Thiên Đạo - 3 /3 (Nguyễn Trung Hậu & Phan Trường Mạnh)


Hội Thánh có hai phần tại thế:
1. - Phần hữu hình là Cửu trùng Đài, thuộc đời, tức là Xác của Đạo.
2. - Phần bán hữu hình Gọi Hiệp Thiên Đài là hữu hình vì chức sắc H.T.Đ. có trách nhiệm hành sự về mặt pháp luật. Gọi vô hình là khi chức sắc ấy tiếp điễn thông công với Bát quái Đài, cùng chư Tiên Phật; Vừa hữu hình, vừa vô hình, nên gọi bán hữu hình như
Chơn thần là thể chất bán hữu hình vậy. ) là Hiệp Thiên Đài nửa đời nửa đạo, tức là Chơn thần của Đạo.

Về vô vi, có Bát Quái Đài, thuộc đạo, tức là Hồn của Đạo vậy.

Xác nhờ Chơn thần mà liên lạc với Hồn, thì Cửu Trùng Đài cũng nhờ Hiệp Thiên Đài mà thông công với Bát Quái Đài.

Ba Đài cần phải có đủ, thì Đạo mới được toàn thể.
Trên ba Đài ấy, còn có một Đài tuyệt cao, là Đài ngự của Đức Chí Tôn cầm quyền chưởng Đạo. Đài cao ấy, gọi theo Hán văn là "Cao Đài" mà đức Chí Tôn dùng làm Thánh danh trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ.

I . CỬU TRÙNG ĐÀI

Cửu Trùng Đài là tòa ngự của chức sắc Thiên Phong, đối hàm với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cửu Trùng Đài là hình trạng Cửu Trùng Thiên (Xem bài giải riêng.). Cửu phẩm Thần Tiên vưng mạng lịnh cầm quyền trị thế, thì Cửu Trùng Đài cũng vưng mạng lịnh cầm quyền quản trị Đạo nơi tay. Tất cả Chơn linh trong Càn Khôn, Thế giới phải vào Cửu Trùng Đài đặng đoạt giả trạng sắp đặt nơi ấy, mới mong lập Thiên vị mình.

Chẳng vào cửa Đạo hiệp với Cửu Trùng Đài, thì chẳng đi đường nào khác mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng.

Cửu Trùng Đài do Giáo Tông chưởng quản dưới quyền có: ba Chưởng Pháp, ba Đầu Sư, ba mươi sáu Phối Sư (trong số nầy có ba Chánh Phối sư), bảy mươi hai Giáo Sư và ba ngàn Giáo Hữu. ( Tổng số nầy, tính chung toàn thể chức sắc khắp hoàn cầu, chẳng hạn người nước nào, dân tộc nào. ) Tỷ số nầy chiếu theo Thiên thơ phải có nhứt Phật, tam Tiên, tam thập lụcThánh, thất thập nhị Hiền, tam thiên đồ đệ chưởng quản cơ qui "Tam giáo Ngũ Chi" hiệp Nhứt.

Từ Chưởng Pháp đổ xuống, chức sắc Cửu Trùng Đài chia làm ba phái là:
1) Phái Thái, về Phật giáo, mặc Thiên phục màu vàng. 
2) Phái Thượng, về Tiên giáo, mặc Thiên phục màu xanh.
3) Phái Ngọc, về Khổng giáo, mặc Thiên phục màu đỏ.
Chức sắc nữ phái chỉ tới bực Đầu sư. Chức sắc nữ phái mặc Thiên phục toàn màu trắng, và không chia làm ba phái như bên nam. Chức sắc nữ phái vốn có quyền tương đương đồng đẳng với nam phái, song phải dưới quyền chưởng quản của Giáo Tông.

Lễ sanh (nam và nữ) là hạng chức sắc để lo việc lễ, chưa đứng vào Hội Thánh.
Nhiệm vụ của chức sắc Hiệp Thiên Đài đều qui định trong "Pháp Chánh Truyền" và "Tân Luật".

II . HIỆP THIÊN ĐÀI

Hiệp Thiên Đài là nơi chuyên về đạo pháp, bảo hộ luật đời và luật đạo. Hiệp Thiên Đài nắm luật lệ như Ngọc Hư Cung nắm Thiên điều.
Hiệp Thiên Đài, tứùc là hình trạng Ngọc Hư Cung tại thế.
Hiệp Thiên Đài do Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Hiệp Thiên Đài, gồm có ba chi: chi Pháp, chi Đạo, và chi Thế.

Hộ Pháp là Tổng trưởng Hiệp Thiên Đài, kiêm chỉ huy chi Pháp; dưới có: Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp, và Tiếp Pháp.
Chi Pháp lo bảo hộ pháp luật trong đạo, chẳng ai hành động qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.
Thượng Phẩm chỉ huy chi Đạo dưới có: Bảo Đạo, Hiến Đạo, Khai Đạo, và Tiếp Đạo.
Chi Đạo lo về phần đạo nơi các tịnh thất, xem sóc và binh vực chư môn đệ Đức Chí Tôn nơi các Thánh Thất.

Thượng Sanh chỉ huy chi Thế: dưới có; Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Thế, và Tiếp Thế.
Chi Thế lo bảo hộ chư môn đệ của đức Chí Tôn về phần đời.

Mười hai vị Bảo, Hiến, Khai, Tiếp gọi là "Thập nhị Thời Quân" đối hàm với "Thập nhị Thời Thần". ( Xem bài "Ýù nghĩa sự lạy")

Hiệp Thiên Đài còn có "Thập nhị Bảo Quân", tức là Hàn Lâm Viện của Đạo, cùng nhiều chức sắc phụ thuộc khác như Sĩ Tải, Luật Sự, vân vân...

Trên đây là sở dụng phàm trần của Hiệp Thiên Đài.
Về sở dụng thiêng liêng, Hiệp Thiên Đài là nơi Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật đến tiếp xúc với Hội Thánh. Hễ Đạo còn, Hiệp Thiên Đài vẫn còn. Điều hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài, thì Đạo không cơ xuất hiện. Trời đất qua, chớ Đạo không qua, nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên Đài chẳng tuyệt.

Hiệp Thiên Đài lại là nơi Giáo Tông đến thông công cùng "Tam thập lục Thiên", "Tam thiên thế giới", "Lục thập thất địa cầu""Thập điện diêm cung" mà cầu siêu cho nhơn loại.

III . BÁT QUÁI ĐÀI

Bát Quái Đài là nơi thờ phượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, cùng Chức sắc và tín đồ qui vị, cho trọn phép Trời Người hiệp nhứt.
Các đấng Thiêng Liêng thờ phượng nơi Bát Quái Đài là các vì Giáo chủ của Tam giáo, Ngũ chi, cùng các vị thay mặt tôn giáo mà hành đạo trong buổi "Tam Kỳ Phổ Độ". Cho nên cách thờ phượng sắp đặt nơi đây phải chủ về ý nghĩa Tam giáo, Ngũ chi hiệp nhứt. Cách sắp đặt ngôi thứ ra sao, sẽ giải ở chương "Lễ nghi tế tự."

Đã nói Bát Quái Đài là Hồn Đạo, mà đức Chí Tôn vẫn nắm phần Hồn và làm chủ Bát Quái Đài, thì Đạo chẳng khi nào còn chịu dưới quyền phàm nữa, cho nên Đức Chí Tôn đã nói: "Không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa" là vậy.

Cơ mầu nhiệm của Đạo là do chỗ Đức Chí Tôn mở cửa Bát Quái Đài cho các Chơn linh đã tự mình lập vị nơi Cửu Trùng Đài vào tận Bát Quái Đài mà hiệp một cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Cửu Trùng Đài chỉ cách Bát Quái Đài có một cánh cửa, như Niết Bàn cách phàm trần có một xác thân. Cánh cửa ấy nay đã mở, thì cơ đắc Đạo tại thế đã mở ra rồi vậy.

Cửu Trùng Đài lo phần độ rỗi chúng sanh thì Bát Quái Đài lo phần siêu rỗi.

Tóm lại, về sở dụng phàm trần:
1 - Bát Quái Đài nắm Thiên điều làm cân thưởng phạt thiêng liêng.
2 - Cửu Trùng Đài do pháp luật mà hành đạo đặng độ rỗi chúng sanh.
3 - Hiệp Thiên Đài lo bảo tồn pháp luật.

Về sở dụng thiêng liêng:
1 - Cửu Trùng Đài là ngôi vị Thánh, Thần, Tiên, Phật của Đức Chí Tôn sắp sẵn tại thế, cho chức sắc Thiên phong cùng chư tín đồ đoạt thủ. Cửu Trùng Đài tức là Cửu Trùng Thiên tại thế.
2 - Hiệp Thiên Đài là Thiên môn mở rộng ra rước cả Nguyên nhơn trở về cựu vị, và giúp cho cả hóa sanh đến tranh đoạt phẩm vị thiêng liêng. Ấy là cái ngõ Hiệp các Chơn linh toàn trong Thế giới.
Hiệp Thiên Đài là Ngọc Hư Cung tại thế.

Bát Quái Đài là tòa ngự của Thần, Thánh, Tiên, Phật dưới quyền chưởng quản của Đức Chí Tôn, tức là Thiên triều, là Bạch ngọc Kinh tại thế.

CỬU TRÙNG THIÊN

Thượng giới, cõi Tiên, chia làm 3 cõi là: cõi Thiên Tiên, cõi Địa Tiên, và cõi Nhơn Tiên.
Mỗi cõi lại phân làm ba từng, cộng chung là chín từng gọi Cửu trùng Thiên.
- Cõi Thiên Tiên
Hỗn ngươn Thiên
Hư vô Thiên
Tạo hóa Thiên

- Cõi Địa Tiên
Phi tưởng Thiên           
Hạo nhiên Thiên
Kim Thiên

- Cõi Nhơn Tiên
Xích Thiên
Huỳnh Thiên
Thanh Thiên

Hỗn ngươn Thiên có Lôi âm Tự
Hư vô Thiên có Ngọc hư Cung
Tạo hóa Thiên có Diêu trì Cung
*  *  *

CHƯƠNG THỨ BA

LỄ NGHI - TẾ TỰ

THỜ TRỜI

Vốn từ trước, Thánh giáo bị tay phàm mà hóa Phàm giáo; môn đồ mỗi Đạo vì chỗ bất đồng ý kiến mà xuyên tạc nhau.
Nay gặp hội "Tam Kỳ Phổ Độ", Đại Đạo ra đời truyền bá cho dân gian biết rằng các tôn giáo vốn một gốc mà ra, đều tôn sùng chung một vị Chúa tể mà vì khác tôn giáo, hoặc khác ngôn ngữ, người ta xưng tụng với danh hiệu khác nhau. (Người Do thái gọi Ngài là Jéhovah, người Hồi Hồi gọi Allah, người đạo Phật gọi A di đà Phật, người Ấn độ gọi Brahma, người Ai cập gọi Osiris, người Pháp gọi Dieu, người Việt Nam gọi Thượng Đế mà ngày nay "Tam Kỳ Phổ Độ" gọi Cao Đài.
Kỳ hội quốc tế Thần linh học (Congrès spirite international) nhóm tại thành Londres (Anh quốc) từ 7 đến 11 tháng 9 năm 1928, có 26 nước đến dự, đều công nhận có 1 vị Chúa tể là Đấng toàn tri và là Nguyên nhơn tối cao của vạn vật (Existence de Dieu, Intelligence et Cours suprême de toutes choses). )

Phàm muốn tỏ dấu tôn sùng Đức Thượng Đế, chúng ta phải thờ phượng Ngài.

Thoảng có người hỏi: "Thượng Đế là đấng Hóa sanh muôn loài, bông hoa cây trái, vật nào lại không phải của Ngài sanh ra. Như vậy, cần chi phải dùng những vật của Ngài sanh ra mà dâng cúng lại Ngài?"

Chúng tôi xin đáp: "Đức Thượng Đế tạo hóa chúng ta, chúng ta phải biết ơn Ngài. Và cũng bởi muốn tỏ dấu biết ơn mà chúng ta thờ phượng. Mà đặt ra lễ thờ phượng, tất phải dùng hương đăng trà quả cho có nghi lễ vậy thôi, chớ Ngài đâu dùng đến.

Phương chi, những tế vật và cúng phẩm đều hàm súc một ý nghĩa tượng trưng cơ mầu nhiệm của đạo."

Hoặc giả, người ta còn gạn hỏi: "Thượng Đế là Đấng tối cao, tối trọng, đại từ, đại bi, cần chi chúng ta biết ơn? Mà dầu chúng ta không biết ơn đi nữa, tưởng lại lòng từ bi của Ngài cũng không nỡ chấp."

Xin đáp: "Đành rằng đức Thượng Đế không cần chúng ta biết ơn, và Ngài cũng không nỡ chấp những kẻ chẳng biết ơn ngài, thậm chí lòng từ bi của Ngài cũng không chấp những kẻ chẳng tin có Ngài nữa kìa. Song về phần chúng ta, lại cần phải biết ơn Ngài. Biết ơn Thượng Đế là biết tin tưởng ở quyền năng vô biên, vô lượng của Ngài. Có tin tưởng như vậy, chúng ta mới ráng giữ Thiên Đạo mà khỏi làm điều chi trái lẽ."

Nếu có người hỏi thêm: "Dầu biết ơn Thượng Đế đi nữa, tưởng lại một tấm lòng tín thành cũng đủ, hà tất phải bày ra lễ nghi tế tự là việc phô trương bề ngoài không thấy chi cần yếu?"

Chúng tôi lại trả lời: "Ở vào thế kỷ văn minh vật chất nầy, nhiều sự ồn ào náo nhiệt, dễ làm cho đạo tâm xao lãng. Nào là nỗi sớm lo chiều liệu trên đường sanh kế, nào là cuộc bi thương hoan lạc, mỗi mỗi dễ làm cho chúng ta phải xa lần mối Đạo. Cho nên cần phải có phương pháp chi nhắc nhở và bó buộc chúng ta khỏi thất Đạo. Cái phương pháp thần diệu ấy, tức là sự cúng kiến thờ phượng Thượng Đế đó vậy.

Vả chăng sự thờ cúng cần phải hiệp lại đông người và phô diễn ra một cách chí thành chí kỉnh và có lễ nghi pháp mục oai nghiêm mới ra vẽ tôn giáo. Ấy chẳng những là một phương pháp gìn giữ đạo tâm và nuôi nấng đức tin của những người cùng chung một tín ngưỡng, mà cũng là một cách truyền bá tôn giáo rất đắc lực đó vậy. Xem như một Thánh thất trong khi hành lễ, cả bổn đạo quì trước Thiên bàn, miệng đương thành kỉnh đọc kinh, tâm hồn đương tiếp xúc với khối Thiên quang. Đối với khối kỉnh thành tín ngưỡng của đông người hiệp lại, dầu ai là kẻ trước muốn chê bai rẻ rúng, mà một khi đã mục kích cái cảnh tượng uy nghiêm ấy, tưởng lại tấm lòng khi ngạo cũng phải xiêu, rồi biết đâu đạo tâm của người ấy chẳng vì cảm xúc mà phát khởi?"

Trong khi hành lễ, Đức Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều chứng giám tấc lòng thành kỉnh của chúng ta, và ban cho chúng ta điễn lành bằng cớ là khi mãn đàn, chúng ta luôn luôn cảm thấy trong người khoan khoái lạ thường, mặc dầu đã chịu nực nội giữa đông người với nhiều nghi thức.

THỜ THIÊN NHÃN

Về "LỄ NGHI TẾ TỰ" của Đại Đạo và cách thờ Thiên Nhãn, vốn có ba thời kỳ: Từ Thánh Nhãn đến Nguơn Thần, từ đệ nhứt tới đệ tam kỳ, cách thờ phượng phải chuyển theo cơ tấn hóa của Đại Đạo. Người tín đồ đạo Cao Đài cần phải tìm hiểu chỗ diệu lý cách thờ phượng của mỗi thời kỳ để thuận theo cơ tấn hóa.

I . THỜI KỲ PHỔ ĐỘ
Dùng sắc tướng âm thinh ăn về
Tâm lý tức là Lý của Tâm Vật

Thờ "Thiên Nhãn" có Tam Giáo Ngũ Chi. Tôn chỉ của Đại Đạo vốn là Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi hiệp nhứt, cho nên cách thờ phượng nơi Bát Quái Đài phải biểu tượng sự qui hiệp ấy.

Trên hết, có một quả Càn khôn, bề kính tâm đúng ba thước ba tấc (3 thước 3 tấc tức 33 tấc là con số biểu hiệu "Tam thập tam thiên". Quả càn khôn tạm thời phất vải vì còn thiếu phương tiện về kỹ nghệ, chớ lẽ thì phải làm bằng chai cho tinh thanh mới phù hợp với tinh khí của càn khôn) sơn màu xanh da trời. Cung Bắc Đẩu ( Sao Bắc Đẩu (étoile polaire) là vì sao lớn ở thẳng về miền Bắc Cực. Kế bên sao Bắc Đẩu, có hai chòm sao (mỗi chòm 6 cái) gọi là hai bánh lái (grande Ourse et petite Ourse). Hai chòm sao nầy hình như chầu sao Bắc Đẩu, cho nên trong "Luận Ngữ " có câu: "Vi chánh dĩ đức thí như Bắc Đẩu cư kỳ sở nhi chúng tinh cung chi" (Lấy đức làm chánh tỷ như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các vì sao khác đều chầu chực).
Sao Bắc Đẩu vốn là ngôi của Thượng Đế khi Ngài ngự cõi phàm trần, cho nên trên quả càn khôn Thiên Nhãn vẽ tại sao Bắc Đẩu .Và cũng vì thế mà hướng Bắc rất quí trọng, bao nhiêu điễn quang linh diệu đều do từ hướng ấy phát ra.
Nhà tu sĩ mỗi lần ngủ đều day đầu về hướng Bắc đặng tiếp linh điễn.
Bực thường nhơn lạy Trời cũng day về hướng Bắc. Bầy tôi trông vua đều day mặt về hướng ấy, gọi là "Bắc Điện" vì nhà vua là Thiên Tử. ) cùng các vì tinh tú khác đều vẽ trên ấy. Trên sao Bắc đẩu lại vẽ Thiên Nhãn. Trong quả càn khôn, luôn luôn ngày lẫn đêm đều chong một ngọn đèn; đó là một sự cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại trong Càn khôn, Thế giới.

Dưới quả Càn khôn là chỗ thờ các vị giáo chủ Tam giáo, Ngũ chi, cùng các vị đại diện Tam giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ.

Đền thờ có năm cấp. Ở cấp thứ nhứt (từ dưới lên trên) có 7 cái ngai thể về Nhơn đạo, một ngai Giáo Tông, 3 ngai Chưởng Pháp, 3 ngai Đầu Sư.

ỞÛ cấp nhì, ngai giữa thờ Đức Khương Thái Công, giáo chủ Thần đạo.

Ở cấp ba, ngai giữa thờ Đức Giê Giu, giáo chủ Thánh đạo. Ở cấp tư, ngai giữa thờ Đức Lý Thái Bạch, chủ về Tiên đạo trong buổi "Tam Kỳ Phổ Độ."

Ở cấp năm, ngai thờ Đức Thích Ca, giáo chủ Phật đạo.
Đó là cách thờ phượng với biểu tượng "Ngũ Chi Hiệp Nhứt". Về biểu tượng "Tam giáo hiệp nhứt", cách sắp đặt như đây: Ở cấp năm phía hữu của ngai Thích Ca, có ngai Đức Thái Thượng Đạo Tổ, Giáo Chủ đạo Tiên; phía tả, có ngai Đức Khổng Thánh, Giáo chủ đạo Nho. Còn ở cấp tư, phía hữu ngai Đức Lý Thái Bạch, có ngai Đức Quan Âm Bồ Tát, phía tả có ngai Đức Quan Thánh Đế Quân.

Ba vị sau nầy vốn là Tam Trấn, thay quyền Tam Giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy.

Cách thờ nơi Tòa Thánh (Tổ đình) phải có đầy đủ nghi tiết như thế, còn tại mỗi thánh thất, thì chỉ thờ Thánh tượng "Thiên Nhãn, Tam Giáo, Ngũ Chi và Tam Trấn."

(1) Thái Thượng           Thích Ca              Khổng Thánh
(2) Quan Âm             Thái Bạch             Quan Thánh
Giê  Giu
Khương Thượng
Giáo Tông (3)

- (1) Tam giáo: Thái Thượng, Thích Ca, Khổng Thánh.
- (2) Tam Trấn: Quan Âm, Thái Bạch, Quan Thánh.
- (3) Ngũ Chi: Thích Ca (Phật Đạo), Thái Bạch (Tiên Đạo), Giê Giu (Thánh Đạo), Khương Thượng (Thần Đạo), Giáo Tông (Nhơn Đạo).

CÁCH THỜ PHƯỢNG CỦA ĐẠO VÀ
Ý NGHĨA SỰ THỜ PHƯỢNG

Nơi mỗi tư gia, bổn đạo thờ Thượng Đế bằng Thánh Tượng "Thiên Nhãn" và lập vị Tam Trấn: giữa thờ Thái Bạch Kim Tinh, tả thờ Quan Thánh Đế Quân, hữu thờ Quan Âm Bồ Tát.

Vật dụng thờ phượng gồm có:
1). - Giữa Thiên bàn chong một ngọn đèn luôn luôn chẳng cho tắt, gọi là "Thái Cực Đăng", để biểu tượng nguồn cội của Trời Đất, cũng gọi là Tâm Đăng. Ngọn đèn nầy soi sáng khắp Càn khôn Võ trụ, không lay, không chuyển. Vạn loại nhờ đó mà sanh ra, nhờ đó mà an vui. Trời Đất nhờ đó mà quang minh, trường cửu. Người tu hành nhờ đó mà tác Phật tác Tiên, siêu phàm nhập Thánh.

2) - Phía ngoài, đặt 2 đèn cầy hay đèn sáp, hoặc đèn dầu phộng, gọi Lưỡng nghi quang, tượng trưng cái lý Thái Cực sanh Lưỡng nghi (âm dương), vì Thái Cực động mà sanh dương làm Hỏûa mà Hỏa là Thần, tức là Đạo sanh Nhứt. Đoạn Thái cực tịnh mà sanh Âm làm Thủy, mà Thủy là Tinh, tức là Nhứt sanh Nhị.

3). - Giữa Lưỡng nghi quang, đặt một lư hương đốt năm cây nhang gọi là ngũ khí, vì Thủy Hỏa (Âm Dương hay Tinh Thần) hiệp lại kết thành căn bổn cho nguơn khí.

Luận theo châu thân con người, ngũ khí tức là ngũ hành chi khí, ban ngày mỗi khí đều ở yên có chỗ. Như ban ngày kim khí ở mũi, thổ khí ở ngoài da. Còn ban đêm, kim khí trụ tại phổi, mộc khí trụ nơi gan, thủy khí trụ tại thận, hỏa khí tại tim, thổ khí nơi bao tử.

Vì ngũ tạng hoạt động mà ngũ khí phải hao mòn, suy kém. Nay gặp "Tam Kỳ Phổ Độ", nhờ Đức Chí Tôn chỉ phép hồi quang phản chiếu cho ngũ khí triều tụ nơi khiếu huyền quan mà siêu phàm nhập thánh. Đó là phép "Ngũ khí triều huyên" hay là "Triều Nguơn."

Luận về phép tu tĩnh, năm cây nhang ấy biểu tượng năm giai đoạn tu hành, tùy theo công đức mà nên đạo quả. Năm cây nhang ấy gọi ngũ phần hương là:
- 1). Giới hương, nghĩa là giữ trọn giới cấm cho thân mình trong sạch.
- 2). Định hương nghĩa là thiền định cho tâm thân an tịnh.
- 3). Huệ hương, nghĩa là thiền định rồi thì phát huệ.
- 4). Tri kiến hương, nghĩa là phát huệ rồi gia công thêm nữa thì sẽ biết cái mầu nhiệm của Tạo Hóa, tức là đắc lục thông.
- 5). Giải thoát hương nghĩa là giải thoát luân hồi quả báo.

Cúng phẩm thì có:
- 1. Một dĩa quả tử đựng 5 sắc trái cây, gọi là Hậu thiên ngũ vị đối với "Tiên thiên ngũ khí", là 5 cây nhang.
- 2. Bông, rượu, trà biểu tượng Tinh Khí Thần là Tam Bửu, tức là ba món báu trong châu thân cần phải tương hiệp, chẳng nên để chia lìa, tiêu tán mà phải sa đọa.

Nên biết vạn pháp đồng nhứt lý. Người với Trời là Một, nhưng bởi Người trụy lạc mà phải xa Thiên lý.

Người đạo biết sửa mình theo luật đạo, hồi đầu hướng thiện, thì người ấy bước qua thời kỳ dọn mình.

Dưới đây xin chỉ rõ cách Thần Tiên un đúc tinh thần của người đạo. Bắt từ chỗ dục vọng đi đến thất vọng, rồi mới trao cái đạo pháp linh diệu phát hiện tại Tâm linh.

Trong thời kỳ "Dọn mình", tức là thời kỳ "Phá mê", Thần Tiên:
- a). Phải có Đức Tin.
- b). Mượn cái giả làm cái chơn.

VỀ ĐỨC TIN. - Phàm theo một Tôn giáo nào là chúng ta đã tin ở giáo lý và chỗ cao siêu của Tôn giáo ấy. Chúng ta đã có một đức tin, rồi ngày qua ngày, chúng ta lo tưởng tới đạo và hành động theo lẽ đạo, đức tin ấy càng thêm cứng rắn. Đức tin đã cứng rắn, thì không một việc gì ở thế gian nầy lay chuyển nó được. Là vì tin chắc ở đạo chúng ta đem cả tài lực hăng hái, cả tinh thần cứng rắn mà làm đạo, thế nào chúng ta lại không đủ nghị lực chống chỏi bất kỳ một biến cố nào? Đức tin, theo phương ngôn Âu Tây, dời cả núi non. Muốn cho người tin có Thần Thánh, Tiên Phật, tất phải có huyền diệu làm ấn chứng cho người tin tưởng mà làm lành, lánh dữ, nên các Ngài dùng nhiều cách phá mê, nhứt là tạo cho người một đức tin cho dễ bề độ rổi.

Với hạng người cần có tôn ti đẳng cấp mà hành sự, các Ngài đem áo mão, sắc tứ ân ban, phong Thánh, phong Hiền, dạy tạo lập đền nầy cảnh nọ, song các việc hành vi, không ngoài lẽ Đạo.

Với hạng trí thức, thích văn chương, các Ngài giáng cho những bài văn cao siêu lưu loát, ý nghĩa thâm trầm, ẩn vi mầu nhiệm, đặng độ dẫn. Với hạng thích huyền diệu, các Ngài giáng điễn lành cho chửa bịnh mà dùng huyền diệu cơ bút để đem họ về cửa Đạo.

Với hạng người mộ Đạo, biết xét nét từng câu văn, phê bình từng lời nói, phán đoán từng hành động trong việc đạo để rõ thấu thiệt hư, thì các Ngài dìu dắc một cách riêng, chỉ rõ hai lẽ chánh tà, dạy ăn năn sửa tánh, đem tinh thần họ lên cõi Đạo là cõi toàn thể. Các Ngài cũng cho biết công danh, phú quí là bào ảnh phù vân, dạy đem tình thương đến chỗ Bác ái, lấy võ trụ làm Nước Nhà, lấy Nhơn loại làm chủng tộc, thi hành chủ nghĩa Đại Đồng, phế cả quyền lợi, đến "Tánh mạng" cũng hy sanh.

Tóm lại mà nói, các Đấng Thiêng Liêng đều do tâm lý và trình độ trí thức mỗi người mà độ vào cửa đạo. Các Ngài biết cách thỏa mãn sở thích và thị hiếu mỗi người, rồi áp dụng phương pháp phàm tục để độ dẫn người phàm tục.

Nhờ cơ bút cảm thông với Thần, Tiên, có ấn chứng, người mới tin có Trời, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Biết rằng mọi việc làm, dầu thiẹân hay ác, dầu trong chỗ tối tăm thế nào cũng có Thiên tri, Địa tri, Quỉ Thần tri, thì không dám làm sai như trước nữa. Tạo được cái "tin tưởng" ấy cho chúng sanh rồi, các Ngài mượn cái "Giả" đem lại chỗ "Chơn".

VỀ GIẢ TƯỚNG - Trong buổi làn sóng vật chất đương bủa ầm ầm lôi cuốn con người vào biển dục, các Ngài mượn cái hình thức "Cân Đai Đạo Đức" thay thế cho "Cân Đai Trần Gian", tập luyện người lần bước qua nẻo chánh đại quang minh, bỏ lần thế tình mà quay về cửa Đạo.

Lấy cái "Giả" là chỗ "Âm Thinh sắc tướng" mà đem người về cửa Đạo, đó là dĩ "Huyễn" độ "Chơn" vậy.

II. - THỜI KỲ "GIÁO HÓA"
Về cơ Lý là Triết Lý là Lý của "Tinh Thần"
và Vật Chất tức là thời kỳ Lý và Sự

Thờ Thiên Nhãn có ngôi Tam Bửu

                        Ơn Trên có dạy:
"Tôn chỉ Đạo Cao Đài tỏ rõ,
Mượn hữu hình bày tỏ chỗ Vô,
Thiên bàn làm cái bản đồ,
Coi ngoài mà biết điểm tô trong mình.
Tuy là sự giả hình sắp đặt.
Trái xem sao thì mặt cũng in.
Người tu phải biết giữ gìn,
Chuẩn thằng qui củ mà tìm Thiên cơ".

Tại sao thờ Thiên Nhãn lại có Nhựt Nguyệt Tinh? Tôn giáo nào cũng có hai phần: hình thức và tinh thần. Hình thức là phần hiển hiện ra ngoài, ai cũng thấy rõ hiểu được; tinh thần là phần linh hoạt bên trong, có nhiều chỗ thâm diệu ẩn vi, người ngoại cuộc dùng lý trí suy cầu, tưởng cũng khó mà thấu đáo.

Võ trụ sở dĩ có, là nhờ một Đấng Chí Tôn sáng tạo. Lấy nghĩa cùng tột, thì gọi Đấng ấy là Thái Cực. Lấy nghĩa bao quát khắp thế gian, thì gọi là Thiên; lấy nghĩa là Chúa vạn loại, thì gọi là Đế. Cho nên Đạo Cao Đài xưng tụng Trời là "Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng."

Song xét vì Trời là Đấng Chí Tôn siêu việt vô cùng, trí phàm không thể tưởng tượng cái tịnh thể ra sao, nhưng chúng ta tin tưởng có Trời, thì chủ lấy cái động thể ( Có người bảo vạn vật sanh ra bởi ngẫu nhiên; đó là một điều lầm to. Ta thử nghĩ mỗi khi thấy một cái nhà, một cái xe, một chiếc thuyền, ta chẳng dám nói rằng những vật ấy sinh ra bởi ngẫu nhiên, mà ta biết có những tay thợ làm ra mấy vật ấy. Ta thấy có một con chim bị đạn rơi xuống đất; tuy không thấy ai bắn nó, song ta đã biết chắc có người bắn vì ta căn cứ ở kết quả mà nhận có nguyên nhơn.
Những hiện tượng quanh mình ta, từ loài thảo mộc đến côn trùng và phi cầm tẩu thú cho đến nhơn loại, sao ta dám cho ngẫu nhiên mà ra? Nếu là ngẫu nhiên thì muôn vật ấy tất là hổn độn, không vật nào phân biệt với vật nào được. Sự thiệt là loại nào có hình thể theo loài ấy, giống nào theo giống ấy, mỗi vật mỗi hình điều hòa khéo léo lạ lùng, khiến người có tư tưởng phải tự nghĩ rằng vạn vật sở dĩ xuất hiện như thế là do nơi cái điều hòa chí lý, nó tàng ẩn trong cảnh vô hình màø ta không thấy. Cái điều hòa ấy lại phát hiện trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, cứ liên tiếp mà vận hành trong trật tự, còn vạn vật thì cũng ứng theo thời tiết mà sanh sanh hóa hóa. Vạn vật có sự sống rõ ràng, không ai chối cãi được. Lại sự sống ấy còn hàm dưỡng một giác tánh biểu lộ từ cây cỏ thú cầm cho đến loài người thì chuyển thành cái trí khôn linh diệu lạ lùng. Cái lý điều hòa tạo hình muôn vật, cái sanh khí cái cảm giác ấy, cái động lực linh hoạt ở trong muôn vật, tất phải do một nguồn cội nào. Cái nguồn cội ấy khi còn bất động (tịnh thể) gọi là Đạo: mà khi đã động (động thể) mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy. ) của Trời mà căn cứ cho sự tin tưởng. Ấy là Đạo, Đạo tuy vô hình, nhưng tượng ra hữu vật để lập pháp trứ danh, phô bày cái thể mà thiệt hành cái dung. Về hình thức, bức tượng ấy chẳng qua là một biểu hiệu tôn kính, một tượng trưng về tôn giáo (symbole religieux), mà thôi.

Nhưng xét về tinh thần, thì lại có nhiều ý nghĩa cao xa, nhờ mặc khải mà biết, hoặc trực giác mới xướng minh ra được.

Trong Thánh Huấn ngày 26 tháng 2 năm 1926, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng: "Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng" "Con Mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.
Nhãn thị chủ Tâm,
Lưỡng quang chủ Tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả ngã giã.

(Con mắt là chủ cái Tâm. Là chúa tể của 2 ánh sáng (nhãn quang) Ánh sáng là Thần, Thần là Trời, Trời ấy là Ta vậy. )

" Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh từ ngày Đạo bị bế. Lập "Tam Kỳ Phổ Độ", Thầy cho Thần hiệp với Tinh Khí đặng đủ Tam Bửu.

Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày bế Đạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản Thần, không cho hiệp cùng Tinh Khí. ( Trước khi "Tam kỳ Phổ Độ" xuất hiện, thì Đạo bị bế, cho nên tu nhiều mà thành ít. Từ 2000 năm bên Á Đông nầy chỉ có một vị tu đắc đạo tại Linh Sơn (Tây Ninh) là Đức Huệ Mạng Kim Tiên. )

Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con đắc đạo. Các con hiểu thần cư tại Nhãn, bố trí cho chư đạo hữu các con hiểu với. Nguồn cội Tiên, Phật, yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên các con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến danh Thầy."

Vả chăng, con mắt là chủ thị quan, tức là biểu hiệu sư quan sát cái tâm thức của mình cho thiệt tinh vi, đặng lo đoạn tuyệt tam nghiệp, lục căn mà trở về nguyên bổn.

Lại nữa, hồi Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng sinh lập Đạo lại mang lấy xác phàm, nên phải thờ Ngài bằng cốt tượng. Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn chỉ dùng huyền cơ diệu bút mà dựng nền chánh giáo; ấy là một cuộc bán hữu hình, nên thờ Đức Chí Tôn bằng Thiên Nhãn, cũng là cách thờ phượng bán hữu hình đó vậy.

Phàm sự hành động, nhứt thiết cần phải có cái chi làm giám đốc mới có phương nghiệm sát mà sửa mình. Như con cái đặng hiếu thuận, là nhờ cha mẹ giám đốc cho con. Còn chúng ta thờ Trời, và cố giữ luật Trời, tức là tin nhận có Trời làm giám đốc sự hành động của chúng ta. Thiên Nhãn vốn là biểu hiệu cho sự giám đốc đó vậy. Lại qua ngày 20 tháng 9 Bính Dần (năm 1926). Ơn Trên có dạy thêm ở trong "Đại Thừa Chơn Giáo" vẽ cái Lý sự thờ phượng như sau:

"Đây Thầy giải sơ về cách thức thờ phượng của Cao Đài Đại Đạo.
Tại sao Thầy dạy các con tạo ra Thiên Nhãn mà thờ; không dạy thờ hình tượng như các Tôn giáo khác? Các con phải biết rằng:

" Trời là lý, thì Lý ấy rất thông minh bao quát Càn Khôn Thế Giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con, tạo hình thể như các con, nên chi thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy".

Tại sao "Thiên Nhãn" là Thầy? Thầy có dạy trước: "Nhãn thị chủ Tâm, Lưỡng quang chủ Tể. Quang thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả ngã giã. Nhãn là chủ Trái Tim của con người. Trái tim ấy là Tạo Hóa tức là Thần, mà Thần là cái lý hư vô. Lý hư vô ấy là Trời vậy.

Người tu hành chừng nào luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa Thần, luyện Thần huờn Hư, luyện Hư huờn Vô, thì huyền quan nhứt khiếu ấy mở hoát ra.

Huyền quan nhứt khiếu ấy là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở ngay nê hườn cung, gom trọn chơn dương chánh đạo. Hai con mắt của các con là Nhục Nhãn, tức là Âm với Dương, thì cũng như Thái Cực là Thiên Nhãn, còn lưỡng quang là Nhựt Nguyệt hằng soi khắp Càn Khôn cứ tuần hườn mãi hết ngày đến đêm, hết đêm kế ngày, không bao giờ dứt sự hành tàng của Tạo Hóa."
THI
" Luyện thuốc kim đơn rõ Đạo mầu,
Thành Tiên tác Phật tại song Mâu.
Âm Dương tàng ẩn cơ tại Mục,
Thần khí thông linh tại Thượng Đầu."

Đại ý về bài thứ nhứt: Thần khiếm khuyết, nên Ơn Trên dạy khi cúng phải nhìn ngay Thiên Nhãn, để luyện Thần vì bấy lâu mình để Thần tản mác, nên rất hại cho sự sống thiêng liêng.

Bài thứ nhì dạy người với Trời có Một. Trời có ba báu là: Nhựt, Nguyệt, Tinh, Đất có ba báu là: Thủy, Hỏa, Phong. Người có ba báu là: Tinh, Khí, Thần.

Trời nhờ ba báu ấy mà dưởng dục muôn loài hóa sanh vạn vật luâân chuyển Càn Khôn, chia ra ngày đêm, sáng tối.

Đất nhờ ba báu đó mà phong vỏ điều hòa, cỏ cây tươi thuận, phân ra thời tiết: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Người nhờ ba báu đó mà tạo Tiên, tác Phật.
Khi Tâm người đi đến chỗ Hư không rồi thì "Huyền quan nhứt khiếu" được mở hoát ra, tức là Thiên Nhãn đó; ấy là Ngôi Thái Cực. Chừng ấy, sự hiểu biết không lo nghĩ mà biết, không học tập mà hay. Cái biết đó vốn có sẵn từ mấy kiếp trước, nay nhờ tu tỉnh mà được xuất hiện ở kiếp nầy, nhà tôn giáo gọi là: "Pháp huệ."

Còn hai cái nhục nhãn vốn là "Âm Dương", không khác nào Mặt Trời với Mặt Trăng.

Người Đạo đi đến Tinh thần ấy là bước đến thời kỳ "Khắc Kỷ" ấy là thời kỳ khử trược lưu thanh. Thế nào là khử trược lưu thanh? Tức là đem các thứ ô trược ở trong bổn thân mình tự bấy lâu ra hết, từ xác thịt đến tư tưởng, từ nghiệp duyên đến quả duyên, rồi đấp nền lại trên nền tảng "Đạo Đức."

Thời Kỳ nầy phải:
* a). - Nhơn đạo cho tròn,
* b). - Trả quả.
* c). - Lập công bồi đức.

Làm trọn nhơn đạo, tức là nhơn phẩm được hoàn toàn. Khi hành nhơn đạo, phải lo trả quả và lập công bồi đức. Trả quả là nhận chịu nợ tiền khiên đã kết tập nhiều kiếp. Vì cái lẽ phải trả, nên gặp nhiều đau đớn xảy ra cho Tinh Thần hay Thân Thể, nhưng đành cam chịu, không than Trời trách Đất, không oán người, quyết chí trả xong không vay thêm nữa.

Lập công bồi đức là dùng Đạo Đức khuyên chúng sanh cải tà qui chánh, cứu khổ phò nguy, tế nhơn, lợi vật. Muốn được vậy phải có ba Đại Đức là: Trí, Nhơn, Dõng. Trí là sự khôn ngoan, biết phân biệt điều phải lẽ quấy. Nhơn là người từ thiện bác ái, biết thương người mến vật; Dõng là hăng hái không rụt rè, thối trí trong việc phải mà mình định làm, mặc dầu gặp nhiều nỗi khó khăn, trở ngại. Trí, Nhơn, Dõng là ba đức lớn trong thiên hạ, nhưng muốn thực hành, cần phải có lòng "Thành Tín."
Thời kỳ Qui nguyên là trở về Nguồn gốc, tức là về với Thượng Đế.

III. - THỜI KỲ QUI NGUYÊN

Về cơ Huyền lý là Lý của Tinh. Tinh Thần,
tức là "Đạo nguyên nhứt bổn."

Ngôi "Nguơn Thần" sáng tỏ, chói rọi từ
hang cùng đến nẻo tối.

Thần ấy là chi? Ấy là một vật thiên nhiên thâm diệu có sẵn trong mình mỗi vật. Thật là mầu nhiệm vô cùng không thể đo lường, rất kín đáo, rất thanh tịnh, rất sâu xa, rất cẩn mật, rất quan trọng, rất tinh tế, mà lại luân chuyển hoạt động, thoạt ẩn, thoạt hiện, biến hóa vô cùng, không một vật nào, chỗ nào mà không có. Nhỏ hết sức nhỏ như một vi trùng, Thần cũng có thể ngự được. Lớn hết sức lớn là Võ Trụ Kiền khôn, Thần cũng thông suốt qua thong thả.

1)- Ở sự vật - Thần ấy làm cho hoa tươi đua nở, tám tiết cây trái đượm đà, chim bay biết kiếm vật nuôi thân, biết tránh gió, tránh bẫy, biết chọn cây mà đậu, biết thời tiết, biết phương hướng, biết vầy đoàn hiệp bạn, biết thương đồng loại, biết dìu dắt nhau sớm tối.

2) -Về luân lý. - Thần làm cho cha từ, con hiếu, vợ thuận, chồng hòa, anh kính em cung, bậu bạn thành thật.

3) - Về tâm lý. - Thần làm cho người biết rõ bổn tánh của mình đặng tầm phương chế ngự thất tình lục dục, dứt vòng cương tỏa cho kiếp số con người.

4) - Về triết lý. - Thần làm cho người được trọn lành, nghĩa là được trọn phận sự đối với nhơn loại ở thế gian nầy. Biết tầâm một quảng đời đạo đức, vui vẽ, thơ thới nhờ cái lạc tại kỳ trung, là cái vui tự trong, cái vui đạo thuật, cái vui kiếp sống cao thượng, vui với lẽ chết sống, vui nơi sống khổ sầu.

5)- Về huyền lý. - Thần làm cho người biết Trời với Ta là Một. Người đi đến tinh thần nầy là người minh triết, biết dùng Chơn Tâm mà phán đoán, chớ không dùng lý trí mà suy nghiệm. Vì Chơn Tâm là lòng Thật, là Chân lý không còn bị ngoại cảnh và tư dục chế ngự, nên không còn chấp trước, hết nhuốm bụi trần. Tinh thần ấy đã đến Huyền lý rồi vậy.

Biết cái dĩ vãng là kết quả của cái hiện tại ưu sầu thống khổ, thì phải lấy cái hiện tại mà tạo buổi tương lai cho rực rỡ vẽ vang, rồi lấy cái tương lai mà làm cơ sở vững vàng cho muôn kiếp, tức là đi đến chỗ trường sanh bất tử vĩnh kiếp trường tồn, đồng ngôi Thánh, Tiên, Phật.

Làm sao thấy được Thần của Trời Đất?
Những cơn lặng lẽ êm đềm, Trời không có một chút gió lay, Đất không một tiếng trùng động, nước không một lượn sóng xao, tư bề phẳng lặng như tờ, ấy là lúc Thần của Trời Đất điều hòa cả võ trụ vạn vật và gây ra được sanh khí đó.
Thần của Trời Đất phải như vậy mà Trời Đất phải dường ấy, mới có được Thần, thì người cũng phải theo thể cách ấy mà tự gây ra Thần cho mình. Thần đó mới thật là chơn cảnh, nên gọi là Nguơn Thần. Chỉ có Thần ấy mới thấu đáo cả huyền vi mầu nhiệm.

Tóm lại: Tu hành cốt yếu là ngưng thần nhập định để hợp làm Một với Nguơn Thần mà thành Đạo. Song, ta phải tự tu dưỡng, để tự giải thoát lấy, không thế ỷ lại nơi Thần Quyền. Dầu cho Thần Tiên có muốn giúp ta đi nữa, các Ngài cũng không thế vì ta mà trái Thiên cơ. Chính Thần Tiên cũng còn phải lâm phàm hóa thân để tấn hóa thêm cho đến chỗ hoàn toàn.

Nay ta đã hân hạnh được làm người, sao chẳng do theo chơn lý để tìm con đường giải thoát, lại mong ỷ lại Thần Quyền?

Kết luậän: Muốn học Đạo, phải tầm Chơn lý, ngoài Chơn lý, không con đường cứu rỗi nào khác.
Người đạo đã đạt tới tinh thần nầy rồi, là người đã đến thời kỳ trọn lành vậy.

Thế nào là thời kỳ trọn lành?
Tức là thời kỳ "xét cuộc dinh hư tiêu trưởng của trần thế và cái lý thiên nhiên của Hóa Công" tức là thời kỳ Triết lý và Huyền lý đi đến chỗ không phân Nhơn Ngã. Tinh thần tấn hóa đến chỗ Đại Đồng, hiểu đạo lý rõ ràng, sự lầm lạc đều dứt đạt chỗ cao thượng của Đạo, biết các Tôn giáo lý đồng, Chơn truyền có một. Một lòng thanh tịnh, chí quyết đi đến chỗ Chí Thiện. Người trọn lành là người đã đi đến Triết lý, tức là người thông suốt nguồn gốc vạn vật, người minh triết là người biết phán đoán, khéo lấy cái giả mà làm nên cái thật. Người minh triết là người thông cả thời thế và đạo, có kinh nghiệm lại biết dụng tâm, dụng trí mà phân biệt điều phải lẽ quấy, không còn một mảy may gì sai lầm. Người ấy thoạt ở trên đời, thoạt ở trong Đạo, tùy theo thời thế giúp Đời. Nhưng dầu ở vào cảnh nào, người minh triết cũng không sao quên Đạo đặng. Vì Đạo là lẽ sống chung, gồm bao cả cái lý tự nhiên, vô biên vô cực.

Người minh triết là người đã đạt được Tâm hư không. Tâm hư không là dứt bỏ được phàm phu tục tánh, nguồn ân bể ái, diệt hết thất tình lục dục, được tánh Phật lòng Tiên, cư trần bất nhiễm trần, lòng trung như vầng nhựt nguyệt, dốc chí dấn thân vào sông mê bể khổ cứu vớt người ra khỏi mê tân, chẳng quản gian truân, coi sự sanh tử nhẹ như mãy lông, miễn giải thoát chúng sanh khỏi vòng hắc ám, dầu phải muôn cay ngàn đắng cũng không thối chí ngã lòng. Người minh triết tức bực siêu nhơn đó vậy.

THỜ TỔ TIÊN

Ở vào chỗ thị thành đô hội, hoặc vì nhà phố chậït hẹp, hoặc vì dân chúng nhiễm Âu hóa, sự thờ kính tổ tiên thấy giảm lần lần. Nhưng ở thôn quê, sàn dã, ngoại trừ những người theo Thiên Chúa giáo, còn thì nhà nào như nhà nấy, đều thờ kỉnh ông bà cha mẹ đã mãn phần.
Thờ kính tổ tiên vốn không phải là một tục dị đoan ( Dân tộc nào cũng có cái tục thờ kỉnh ấy, nhưng vì phong tục mỗi nước khác nhau, nên sự thờ kinh cũng khác nhau về nghi thức.), mà là cách tỏ ra là mình nhớ chỗ cây cội nước nguồn, nhớ đến ơn sâu nghĩa nặng, tức là kỷ niệm một cách chí thành chí kỉnh, cái công sanh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ.

Đạo Nho coi cha mẹ như quyền giám đốc cho người đời, hễ cha mẹ làm gì, con cái phải làm theo nấy. Cũng vì sợ cha mẹ khuất rồi lâu ngày con cái không còn nhớ đến mà quên mất cái quyền giám đốc ấy và quên luôn cả công ơn sanh dưỡng, cho nên phải lập ra sự thờ kính là cốt để cho con ghi nhớ cha mẹ luôn.

Sự thờ kính cũng là một phương giúp cho nền luân lý được vững bền, nhứt là ngày tế lễ, ngày kỵ lạp, là cơ hội tốt cho anh em và bà con cật ruột, đoàn tụ nhau cùng chung một cảm giác, ai nấy đều bi ai xúc động đến tấm lòng tưởng nguồn nhớ cội mà nhắc đến tiền nhơn đã dựng nên gia tộc.

Nhưng chỉ nên chú trọng lễ ý mà thôi, chẳng nên vẽ viên nhiều nghi tiết, bày ra nhiều cúng phẩm không bổ ích còn nhọc công tốn của.

Trong sự thờ phượng, cần nhứt là chí thành chí kỉnh. Đức Khổng Tử bảo: "Tế như tại, tế thần như Thần tại" (Tế tổ tiên, phải kỉnh như có tổ tiên ở đó, tế Thần phải kỉnh như có Thần ở đó).

Theo "Tam Kỳ Phổ Độ", cúng tế phải dùng toàn đồ chay, và không đốt đồ mã cùng giấy tiền vàng bạc.

Tóm lại, sự thờ kỉnh tổ tiên, người Việt Nam, dầu trình độ tấn hóa đến đâu, tưởng cũng nên duy trì mà chẳng nên xóa bỏ; xóa bỏ chăng là những nghi tiết dị đoan, những nghi thức phiền phức mà thôi vậy.

Ý NGHĨA SỰ LẠY

Theo quan niệm của nhiều trí thức hiện kim, sự lạy là một biểu tượng đê hèn của tánh tùng phục, nó làm mất hoặc giảm nhơn phẩm. Điều đó không ai chối cải, nếu là lạy những người không phải thân nhơn trưởng thượng mình. Đến như lạy vong linh của các ân nhân tiền vảng cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, nhứt là lạy đấng Tạo Hóa Chí Tôn, sự lạy ấy từ xưa đến nay, ở các chùa chiền đình miễu, ở nơi tôn miếu và đền thờ tư gia, đâu cũng công nhâïn là biểu tượng tôn kính các đấng mình thờ.
Lạy là tỏ ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.

Chấp hai tay lạy là tại sao?
Hữu vi Nguyệt, tả vi Nhựt, vị chi Âm Dương, Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa.

Trong năm ngón tay, ngón áp út gọi ngón "Vô danh", biểu hiệu cảnh tượng Trời Đất lúc chưa khai "Vô danh Thiên Địa chi thỉ."

Kịp đến hội Tý mới lập cõi Trời (Thiên sanh ư Tý), tính theo thập nhị địa chi, thì cung Tý ở tại góc ngón "Vô danh."

Ngón cái gọi "Mẫu chỉ". Sau khi tạo Thiên lập Địa, vạn vật mới hóa sanh, có hình chất hữu danh đồng thọ nơi mẫu (Hữu danh vạn vật chi Mẫu).

Theo cách lạy của "Tam Kỳ Phổ Độ" trước khi chấp tay, phải dùng ngón cái tay trái "Mẫu chỉ" ấn vào cung Tý tại góc ngón Ấp út "Vô danh" của tay trái, gọi bắt ấn Ty ù ( Bắt ấn, người ta tréo mấy ngón tay lại, hoặc co ngón nầy vô đưa ngón nọ ra theo một cách thức riêng. Nguyên trong mấy ngón tay, có ngón xuất điễn quang như ngón trỏ và ngón út, có ngón tiếp điễn quang ở ngoài như ngón giữa và ngón áp út. Phàm muốn khỏi tiếp tà điễn, khi bắt ấn, người ta co ngón giữa và ngón áp út lại, hoặc tréo nhau theo cách thức riêng, đồng thời lại đưa thẳng ngón trỏ và ngón út đặng xuất điễn mà chống cự, hoặc xua đuổi tà điễn.
Còn ngón cái là nguồn chứa sanh lực, phải co lại đặng tránh tà điễn làm tổàn thương sanh lực.
Bắt ấn Tý, thì dùng ngón cái tay trái ấn vào ngón áp út (cũng tay trái) chỗ cung Tý, rồi nắm trọïn tay lại. Vì đức Thượng Đế là Đại từ bi, cho nên ấn của Ngài chỉ dùng cho chúng ta hộ thân, chớ không cần xuất điễn, nên ngón trỏ và ngón út không đưa thẳng ra như bắt ấn khác. ), là ấn của Đức Chí Tôn.

Đức Chí Tôn dùng phép Âm Dương giao cảm mà tạo Thiên lập Địa.
Con người là tiểu Thiên Địa cũng nhờ Âm Dương giao cảm mà phát sanh. Cho nên lạy kẻ sống hai lạy, vì con người là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp Âm Dương mà ra.

Lạy vong phàm bốn lạy, là vì: hai lạy về phần người, một lạy Thiên, một lạy Địa.
Lạy Thần, lạy Thánh ba lạy, là lạy các đấng đứng vào hàng thứ ba của Trời, và cũng chỉ rằng lạy cơ mầu nhiệm Tinh, Khí, Thần, hiệp nhứt.

Lạy Tiên, Phật chín lạy, là lạy các đấng "Cửu Thiên Khai Hóa." ( Xem lại "Cuộc sáng tạo", trong phần "Giáo điều.")

Lạy Thượng Đế mười hai lạy, là vì Thượng Đế là Thập Nhị Khai Thiên ( Xem lại "Cuộc sáng tạo", trong phần "Giáo điều." Chúng ta niệm danh hiệu Đức Chí Tôn với 12 tiếng: "Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát." ) nắm trọn "Thập Nhị Thời Thần" trong tay.
Số mười hai là số riêng của Thượng Đế.

LỄ NHẠC

Có người tưởng cúng đại đàn phải cho thanh tịnh chẳng nên dùng lễ nhạc ồn ào làm mất sự thanh tịnh và tạo ra thinh âm sắc tướng.
Tưởng vậy là chẳng chịu phân biệt chỗ công truyền và tâm truyền của Đạo, và chưa nhâïn thức cái công hiệu của lễ nhạc.

Sách "Lễ Ký" có câu: (Nhạc giả, Thiên Địa chi hòa giã. Lễ giả, Thiên Địa chi tự giã). (Nhạc là luật điều hòa của Trời Đất, Lễ là phép trật tự của Trời Đất).

Điều hòa và trật tự vốn là luật thiên nhiên huyền diệu trong Võ Trụ.
Như mặt Nhựt, mặt Nguyệt tuần hườn hết ngày đến đêm, hết đêm đến ngày, trái đất cứ xây quanh mặt Nhựt, các vì tinh tú cùng hành tinh luôn luôn vận chuyển. Thế mà, Nhựt, Nguyệt, địa cầu, tinh tú, hành tinh chẳng hề đụng chạm nhau, là vì tuân theo trật tự của Tạo Hóa. ( Vật lý học gọi Võ trụ dẫn luật / Loi de I'attraction universelle.)

Như tiếng trống, tiếng chuông, tiếng kèn quyển, đờn sáo đồng thời khởi lên, đáng lẽ thì ồn ào hỗn loạn lắm, thế mà tiếng nhỏ tiếng to, giọng trầm giọng bổng, đều dung hòa nhau, biến thành một âm điệu thanh cao êm ái. Cho nên cổ nhơn nói: "Tinh thần của nhạc là hòa" thật chí lý vậy.

Ở vào chỗ mồ mả, không buộc ai thương, nhưng người ta tự nhiên có lòng thương xót.
Nơi tôn miếu, không buộc ai tôn kính, nhưng người ta tự lòng tôn kính.
Thế là, mồ mả có cái không khí bi ai, tôn miếu có cái không khí tôn nghiêm.
Không khí có sức tạo nên tình cảm. Thánh nhơn ngày xưa vì biết tâm tánh con người có thể nhờ tình cảm dắt đến chỗ hay, cho nên chế ra lễ nhạc, cốt yếu là đem cái lý ở trong phát biểu ra ngoài, nghĩa là đem lẽ hòa kỉnh trong tâm hồn tạo ra văn vẻ bề ngoài, gây thành một tình cảm thanh cao để hạn chế lòng người trong khuôn hòa kỉnh.

Lễ có mục đích là:
a) - Hàm dưỡng tánh tình, thí dụ như cuộc tế lễ nghiêm trang tạo ra tình cảm tốt, quan hệ đến đạo đức, đến sự thành kỉnh rất hậu của con người.
b) - Giữ gìn những tình cảm cho thích hợp đạo trung, thí dụ nếu tình cảm gây ra có khi thái quá đến chênh lệch, thì nhờ lễ mà tránh được chênh lệch ấy.

c) - Định cái lẽ phải, cái tình thân sơ và trật tự cho phân minh, thí dụ như định ngôi thứ và cách ăn mặc cho có trật tự trong xã hội.

d) - Tiết chế, kềm thúc tình dục của người không cho phóng túng ra mà hỗn loạn.

Tóm lại, lễ dạy người biết độ, biết kỉnh Trời Đất, Thánh, Thần cho có bực thứ, biết giữ trật tự trong xã hội, và biết cách đối đãi cùng người cho hiệp đạo Trung.

Nhạc có mục đích là:
a) - Tả đặng tánh tình u ẩn của con người, vì hễ lòng phiền muộn thì tiếng nhạc ai oán bi thương, còn lòng thơ thới vui vẽ, thì tiếng nhạc ôn hòa lạc thú.
b) - Tả đặng tinh thần một nước, vì một dân tộc suy đồi trì trệ, thì tiếng nhạc nghe dâm đảng hổn loạn, hoặc buồn rầu bạc nhược; còn dân tộc hùng cường, thì tiếng nhạc theo đó mà hùng hồn dõng mãnh.

c) - Cảm hóa lòng người theo điều thiện, là vì trong một cuộc tế lễ nghiệm trang có nhạc dự vào một cách trung chánh, thì khiến con người có cái cảm khái vô cùng về điều lành, điều phải.

Tóm lại, nhạc có công hiệu gây được thiện cảm giửa muôn người và làm cho đâu đấy được điều hòa an lạc.

Nhưng nếu lễ mà không kỉnh, nhạc mà không hòa thì dầu bề ngoài có giữ đủ lề lối như sắc phục rực rỡ chuông trống du dương, thì cũng không ích lợi gì cho sự tấn hóa của người về đạo đức. Như vậy thì lễ có ra gì, mà nhạc lại ích chi?

*  *  *

Lễ nhạc còn hàm súc một ý nghĩa rộng ra đến các hành động xã giao.

Về việc giao tiếp, khi chủ khách gặp nhau, chủ chào khách có vẽ cung kính, tức là có lễ; khách vui lòng đáp lại có vẽ hòa, tức là có nhạc vậy.

Trái lại, chủ chào khách, có vẻ khinh khi, tức là không kỉnh, không lễ: khách tỏ ý bất bình, tức là không hòa, không nhạc vậy.

Trẻ em khờ dại đối với người trên thất kỉnh, người trên có ý không vui, tức là không hòa. Không kỉnh, không hòa là không lễ nhạc đó.

Một diễn giả không kính cẩn, không khiêm tốn, chỉ đem tài hùng biện xuyên tạc cá nhơn, nên chẳng gây được thiện cảm với thính giả, tức là thất kỉnh. Thính giả bất bình chẳng hoan nghinh, không hưởng ứng, tức là thất hòa. Hai đàng đối nhau đều thất lễ nhạc.

Chức sắc Hội Thánh là trật tự trong Đạo, tức là lễ.
Chư tín đồ đạo hữu vui tuân mạng lịnh Hội Thánh mà hành Đạo cho trên dưới điều hòa, tức là nhạc vậy.

Tóm lại, lễ là trật tự, nhạc là điều hòa. Có trật tự, có điều hòa mới có cơ tương đắc, bằng không thì dưới trên lộn xộn, không tôn ti mà sanh hỗn loạn.


Bửu điện thờ Đức Chí Tôn

CHƯƠNG THỨ TƯ

GIỚI LUẬT

Phàm muốn bảo tồn trật tự và điều hòa trong việc hành đạo, cần phải có giới luật là phép ấn định những qui tắc người tu hành phải giữ.
Tam Giáo ngày xưa có Cựu luật. Đại Đạo ngày nay có Tân luật.
Lòng từ bi của Đức Chí Tôn không nở hành phạt ai. Như Thiên Điều buổi trước, tự Thần, Thánh, Tiên, Phật, hội lập để định luật thưởng phạt cho nhau, hầu để giữ gìn lẫn nhau chớ Đức Chí Tôn chẳng dự vào. Nhưng khi lập luật rồi dâng lên, thì Đức Chí Tôn phê chuẩn chớ không sửa đổi.

Thì cũng như Tân luật buổi nọ, Lý Giáo Tông hội chư Thánh lập thành, Đức Chí Tôn vốn không dự đến. Nhưng khi dâng lên Đức Chí Tôn phê chuẩn thì nó trở thành Thiên luật.

Ấy vậy Tân luật là Thiên điều tại thế, quí báu vô cùng, người hành đạo phải tuân theo từng điều lệ mới mong đắc quả.

Buổi trước, Cựu luật buộc nhơn loại phải tự nâng cao phẩm hạnh mình cho tương đương với phẩm hạnh Thần, Thánh, Tiên, Phật mà lập vi thiêng liêng cho mình. Còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình đến cùng nhơn sanh đặng dìu dẫn Nhơn hồn lên phẩm vị thiêng liêng. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ là lẽ đương nhiên. ( Đây là một đặc ân lớn lao của Đức Chí Tôn ban cho chúng sanh trong buổi "Tam Kỳ Phổ Độ.")

Phương chi, nhơn trí ngày nay đã qua khỏi Nguơn "Tấn hóa", tức là đã tiến lên trình độ khá cao, Cựu luật không đủ kềm chế đức tin. Lại thêm Ngọc hư Cung bác luật, Lôi âm Tự phá cổ, nên tu nhiều mà thành ít. ( Xem Thánh huấn ngày 14 tháng 7 năm Bính Dần (Thánh Ngôn hiệp tuyển). ) Cựu luật và Cổ pháp ngày nay không còn ứng dụng. Những bực tu hành mà còn tưởng phải tùng Cựu luật và Cổ pháp, thì trái với điều luật của Đại Đạo "Tam Kỳ Phổ Độ" vậy.

Tân luật buộc phải phù hợp với dân trí, lẽ tất nhiên một ngày kia, nó còn phải sửa đổi cho ăn nhịp với trình độ tấn hóa chúng sanh sau nầy.

Tân luật vốn qui định phương pháp hành động và điều khoản hình phạt mà chức sắc và tín đồ phải chịu tại thế. Phàm phạm nhơn đã bị phàm trị theo Tân luật thì khỏi Thiên trị theo Thiên điều, là vì một hình phạt không thể chịu hai lần. Cho nên chư đạo hữu, chẳng luận ở hạng nào, nếu rủi ro có lầm lỗi, nên vui lòng chịu phạt theo Tân luật, thì khỏi bị hình phạt thiêng liêng về sau. Đó là một đặc ân của Đại Từ Phụ ban cho, đặng giữ gìn phẩm vị thiêng liêng cho chúng ta là con cái của Người.

NGŨ GIỚI

Về việc chủ giới trì trai là giới luật mà người tu hành phải giữ, Đức Chí Tôn có giáng cho những bài dưới đây với một giáo lý cao siêu và mới mẻ.

I. - GIỚI SÁT SANH

"Thầy đã nói với các con rằng khi chưa có chi trong Càn Khôn, Thế Giới, thì Khí Hư Vô sanh có một mình Thầy. Rồi Thầy lập ngôi Thái Cực. Thái Cực phân Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra Càn Khôn, Thế Giới.
Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh.

Các con đủ hiểu rằng chi chi hữu sanh cũng do chơn linh Thầy mà ra. Hễ có sống, ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự Sống. Vì vậy mà lòng bác ái của Thầy vốn không cùng tận.

Cái sống của chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn Khôn Thế Giới. Chẳng khác nào nhành hoa trong cội, nó phải đủ thì giờ Thầy nhứt định mới nở bông mà sanh trái, đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm.

Nếu ai bẻ hoa ấy nữa chừng, là sát một kiếp sanh không cho biến hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa sanh cũng vậy, đến thế gian nầy lâu hay mau đều định trước. Nếu ai giết mạng là chịu quả báo không sai. Biết đâu cái kiếp ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân hồi mà ra đến đỗi?
Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ. Các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy."
II. - GIỚI TÀ DÂM

"Vì sao tà dâm là tội trọng?
Xác thân con người, tuy mắt phàm coi như một, kỳ trung vốn chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật. Những sanh vật ấy câu kết với nhau mà thành khối (formation des cellules). Vật chất ấy có tánh linh, vì vật nuôi nấng nó như rau cỏ, cây trái, lúa gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.
Nếu nó không có chất sanh, thì thế nào tươi tắn và chứa sự sống? Như khô rũ, thì là nó chết, mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ. Còn như dùng lửa mà nấu, thì là phương pháp tẩy trược đó thôi, chớ sanh vật chưa hề phải chết.

Các vật thực vào tỳ vị lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Nó có thể hườn ra nhơn hình mới có sanh sanh, tử tử của kiếp nhơn loại.

Vì vậy, một giọt máu là một khối chơn linh, như các con dâm quá độ, thì là sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác, nó đến tại Nghiệt đài mà kiẹân các con. Các con chẳng hề chối tội đặng.
Phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm."

III. - GIỚI TỬU

"Vì sao phải giới tửu?
Thầy đã dạy rằng thân thể con người là một khối chơn linh câu kết lại. Những chơn linh ấy vốn hằng sống, phải hiểu rằng ngũ tạng lục phủ cũng là khối sanh vật mà thành ra, nhưng phận sự của chúng nó làm, thảng như hiểu biết hay không hiểu biết, đều do nơi lịnh Thầy phán dạy.
Vậy, Thầy lấy hình chất xác phàm các con mà giảng dạy. Trước, Thầy nói vì cớ nào rượu làm hại cho người về phần xác. Hình chất con người vốn là thú, phải ăn uống mới nuôi sự sống. Như rượu vào tỳ vị, nó chạy vào khắp cả ngũ tạng lục phủ hết, thì tái tim con người chẳng khác như cái máy để trử sự sống, cũng phải bị nó thâm nhập vào, làm cho sự lao động quá chừng đỗi thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch vận động một cách mau lẹ, làm cho sanh khí nơi phổi chẳng đủ ngày giờ nhuận huyết cho tinh sạch.

Trược huyết ấy thối lại cùng trong thân thể, để vật ô trược vào trong sanh vật. Mỗi khối ấy ăn nhằm phải bịnh, một ngày thêm một chút, hết cường tráng, cốt tủy lần lần phải chết, thì thân thể các con phải chết theo. Nhiều kẻ chết nửa thân mình cũng vì rượu.

Bây giờ Thầy nói sự hại của rượu về phần hồn các con: Thầy nói cái Chơn thần các con là khí chất nó bao bọc thân thể các con như khuôn bao vậy. Nơi trung tim của nó là óc, nơi cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, gọi tiếng chữ là Vi Hộ. Nơi ấy Hộ Pháp hằng đứng mà gìn giữ Chơn Linh các con khi luyện thành đạo đặng hiệp một với Khí, rồi Khí mới đưa đến Chơn Thần hiệp một mà siêu phàm nhập Thánh.

Óc là nguồn cội của Khí, mà óc cũng bị huyết mạch vâïn động vô chừng, đến nỗi tán loạn đi thì Chơn Thần thế nào an tịnh đặng mà điều khiển? Thân thể phải ra ngây dại, trở lại chất thú hình. Mất phẩm nhơn loại rồi, còn mong chi đặng phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật?

Lại nữa, buổi loạn Thần ấy để cửa trống cho tà mị xung đột vào, giục các con làm việc tội tình mà phải chịu luân hồi muôn kiếp.
"Vậy Thầy cấm các con uống rượu, nghe à!"

IV. - GIỚI GIAN THAM

"Ôi! Thầy sanh các con, thì vẫn thương yêu các con chẳng cùng. Thầy lại cho các con đến thế giới nầy với một Thánh thể thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành. Các con không chịu, lại nghe lời cám dỗ mê luyến hồng trần, ăn cho phải bị đàyï, dâm đến phải bị đọa, nên chịu nạn áo cơm, dục quyền cầu lợi.
Lợi! Thầy đã dành để các con chung hưởng cùng nhau mà cũng vì tham, đứa chứa nhiều, đứa chịu đói."

Quyền! Thầy cũng ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, hầu cho đủ thế kềm thúc lấy nhau, đặng giữ vẹn Thánh chất yêu sanh của Thầy. Mà quyền ấy lại trở nên một lợi khí buộc trói nhơn sanh trong vòng tôi mọi. Ôi thảm thay! Cái thất vọng của Thầy rất nên ghê gớm.

Các con có hiểu vì sao cả nhơn sanh đều gian tham chăng?
Thì cũng vì muốn cho nhiều sanh mạng chịu phục dưới quyền thế lợi lộc của nó.

Sự yếu trọng của con người là nạn cơm áo, mà nắm chặt quyền phân phát cơm áo, thì chưa ai đã thọ sanh nơi thế gian nầy tránh khỏi gian tham.

Muốn đặng quyền hành ấy, phải làm thế nào? Dùng hết mưu chước quỉ quyệt, thâu đoạt lợi lộc quyền thế cho nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường tranh đấu, giựt giựt, giành giành gây nên mối loạn. Nhơn loại nghịch lẫn nhau, giúp cho phép tà quyền mạnh hơn, yếu thiệt, mất phép công bình thiêng liêng tạo hóa.

Vậy tham gian đã nhâïp lòng người, thì lòng hết đạo đức. Tham gian đã nhập vào nước, nước hết chơn trị. Tham gian đã lộng lên toàn thế giới, thế giới hết Thánh Thần.

Thầy chẳng cần nói, sự gian tham có thể giục các con thất Đạo cùng Thầy mà bị lắm điều tội lỗi.
"Ấy vậy, gian tham là tội trọng."

V. - GIỚI VỌNG NGỮ

"Thầy đã nói nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một Chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, và các đấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét. Bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả.
Lại nữa, các chơn linh ấy có tánh Thánh nơi mình đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, lại còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó."

Bởi vậy, chư Hiền, chư Thánh Nho nói Đạo rằng: "Khi nhơn tức khi tâm, khi tâm tức khi Thiên. Khi Thiên đắc tội, hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã".

Như các con nói dối, trước chưa dối với người, các con đã dối với Lương tâm, tức là Chơn linh. Thầy đã nói Chơn linh ấy đem nạp vào Tòa Phán xét từ lời nói của các con, dầu những lời nói ấy không thiệt hành, chớ tội tình cũng đồng một thể.

Nơi Tòa Phán xét, chẳng một lời nói vô ích nào mà bỏ qua, nên Thầy dặn các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh.

Thà các con làm tội đặng chịu tội cho đành, chẳng hơn các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể.
"Các con khá nhớ."
TRAI GIỚI

"Chư môn đệ phải giữ trai giới". Vì tại sao?
Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu luật, song luật trai giới rất nên quí báu, nếu không giữ chẳng hề thành Tiên, Phật đặng. Thầy cắt nghĩa:
Mỗi người dưới thế nầy vốn có hai xác thân: một xác phàm, một xác thiêng liêng. Mà cái thiêng liêng do nơi xác phàm mà ra, gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng. Cái xác huyền diệu thiêng liêng ấy do Tinh, Khí, Thần mà luyện thành. Khi nơi xác phàm xuất ra, thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn như đắc đạo mà có Tinh Khí không có Thần, thì không thể nhập mà hằng sống. Còn như có Thần mà không có Tinh, Khí thì khó hườn Nhị xác thân. 1 Vậy ba món báu ấy phải hiệp lại mới đặng.

Nó vẫn là chất, tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà không khí Tiên Thiên thì có điễn quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch nhẹï nhàng hơn không khí mới ra khỏi Càn Khôn, Thế Giới đặng. Nó phải có bỗn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng. Phải có xác phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh khiết.

Nếu các con ăn mặn luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng?
Như rủi hườn Nhị xác thân, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí lại là vật chất tiếp điễn (bon conducteur d'électricité) Cái nhị xác phàm ấy chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn ẩn núp tại thế mà làm một bực Nhơn Tiên, thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vậy Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo."

*  *  *

CHƯƠNG THỨ NĂM

MƯỜI HAI ĐIỀU TÍN NGƯỠNG

CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO

1 - Thượng Đế là đấng tạo ra Càn Khôn, Võ trụ và hóa sanh vạn vật. Nhơn loại phải tin tưởng kính trọng Thượng Đế và trong các hành động, nhứt nhứt phải tùng Thiên luật.
2 - Là Đại Từ Phụ, Thượng Đế không bao giờ hành phạt chúng sanh toàn là con cái yêu đương của Ngài. Nhưng vì phép công bình, Thượng Đế lập luật "Nhơn quả" làm cân thưởng phạt thiêng liêng. Chúng sanh do chỗ hành động mình mà rước lấy họa phước.
3 - Lòng từ bi của Thượng Đế không nỡ để chúng sanh không rõ Thiên điều mà phạm tội, nên từ Thượng cổ, Ngài đã phân tánh giáng trần lập Đạo, đặng dạy dỗ chúng sanh biết điều thiện mà làm, điều ác mà lánh, mà dìu dẫn bát phẩm chơn hồn tiến hóa lên đến chỗ cực điểm. Nhưng, nếu lòng người mê muội, không hồi đầu giác ngộ, thì hình phạt phải cam.
4 - Thượng Đế chưởng quản Càn Khôn Vũ trụ. Thiên triều gồm có Đấng Trọn lành phụ sự trong cuộc chưỡng quản ấy.
5 - Luân hồi là cơ tấn hóa của bát phẩm chơn hồn. Trong mỗi kiếp tái sanh, các Chơn linh gây ra nghiệp duyên, nên tái sanh buộc phải thọ quả. Vì vậy mà Luân hồi và Quả báo đi đôi.
6 - Thần, Thánh, Tiên, Phật trước vốn là người phàm, nhờ tu mà đắc quả (1). Vậy thì, tất cả phàm nhơn, ai cũng có thể làm Tiên, Phật, nếu biết tu, nhứt là gặp "Tam Kỳ Phổ Độ", ban hành luật Đại ân xá, chúng sanh được may mắn "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời."
7 - Phàm nhơn là Hồn tại thế, Âm nhơn là Hồn giải thể, cho nên Phàm nhơn và Âm nhơn có thể thông công bằng cơ bút, đồng cốt, hoặc phương thế nào khác.
Người tu luyện đến bực cao siêu có thể xuất Chơn thần thông công với các đấng Thiêng liêng, hoặc luyện đắc "Nhãn thông""Nhĩ thông" mà thấy và nghe được Âm nhơn. (2)
8 - Vật chất tan rã rồi hợp thành một thể chất khác, duy chư Hồn là trường tồn và tuần tự tấn hóa đến mực cuối cùng là chỗ chí thiện.
9 - Âm nhơn mới giải thể còn quyến luyến hồng trần, chưa thoát được buồn vui đau khổ, bởi còn mang cái chơn thần là tạng chứa tình cảm (3). Âm nhơn cần có thân nhơn tụng kinh cầu nguyện cho họ được an ủi mà bớt đau khổ.
Kinh cầu siêu (4) rất linh nghiệm vì mỗi tiếng tụng lên vốn có sức rung động huyền diệu vô cùng. Sức rung động ấy, hiệp với sức tư tưởng mạnh mẽ và thành kỉnh của người tụng kinh (5) gây thành một mãnh lực phi thường đánh tan Chơn thần của Âm nhơn, giúp cho họ mau giải thoát đau khổ và hình phạt thiêng liêng, đặng đi đầu thai sớm được.
10 - Con người thọ sanh tại thế đều có số mạng định đoạt do nghiệp duyên của mình đã tạo ra trong kiếp trước. Cho nên người biết đạo bao giờ cũng an phận tùy duyên, chẳng vì nghèo túng mà trễ nải việc đạo.
Nếu con người biết chuyên làm lành lánh dữ cùng tu âm chất trong kiếp đương sanh, thì có thể chuyển họa ra phước. Định mạng là Trời mà lập mạng là Ta vậy.
11 - Tân luật có ảnh hưởng rất lớn lao về Tiên phong Phật sắc của người tu trong Đại Đạo; chẳng giữ "Tân luật" là trái phép Đạo, mà trái phép Đạo, không bao giờ vào được Bạch ngọc Kinh.
12 - Muốn đắc quả, phải dự thí ở trường thi "Công quả" nghĩa là phải phổ độ chúng sanh. Không làm đặng thế nầy, phải tìm thế khác mà làm âm chất thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt được phẩm vị thiêng liêng.

(1) Ngoại trừ các đấng Tiên, Phật của Thượng Đế hóa ra từ khi khai Thiên tịch Địa để giúp Ngài trong công cuộc khai hóa.
(2) Không phải nghe thiệt tiếng mà chỉ nghe cái âm ba của tư tưởng.
(3) Nhiều Âm hồn còn oán giận, mong tìm cách phá khuấy kẻ thù mà báo oán
(4) Đại Đạo có "Di lạc Chơn Kinh" là kinh cầu siêu rất quí.
(5) Người tụng kinh phải là một vị đạo đức chơn tu, mới có tư tưởng mạnh mẽ và kỉnh thành. Đồng nhi tụng kinh cũng tạm được, vì là Chơn linh còn trong sạch và vô tội.

CHUNG

Home          1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét