N°. 308-C V. Ngày 15, tháng 10, năm 1954.
Ông Phan Trường Mạnh
Giám Đốc Cao Đài Giáo Lý Viện SaiGon .
Thưa Anh PHAN,
Tôi có tiếp đặng thơ của Anh đề ngày ... tháng Octobre 1954.
Nếu Anh bằng lòng bớt về THIÊN NHÃN và lấy hình ĐỨC DI LẠC tại TÒA THÁNH,
thì quyển sách của Anh và Anh BẢO PHÁP sẽ xuất bản rất hoàn toàn, vì phần sau
của Anh BẢO PHÁP viết thì đúng với Chơn Truyền.
Hiện thời đang buổi cần hướng nhơn tâm giữ vững tinh thần đạo đức đặng tô
điểm Quốc Thể cho vẻ vang thì quyển sách Đạo ấy xuất bản rất hợp thời, vì Quốc
Thể đặng vẻ vang thì Quốc Hồn tức nhiên phải đặng trụ vững. Có thế mới đoàn kết
nhơn tâm mà lập Quốc trên nền tảng Nghĩa Nhân mà phụng sự cho nhân loại đặng.
Trưởng ban kiểm duyệt và Cố vấn Hành Chánh Đạo
TÒA THÁNH
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Cao Tiếp Đạo
Quyển Thiên Đạo tái bản chỉ sửa đổi cách trình bày ngoài bìa, trong vẫn y
như cũ.
* *
*
ĐỀ - TỪ
Nguyễn Trung Hậu và Phan Trường Mạnh, tác giả quyển kinh THIÊN ĐẠO của TAM
KỲ PHỔ ĐỘ, chính là hai văn sĩ khét tiếng trong làng Đạo Đức Cao Đài, hà tất
phải nhiều lời giới thiệu.
Còn quyển kinh THIÊN ĐẠO, ta thử khảo xét thì rõ ra là một nền giáo lý
Triết học của CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO hoàn toàn, đầy đủ, mùi hương Đạo vị và chơn lý
của Võ Trụ.
Thật là một quyển sáùch quí báu nhứt về tinh thần Đạo Đức trên đất nước
Việt Nam mà ta chưa được từng xem thấy bao giờ.
Sự đặc sắc nhứt trong quyển kinh nầy là Tác giả giải pháp rành mạch TÂN
LUẬT của Đạo CAO ĐÀI mà TÂN LUẬT nầy tương đồng gồm đủ thiên điều luật pháp với
các Đạo trêân thế gian nầy.
Vậy tôi xin mạng phép kết luật kinh nầy theo đại ý nghĩa dưới đây:
1 . Muốn thức tỉnh lòng người trong cơn trụy lạc mê muội, nếu trừ phi sự
phổ độ Đại Đạo thì không còn phương pháp nào nữa.
2 . Cảnh sát tâm là phàm, tâm sát cảnh là Tiên, Thế giới đã tự loạn thì
lòng ta phải tự trị.
3 . Nhơn loại, mỗi người hết dục vọng thì Thế giới mới hòa bình, Càn khôn
mới an tịnh.
THI:
Đem đuốc quang minh đểå dẫn đường.
Quyển kinh THIÊN ĐẠO đã phô trương.
Kính khen Tác giả tâm vì Đạo.
Thuyết pháp CAO ĐÀI dựng cột rường.
Kính từ NGUYỄN HỮU ĐẮC
* *
*
TỰA
Từ xưa đến nay không biết chữ, không học mà thông Đạo và đắc đạo thì chỉ có
Đức HUỆ NĂNG LỤC TỔ mà thôi, kỳ dư hầu hết các nhà tu hành ít nhất phải biết
chữ, nhiên hậu mới đọc kinh đọc sám hiểu nghĩa mà hành đúng theo chơn truyền
của chư Tổ để lại. Vậy học thức là lợi khí tối cần cho người tu hành.
Về thế tục, muốn công danh được hiển đạt, hàng sĩ phu phải bác lãm quần thơ,
phải trải qua cảnh rừng nhu bát ngát. Về Đạo học công trình lại còn khó khăn
hơn nữa. Nguyên nhơn sự khó khăn ấy là: Phạm vi của Đạo học thuộc về phần siêu
hình trừu tượng mà các Đạo thơ nhiều khi lại có những suy luận bất đồng nếu
không nói là tương phản nhau. Đạo học đã là một khoa học trừu tượng thì khi nhà
tầm đạo gặp phải hai ý kiêán bất đồng thì thật không biết căn cứ vào đâu mà
biện phân chơn giả? Như vậy, càng đọc Đạo thơ nhiều thì đọc giả càng hoang
mang, nếu đọc giả khôâng biết tựï chủ và để cho "sách chuyển".
Vậy, người tầm Đạo phải biết chọn sách mà đọc. Đọc một quyển Đạo thơ mà lĩnh
hội đuợc ý nghĩa tổng quát của một nêàn Đạo thì hay hơn là đọc nhiều quyển.
Quyển THIÊN ĐẠO là một trong các loại sách nên đọc ấy. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ ra đời nay đã gần ba mươi năm, kinh sách được ban hành không biết bao nhiêu
mà kể. Ngoài những quyển kinh đọc mà các Đấng thiêng liêng giáng cơ tả ra có
một giá trị đặc biệt, lại có những quyển Đạo thơ do các nhà tu hành dày kinh
nghiệm trước tác cốt giúp tài liệu cho người tầm Đạo. Loại Đạo thơ thứ nhì nầây
cũng rất cần ích cho người. Nó là những lời nói, lời khuyên của các bậc tiền
bối cố gắng làm cho con đường người sau sắp được dễ dàng đẹp đẽ.
Quyển THIÊN ĐẠO nầy, ngoài những từ ngữ đặc biệt của Đạo học, đã được viết
với một lối văn bình dị có một sức hấp dẫn lạ thường, khiến cho đọc giả lúc nào
cũng vui mà theo chân tác giả, để trải qua những tầng chí tịnh chí thanh của
cảnh hư linh, rồi đi sâu vào những vấn đề có thể làm trở ngại bước tiến của
người tầm Đạo, nếu cái vấn đề nầy không được trình bày một cách khúc chiết rành
mạch.
Đọc quyển THIÊN ĐẠO xong, đọc giả sẽ có một ý niệm tổng quát về phần triết
lý và sự tổ chức của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay là CAO ĐÀI GIÁO và sẽ nhận thấy
rằng tân tôn giáo nói trên căn cứ vào một Đức Tin suy lý (La Foi raisonnée.)
Những vấn đề căn bản đều được trình bày rõ rệt mà bất cứ ai cũng nhậän thức
được.
Trong thời kỳ hỗn loạn nầy, nhân tâm điên đảo đương tầm lối ra, Quyển THIÊN
ĐẠO ra đời rất là hợp thời vậy và công sưu tầm củûa tác giả thật là không nhỏ
vềà phương "hướng dân quy thiện" và xương minh triết lý của "Tam
giáo qui nguyên".
Saigon, ngày 1 tháng giêng, năm 1955
TRẦN VĂN QUẾ tự HUỆ LƯƠNG
Đốc học trường Sư phạm.
Cựu Tổng Trưởng Cải Cách của Quốc gia Việt Nam
Kính tặng
* *
*
LỜI SOẠN-GIẢ
Đạo có Thiên đạo và Nhơn đạo.
Nhơn đạo thì dễ thông dễ hiểu.
Thiên đạo lại thâm diệu ẩn vi, khó đem lý trí mà thấu đáo.
Cần phải sống trong đời tu niệm thanh cao; cần phải tham khảo nhiều kinh
điển, rồi đem học lực và kinh nghiệm mà suy cầu, từ cái đã biết tìm ra cái chưa
biết.
Tuy nhiên, sở đắc của mình vốn chưa đủ; cần phải có đạo căn và nhờ các đấng
Thiêng liêng chỉ giáo thêm mới được.
Gia công sưu tầm học hỏi là để mở mang trí thức, tức là thế trí mà Đại Đạo
"Tam Kỳ Phổ Độ" gọi Nhơn hồn. Song trí huệ tức là xuất thế trí hay
bát nhã, Đại Đạo gọi Anh hồn, chưa vì đó mà phát triển.
Nói một cách giản dị hơn: nhờ học hỏi sưu tầm chúng ta được mở mang trí
thức mà làu thông đạo lý, biết biệt phân phán đoán, biết nói đạo lưu loát rạch
ròi. Nhưng chỗ cao thâm vi diệu của Thiên đạo mà trí thức không thể tìm hiểu,
nó vẫn mù mờ trong sở thức chúng ta. Là vì chúng ta không có sức thiêng liêng
trợ giúp đặng mở mang trí huệ là cái đặc khiếu nhờ đó mà rõ thông Thiên đạo.
Vậy là chưa "nhập
diệu".
Chưa "nhập diệu" chúng ta còn nhiều chỗ sai lầm.
Nhiều khi chúng ta dùng trí thức để khám phá lẽ mầu nhiệm của Tạo Hóa;
chúng ta phân tách mỗi vấn đề ra từng chi tiết mà quan sát, rồi tổng hợp lại mà
suy cầu theo phương pháp khách quan. Kết luật, chúng ta tự cho rằng đã tìm ra
chơn lý, nhưng than ôi! chỉ là hình bóng của chơn lý đó thôi.
Kinh điểån là sáng tác của các đấng tiền giác vốn chỉ giải đạo lý cao siêu,
nhưng vốn có giới hạn, lại là vật không linh động, không linh hồn. Một vật
không linh hồn chẳng thế nào cảm thông với một linh hồn mà khai huệ cho.
Phải một linh hồn cảm thông với một linh hồn mới làm việc ấy được.
Vậy, chúng ta cần phải có sự trợ giúp của một đấng Thiêng liêng.
Đấng Thiêng Liêng ấy tức là Chơn sư củûa chúng ta vậy.
Chơn sư ấy là ai?
Khi mặt Trời lố mọc, phương Đông rọi ánh bình minh. Người ta không cần đèn
đuốc cũng nhận thấy Thái dương.
Lần lần ánh dương quang rọi sáng từ thành thị đến thôn quê đến hang cùng
nẻo tận.
Khi một Giáo chủ lâm phàm, ánh sáng của Ngài soi khắp thế gian. Đầu tiên
những bực đạo căn nhận biết, rồi đến hàng trí thức, đến hạng thường nhơn.
Không một ai không trông thấy ánh mặt Trời, cũng không một ai không khuất
phục trước ánh sáng của Chơn lý, của đấng Giáo chủ là đấng lâm phàm cứu thế
trong hạ ngươn mạt kiếáp nầy.
Đấng Giáo chủ ấy là Thần Chơn Lý (Esprit de Vérité) theo lời tiên tri của
đấng Christ, là một đại Bồ Tát (Di Lạc Vương Bồ tát (Maitreya) theo lời tiên
tri của phật Thích Ca, là Thần Bảo tồn (Vishnou) của đạo Bà la môn Brahmanisme)
Danh từ xưng tụng vì khác tôn giáo màø khác nhau nhưng tựu trung vẫn ám chỉ
Chơn linh của Thượng Đế lâm phàm giáo đạo. (1)
Ngài đến trong buổi "Tam Kỳ Phổ Độ" nầy với Thánh danh Cao
Đài.
Ngài tự xưng là Thầy và gọi chúng ta các con.
Chơn sư chúng ta là đức Cao Đài đó vậy.
* *
*
Soạn quyển "Thiên Đạo" chúng tôi nhờ học hỏi ở Chơn sư
cùng các đấng Thiêng Liêng khác, một phần cũng nhờ tham khảo những kinh điển
xưa mà được các đấng lựa cho.
Quyển "Thiên Đạo" chia làm hai phần: phần giáo điều và
phần giáo lý.
Trong phần nhứt, Thiên Đạo được thuyết minh một cách giản dị, có hệ thống,
có mạch lạc, đọc qua là hiểu rạch ròi.
Văn từ dùng ròng những tiếng đã thông dụng của các tôn giáo, không tạo ra
tiếng mới cho khó nhớ. Nhiều khi lại có chua tiếng Phạn và tiếng Pháp, cốt để
cho anh em có Tây học hiểu mau.
Có biết giáo điều phổ thông rồi mới dễ lãnh hội những giáo lý giải trong
phần nhì.
Quyển "Thiên Đạo" không những cần yếu cho chư đạo hữu, lại
còn giúp ích cho người ngoài đạo mà muốn sưu tầm đạo lý.
Nguyễn Trung Hậu
Phan Trường Mạnh
(1) Theo đạo Bà la Môn (Brahmanisme), ngôi Ba (Vishnou) đã hóa thân 9 kiếp
rồi (9 avatars), đến kiếp thứ 10 và là kiếp chót (Kalki avatar), Ngài lại hóa
thân trong thời kỳ mạt pháp nầy (Kaliyuga), mình cỡi bạch mã để khởi nguyên một
thời đại hòa bình, hạnh phúc.
PHẦN GIÁO
ĐIỀU
(Partie
dogmatique)
CHƯƠNG THỨ NHỨT
VÕ TRỤ QUAN
SỰ SỐNG TRONG CÕI HƯ LINH
Ông Châu Hi định nghĩa võ trụ:
"Tứ phương thượng hạ viết Võ, cổ vãng kim lai viết
Trụ". Bốn phương trên dưới gọi Võ, xưa qua nay gọi Trụ.
Giải rộng ra: Không gian vô biên vô tận là Võ; thời gian vô thỉ vô chung là
Trụ.
Vậy, "Võ Trụ", hiểu rộng ra, gồm tất cả cái gì ở trong
không gian và thời gian.
Tổng quát về Võ trụ quan, chúng tôi tự thấy quan niệm có khác với quan niệm
của các nhà triết học Đông Tây, vì chúng tôi là nhà tôn giáo, căn cứ ở đức tin
và sở học riêng; học thuyết của chúng tôi không thể hài lòng các nhà duy vật. Đành
vậy, vì ai cũng có quyền tin tưởng và quan niệm theo sở kiến mình.
Đành rằng Võ trụ không thể tự chỗ hư không (1) mà trở ra có, là vì trong
cái Không, làm gì rút được ra cái Có?
Phải có cái gì tự nó có trước đã. Rồi cái bổn hữu ấy mới sản xuất muôn vàn
cái khác.
Cái bổn hữu ấy, chúng tôi, noi dấu người xưa, gọi là: Vô Cực.
(1) Hư không đây không phải là trống không, hoang vu, ảo tưởng. Đó là cõi
Siêu Hình mà phàm trí, phàm giác chưa thấu đáo. Cái Không, Không đó Không mà
Có.
Cái Có, Có là Có lại Không.
(Cao Đài Tiên Bút)
VÔ CỰC
Nguyên hồi Vô thỉ, nghĩa là khi chưa tạo Thiên lập Địa, cõi Thái hư (Không
gian) mờ mờ mịt mịt, chỉ có một Nguyên lý cùng tột, thiên nhiên tự hữu, vô thỉ
vô chung, chí linh chí diệu, cổ nhơn mượn phàm ngữ gọi là khí Hư Vô hay Vô Cực
(Parabralm - L'Absolu - le Non Manifesté).
Theo Phật giáo, Nguyên lý ấy là Phật tánh, cái chơn thể thật tánh bất di
bất dịch của Nguyên lý gọi là Chơn như.
Khổng giáo gọi Nguyên lý ấy là Thiên ly,ù ở nơi Trời là Mạng, nơi người là
Tánh, nơi vật là Lý. Thiên lý lưu hành trong khoảng trời đất, lại phát hiện ra
ở việc làm hằng ngày của con người.
Lão giáo gọi Nguyên lý ấy là Đạo. Bổn tánh của Đạo là hư không lặng lẽ, xem
chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ chẳng đụng, không thể dùng lời nói mà diễn
được, hoặc đem sự vật mà so sánh. Đạo hóa sanh trời đất, lưu hành trong võ trụ,
tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để
điều hòa trưởng dưỡng cho nó. Đạo là tinh thần của trời đất vạn vật, mà trời
đất vạn vật là linh thể của Đạo. Cái Nguyên lý ấy đã vào trong lòng người thì
gọi là Đức. Cho nên Thánh nhơn thường dùng hai tiếng Đạo Đức để chỉ cách cư xử
ở đời thế nào cho trên hiệp với lẽ Trời, dưới hiệp cùng luân lý.
Trong khí Vô Cực, (Parabalm) lại có một khối Ngươn Thần (Paramatman), tức
là Chơn linh của Tạo Hóa vậy.
BA NGÔI
Trước nhứt, đấng Tạo Hóa phóng Chơn linh lập Ngôi Một của Ngài là Thái Cực
(Premier Logos).
Thái cực vốn là cơ động tịnh. Thái Cực động sanh Chơn Dương làm Hỏa. Hỏa là
Thần (Esprit), tức là cái động thể Ngươn Thần của Tạo Hóa (Brahma Vira) mà Đạo
thơ gọi Mộc Công vì Mộc năng sanh Hỏa.
Thái Cực lại tịnh mà sanh Chơn Âm làm Thủy. Thủy là Tinh (Matière), tức là
cái tinh thể Ngươn Thần của Tạo Hóa (Brahma Vâch), mà Đạo thơ gọi Kim Mẫu vì
Kim năng sanh Thủy.
Tạo Hóa vận chuyển ngôi Thái Cực cứ một động một tịnh mà sanh ra hai Nguyên
lý Thái Dương - (Pratyag atman) và Thái Âm - (Mula prakriti), lập thành Ngôi
Hai là Lưỡng Nghi (Deuxième Logos).
Đạo thơ nói Mộc Công và Kim Mẫu sanh ra Anh Nhi và Trạch Nữ, rồi nhường
ngôi cho hai người mà đi tu.
Đó là nói bóng. Sự thiệt thì Chơn Dương và Chơn Âm (Mộc Công và Kim Mẫu)
sanh ra nhị nguyên lý Thái Dương và Thái Âm (Anh Nhi và Trạch Nữ).
"Nhường ngôi mà đi tu" nghĩa là sau khi thành lập Ngôi Hai (Lưỡng Nghi),
Ngôi Một (Thái Cực) trở về địa vị vô vi.
Tạo Hóa lại dùng phép Âm Dương giao cảm. Biến thành hai Khí Thiếu Dương
(Fohat) và Thiếu Âm (Koilon) mà lập Ngôi Ba là Tứ Tượng (1) (Troisième Logos).
Đó là một Thể ba Ngôi (2) (Trinité). (1) Trong Bát Quái, thì Thiếu Dương
thuộc quẻ Khảm, Thiếu Âm thuộc quẻ Ly. Biểu hiệu Thiếu Dương là một gạch liền
giữa hai gạch đứt - . Tuy thấy phần Âm lấn phần Dương nhưng nó là biểu hiệu cho
Dương, vì trong luật điều hòa cai quản Võ trụ Kiền Khôn, bao giờ cái phần
thiểâu số cũng cầm quyền thống trị tất cả các hiện tượng. Ai rõ thông y học,
xét về thai dưng của đờn bà do chỗ Âm Dương yếu mạnh mà sanh hoặc trai hoặc
gái, thì thấy rõ cái phần thiểu số bao giờ cũng mạnh hơn phần đại số và luật
điềàu hòa của Tạo Hóa trái hẳn với công lệ "mạnh được yếu thua"
của cuộc cạnh tranh
(2) Tôn giáo nào cũng có cái biểu hiệu một Thể Ba Ngôi. Đại Đạo có: Thái
Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng. Đạo Phật có: Tam Bửu, Từ Tôn: Di Đà, Quan Âm, Thế
Chí. Thiên Chúa giáo có ba Ngôi: đức Chúa Cha (Père), đức Chúa Con (Fils), đức
Chúa Thánh Thần (Saint Esprit). Đạo Bà la môn thì có: Thần Sáng Tạo (Brahma),
Thần phá hoại (Shiva), Thần Bảo Tồn (Vishnou).
CUỘC SÁNG TẠO
Đấng Tạo Hóa, ngự trong Ngôi Tứ Tượng, dùng quyền Chí Tôn lập phép Vô Vi
Bát Quái mà tác thành Võ Trụ (Cosmos).
Trước hết, Ngài lập ba cõi Thanh Thiên:
1 . Thái Thanh Thiên (Adi), Phật giáo gọi Đại Bát Niết Bàn
(Mahaparanirvana).
2 . Thượng Thanh Thiên (Anupadaka), Phật giáo gọi Bát Niết Bàn
(Paranirvana).
3 . Ngọc Thanh Thiên (Atma), Phật Giáo gọi Niết Bàn (Nirvana), tức là Bạch
Ngọc Kinh (1).
Lập xong ba cõi Thanh Thiên, đấng Tạo Hóa lập thêm ba Cảnh giới là: Thượng
giới, Trung giới, Hạ giới.
Thượng giới gồm ba cõi Tiên là:
1 . Cõi Thiên Tiên,
cũng gọi là cõi Bồ đề (Monde Spirituel ou Monde Bouddhique).
2 . Cõi Địa Tiên
(Monde Mental supérieur - Manas supérieur).
3 . Cõi Nhơn Tiên (Monde
Mental - Manas).
Mỗi cõi chia làm ba từng, cộng chung là chín từng, gọi là Cửu Trùng Thiên. (2) Trung giới gồm có cõi Thánh (Monde Mental
inférieur) và cõi Thần (Monde Astral).
Mỗi cõi cũng chia ra
nhiều từng, đây chỉ nói đại lược thôi.
Hạ giới là cõi Phàm
trần, có tinh tú và thất thập nhị địa cầu, đều có nhơn loại cùng các thứ sanh
vật, mà địa cầu chúng ta ở đây lại đứng vào hạng 68.
Từng cao nhứt cõi
Phàm trần chứa đầy một chất tinh khí nhẹ nhàng hơn không khí, người có
thần nhãn thấy màu nó vàng vàng.
Người
Pháp gọi tinh khí là éther, người Trung Hoa dịch âm là dĩ thái.
Tóm lại, trong võ trụ, kể từ trên đổ xuống gồm có: Thái Thanh Thiên, Thượng
Thanh Thiên, Ngọc Thanh Thiên, Tiên Giới, Thánh Giới, Thần Giới và Phàm Giới.
Tam Thanh Thiên và Cửu Trùng Thiên gọi chung là: "Thập nhị Thiên".
Trong khi sáng tạo, đấng Tạo Hóa dùng Chơn linh biến ra mười hai đấng gọi "Thập
nhị Thời Thần" (Jayas), mỗi vị lo phận sự trong một phần mười hai của
thời gian sáng tạo chia làm: tý, sửu, dần, mão, thìn, vân vân.
Cho nên đức Chí Tôn có nói:
"Thập nhị Khai Thiên là Thầy, nắm trọn Thập nhị Thời Thần trong
tay". Chư Tiên Phật là các đấng thọ thiên chức Khai hóa "Cửu Trùng
Thiên", nên đứng vào hàng "Cửu Thiên Khai Hóa".
(1) Đó là Nhứt Khí hóa Tam Thanh.
(2) Cửu Trùng Thiên sẽ giải trong Phần giáo lý.
CHƯƠNG THỨ HAI
HỒN THỂ CON NGƯỜI
Theo kinh "Đại Thừa Chơn Giáo" thì con người có 3 hồn và 7 thể. Ở
trình độ tiến hóa hiện tại, ngoại trừ những bậc Đại căn, Đại giác hoặc đã giải
thoát thì "Tam thanh Hồn" của Chơn Như toàn giác vẫn chưa phát
khai, đương còn an nhiên vô tri, vị giác. Đại đa số nhân loại tiềm tàng Tam
Năng đó (Tri Giác Lực) chờ ngày phát triển.
Vậy nên trong cuốn "Thiên đạo lược khảo" nầy, tác giả chỉ
nói tới "Tam bồ Đề", tức là Chơn Ngã và 4 thể (vật, khí, thần,
thánh) tức là Giả Ngã hay Bản Ngã.
* *
*
Con người có Hồn và Thể.
Hồn là điểm thiêng liêng linh diệu trong con người. Nó vốn bất tiêu bất
diệt. Ấy là điểm linh quang do Chơn linh của Tạo hóa ban cho.
Chơn linh ấy có ba Ngôi, thì hồn cũng có ba bực:
1 . Linh Hồn (Âme divine - Atma) cũng gọi Phật hồn, Chơn hồn, Chơn ngã, Chơn
tâm, Ngươn thần.
2 . Anh hồn (Âme spirituelle - Boddhi) cũng gọi Tiên hồn, Bồ đề, Bát nhã,
Trí huệ.
3 . Nhơn hồn (Âme humaine - Coprs mental supérieur) cũng gọi Giác hồn, Thần
thức, A lại Da thức, Thượng trí Thức, Tâm Thức, Nghiệp thức.
Nhơn hồn đồng nguyên chất với cõi Tiên. Anh hồn đồng nguyên chất với cõi
Thiên Tiên, cũng gọi cõi Bồ đề (Monde spirituel ou Boddhique). Linh hồn đồng
nguyên chất với cõi Ngọc Tiên Thiên, cũng gọi là cõi Niết bàn (Nirvana). Thể
thì có bốn thứ là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể. Vật thể (Corps
physique: Rupa) là xác thịt, thể thứ nhứt của con người. Nó do bốn nguyên tố
lớn hiệp thành (Tứ đại giả hiệp). Bốn cái nguyên tố ấy là: đất, nước, lửa, gió
(1)
Vật thể bị bao bọc bởi một lớp tinh khí (éther), gọi là Khí thể (Double
éthérique: linga-sharira), cũng gọi là cái Phách, kêu nôm là cái Vía, thuật âm
phù gọi Tướng tinh.
Khí thể dùng rút sanh lực vào Vật thể đặng giữ cho Vật thể được sanh tồn.
Nhờ có Khí thể chở che bao học, Vật thể mới không tan rã.
Khí thể dính với Vật thể bởi một sợi từ khí (lien magnétique). Khi nào Khí
thể bứt sợi dây ấy mà lìa khỏi Vật thể, thì con người phải chết. Lúc bấy giờ,
Vật thể mất sự che chở của Khí thể, nên lần lần tiêu rã.
Nhà âm phù thuật sĩ dùng phép thôi miên có thể làm cho Khí thể của người
sống xuất khỏi Vật thể trong một lúc (nhưng không cho dang ra xa, sợ đứt sợi từ
khí mà nguy cho tánh mạng).
Hình nó xuất ra mờ mờ như đám sương mù, người có thần (voyant), trông thấy
được.
Lúc bấy giờ, xác phàm hết cử động, hết biết cảm giác, trơ trơ như một tử
thi.
Người hít thuốc mê không còn biết đau đớn là vì thuốc mê đã làm cho một Khí
thể ra khỏi xác thịt.
Thể thứ ba là Thần thể hay Chơn thần (Corpsastal: Kama). Dính với Khí thể
bởi một sợi từ khí, Chơn thần làm trung gian cho Vật thể và Hồn.
Chơn thần là tạng chứa dục vọng và tình cảm tức là nguồn gốc sự cảm giác.
Hể nó vọng động, thì mắt tham sắc, tai tham thanh, mũi tham hương, lưỡi tham vị
và thân tham xúc. Nó là vai chủ động của lục căn.
Tâm lý học gọi là ý thức.
Người ta có thể luyện phép xuất Thần ra khỏi xác mà vân du trên cõi Thần
(Trung giới) là cõi thích hạp với Chơn thần vì đồng một nguyên chất.
Chơn thần của các vị tu đắc đạo vốn huyền diệu vô cùng tuy còn ở xác phàm
mà tự do xuất nhập, trong nháy mắt dạo khắp ba ngàn thế giới, tiếp xúc với Thần
tiên.
Người đồng tử (médium) nhờ xuất được Chơn thần ra khỏi Phách mà thông công
với các đấng Thiêng liêng.
Thể thứ tư là Thánh thể (Corps mental inférieur: manas inférieur). Phật
giáo gọi Matna thức hay Truyền thống thức; Tâm lý học gọi Trí thức.
Nó giao thông giữa Thần và Hồn. Hễ Chơn thần phân biệt cái gì là tốt, cái
gì là xấu, hoặc điều gì là thiện, hoặc điều gì là ác nó cũng tùy theo mà phân
biệt như vậy, rồi truyền sang cho Nhơn hồn hay biết.
Tóm lại, con người có bốn thể là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể.
Và ba hồn là: Nhơn hồn, Anh hồn và Linh hồn.
Khi con người chết, bốn thể lần lần tiêu tan, duy có hồn là bất tiêu bất
diệt, đi đầu thai kiếp nầy sang kiếp khác, cho tới khi được hoàn toàn giải
thoát (đắc đạo).
(1) Xương thịt thuộc đất, vì tánh nó đặc và chắc.
Huyết dịch thuộc nước, vì là chất lỏng.
Ôn độ trong châu thân thuộc lửa, vì tánh nó ấm.
Khí chất trong châu thân thuộc gió, vì tánh nó động.
Khi con người chết, bốn cái nguyên tố trong châu thân lần lần tan rã, rồi
hiệp thành một vật thể khác, để rồi tan nữa rồi hiệp nữa, thoạt có, thoạt
không, thoạt còn, thoạt mất, thiệt rõ ràng một giả tướng.
NHƠN HỒN SAU KHI GIẢI THỂ
Người ta chết là khi sợi từ khí cột dính Vật thể và Khí thể bị bứt đi (
(1), thế là Khí phách và Thần hồn lìa xác thịt.
Thiệt ra, cái chết chỉ là sự ly dị giữa Vật thể và Khí thể. Khí thể vốn là
tạng chứa sanh lực, mà nếu nó lìa khỏi Vật thể thì Vật thể hết sanh lực, phải
lần lần tan rã.
Vài ngày sau khi con người chết, Khí thể của người ấy lìa khỏi Chơn thần.
Nó không cử động mà cứ vơ vẩn gần tử thi. Ban đêm, đi đến nơi thanh vắng, nhứt
là nơi mồ mả, những người tánh nhát hay sợ sệt; sự sợ sệt ấy khích thích thần
kinh hệ (système nerveux) làm cho họ thấy được hình dạng Khí thể vẩn vơ nơi đó.
Họ cho là "gặp ma" (fantôme éthèrique).
Khí thể của người chết tiêu tan một lượt với tử thi. Tần nhơn (Người Cao
miên) có tục hỏa táng (Crémation), nghĩa là thiêu tử thi, rồi chôn tro, hoặc
đựng trong hủ đem thờ nơi chùa. Dùng hỏa táng, thì Khí thể tiêu liền theo xác
thiêu.
Khi Hồn người chết cổi hết Vật thể và Khí thể, nó được nhẹ nhàng thong thả
như trút được một gánh năïng. Lúc bấy giờ, nó lại linh hoạt hơn khi còn tù túng
trong xác phàm. Nó vẫn sống như thường ở cõi vô hình; cái sống nầy mới là sống
thiệt, có điều Nhơn hồn không cảm xúc theo phàm trần vì nó không còn Vật thể.
Lúc nầy Nhơn hồn linh hoạt nhờ Chơn thần là cái vỏ bao bọc nó như Khí thể
bao bọc xác thịt vậy. Chơn thần vốn đồng nguyên chất với Trung giới là cõi Thần
(Monde astral). Cho nên, sau khi rời bỏ xác phàm và cái phách (Vật thể và Khí
thể), Hồn nhờ Chơn Thần làm chiếc xe đưa vào cõi Thần là nguyên quán, là quê hương
của Chơn thần vậy.
Vẫn biêát Chơn thần là tạng chứa những hột giống thuộc về dục vọng và tình
cảm. Con người, nếu lúc sanh tiền đã chú trọng vật chất, chỉ lo thỏa mãn dục
vọng, tất nhiên Chơn thần bị trọng trược bởi những hột giống xấu xa ấy, nên nó
lâu tan rã. Chơn thần ấy chẳng khác nào cái khám có bốn vách kiên cố để nhốt
Hồn người trong một thời gian rất lâu ở Trung giới.
Vậy nên chú trọng điều nầy: ở cõi phàm, con người hành động thể nào, sự
hành động ấy, dầu lành dầu dữ, dầu thấp hèn hay cao thượng, cái ấn tượng của
các hành vi ấy đều in gắn vào tinh chất (matière astrale) của cõi Thần. Đến khi
Hồn trở về cõi Thần, thì cái ấn tượng ấy hiện ra có thứ lớp rõ ràng; Hồn người
trông thấy chẳng khác nào mục kích một phim chớp bóng (Đó là "Nghiệt cảnh
đài" (Psyché astrale) của nhà Phật.)
Lúc bấy giờ, Hồn người được sung sướng mà nhận thấy hành vi nhơn thiện và
cao thượng của mình khi còn ở thế, hoặc ăn năn và đau khổ mà xem lại những điều
độc ác thấp hèn của mình đã tạo. Sự sung sướng và sự đau khổ ấy, tức là phần
thưởng phạt thiêng liêng cho hồn người tại Trung giới, tức là miền Âm cảnh mà
người ta quen gọi là Địa ngục (Enfer), tiếng Phạn là Kama Loca.
Hồn những người tu mà giữ tròn nhơn đạo và chuyên việc nhơn đức và hồn của
chiến sĩ đã liều mình vì nước, khi về đến cõi Thần đều được hưởng các điều
khoái lạc thiêng liêng là phần thưởng cho sự hành vi của mình khi còn ở thế. Đó
là đắc Thần vị (thành Thần).
Ở cõi Thần, những Hồn đồng một trình độ tấn hóa với nhau đều liên hiệp từng
đoàn thể để giúp đỡ nhau đặng tấn hóa thêm lên.
Hưởng và chịu thưởng phạt thiêng liêng ở cõi Thần trong một thời gian lâu
hay mau tùy theo căn nghiệp của mình. Nhơn hồn giải thoát được Chơn thần vì chơn
thần đến ngày tiêu tán. Chơn thần tiêu tán, thì bao nhiêu hột giống của nó tàng
trử bấy lâu, tức là những hột giống luân hồi (atomes permanents) đều rút vào
cái thể thứ tư là Thánh thể, để làm nghiệp duyên cho kiếp tái sanh.
Chỉ còn cái Thánh thể bao bọc, Nhơn hồn bỏ cõi Thần mà vào từng cao nhứt
của Trung giới, tức vào cõi Thánh (Monde mental inférieur). Nhơn hồn ở cõi nầy
lâu hay mau cũng tùy theo kiếp sống của mình tại thế. Như lúc sanh tiền con
người đã hành động cao thượng về tinh thần trí thức, nếu con người đã có những
tư tưởng thanh cao và những tình cảm cao siêu của phàøm tánh, nếu con người đã
biết quên mình để phụng sự một lý tưởng cao cả, hoặc một chủ nghĩa vị tha, thì
Nhơn hồn được hưởng bền lâu những khoái lạc, những hạnh phước thiêng liêng nơi
cõi Thánh tốt tươi vui vẻ, và được tiếp xúc với các vì minh Thánh nơi đây. Đó
là đắc Thánh vị (thành Thánh).
Nên biết rằng ở cõi Thánh, chẳng một việc gì là phát đoan (khởi đầu). Những
công việc ở đây toàn là kiếp tục. Nói một cách dễ hiểu là: một hạnh phước không
thể bắt đầu tạo ra ở cõi nầy. Nó phải phát đoan từ cõi Phàm, rồi đến đây mới
tiếp tục mà phát triển thêm.
Cho nên con người khi còn ở thế, cần phải sống một cuộc đời nhơn thiện và
thanh cao về tinh thần trí thức và lý tưởng, chớ không phải đợi lên đến cõi
thiêng liêng mới lo hành thiện, thì muộn lắm rồi. Luật nhơn quả (Loi de Karma)
vốn chí công: nhơn nào, quả nấy.
Khi còn ở thế, chúng ta tự tạo phẩm vị thiêng liêng của chúng ta là cái kết
quảù của những hành vi thuận hay nghịch với Thiên đạo (Loi divine).
Khi còn ở thế, chúng ta vẫn có quyền tự do định đoạt cho mình. Chớ nên quá
hẫng hờ tự tạo lấy xiềng xích đặng sau rồi buộc trói lấy ta.
Khi Thánh thể tiêu tan, những hột giống luân hồi tàng trữ bấy lâu trong đó
rút vào Nhơn hồn (Thần thức) để làm nghiệp nhơn cho kiếp tái sanh như đã nói trước
kia.
Nhơn hồn lúc bấy giờ hết bị thểå phách ràng buộc, nó được thong thả trở về
bổn nguyên là Tiên cảnh (Monde mental supérieur), nơi mà Thiên Chúa giáo gọi là
Thiên đàng (Paradis), tiếng Phạn là "Devakan".
Điềàu cần yếu nên biết là tất cả Nhơn hồn sau khi rời bỏ bốn thể, đều trở
về cõi Tiên trong một thời gian lâu hay mau tùy theo duyên nghiệp của mình, nhưng
đó chưa phải là đắc quả Tiên.
Đắc quả là những Nhơn hồn lúc ở thế biết tu hành theo chánh pháp mà được
sáng suốt. Cho nên khi về cõi Tiên, thì có linh cảm hiểu biết và hưởng được
những điều khoái lạc thiêng liêng và những thanh phước của Tiên cảnh (Điều nầy
sẽ giải trong bài luận "Chơn Ngã".) u nhàn xinh đẹp.
Nhơn hồn của những bực chơn tu đắc Tiên vị, khi lìa cõi phàm, thì cổi luôn
tất cả bốn thể một lượt; vượt khỏi cõi Thần và cõi Thánh mà lên thẳng cõi Tiên.
Nhưng sau khi hưởng hết quả vị, nói một cách khác, sau khi mãn hạn (2), Nhơn hồn
còn phải luân hồi lại nữa.
Đến như Nhơn hồn, khi còn ở thế không biết tu hành, thì lúc trở về Tiên
cảnh, vẫn mờ mờ mịt mịt, không hiểu biết chi hết. Tại cõi thiêng liêng nầy,
những Nhơn hồn ấy ở vào trạng thái vô vi vô giác (état inconscient).
Có lẽ độc giả lấy làm lạ, sao lại Trung giới, Nhơn hồn ở vào trạng thái hữu
giác (état conscient), mà khi đến Thượng giới nó lại vô tri vô giác.
Điều đó cũng không khó hiểu. Lẽ thường, hai cái thái cực vốn bằng nhau,
nhứt là hai cái thái cực về quang độ (degré de lumière). Nếu ánh sáng lu lờ,
người ta chỉ thấy mờ mịt, như ở vào cõi u minh. Nếu ánh sáng có cái quang độ
trung bình, người ta được thấy tỏ rõ, như ở vào cõi Thần, cõi Thánh.
Đến như quang độ lên đến cực điểm, thì ánh sáng chói lòa, người ta bị chóa
mắt như bị "nắng quáng đèn lòa" mà không thấy chi hết, hoặc không
thấy chi đặng rõ.
Ấy vậy, Nhơn hồn mê muội không tu ở vào cõi Tiên là cõi sáng lòa, thì chỉ
mờ mờ mịt mịt trong trạng tháùi vô vi vô giác đó thôi.
(1) Có khi sợi từ khí khó bứt làm cho kẻ hấp hối phải nhiều đau đớn. Cho
nên tôn giáo dùng kinh "độ hồn" đọc trong khi người bịnh sấp tắt hơi,
là để giúp cho sợi từ khí nhờ sức rung động của những tiếng mầu nhiệm trong câu
kinh mà được bứt ra dễ dàng.
Người tu hành đầy đủ đạo đức thì Khí thể của họ nhẹ nhàng trong sạch, sợi
từ khí ấy lại được tinh vi, nên khi thoát xác phàm, sợi từ khí bứt ra rất dễ,
nên liểu trần một cách êm ái.
(2) Nhơn hồn đắc Tiên vị hưởng quả mấy ngàn năm, hoặc mấy muôn năm, rồi
phải luân hồi nữa, cho đến khi đắc Phật vị mới hoàn toàn giải thoát.
CHƯƠNG THỨ BA
KIẾP LUÂN HỒI
Điểm linh quang (Hồn) thác sanh xuống cõi Phàm mục đích là để học hỏi
kinh nghiệm và tấn hóa. Chuyển sanh xuống cõi sắc giới, tất phải mượn sắc thân
mà hành động. Càng hành động, càøng tạo nhơn. Tạo nhơn, Nhơn hồn tái sanh phải
thọ quả theo phép công bình của luật nhơn quả (Loi de cause à effet ou de
Karma).
Khi nhơn hồn đã mãn hạn ở cõi Tiên, nó phải chuyển sanh xuống phàm trần,
mang theo những hột giống luân hồi của kiếp trước để làm nghiệp nhơn vàø định
mạng cho kiếp tái sanh. Kiếp hiện tại, con người sẽ được giàu sang sung sướng
hay bần hàn cơ cực, là do cái nghiệp nhơn của mình đã tạo trong tiền kiếp vậy.
Khi chuyển sanh, Nhơn hồn rời cõi Tiên mà xuống cõi Thánh, dùng tinh chất
cõi sau nầy bao mình một lớp đặng làm cái Thánh thể mới. Đoạn xuống cõi Thần
bao thêm một lớp tinh chất cõi Thần mà làm một Thần thể mới nữa (Chơn thần).
Còn Khí thể (Phách) và Vật thể (Xác thịt), thì Nhơn hồn tạo ngay trong thai
bào Nhơn hồn rút tinh khí ngoài mà tạo Khí thể và nhờ tinh cha huyết mẹ mà
thành vật thể. Làm những việc trên đây, Nhơn hồn phải có sự trợ giúp của các
đấng vật thể. Làm những việc trên đây, Nhơn hồn phải có sự trợ giúp của các
đấng Thiêng Liêng có phận sự coi sóc về việc đầu thai..
Ấy vậy, hai cái thể tinh vi hơn hết là Chơn thầàn và Thánh thể, khi sanh thì
sanh trước Khí thể và Vật thể còn khi tiêu tán thì tiêu tán sau, cũng như Nhơn
hồn lúc đầu thai thì đến trước, mà khi bỏ xác lại đi sau. Cho nên có câu: "Khứ
hậu, lai tiên tác chủ ông" (Đi sau, đến trước mà làm ông chủ). Ông chủ
đây là chủ sắc thân, tức là chủ tứ thể đó vậy.
Như vậy, mỗi lần chuyển kiếp, Nhơn hồn mỗi lần tạo ra bốn thể mới, phù hạp
với trình độ tấn hóa của mình.
Hồn vốn không thuộc loạïi nam hay nữõ nhưng lúc chuyển sanh, cóù khi mang
lớp đờn ông, có khi mang lớp đờn bà, là bởi mượn hình thể ấy mà học hỏi và kinh
nghiệm về mỗi phái đặng phát triển hai thứ đức tính Âm Dương khác nhau. Trong
kiếp làm đờn ông, những đức tánh cương quyết thuộc nam phái như can đởm dõng
cảm, đều được mở mang. Những đức tánh nhu hòa thuộc nữ phái thì lại được mở
mang trong những kiếp Nhơn hồn chuyển sanh làm đờn bà. Nhơn hồn phải gồm đủ hai
thứ đức tánh can và nhu mới được hoàn toàn.
Không khỏi có người lấy làm lạ sao Nhơn hồn chuyển sanh kiếp nầy sang kiếp
kia mà không nhớ được tiền kiếp của mình (Vì không nhớ kiếp trước, nên có
người, tuy tin thuyết luân hồi, song nói rằng "Kiếp nầy tôi là Nguyễn
văn Mít, kiếp sau tôi đâu còn là Nguyễn văn Mít nữa? Tôi sẽ là một kẻ khác như
Trần văn Xoài chẳng hạn. Kẻ khác ấy, nếu có chịu quả báo của tôi làm đi nữa thì
cũng không quan hệ gì cho tôi, vì kẻ khác ấy đâu nhớ rằng kiếp trước mình là
Nguyễn văn Mít. Thế là Nguyễn văn Mít làm mà Trần văn Xoài chịu; vậy thì Nguyễn
văn Mít sợ gì mà không làm ác." Nói vậy là không biết Đạo. Phàm người
ta khi ngủ thì không biết, không nhớ gì hết. Biết được nhớ được là khi mình
thức. Sống ở kiếp nầy đối với người không biết Đạo, cũng như là thức, vì người
sống biết suy nghĩ, biết tưởng nhớ, biết hành động. Chết, theo họ, là ngủ, nên
mới nói sự chết là giấc ngủ ngàn năm. Người biết Đạo lại hiểu khác. Sống, tức
là chết là ngủ; chết, tức là sống là thức. Sống, là chết ở cõi vô hình đặng
chuyển sanh vào kiếp hữu hình. Vì chết, cho nên người đương sanh không nhớ tiền
kiếp của mình. Còn chết là bỏ cõi hữu hình để sống vào cõi vô hình. Nhờ sống
lại ấy nên Nhơn hồn, ở cõi vô hình, nhớ rõ tất cả tiền kiếp của mình. Dầu mấy
kiếp trước, là Nguyễn văn Mít, Trần văn Xoài hay gì gì nữa, lúc về cõi vô hình,
tức là khi sống lại, Nhơn hồn nhận rõ những nhơn cách đó nó chỉ là những phàm
thể biến chuyển của mình trong kiếp trước.
Sống ở cõi vô hình mới thiệt là sống, sống một thời hạn rất lâu, sống lại
những buồn thảm, sung sướng, những đau đớn hối tiếc của những kiếp luân hồi, sự
nhớ ấy mới thật là quan trọng bội phần hơn sự nhớ ở phàm gian, nơi đây chỉ là
chổ của nhơn hồn chết tạm, ngủ tạm, để quên nhứt thời sự luân chuyển của mình.)
Nên biết rằng những việc của ta đã làm, tuy qua rồi, song cái ấn tượng của
nó vẫn còn, nhờ vậy người ta mới nhớ được. Ký ức "sức nhớ"
không phải ở óc mà thôi, nó còn ở tại mấy thể khác bằng những ba động tinh vi
(vibrations subtiles). Sự thí nghiệm cho chúng ta biết nếu dùng phép thôi miên
trục Thần của một người nào, thì người ấy, trong khi ở vào trạng thái thôi
miên, nhớ lại được những việc họ đã làm trong kiếp trước. Đó là bằng chứng rằng
ký ức ghi trong Chơn thần.
Mỗi lần chuyển kiếp, bốn thể đều thay đổi; bốn thể cũ đã tan, thì con người
nhờ đâu mà nhớ được việc trước? (Có khi Nhơn hồn mới vừa bỏ xác thịt và phách,
lại được đi dầu thai liền, cho nên còn giữ Chơn thần và Thánh thể cũ. Nhờ vậy
mà khi tái sanh, nó nhớ được tiền kiếp. Cái hiện tượng nầy, báo giới Việt văn đã
có lần nói đến. Các nhà Thần linh học bên Pháp cũng có tường thuật chuyện nhiều
người còn nhớ được kiếp trước của họ.). Thế mà ký ức không mất, nó chỉ rút vào
Nhơn hồn như những hột giống luân hồi rút vào đó vậy. Nhơn hồn nào còn thấp
thỏi thì chưa có thể nhớ được những việc đã qua và những điều học hỏi và kinh
nghiệm của mình trong mấy kiếp trước. Lần lần tấn hóa cao lên, thì nhớ được
mang máng vậy thôi. Còn những bực thượng trí (Intelligence supérieure) và thần
đồng (enfant prodige) vẫn ở vào trường hợp nầy. Có khi chúng ta bỗng nhiên hiểu
được nhiều vấn đề đạo lý cao siêu, không cần lý trí và học cứu. Đó là nhờ cảm
giác những điều học hỏi và kinh nghiệm trong kiếp trước. Sự cảm giác ấy gọi là
trực giác (intuition).
Không nhớ được kiếp trước vốn là một việc hay. Như kiếp trước chúng ta đã
làm nhiều việc đê hèn xấu xa, tội lỗi mà kiếp nầy còn nhớ, thì chúng ta phải
chịu biết bao khổ nhục. Hoặc giả kiếp trước, chúng ta được cao sang thì kiếp
nầy phải hối tiếc hay phát động tánh kiêu căng. Phương chi, nếu mình biết được
tiền kiếp kẻ nầy là thù nghịch, người nọ là thân nhơn, thì sự giao tế lấy làm
lộn xộn mà mình cũng khó chịu.
Đức Tạo Hóa không muốn cho chúng ta dễ dàng nhớ được tiền kiếp, tức là Ngài
đem một tấm màn bí mật che đậy Thiên cơ.
Nhưng tấm màn ấy, Ngài để cho chúng ta phải có công tự mình lần lần vén
lên.
Nhơn hồn nào tấn hóa cao siêu, hoàn toàn sáng suốt, thì cái ký ứùc tiềm
tàng bấy lâu trong đó cũng phát triển hoàn toàn. Trong trường hợp nầy, con
người tuy còn tại thế mà vén được tấm màn bí mật ấy, nên nhớ được tất cả những
tiền kiếp của mình. Đó là "túc mạng thông", một trong lục
thông (abhijna) của bực chơn tu đắc đạo.
Đại để, Nhơn hồn chuyển sanh xuống thế chỉ tạm quên tiền kiếp của mình
thôi.
LUẬT NHƠN QUẢ
Tạo Hóa vốn chí công, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt.
Ngài chỉ lập ra luật "Nhơn quả" (Loi de cause à effet), cũng
gọi là Luật "Báo ứng" (Loi de Karma), là cái qui tắc định rằng
hể nguyên nhơn (cause) như thế nào, thì nhứt định có kết quả (effect) như thế
ấy, không một mảy sai chạy. Vậy, ai tạo nhơn lành (duyên lành) sẽ được hưởng
quả lành (nghiệp lành). Ai tạo nhơn dữ ắt rước lấy quả dữ.
Cái quả hay cái nghiệp vốn là kết quả cái nhơn hay cái duyên của chúng ta
tạo ra trong kiếp trước hoặc kiếp nầy. Rồi cái quả ấy lại làm nhơn cho cái quả
khác sẽ báo ứng về sau. Nhơn và quả cứ tiếp tục báo ứng như vậy mãi như ảnh tùy
hình mà buộc trói con người trong vòng oan nghiệp.
Có hai thứ quả báo hay nghiệp báo: biệt nghiệp (Karma individual) và cộng
nghiệp (Karma collectif).
I . Biệt nghiệp là quả báo riêng từng người, ai tạo nhơn là nấy thọ quả.
Kinh Phật có câu:
"Phụ tác bất thiện, tử bất đai thọ; tử tác bất thiện, phụ bất đai thọ.
Thiện tự hoạch phước, ác tự thọ ương" - (Cha làm điều chẳng
lành, con không chịu thế được; con làm điều chẳng lành, cha không chịu thế
được. Làm lành tự được phước, làm dữ tự mang họa).
Biệt nghiệp ứng quả có hai cách: định nghiệp và bất định nghiệp.
- a) Định nghiệp là quả báo có thời kỳ nhứt định. Nhơn hồn đã tấn hóa khá
rồi, khi được hoàn tỉnh sau cái trạng thái hổn độn gây ra trong lúc giải thể
(thoát xác), lần hồi thấy rõ tội lỗi của mình đã làm, rồi biết ăn năn đau khổ,
tự quyết khi chuyển kiếp sẽ trả quả bằng cách nào, trong lúc nào, hoặc trong
một thời gian nhứt định.
- b) Bất định nghiệp là quả báo không có thời kỳ nhứt định. Chư Hồn thấp
thỏi, hôn mê ám muội, đã làm tội lỗi mà không biết tỉnh ngộ, cho nên quả ứng
lúc nào hay lúc nấy, không biết tự mình quyết định.
II . Cộng nghiệp là quả báùo chung cho nhiều người. Như nhiều kẻ đồng phạm
một việc, khi đền tội, phải chịu quả một lượt với nhau.
Lại có nhiều kẻ, tuy tạo nhơn khác nhau, song tội đồng nhứt thể, nên đêán
khi trả quả, cũng chung chịu với nhau một lượt.
Lại có khi một người làm ác mà nhiều người đêàu hưởng lợi, thì cũng phải
chịu chung một cọâng nghiệp.
Tất cả nạn nhơn của một tai họa lớn như động đất, bảo lụt, chìm tàu, hỏa
hoạn, dịch khí, chiến tranh, vân vân ... đều là những người chịu một quả báo
chung vì họ đã đồng tạo một ác nghiệp.
Mặc dầu xa lạ nhau, mặc dầu kẻ nam người bắc, Thiên cơ dong ruổi xui khiến
thế nào cho họ hiệp nhau một chỗ đặng đền tội chung một lượt.
THỜI GIAN BÁO ỨNG
Bất câu một nguyên nhơn nào cũng có cái tánh cách tự nhiên là đem lại cái
kết quả cấp kỳ. Nhưng thường lại có một nguyên nhơn khác xen vào phản ứng
(cause contradictoire) làm cho cái kết quả ấy phải hoãn lại một thời gian.
Tỷ như chúng ta để ngón tay vào lửa (nguyên nhơn), chúng ta ắt bị phỏng
liền (kết quả cấp kỳ). Nhưng nếu chúng ta dè dặt bao bọc ngón tay bằng một chất
thuốc gì có công hiệu che chở, thì là chưa bị phỏng liền. Lửa cần phải đốt hết
chất thuốc ấy rồi mới bắt qua ngón tay.
Lớp thuốc áo vốn là nguyên nhơn phản ứng.
Như ở các nước thuộc miền ôn đái như nước Việt Nam, phàm giống lúa hể gieo
xuống (nguyên nhơn) là nứt mộng lên mau (kết quả).
Nhưng ở các xứ lạnh, lúa lại chậm lên là tại tuyết giá cản ngăn. Tuyết giá
vốn là nguyên nhơn phản ứng.
Một đứa bé chơi nghịch (nguyên nhơn). Cha nó bắt nó nằm xuống mà răn phạt
(kết quả). Trong lúc người đưa roi lên sắp đánh, bỗng có một người bạn đến
thăm. Người cha phải hoãn sự răn phạt lại đặng tiếp khách.
Sự khách đến vốn là nguyên nhơn phảûn ứng.
Cũng vì luật "phản ứng", mà cái quả của một thiện nhơn hay
một ác nhơn có khi không báo ứng ngay trong kiếp tạo nhơn. Chúng ta vẫn thấy có
nhiều kẻ bạo tàn ác đức mà lại giàu sang sung sướng, nghinh ngang hống hách với
đời, là bởi họ đương hưởng cái quả của thiẹân nhơn họ đã tạo trong kiếp trước.
Nhưng một khi đã tận hưởng quả lành, thì ngay trong kiếp đương sanh, hoặc trong
kiếp tái sanh, họ sẽ chịu khổ quả của cái ác nhơn mà họ đương tạo.
Đối với thời gian, sự ứng quả có ba cách:
- I. Nghiệp báo ứng ngay trong đời tạo nhơn gọi là Đương kiếp nhơn quả hay
thuận hiện nghiệp.
- II. Nghiệp báo ứng theo cái nhơn tạo trong kiếp trước, gọi Tiền kiếp nhơn
quả hay thuận sanh nghiệp.
- III. Nghiệp báo ứng ở kiếp sau, do cái nhơn hiện tại, gọi là Hậu kiếp nhơn
quả hay thuận hậu nghiệp.
NHỒI QUẢ
Trong kiếp đương sanh, mỗi hành vi của chúng ta vốn làm nhơn cho quả tương
lai. Những việc ác chúng ta làm là những khoen sắt kết thành xiềng xích buộc
trói chúng ta vào bánh xe luân hồi vậy.
Nhưng nếu biết hồi đầu giác ngộ, lo tu hành đứng đắn và lập công bồi đức,
tức là tránh gây thêm nợ; những mối nợ của chúng ta đã tạo trong kiếp trước và
trong buổi đầu của kiếp đương sanh chúng ta phải dồn trả nội trong kiếp nầy cho
thanh toán, thì mới được rảnh rang thoát tục. Cách trả quả nầy gọi là "nhồi
quả".
"Nhồi quả" là một cách trả quả rất nặng nề nhưng cũng là một
phương giải thoát. Cho nên người biết đạo luôn luôn vui chịu những hoạn nạn,
tai ương dồn dập đến cho mình. Và nếu thấy người nào đạo đức chơn tu mà bị hoạn
nạn cùng tai biến bất ngờ, tưởng chẳng nên lấy làm lạ, vì người ấy đương chịu "nhồi
quả" đó vậy.
BỔN GIÁC
Trong một lớp học, chúng ta thấy trí thức học sanh không đều nhau, đứa
giỏi, đứa dở, đứa thông minh, đứa u ám. Cùng được một thầy săn sóc, cùng học chung
bài vở, sao lại có sự phân biệt ấy? Người ta trả lời một cách dễ dàng rằng tại
đứa nầy sáng, đứa kia tối; thử hỏi sự sáng tối ấy do đâu mà ra?
Lại cùng sống trên quả địa cầu, tại sao dân nầy văn minh, dân tộc kia lạc
hậu?
Sự sai biệt ấy chắc hẳn là do trình độ tấn hóa khác nhau. Đứa học sanh nầy
u ám là vì ít tấn hóa. Nói tấn hóa là nói luân hồi chuyển kiếp. Một kiếp luân
hồi, là một nấc thang tấn hóa. Dân tộc dã man là dân tộc còn mới trên đường tấn
hóa, tức mới trải qua ít kiếp luân hồi. Dân tộc văn minh là dân tộc đã lâu đời
trên đường tấn hóa tức đã nhiều kiếp luân hồi vậy.
Đành rằng kiếp sống là kiếp chung, nhưng trình độ tấn hóa của một kiếp
riêng con người là do thời gian của điểm chơn linh (hồn), dùng để tấn hóa, kể
từ khi bắt đầu thác sanh xuống thế.
Cái trình độ tấn hóa của mỗi người trong kiếp đương sanh gọi là bổn giác (
Tiếng Phạn gọi Dharma, nhà Phật dịch là Pháp).
Tấn hóa đây không phải tấn hóa thuần về trí thức, mà kể luôn về tinh thần
đạo đức. Người học đạo cần phải biết trình độ tấn hóa về tinh thần đạo đức của
mình đến đâu, rồi do đó mà ứng dụng phương pháp cho nhằm cách mà tấn hóa thêm
lên; như vậy mới nhằm đường phải lối (Đức giáo chủ Pythagore có dạy môn đệ của
Ngài như vầy: "Ngươi hãy tự biết ngươi, rồi Ngươi sẽ biết được Võ trụ
và các vi Thầân linh". "Ngươi tự biết Ngươi", tức là biết
cái bổn giác của ngươi vậy.). Biết được bổn giác vàø giác pháp, tức là đắc pháp
vậy.
Xin đơn cử ra đây một thí dụ dễ hiểu:
Trước khi cất nhà, tôi phải đắp nền cho vững chắc. Nếu nền không vững chắc,
nhà cất lên phải lún. Cũng vậy, muốn cất nhà "làm Tiên Phật",
tôi phải trước đấp nền cho vững chắc tức là trúc cơ. Tôi phải tự biết chắc rằng
tôi đã chế ngự được thất tình lục dục, rồi tôi mới bắt đầu hàm dưỡng tinh thần
tọa thiền nhập định. Tôi phải tự biết chắc trình độ tấn hóa tinh thần đạo đức
của tôi đã đến chỗ tận diệt tình dục, rồi mới dám bắt đầu vào việc công phu.
Bằng chẳng vậy, sự tịnh luyện của tôi sẽ luống công vô ích. Phải biết mình đặng
tuần tự tấn hóa.
Ở đây có một điều rất nguy hiểm:
Tôi thấy một việc rất cao quí, huyền diệu, rồi tôi muốn làm cho kỳ được.
Nhưng phải xét coi bổn giác của tôi đã đến trình độ làm việc ấy chưa? Tôi không
nên dục tốc mà uổng công nhọc sức. Yếu điểm sự tốn hao không phải trong một lúc
mà lên đến cực độ, cần phải tuần tự tiến lên, không thái hóa, không bất cập.
Hãy xem phương pháp, Đức Chí Tôn ung đúc chúng ta. Với người nầy, Chí Tôn
buộc việc gắt gao, với kẻ khác, Thầy lại dễ dãi. Đó là Thầy do trình độ bổn
giác mỗi con mà dạy dỗ.
Một người, dầu Thiên tước lớn lao đến đâu đi nữa, song nếu bổn giác chưa
cao mà bị bắt buộc làm những việc cao cả, thì thế nào làm được.
Ai tu đến hạnh nào, chúng ta cứ vui để cho người ấy tuần tự tiến lên, thế
nào cho "một đức trổi hơn một phẩm cao" là được. Chúng ta
chẳng nên bó buộc người khác làm những việc không thể làm được.
Một người còn mến vật chất mà bảo họ tự khắc bỏ đi để trao dồi tinh thần
đạo đức, không khỏi bị họ trề môi khinh bỉ. Phải do thị hiếu của người mà dẫn
lần đến chỗ cao hơn, một ngày một ít, thì mới hóa độ người được.
Biết được bổn giác của người, chúng ta mới biết khoan dung, rồi lòng tự
kiêu sẽ nhờ đức khoan dung ấy mà tắt đi.
QUAN NIỆM THIỆN VÀ ÁC
Luật nhơn quả vốn căn cứ vào cái nguyên tắc "Thiện hữu thiện báo,
ác hữu ác báo."
Vậy, thế nào là thiện? là ác?
Thiệt ra, thiện với ác khó mà phân biệt, là vì chẳng có điều thiện và điều
ác nào tuyệt đối cả. Thiện và ác chỉ tương đối thôi, nói cho dễ hiểu, điều nầy
sở dĩ gọi thiện là nhờ đối với một điều khác mà người ta cho là ác. Điều nọ sở
dĩ gọïi ác là bởi đối với một điều khác mà người ta cho là thiện. Chớ riêng
biệt ra, một điều gọi thiện chưa hẳn là toàn thiện, cũng như một điều gọi ác
chưa ắt là toàn ác đâu. Do đó, chúng ta có thể suy diễn ra rằng: cái gì đối với
chúng ta là ác, có thể đối với người khác là thiện và trái lại.
Vài cái thí dụ cho dể hiểu:
Nhiều người bảo cần ăn thịt cá mới đủ chất bổ dưỡng thân thể. Ăn thịt cá,
đối với họ, là một điều tốt, điều thiện.
Song đối với bực chơn tu, ăn cá thịt là không trọng mạng con sanh vật, tức
là thiếu lòng nhơn.
Hơn nữa, tiếp dưỡng bằng thú chất là dùng chất ô trược mà bồi bổ bổn thể,
làm cho nó phải nặng nề ô trược.
Vậy đối với bực chơn tu, ăn cá thịt là điều xấu, điều ác.
Lại như các giống mọi dã man còn ăn thịt người; nếu họ biết hối ngộ và để
chút lòng thương đồng loại mà bỏ thói ăn ghê tợn ấy đi, rồi săn con thịt thế
vào thịt người, thì ắt họ sẽ bước được một bước khá dài trên đường tấn hóa.
Vậy ăn thịt thú vật, đối với họ, là một điều thiện đó.
Thế thì làm sao định nghĩa hai chữ thiện, ác?
Theo chúng tôi thấy thì.
- a). Gọi ác là những việc làm, những lời nói và những
tư
tưởng nào có thể làm trở ngại sự tấn hóa của một người hay một sanh vật nào
chẳng hạn, hoặc làm cho người hay vật bị thiệt hại, khổ sở, buồn rầu.
- b). Gọi thiện là những việc, những lời nói và những tư tưởng nào giúp cho
sự tấn hóa của một người hay một sanh vật nào chẳng hạn, hoặc làm cho người hay
vật được lợi, hoặc được sung sướng, vui mừng.
Hành thiện là hành động theo chủ nghĩa vị tha.
Hành ác là hành động theo chủ nghĩa vị kỷ.
Vị kỷ là ngã chấp, nghĩa là chấp cái bản ngã.
BẢN NGÃ
Phàm làm việc gì mà trông mong ở tư kỷ, tư lợi, như làm phước đặng mong gặp
phước, làm phải để cầu khen, như vậy là tư về bản ngã, nghĩa là ngã chấp, chấp
cái Ta. Cái Ta là cội rễ các việc tư, cho nên việc gì chẳng lợi cho mình mà nếu
buộc phải làm, thì làm lấy có. Còn việc gì có lợi thì lại tính thiệt so hơn,
cân phân từng chút, mệt nhọc không nài. Vậy cái Ta thường sanh ra những tánh vị
thân vị kỷ, chứa đầy tư tưởng thiên lệch theo ngã kiến, nói tóm lại, nó là
nguồn gốc của các tánh xấu xa đê tiện. Tưởng chấp có Ta thì chẳng biết có người.
Ta và người mà phân biệt, thì bao nhiêu hành động thiên về vị kỷ mà mất lẽ
công, có khi còn phải thất nhơn thất đức.
Diệt được cái Ta là tiết chế được tình dục, đoạn trừ tư tâm ngã kiến, rồi
nhứt cử nhứt động đều quay về vị tha, quên cả mình để mưu lợi cho người. Đã
quên cả mình thì còn việc gì làm lụy cho mình được?
Thử kiếm trong hình hài ta, coi có cái gì thiệt là của ta đâu?
Thân thể con người là "tứ đại giả hiệp". Khi hồn lìa khỏi xác,
bốn nguyên tố cấu tạo thân thể thảy đều tan rã, rồi hiệp thành một bổn thể
khác, để rồi tan nữa hiệp nữa, thoạt có thoạt không, rõ ràng là một giả tướng.
Đã là giả tướng, tội gì bo bo chấp lấy cái Ta?
Cho nên, bực tu hành nếu không lo trừ bản ngã, thì chẳng thế nào bỏ vọng về
chơn, bỏû mê theo giác mà thoát ra vòng luân hồi quả báo. Là vì, hễ còn ôm ấp
cái Ta, là còn cố chấp ngã kiến, nên không thế nào tìm ra Chơn lý.
Chơn lý với bản ngã không bao giờ lưỡng lập.
CHƠN NGÃ
Vẫn biết Hồn có ba bực; tuy ba mà một. Ba ấy là:
Linh hồn (Âme
divine), Anh hồn (Âme spirituelle) và Nhơn hồn (Âme humaine). Tiếng Phạn gọi cái Một ấy là
Jivatma, còn ba bực ấy là: Atma- bouddhis- manas.
Linh hồn mới thiệt là cái ta, tức là Chơn ngã vậy. Nhơn hồn chuyển sanh từ
kiếp nầy sang kiếp khác. Vì vô minh vọng chấp cái thân tứ đại làm bản ngã, cho
nên ích kỷ mà sanh dục vọng, rồi tạo nhơn mà phải trả quả.
Nếu con người biết tu, dùng qui giới mà lọc cho Nhơn hồn trong sạch, dùng
thiền định mà làm nó yên tịnh, như nước biển yên lặng không sóng dợn, thì Nhơn
hồn sẽ đắc giác mà chứng quả Nhơn tiên, hoặc cao hơn một bực là Địa tiên.
Nhơn Tiên và Địa Tiên là bực sáng suốt, dứt sạch vô minh mê muội, biết rõ
quá khứ vị lai, phân biệt được vọng với chơn nên không còn duyên theo ngoại
cảnh. Tuy nhiên phần thô tưởng ( Thô tưởng là những tư tưởng thô siển về hữu tình
(Pensées concrètes)) đã dứt, nhưng phần tế tưởng (Tế tưởng là những tư tưởng tế
vi, vô tình (Pensées abstraites)). chưa đoạn tuyệt. Vì vậy mà sau khi hưởng tận
Tiên vị trong một thời gian mấy ngàn, mấy muôn năm ở cõi Tiên rồi, còn phải
chuyển kiếp đặng tấn hóa thêm lên và diệt trừ cho tuyệt tế tưởng.
Người có Tiên căn giáng thế là bực đại thông minh, học ít hiểu nhiều, có
khi trực giác mà hiểu biết. Người ấy bao giờ cũng hành động phi phàm cao
thượng, độ thế cứu đời bằng cách dìu dẫn chúng sanh trên đường đạo đức. Vừa lập
công bồi đức, vừa tu luyện cho Trí huệ của mình phát triển hoàn toàn mà chứng
quả Bồ đề (Bodhi), Phật giáo gọi Bồ Tát, Đạo giáo gọi Thiên Tiên, hưởng quả tại
cõi Bồ đề hay cõi Thiên Tiên (Monde boudhique ou spirituel).
Bồ Tát hay Thiên Tiên là bực hoàn toàn tự giác, biết rõ quá khứ vị lai,
hiểu thấu cơ mầu nhiệm của Trời Đất, không còn gì học hỏi nữa. Song tự giác chỉ
là giác ngộ cho mình thôi, nên vẫn còn tự kỷ mà chấp trước vẫn còn. Muốn cầu
chánh giác, Bồ tát phải chuyển sanh một kiếp chót, giáng thế làm một vị chưởng
giáo lập đạo cứu đời, hóa độ chúng sanh bỏ mê theo giác mà vượt qua biển khổ.
Đó là giác tha, nghĩa là đem cái giác ngộ của mình mà giác ngộ chúng sanh;
sự giác ngộ của mình đã hoàn toàn, sự giác ngộ của chúng sanh đã viên mãn, tức
là tự giác và giác tha đầy đủ, nên được chánh quả Chánh giác (1) . Phật giáo
gọi thành Phật, Đạo giáo gọi thành Đại giác Kim Tiên.
Chứng quả Phật, thì Anh hồn (Bồ đề) được hoàn toàn giải thoát, hết phiền não,
hết chướng ngại, hết nghiệp báo luân hồi, hết trì trục theo giả tướng mà trở
lại bổn thể Chơn tâm, tức là Chơn ngã mà vào cõi Niết Bàn.
(1) Đắc chánh giác cũng gọi là đắc Tam bồ đề (Sambodhi), trên quả bồ đề
(Bodhi) một bực. Nhưng đắc quả Tam bồ đề rồi còn có thể tu luyện nữa mà đắc quả
Tam diệu Tam bồ đề (Samya sambodhi), hoặc đắc quả A nậu đa la tam diệu tam bồ
đề (Anuttara- samya- sambodhi), tức là bực Vô thượng chánh đẳng chánh giác, như
đức Phật Thích Ca.
Bát Quái Đài.
CHƯƠNG THỨ TƯ
SỰ SỐNG Ở CÕI HỮU HÌNH
tức là THẾ
GIAN
PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Chúng ta ở vào thế hệ văn minh khoa học. Phàm những điều kiện sanh tồn về
vật chất phải phù hạp với khoa học để mưu cầu những tiện nghi cần thiết thì đã đành,
đến như sự sanh hoạt về tinh thần trí thức cũng không ngoài phạm vi khoa học.
Thời đại mới, thì tinh thần mới, tư tưởng mới, quan niệm mới, cho theo nhịp
trình độ trí thức của chúng sanh hiện đại.
Ngày nay, nói đến việc tu hành, vị tất phải tưởng tượng một vị ẩn tăng lim
dim luyện phép trường sanh, không biết đến những điều kiện sanh tồn vật chất?
Là vì chữ Tu, hiểu theo nghĩa
rộng, là trau sửa. Trau là trau lòng trong sạch thanh cao, sửa là sửa tánh xấu
ra tốt đẹp, rồi chế ngự dục tình, đoạn trừ ích kỷ, dọn mình chơn chánh, giử kỹ
luật Trời.
Thế thì ở đâu cũng là tu được. Tu tại gia mà giữ vẹn công phu còn hơn ẩn
non ẩn núi, vì chưng ở chốn phồn ba náo nhiệt là chỗ dễ khích thích dục tình đê
tiện, mà đạo tâm bền vững không nhiểm bợn nhơ, tỷ như hoa sen sanh chốn bùn lầy
mà vượt lên tốt tươi trong sạch. Tu ở thị thành mà không trầm niệm mới thiệt là
đại ẩn. (Có câu: "Đại ẩn ẩn thành thị". Nghĩa là: "người ở giữa
thành thị mà vẫn lánh được tục trần mới đặng gọi là đại ẩn.")
Thuở xưa, bực chơn tu cần lánh xa trần tục, xả thân cầu đạo, xả phú cầu
bần, để sống nhờ lòng hỉ cúng của chúng sanh.
Nay thì không thế được. Sự kinh nghiệm đã chứng rằng tu hành cần phải có đoàn
thể, có tổ chức có trật tự đặng dễ cho chúng ta dìu dắt lẫn nhau anh trước em
sau, trên đường đạo đức.
Tu để ăn nhờ sống gởi ở lòng hỉ cúng không phải là phương trường cửu. Cần
phải sống bằng tự lực, tự cung, tự cấp mới được. Vì lẽ đó, trong đạo cần tổ
chức đủ ngành hoạt động kinh tế để nuôi sống lẫn nhau, giúp nhau cho có chánh
nghiệp và phương thế lập công quả với đạo, với đời.
Quan niệm "yếm thế ", không hạp thời nữa.
Ngoài những bực hiến thân vào cửa đạo cần phế hết phàm trần tục sự thì
chẳng nói, kỳ dư những người tu tại gia vẫn làm ăn chất phác như thường, và
cũng kề vai gánh vác một phần trong công việc xây đấp nền thạnh vượng về kinh
tế cho quốc gia xã hội; có điều khác hơn người thường là, ngoài giờ làm lụng
thay vì rong chơi vô ích, họ nhơn lúc rảnh rang mà lập công bồi đức, hoặc dạy
dỗ lẫn nhau cùng trau sửa tánh tình bằng cách quan sát hành động mỗi ngày.
Lại trong giờ rảnh việc, nhứt là ban đêm thanh vắng là lúc tâm hồn tỉnh táo
thơ thới, người đạo còn phải di dưỡng tinh thần cùng tưởng Trời tưởng Phật, tức
là dùng tư tưởng mà thông cảm với Trời Phật, hầu tiếp điễn lành mà tẩm tưới tâm
hồn ngày được thanh cao, minh mẫn. Trí thức (Trí thức tức là Thánh thể)phải xua
đuổi những tà niệm và ác ý cho tư tưởng mình được nhơn lành, trong sạch.
Người đạo cần phải giữ bổn hạnh cho chánh đáng thì tinh thần mới mau tấn hóa.
Cần phải có những đức tánh: từ bi, hỉ xả, nhẫn nhục, tinh tấn, bình đẳng, bác
ái, nhu hòa, tự tại, chí thành.
1. Trọng mạng sống tất cả loài tứ sanh, xót thương người đói khó, cô đơn mà
trợ giúp; buồn thấy người làm dữ, vui xem kẻ làm lành. Đó là từ bi.
2. Ai chê không giận, ai ghét chẳng hờn; đại lượng với người thù nghịch; dĩ
ân báo ân mà không dĩ oán, báo oán; hơn nữa, dĩ oán vi ân. Đó là hỉ xả.
3. Vui chịu đủ phương thử thách; gặp biến cảnh thế nào cũng biết chiều theo
thế ấy mà không phiền muọân trách than, không ngã lòng thối chí. Đó là nhẫn
nhục.
4. Cố tâm tiến trên con đường công đức, trong không nhiểm một mảy vọng niệm
để tâm hồn được hư không thơ thới; ngoài không biếng nhác tháo lui, một mực hăm
hở lo tròn bổn phận. Đó là tinh tấn.
5. Xem vạn vật vốn đồng nguyên, xem các loài máy động vẫn đồng tánh. Đối đãi
với người không phân giai cấp, không phân quốc tịch; chẳng so đo phú bần quí
tiện; lấy đức làm trọng, lấy đạo làm cao; không cậy thế ỷ quyền, không xu phụ
người thế lực; xem ta như người; xem người như ta. Đó là bình đẳng.
6. Xem tất cả chúng sanh là con một Cha, thương người mến vật, trọng tất cả
sanh mạng mà không phạm giới sát. Đó là bác ái.
7. Dùng nhã lượng, lễ nghi ứng đối với người phỉ báng; mềm mỏng mà khuyên
lơn; ôn hòa mà hóa độ; dầu gặp rối ren gay cấn thế nào cũng bình tĩnh điều đình
ổn thỏa. Đó là nhu hòa.
8. Phàm ở đời, bất câu vào cảnh ngộ nào, hễ tri túc là toại, tùy phận là
yên; lập công với đời là phỉ nguyện chớ không cần khen thưởng; thấy lợi sợ điều
phi nghĩa; gặp may không đắc chí, gập rủi chẳng nao lòng, lành dữ đều phú cơ
báo ứng, cứ ung dung thơ thới, chẳng cho lưới trần lao lung câu thúc. Đó là tự
tại.
9. Thành thật với mọi người, dầu trong đạo hay ngoài đời cũng vậy, trong
tất cả hành vi động tác, nhứt nhứt đều ngay thẳng thật thà; không một lời giả
dối, không một ý tà tây; xử sự chẳng mưu mô lừa đảo. Đó là chí thành.
Tóm lại mà nói, ngoại trừ những phương pháp tu dưỡng cao siêu dành riêng
cho bực thượng thừa, còn thì những qui tắc vừa kể ra đây rất hạp với người ta tu
tại gia không điều chi bó buộc khó khăn, và cũng không mảy may nào gọi là yếm
thế, là dị đoan, là mê tín.
Đành rằng người tu cần phải giữ giới luật của tôn giáo mình. Khoản nầy sẽ
giải trong phần thứ hai là Phần Giáo lý.
THẤT TÌNH
Trong con người, có hai phần động tác: động tác về vật thể và động tác về
tinh thần.
Động tác về vật thể là: hô hấp, tiêu hóa, tuần hườn, vận động, vân vân.
Động tác về tinh thần là: mừng, giận, buồn, vui, sợ, thương, ghét, gọi
chung là thất tình.
Tâm (Nhơn hồn) vốn là chủ lục căn. Do lục căn, Tâm cảm xúc ngoại vật mà
sanh tình. Khi cái Tâm bình tịnh là lúc thất tình chưa vọng động, cái Tâm còn
giữ bổn thể chơn tánh của nó. Ví dụ Tâm là cái ao, Tánh là nước ao còn phẳng
lặng. Tình là sóng dợn sau khi bị gió xao ( Gió nầy là ngoại vật cảm xúc vào ý
thức; nhà Phật gọi là bát phong, tám điều cảm xúc từ ngoại vật đưa vào diêu
động ý thức mà sanh sóng thức, tức thất tình).
Lục căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tình cảm phát đoan từ mắt, tai,
mũi, lưỡi, bị ngoại vật cảm xúc mà điều động ý thức (Chơn thần). Ý thức in hình
ảnh của cảm xúc vào Trí thức (Thánh thể), rồi Trí thức truyền nó vào Tâm thức
mới có thể cảm giác mà sanh tình.
Có người mới vào cửa đạo, trong khi đạo tâm phấn khởi lại muốn sớm diệt
thất tình, nhưng họ chỉ cố đè nén nó không cho phát khởi, thành thử nó chỉ bị
chôn giấu trong tiềm thức mà thôi, có dịp là tung ra dữ dội ( Chúng ta thấy có
người tu hành chín chắn mà đột nhiên phá giới, rồi gây tội lỗi còn hơn người
thường, là vì thất tình sau một thời gian bị đè nén (refoulement) bỗng nhiên nổ
bùng ra quá mạnh, không sao ngăn được.).
Ngày xưa, các bực chơn tu đắc đạo phát nguyện hóa độ chúng sanh, há không
phải vì thương mà hóa độ sao?
Nay Đức Chí Tôn lập đạo đặng phổ độ chúng sanh cũng chỉ vì thương. Song le
sự thương của các đấng trên đây không phải là dục ái của kẻ phàm phu mà là pháp
ái là chơn ái vô thượng, của bực cao siêu.
Thay vì diệt thất tình là việc mà người còn ở thế chưa có thể làm, tưởng
nên chuyển nó lên chổ cảm giác cao thượng để áp dụng trong việc cư xử hàng
ngày.
- Mừng! Thay vì mừng ích kỷ về tư danh tư lợi, chúng ta nên mừng thấy người
nào biết giác ngộ, biết hồi đầu hướng thiện, và tránh đặng tai ương.
- Buồn! Thay vì buồn cho thân phận gặp nhiều khảo đảo mà phải điêu linh
điên bái; thay vì buồn cho gia đạo đa đoan nguy khổn, chúng ta nên buồn cho kẻ
nào không biết sợ tọâi tình nghiệt chướng còn chấp mê bất ngộ, cứ khư khư theo
chủ nghĩa thấp hèn vị kỷ.
- Giận! Thay vì giận kẻ chê bai phỉ báng cùng cố tâm ngăn trở bước đường
tu, chúng ta chỉ nên giận mình không đủ tài đức đặng cảm hóa được người. Có vậy
chúng ta mới rán lo học hỏi và trau dồi đạo hạnh thêm lên.
- Vui! Thay vì vui sống với những khoái lạc về nhục dục thấp hèn, chúng ta
chỉ nên vui sống một đời tinh thần cao khiết, không chi làm cho tâm hồn chúng
ta phải nôn nao bận rộn.
- Sợ! Thay vì sợ quyền sợ thế, sợ mưu quỉ chước tà, chúng ta chỉ nên sợ cho
mình không lo tròn thiên chức, và sợ Thiên điều không dám làm chi trái đạo.
- Thương! Thay vì hạn chế tình thương ích kỷ trong vòng thân nhơn quyến
thuộc và trong cuộc ái ân, chúng ta nên thiệt lòng thương tất cả chúng sanh mà
thiệt hành chủ nghĩa bác ái, đại đồng.
- Ghét! Thay vì ghét trò đời giả dối, chúng ta nên ghét việc phi nhơn mà
chẳng khứng làm, ghét của phi nghĩa mà không chịu giữ.
Đó là chuyển được thất tình lên đến chỗ cao siêu vô ngã vậy.
THAM DỤC
Con người vì vô minh (avidya) không biết mình tự đâu mà ra; sanh ra để làm
gì, và thác rồi sẽ ra sao, nên lầm tưởng chỉ sống trên cõi tạm nầy trong một
thời gian là cùng tận. Vì vậy mới thiên về chủ nghĩa duy kỷ, ngày đêm cứ bo bo
theo những điều cận lợi nhãn tiền, miễn sao thỏa mãn được lòng khát khao ham
muốn, những vui thích về giác quan, trối kệ kiếp tương lai mà họ không tin là
có. Mà người ta khát khao ham muốn những gì?
Danh vọng, tài lợi, sắc đẹp, cường dõng, sung sướng, vân vân....
Danh vọng vốn không phải muốn mà có, tìm mà được. Người đáng có danh vọng
tự nhiên danh vọng đến cho. Nếu cố tâm tìm kiếm, như vác tiền mua phẩm tước,
hoặc làm việc chi để cầu danh, thì cái danh vọng ấy chỉ là danh vọng hão, tức
là hư danh vậy.
Nhiều người cứ bo bo đeo đuổi theo tài lợi, lấy đó làm hạnh phúc cho mình,
chớ không dè mình phải đem cả xác thịt tinh thần làm nô lệ cho tài lợi mà một
ngày kia, sau khi hồn lìa khỏi xác, cũng không thể đem theo. Có khi lòng ham
muốn làm cho mình u ám mà quên cả nghĩa nhơn đạo đức.
Bóng sắc tuy có cái vẽ mỹ quan, nhưng nó chất chứa không biết bao nguy
hiểm. Biết bao người phải tiêu mòn tinh lực vì sắc dục và để cho nó thâu ngắn
đời sống của mình! Biết bao người làm điều can danh phạm nghĩa vì sắc dục! Biết
bao người khuynh gia bại sản, hoặc gây nhiều tội lỗi vì sắc dục!
Cường dõng (mạnh bạo) là cái lợi khí củûa người nầy dùng xâm lấn quyền lợi
của kẻ khác, nói rộng ra nữa là lợi khí của một nhóm người đàn áp một nhóm khác
yếu hơn. Nhưng đáo đầu, mạnh bạo thế nào cũng không qua lẽ phải ( Dõng bất quá
Thiên, cường bất quá lý.).
Biết bao người, ở đời, ngày đêm, cứ lo sao cho mình sung sướng, tìm hoài
kiếm mãi, nhưng chẳng thấy chi đáng gọi là chơn hạnh phúc. Thì chẳng khác nào
một hành khách bơ vơ trong sa mạc. Đương hồi nắng nôi khao khát, thấy trước mặt
một vũng nước, cố mau đến nơi mà giải khát. Song le, càng tiến tới, vũng nước
càng cách xa. Thiệt vậy, trên cõi tạm nầy, có chi thiệt là sung sướng đâu? Như
gọi giàu sang vinh hiển là sung sướng, chớ biết đâu những bực giàu sang vinh
hiển ấy lại chẳng có cái khổ tâm lo lắng hơn người thường? Chơn hạnh phúc của
chúng ta đâu phải ở thế gian nầy?
Sự ham muốn vốn có cái đặc tánh là không khi nào thỏa mãn. Được một, muốn
mười, được mười, muốn trăm. Rồi được trăm, lại muốn ngàn. Ham muốn điều chi mà
không được là khổ (Cầu bất đắc khổ). Và sự ham muốn phải biến thành sầu khổ,
khi nguyên nhơn sanh ra sự ham muốn ấy mất đi. Sự ham muốn mà không bỏ đặng, thì
nó trở làm mối dây ràng buộc con người trong cảnh khổ. Ham muốn lợi danh, thì
bị lợi danh ràng buộc. Ham muốn thân gia, thì bị thân gia ràng buộc...
Sự ham muốn vốn thiên hình vạn trạng, song rút lại là
ở lòng tham sống (Tanha). Lòng tham sống thúc giục người đời quyến luyến hồng
trần, quây cuồn trong vòng vật chất, tự mình tạo khổ cho mình mà không hay
biết.
Người biết đạo sống được cuộc đời yên tịnh vô biên, vì tắt được
lòng ham muốn, thâu cái vọng tâm lại không cho nó phóng túng ra thiên hình vạn
trạng, thì còn gì mà khổ?
ĂN CHAY
Ăn chay có ích về cả hai phương diện vật chất và tinh
thần. Điều nầy sẽ nói sau. Trước nhứt, nên cần biết cách thức ăn chay mới không
hại cho sức khỏe.
Ăn chay kỳ thì chẳng nói chi, ăn cách nào cũng được.
Duy có ăn trường trai thì chẳng nên dùng ròng tương, chao, muối mặn, ép
xác để cầu khổ hạnh như có kẻ hiểu lầm.
Cần phải lựa thức ăn vừa miệng và bổ dưỡng. Có vừa miệng ăn mới ngon; có
biết ngon ăn mới không chán. Có bổ dưỡng, thân thể mới khỏe mạnh.
Trước khi tập ăn chay, cần phải biết món ăn nào nên dùng, món ăn nào không
nên dùng, rồi lượng sức mình mà tập trai kỳ; lần lần mới bắt qua trường trai.
Có người mới tu, vì đạo tâm phấn khởi, bỗng nhiên vội ăn trường. Ăn không nổi
cũng rán, đến đỗi ốm o gầy guộc, xanh xao vàng võ, thành ra một "quảng
cáo" không hay cho thuyết ăn chay.
Trong trời đất, không có chi là tuyệt đối, thì sự ăn chay tất nhiên cũng
không nên tuyệt đối. Cái nguyên tắc của sự ăn chay là ăn toàn những chất thuộc
thảo mộc, thì năm thứ: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, gọi "ngũ huân" vẫn
là thảo mộc, có cử chăng là những bực công cao quả dày, tham thiền nhập định, vì
nó có tánh cách khích thích và thương tổn tinh thần. Người mới học đạo cần phải
lao động trong trường công quả, thì chưa buộc phải kiêng cử, nhưng ai kiêng cử
được cũng nên.
Lại như những người trường trai rủi lâm bịnh hoạn mà lương y buộc phải dùng
sữa và trứng thì cũng nên tạm dùng trong lúc bịnh, đợi lành mạnh sẽ thôi, chẳng
nên quá câu chấp mà hại thân.
Có người câu chấp thái quá, cử kiêng từng chút, rốt cuộc phải từ thái cực
nầy sang qua thái cực kia, nghĩa là bỏ hẳn trường trai mà ăn mặn.
Vậy, việc ăn chay cũng như việc tu hành, không nên thái quá mà cũng không
nên bất cập.
Người già yếu trường trai, thỉnh thoảng dùng sữa và trứng đặng giúp cho mình
dễ ăn tưởng cũng là một phương tiện. Mấy nhà hiền triết Âu Tây, phần nhiều ăn
chay theo cách tương đối nầy.
NƯỚC NÀO CŨNG TRỌNG SỰ ĂN CHAY
Bên Á châu là nơi phát khởi văn minh đạo đức và là nơi phát tích các tôn
giáo, tất nhiên sự ăn chay thông truyền đã lâu đời.
Bên Âu châu, tuy là nguồn gốc văn minh vật chất, nhưng các bực hiền triết,
những hạng đại nhơn quân tử, cũng biết chú trọng phép dưỡng sanh ấy từ xưa.
Ô Franklin, nhàø phát minh cây thâu lôi, (paratonnerre), trọn đời dùng toàn
bánh mì với trái cây mà sống.
Ông Pythagore, là bực đại hiền triết am hiểu đạo lý cao siêu và được Âu Mỹ
tôn sùng học thuyết. Những người đến xin thọ giáo, ông buộc phải ăn chay.
Các dân tộc chuyên về nông nghiệp hồi thượng cổ là những dân tộc đã sáng
tạo nền văn minh thế giới, họ cũng dưỡng sanh bằng rau trái, thỉnh thoảng họ
mới ăn chút ít cá thịt. Mà họ vẫn được tráng kiện và ít hay bịnh hoạn.
Các tín đồ Thông thiên học (Théosophie), các tín đồ Thần linh học
(Spiritisme), các nhà tu kín (Trappistes) và những nhàø thông thái Âu Tây
chuyên chú về đạo đức tinh thần, cũng ăn rau trái mà được khương kiện và sống
lâu.
ĂN CHAY ĐỐI VỚI KHOA HỌC
Có người công kích sự ăn chay, cho là không thích hợp khoa học, mà nếu hỏi
không thích hợp thế nào, thì mười người như một đều đáp rằng ăn chay làm cho da
thịt mét xanh và thân thể ốm o vì thiếu máu.
Đó là một quan niệm sai lầm, một thành kiến ăn sâu vào trí não nhiều người
từ lâu lắm vậy. Đành rằng người mới tập trường trai, lúc đầu phải mất sức, là vì
cơ quan tiêu hóa của mình thuở giờ quen chịu với cá thịt, mà nay bỗng nhiên đổi
lại tiêu hóa đồ chay và rau đậu, tất nhiên sự tác dụng của nó phải đổi, làm cho
cơ thể vì vậy mà mất sự điều hòa. Lại thêm các tế bào (cellules) trong châu
thân cũng bị đổi thức ăn mà biến chuyển trong một lúc rồi lần lần quen đi,
chẳng những bình phục như xưa, mà được còn bổ dưỡng hơn là khác.
Nhiều nhà bác học Âu châu như Flourens, Cuver, Daubenton, Buffon đều công
nhận ăn chay là phương bổ dưỡng nhứt và chứng nhận rằng sự sống của các sanh
vật trên cõi nầy, nhờ chất bổ của khí nóng mặt Trời, mà khí nóng ấy kết tinh
lại ở các giống thực vật (Thảo mộc), rồi mới truyền sang cho các động vật (Thú
vật).
Cho nên ăn trái cây và rau đậu là kiếp dưỡng trực tiếp bằng chất bổ của khí
Thái dương, còn ăn cá thịt là kiếp dưỡng gián tiếp vậy.
Một kỹ nghệ gia nước Mỹ, muốn thí nghiệm coi trong hai phái ăn chay và ăn
mặn, phái nào làm lụng giỏi hơn, nên chia cả dân thợ mình làm ba đoàn: một ăn ròng
đồ chay, một ăn ròng cá thịt, còn một thì ăn nửa chay nửa mặn.
Không bao lâu thì thấy rõ đoàn ăn chay làm lụng trổi nhứt. Kế đó, ông đổi
đoàn ăn cá thịt trở lại ăn chay, đoàn ăn chay trở ăn mặn, thì đoàn trước lại
làm lụng trổi hơn hồi ăn mặn. Thí nghiệm đoàn ăn nửa chay nửa mặn, kết quả cũng
đồng một thể.
Năm 1898, gần đô thành Bá linh (Berlin), nước Đức (Allemagne), ông bộ
trưởng chiến tranh tổ chức một cuộc chạy đua, có 23 người dự thí, trong đó có 8
người ăn chay. Kết quả 8 người nầy toàn thắng cuộc đua.
Trong sách thuốc dạy cách chữa bịnh bằng các thứ rau đậu (légumothérapeutique)
của y học Thái tây, thấy nói: "Rau tứ thể (artichaut) trị sốt rét và
bịnh tiểu ra chất đường (diabète); củ nghệ tây (carotte) trộn dấm ăn xổi rất
mát; cải bắp (chou) trị những bịnh hư phổi và ngoài da; cà vó (tomate) trị bịnh
xót ruột, xà lách son (cresson) rửa tạng phủ; hột cải (moutarde) tẩy trường,
măng tây (asperge) trị bịnh trái tim hồi hộp".
Y học cũng chứng nhận cá thịt truyền độc cho thân thể hơn là bổ dưỡng, và
làm cho con người phải đau ruột là bịnh hằng xảy ra trong thời đại nầy. Ăn
nhiều thịt và nhiều trứng quá, thì những chất ấy thối ra biến thành chất độc
trong ruột mà sanh bịnh. Thịt cá giúp cho sức tiêu hóa rất mạnh, làm cho người
ta ăn uống quá độ, chuyển động khích thích cả phần huyết nhục trong châu thân
mà chiêu tập những tình dục xấu xa, lôi cuốn con người vào vòng tội lỗi.
May mà những người ăn mặn, tuy dùng cá thịt và trứng làm món ăn chánh, song
cũng ăn rau đậu phụ vào, thì cái lượng về thịt cá và trứng cũng bớt đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét