý căn-bản) hầu hoằng-khai
Đại-Đạo, phổ-độ chúng-sanh (chờ ngày Hội-Thánh phục-quyền, chúng-ta sẽ dâng
trình cầu-xin chỉ-giáo.)
Là môn-đệ Đức CHÍ-TÔN ai cũng hằng tâm giữ lời
Minh-Thệ và luôn ghi-nhớ câu 1 và 2 trong bài Kinh Ngũ-Nguyện, cũng như Đức
CHÍ-TÔN đã hành Pháp ở Kiêm-Biên (Cambodia) cho biết về nhiệm-vụ của người
Hoa-Kỳ truyền Đạo Cao-Đài. Thế nên tệ-muội tự nghĩ, chúng-ta ra hải-ngoại có lẽ
vì Thiên-ý, nên không ai bảo ai mà chúng-ta tự-nguyện, hợp-quần tạo điều-kiện
để lập công hầu phổ-truyền nền Chơn-Giáo của Đức CHÍ-TÔN.
Để được đồng nhứt về nghi-lễ, xin góp ý:
a. Cầu
bệnh: Nếu bệnh-nhân còn đi được thì đến
Thánh-Thất cầubệnh, còn yếu thì người trong gia-đình đến Thánh-Thất cầu bệnh
xong rồi thỉnh nước Âm-Dương về cho bệnh-nhân uống ...
b. Cầu
Hấp-Hối: Thì ở Thánh-Thất cúng cầu-nguyện
Đức CHÍ-TÔN rồi đến bệnh-viện hay nhà quàn cầu hấp-hối.
c. Cầu-Hồn
khi đã chết rồi: Khi xác đem đến nhà quàn, an-vị Đức CHÍ-TÔN rồi tiếp tụng Kinh Chết Rồi
...
d. Tang-Lễ: Thỉnh
Thánh-Tượng Đức CHÍ-TÔN đến nhà quàn an-vị, rồi bắt-đầu cúng tế luôn ... (Thánh-Tượng và đồ-vật thờ Đức CHÍ-TÔN phải
sắm riêng trọn bộ đầy-đủ đựng trong cái rương hay một cái thùng, để nơi
tôn-nghiêm, khi nào có đám tang mới thỉnh đi.)
Nơi nhà quàn ta phải thiết-lập bàn-thờ:
- Bàn-thờ Đức CHÍ-TÔN.
- Bàn-thờ Cửu-Huyền.
- Bàn cúng đất-đai.
- Bàn-thờ Vong.
Khi tang-lễ xong, ta cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN để xin
thỉnh Thánh-Tượng về Thánh-Thất.
e .
Lễ An-Táng: Tùy thuộc vào nhà quàn, có chỗ dễ
thì mình có thể làm theo nghi-thức Đạo (Nghi-thức có sẵn).
f . Hạ Huyệt:
- Nếu chôn
thì hành theo nghi-thức Đạo được.
- Nếu
hỏa-táng thì họ cũng chờ mình hành-lễ xong mới cho xác vào lò hỏa; Có nơi họ không chờ, xác đến là họ cho vào lò
hỏa liền, họ mời mình ra ngoài. Điều nầy
ta hướng về lò hỏa để đọc kinh ...
g . Lễ
Truy-Điệu: (Là lễ để nhớ người đã qui-vị)
- Nếu người qui-vị hành đủ lễ rồi thì không dâng sớ
Tân-Cố (mới chết) nữa, vì đã dâng và đốt Sớ Cầu-Đạo khi hành lễ rồi.
- Nếu người
qui-vị mà chưa hành-lễ, thì dâng sớ Truy-Điệu, trình Đức CHÍ-TÔN và các Đấng để
đốt Sớ Cầu-Đạo. (Sớ Truy-Điệu cũng mẫu
sớ Tân-Cố, nhưng khi dâng ghi là Truy-Điệu ...)
- Nếu Lễ Truy-Điệu còn trong tang thì tính tiếp nối
từ ngày qui-vị đặng làm Tuần-Cửu ... (Nếu ăn chay đủ.)
- Nếu Lễ
Truy-Điệu mà mảng tang rồi, thì chỉ hành Lễ Truy-Điệu mà thôi.
- Nếu tái an-táng (lấy cốt chôn lại nơi khác) thì
cúng cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN, làm theo Thế-Đạo, tụng Kinh Di-Lạc, bịt khăn tang
đỏ (mừng) đưa tới mộ xả tang.
h . Nghi-Thức: (Truy-Điệu)
- Cúng Đức
CHÍ-TÔN.
- Cáo Từ-Tổ.
- Thành-phục
phát-tang.
- Điện-tế và
ai chúc ...
- Phụ tế.
- Cầu-Siêu
(ta đọc nơi Thiên-Bàn hoặc nơi bàn vong cũng được, Hội-Thánh không buộc, tùy
hoàn-cảnh thích-nghi).
- Tụng
Di-Lạc Chơn-Kinh.
Cước Chú: Kinh Cầu-Siêu, Cửu-Cửu, Tiểu-Đại Tường là
lời cầu rỗi, cầu xin và cũng là lời hướng-dẫn vong-linh qui-hồi Thiên cảnh, nên
Hội-Thánh không giới-hạn. Vậy dầu thân-nhân đã hành đủ lễ rồi, những người thân
ở xa không về được, để báo hiếu báo nghĩa cũng có thể dâng sớ để cầu-nguyện
hướng-dẫn thêm ...
Còn Kinh Di-Lạc là Kinh Tận-Độ; Nên Hội-Thánh dạy “... Nếu chúng-ta thương tưởng thì duy có một phương độ-rỗi là trì tụng
Di-Lạc Chơn-Kinh hầu các Đẳng linh-hồn đặng siêu-thăng tịnh-độ ...”
*
* *
26 . Hôn-Nhơn
Trai lớn lên cưới vợ, gái lớn lên lấy chồng. Việc hôn-nhơn là việc tối-trọng trong đời
người. Tìm đâu có hạnh-phúc? Hạnh-phúc ở trong việc hôn-nhơn. Thật vậy, không có gì vui thích cho bằng
trong gia-đình được vợ-chồng hòa-thuận đầm-ấm, thành-thật yêu-đương
nồng-hậu. Vợ biết tùy theo ý muốn phải
của chồng, chồng biết thương vợ, không làm phật ý vợ, ăn ở với nhau lâu ngày,
càng sâu ngãi biển càng dài tình sông, nghĩa mặn tình nồng.
Cha-mẹ dựng vợ gả chồng cho con, không ngoài ý muốn
đem hạnh-phúc cho con. Cha-mẹ nào có con
cũng mong ước: “Gái thì đẹp phận mày xanh, bền duyên tơ-tóc. Trai thì nên nghĩa đá vàng keo-sơn gắn chặt.”
Dân-tộc Việt-Nam ảnh-hưởng phong-tục của người
Tàu. Thành-hôn phải đủ 6 Lễ (Lục Lễ),
nhưng sau nầy Việt-Nam ta chỉ còn giữ 2 lễ là:
Hỏi và Cưới mà thôi.
a . Đồng Tánh Bất Hôn
Theo Lễ đời nhà Châu: Người cùng một Họ không được kết làm
chồng-vợ. Người Việt-Nam xưa nay cũng
tùng theo Lễ ấy. Đó là nói về bà con,
chí như cùng một Họ mà không bà con thì việc hôn-nhơn đồng-tánh không có
tổn-hại nhơn-luân.
b . Trưởng-Tộc
Sui trai hay sui gái, bên nào cũng chọn một người
trong thân-tộc trọng tuổi, còn đủ vợ-chồng, làm người Trưởng-Tộc. Có Trưởng-Tộc nam phái tức có Trưởng-Tộc nữ
phái. Như trong thân-tộc không có người,
chọn người ngoài cũng được, nhưng phải có đủ điều-kiện là trọng tuổi, vợ-chồng còn
đủ, người có tư-cách.
Trưởng-Tộc cũng như là người hướng-dẫn hay là
Trưởng phái-đoàn của mỗi bên trong Lễ Hỏi, Lễ Cưới. Giữa hai Họ có điều chi chưa thỏa-thuận thì
nhờ Trưởng-Tộc hai bên giải-quyết.
c. Lễ-Hỏi
Phẩm lễ trong Lễ Hỏi, cần nhứt giàu cũng như nghèo
là một đôi bông tai, một mâm trầu, hai chai rượu, một đôi đèn. Trà bánh là phụ-thuộc. Đôi bông tai ví như cái Hoa con gái.
Đến ngày đã định, bên nhà trai sang nhà gái, có bà
con thân-thuộc và ông-mai, nhà trai mang theo đủ phẩm-vật nhà gái đòi hỏi.
Đến nhà gái, khi quan-khách an-tọa xong, đoạn
ông-mai hướng-dẫn ông sui trai trình giữa hai Họ, Lễ Sính đặt trước khay trầu
rượu bên gái đã sắm sẵn. Lễ phẩm
như: bông-tai, nữ-trang, và tiền-bạc
cũng mở ra cho hai Họ trông thấy. Trình
phái nam rồi, ông sui gái đem trình phái nữ.
Bà sui gái nhận nữ-trang đem cho con gái, rồi dắt con gái ra chào Họ bên
chồng.
Sau phần kỉnh lễ Đức CHÍ-TÔN và Hội-Thánh hoặc
người tuổi tác, ông sui gái lên đèn cho chàng rễ làm lễ Từ-Đường. Sau lễ Từ-Đường là lễ chàng rễ ra mắt họ-hàng
bên gái.
Lễ bái:
Ông-bà, cha-mẹ, ông-mai và thân-tộc.
Lễ hỏi đến đây chấm dứt.
d. Lễ Cưới
Nhà trai định ngày làm Lễ Cưới, nhờ ông-mai báo-tin
cho nhà gái hay. Nhà gái bằng lòng ngày
giờ đã định thì thôi, trái lại, nhà trai phải chọn ngày khác.
Khi hai đàng đã thỏa-thuận ngày cưới, thì ông sui
trai cùng ông-mai qua nhà gái trình một hồng-thiệp có biên đầy-đủ chi-tiết ngày
giờ rước dâu và đưa dâu.
Ngày cưới họ-hàng bên trai qua nhà bên gái, mang đủ
lễ-vật bên gái đòi-hỏi (cũng như lúc Lễ-Hỏi).
Đàng trai trình Lễ-Cưới theo thủ-tục.
Sau phần kỉnh lễ Đức CHÍ-TÔN và Hội-Thánh, chủ hôn nữ lo việc lên đèn,
gọi con gái ra đứng cùng chàng-rễ lập song, cùng nhau làm lễ Từ-Đường, kế tiếp
làm lễ ra mắt họ-hàng (dùng trà).
Ông sui trai ra lễ rước dâu, và thỉnh họ đưa dâu
cùng một lúc.
Đoàn rước dâu đi ngay đến Đền-Thánh, hay là
Thánh-Thất để làm lễ Hôn-Phối (chứng hôn), kế đến Điện-Thờ Phật-Mẫu cầu-nguyện
bái lễ rồi trực chỉ về nhà.
Đến nhà bên trai, Bàn-Trị-Sự sở tại, sui-gia
cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN rồi đến cặp Tân-Hôn, bái lễ Đức CHÍ-TÔN, kỉnh lễ
Hội-Thánh và Chánh-Quyền. Kế tiếp bên
trai lên đèn làm lễ Từ-Đường, kế đến làm lễ ông-bà (còn sống), cha-mẹ, ông-mai
nếu có và người thân-tộc.
Đàng trai mở tiệc khoản đãi. Mãn tiệc, họ đàng gái ra lễ cáo-từ. Ông-bà sui trai và cặp Tân-Hôn ra cửa đưa họ.
Lễ Cưới đã thành.
e. Phép Hôn-Phối
Tân-Luật, chương Thế-Luật, điều thứ sáu: “Việc Hôn là việc rất trọng đời người. Phải chọn Hôn trong người đồng Đạo; Trừ ra khi nào người ngoại ưng-thuận nhập-môn
thì mới được kết làm giai-ngẫu.”
Lễ Hôn-Phối chỉ cử-hành tại Đền-Thánh Tòa-Thánh
Tây-Ninh mà thôi, vì phải là Chức-Sắc có thọ Pháp và từ phẩm Giáo-Sư trở lên ... Còn các Thánh-Thất địa-phương chỉ
làm lễ chứng-hôn, cô dâu, chú rể quì trước Thiên-Bàn cầu-nguyện, nghe Kinh
Hôn-Phối và được Chức-Sắc hữu-trách khuyên-nhủ về đạo vợ-chồng ... Trai thì
tam-cang ngũ-thường. Gái thì tam-tùng tứ-đức.
Trai thời trung-hiếu làm đầu. Gái
thời tiết-hạnh là câu trau mình.
CHUNG
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét