
LỜI
TỰA
Quyển CHÁNH TRỊ ÐẠO xuất bản hôm nay là một tài liệu do vị Thời Quân KHAI
PHÁP TRẦN DUY NGHĨA trước kia soạn ra để làm bài huấn luyện Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài trong Bộ Pháp Chánh.
Nhưng xét vì tài liệu nầy có một
tầm quan trọng rất sâu xa về nền chánh trị của Ðạo nên con cháu của
Người xin cho xuất bản để cống hiến
chẳng những cho toàn cả Chức Sắc và Tín hữu của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ để học hỏi mà cũng giúp
ích cho những học giả muốn tìm hiểu rõ Ðạo Cao Ðài hơn, có một tài liệu quý báu trên đường nghiên cứu.Người xin cho xuất bản để cống hiến
Âu cũng là một điều hay nên tôi rất tán đồng để cho những ai từ trước đến
giờ thường gán cho Ðạo Cao Ðài can án "Làm
Chánh trị" được rõ là Ðạo Cao Ðài có một nền Chánh trị Ðạo khác hẵn
với lối Chánh trị Ðời.
Theo Chơn Pháp của Ðại Ðạo thì Ðức
CHÍ TÔN mở Ðạo Kỳ Ba nầy là để lập một đời mới mà các Ðấng danh gọi là đời Minh
Ðức Tân Dân.
Như thế Ðạo Cao Ðài là một nền
tôn giáo không thể tách rời với xã hội loài người, nên có thể gọi nó là
một nền tôn giáo Nhập Thế chớ không phải Xuất Thế để mỗi người tìm phương giải khổ hoặc thoát khổ đặng sống một đời sống
riêng tiêu diêu tự toại.
Nền Chánh trị của Ðạo Cao Ðài chủ trương một tinh
thần cao độ quên mình để mưu cầu hạnh phúc cho người lúc nào cũng phải hy sinh
để phục vụ cho Nhơn sanh và tìm phương CỨU KHỔ cho Ðời.
Chánh trị Ðạo chủ trương vô tư, bất vụ lợi, quên
mình để mưu cầu lợi ích cho người bằng một tình thương bao la, rộng rãi, Huynh
đệ Ðại Ðồng, xây dựng một xã hội hòa ái cộng tồn; còn về Chánh trị Ðời thì ta
thường thấy nào là tranh danh, đoạt lợi, tranh quyền, tranh vị, giành giựt lẫn
nhau miếng đỉnh chung, mùi phú quý, tranh nhau từ miếng ăn, chỗ ở để mưu cầu
riêng biệt cho cá nhơn mình, cho đoàn thể mình, hoặc cho quốc gia chủ nghĩa
mình một đời sống sung sướng hơn kẻ khác. Như vậy bảo sao không sanh ra chiến
tranh tàn khốc, sát hại lẫn nhau còn hơn hùm beo thú dữ.
Nếu mỗi người đều hiểu đặng và thực thi chu đáo nền
Chánh trị của Ðạo trong tình thương yêu anh em ruột thịt, tương thân, tương ái,
tương trợ lẫn nhau, lấy của mình san sớt cho những ai bạc phước hơn thì cảnh
đời đau khổ hiện nay sẽ trở thành một Thiên Ðàng tại Thế đúng như lời Ðức CHÍ
TÔN nói khi mới mở Ðạo:
"Hảo Nam Bang! Hảo Nam Bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn".
Với nhận xét trên thì
có thể gọi nền Chánh Trị Ðạo là Siêu Chánh Trị.
TÒA THÁNH, ngày 28
tháng Giêng năm Giáp Dần.
( Dl, ngày 19 tháng 2
năm 1974 )
BẢO ÐẠO HIỆP THIÊN ÐÀI
Ký tên
HỒ TẤN KHOA
CHƯƠNG
I
A . NỀN TẢNG CHÁNH TRỊ CỦA ÐẠO
HIỆP THIÊN ÐÀI • Pháp Chánh
• Phước Thiện
CỬU TRÙNG ÐÀI • Hành Chánh
• Phổ Tế
B . NGUYÊN TẮC CAI TRỊ CỦA
ÐẠO
CHƯƠNG
II
CÁC
TRỊ QUYỀN TRONG NỀN CHÁNH TRỊ ÐẠO
QUYỀN
LẬP PHÁP ( QUYỀN VẠN LINH )
a . Hội Nhơn Sanh
b . Hội Thánh
c . Thượng Hội
CHƯƠNG
III
QUYỀN
HÀNH PHÁP ( HÀNH CHÁNH )
a .
Tổ
chức quyền Hành Chánh của Ðạo
b . Bảng Tổ chức
quyền Hành Chánh
c . Hàng phẩm đối
quyền
d . Quyền hành
Chức sắc và Chức việc
e . Sắc phục vủa
Chức sắc và Chức việc
f . Phương pháp lập
vị vào Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN
CHƯƠNG
IV
QUYỀN
TƯ PHÁP
CƠ
QUAN PHƯỚC THIỆN
CHƯƠNG
V
SO
SÁNH CHÁNH TRỊ ÐỜI VÀ CHÁNH TRỊ ÐẠO
Soạn giả: KHAI PHÁP TRẦN DUY NGHĨA, dưới sự hướng
dẫn của Ðức HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC.
CHƯƠNG THỨ NHỨT
A . NỀN TẢNG CHÁNH
TRỊ CỦA ÐẠO
Chánh Trị Ðạo có hai phần:
1 . Phần vô hình.
2 . Phần hữu hình.
Phần vô hình thuộc về quyền Thiêng Liêng của Bát
Quái Ðài.
Phần hữu hình lại chia đôi ra làm hai Ðài gọi là
nhị hữu hình Ðài: Hiệp Thiên Ðài, và Cửu Trùng Ðài.
HIỆP
THIÊN ÐÀI
Hiệp Thiên Ðài là cơ quan bảo thủ chơn truyền từ
xưa đến nay vẫn hằng hữu. Nhưng các Tôn Giáo buổi trước không có thiệt hiện
hình tướng của Hiệp Thiên Ðài là vì các vị Giáo Chủ của các nền Tôn Giáo ấy đắc
lịnh Ðức CHÍ TÔN chưởng chấp cả về mặt Thiêng Liêng, nên các Tôn Giáo từ xưa
đến nay không được trường cửu là do nơi lỗi của tay phàm chuyên quyền lạm dụng.
Vì vậy, các Tôn Giáo đành chịu thất kỳ truyền.
Vả lại, buổi trước trình độ tiến hóa của Nhơn sanh
còn trong vòng Thánh Ðức, lại nữa Càn Khôn chưa dĩ tận thức, CHÍ TÔN chọn người
lập Ðạo, Thánh ý là qui tụ con cái Ngài, đặng đợi kỳ khai Ðại Ðạo.
Ngày nay CHÍ TÔN đến mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ngài
không giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa, chỉ dùng huyền diệu cơ bút đặng dạy
Ðạo. Vì vậy nên Hiệp Thiên Ðài mới hiện tướng đặng làm trung gian giữa các Ðấng
Thiêng Liêng và chúng sanh, tức là hồn của Ðạo vậy. Nếu hồn của Ðạo do CHÍ TÔN
giữ thì phần Cửu Trùng Ðài cũng không phương chuyên cải Chơn Truyền, và cơ Ðạo
mới trường tồn đến thất ức niên. Nên chi chúng sanh tuyệt mà Hiệp Thiên Ðài
chẳng bao giờ tuyệt.
Hiệp Thiên Ðài là cơ quan bán hữu hình vì nó thuộc
về pháp giới.
Hiện tướng của Hiệp Thiên Ðài là:
1 . Pháp Chánh
2 . Phước Thiện
PHÁP
CHÁNH: Pháp Chánh là cơ quan bảo thủ Chơn truyền, giữ gìn luật pháp, dìu dẫn và
lập vị cho con cái CHÍ TÔN, trong khuôn viên luật pháp của Ðạo đã thành lập,
giữ cân công bình thể Thiên hành hóa, có trách vụ nặng nề để bênh vực kẻ cô
thế, yếu hèn bị áp chế, để sửa răn những kẻ phạm pháp luật, hầu tránh khỏi
Thiên Ðiều trừng trị, nếu bị thế trị thì mới mong giảm tội Thiêng Liêng, bằng
không bị thế trị thì Thiên Ðiều không mong gì cầu rỗi.
Vậy Pháp Chánh rất cần thiết để giữ gìn phẩm trật
và địa vị của mỗi con cái CHÍ TÔN, và quyền hành phân minh cho nền Chánh Trị
Ðạo, y theo khuôn khổ Chơn truyền.
PHƯỚC
THIỆN: Phước Thiện là cơ quan tận độ, cốt để mở đường Thánh Ðức cho toàn sanh
chúng có đủ phương thế nhập vào Thánh Thể, người ngoại giáo có thể nhờ nơi cửa
Phước Thiện mà hiệp cùng Hội Thánh. Phước Thiện là phương bảo tồn sanh chúng,
tế khổn phò nguy, vì trong đời người không có sự khổ não nào bằng sanh, lão,
bịnh, tử. Muốn thi hành cơ tận độ, những con cái của Ðức CHÍ TÔN sẵn có tài
tình học thức đã được lập công nơi cơ quan khác, còn sót lại những kẻ dốt, kém,
thật thà thì do nơi đâu mà lập công đoạt vị? Chỉ có cơ quan Phước Thiện mới có
đủ phương thâu nhập toàn thể con cái CHÍ TÔN qui về cửa Ðạo, nên gọi là cơ "Bảo Tồn".
Muốn thật hành chánh nghĩa Phước Thiện, con cái CHÍ
TÔN đói phải nuôi, rách cho mặc, tật nguyền phải bão dưỡng, cô thế phải chở
che, châu cấp người già cả, săn sóc kẻ bịnh hoạn...v.v... Nói tóm tắt là phải
gánh mọi sự khổ trên đời nầy.
Vả lại, Ðời là một trường tranh đấu vì miếng ăn,
chỗ ở.
Muốn sống phải: no, ấm, mạnh. Phước Thiện cứu kẻ
khổ, giúp kẻ nguy, dìu dắt cho có phương sanh sống, tuy không giàu mà tự toại,
không sang mà thung dung, mới có thể tránh được sự tranh đấu vì lẽ sống, tức là
nâng đỡ bảo sanh cho hạng tam dân (Nông, Công, Thương) hưởng đủ quyền lợi mà
mỗi người được quyền sống hưởng theo luật tự nhiên của Tạo Hóa.
Phước Thiện là phương pháp làm cho bình đẳng giữa
hai hạng người: vô sản và tư sản, hay nói cho đúng là dung hòa quyền lợi chung
hưởng chánh đáng, bất phân giai cấp, sang, hèn, tức là hườn thuốc tự do, bình
đẳng, bác ái.
Chơn truyền của Phước Thiện lại còn phải thay thế
cho CHÍ TÔN và PHẬT MẪU thật hành cơ cứu khổ bằng phương pháp là: làm cha những
kẻ không cha, làm mẹ những kẻ không mẹ, làm anh những kẻ không anh, làm bạn
những kẻ thiếu bạn, làm chồng làm vợ những kẻ không chồng, không vợ, trong sự
thương yêu cao quý và trong sự giúp đỡ chơn thành. Như thế mới có thể thực hành
cơ quan cứu khổ để nơi mặt thế.
Nếu cơ quan Phước Thiện bảo đảm được con cái CHÍ
TÔN dường ấy, thì ân đức của Ðại Ðạo có thể sánh cùng Trời Ðất, làm cho đời khổ
trở nên đời hạnh phúc, đời loạn trở nên đời an cư lạc nghiệp, thì sự hòa bình
của Ðại Ðồng Thế Giới mới mong thành tựu đặng.
CỬU
TRÙNG ÐÀI.
Cửu Trùng Ðài là cơ quan giáo hóa về tinh thần đạo
đức, đem ảnh hưởng hạnh phúc cho Nhơn sanh, vạch rõ con đường chơn lý: gom yêu,
hòa, ái, trong tâm lý của loài người, tập trung làm một khối tinh thần, nhìn
nhau kết một tòa lương tâm của toàn thể nhơn loại.
Cửu Trùng Ðài chia ra làm hai cơ quan:
1 . Hành Chánh
2 . Phổ Tế
HÀNH
CHÁNH: Hành Chánh là cơ quan trị thế sửa đời cho thuần phong mỹ tục, cầm quyền
Chánh trị toàn Ðạo, thi hành theo khuôn viên Luật Pháp của CHÍ TÔN đã thành lập
từ thử.
Về Pháp thì có: Pháp Chánh Truyền, Thánh Ngôn.
Về Luật thì có: Tân Luật và Ðạo Luật Hội Thánh.
PHỔ
TẾ: Phổ Tế là cơ quan truyền bá Chơn Giáo của Ðức CHÍ TÔN, làm thế nào cho
toàn thể nhơn sanh biết nhìn nhận CHÍ TÔN là Cha Thiêng Liêng của toàn nhân
loại, chính mình Ngài đến hoằng khai Ðại Ðạo, cứu vớt con cái của Ngài, hầu độ
rỗi 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị. (Ðạo Giáo nói rằng: có 24 chuyến thuyền
Bát Nhã chở 100 ức nguyên nhân xuống phàm. Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, độ được 2 ức; Nhị Kỳ
Phổ Ðộ, độ được 6 ức nữa là 8; còn lại 92 ức).
Chẳng những vậy thôi, CHÍ TÔN còn ân xá cho cả Bát
Hồn lầm lạc hoặc tội tình, đặng siêu thoát. Ðã là tận độ mà CHÍ TÔN không có
hình thể nên dùng huyền diệu cơ bút lập thành Thánh Thể của Ngài mà thay thế
cho Ngài đặng phô bày hình tướng cho nhơn sanh noi theo lập công bồi đức, mà
đoạt vị. Nhưng tiếc thay! Hội Thánh đã lắm công đào luyện nên hình, mà con cái
của Ðức CHÍ TÔN còn lầm lẫn trong phàm trần, bôn xu theo thế tục, chưa thấu đáo
đặng cơ quan tận độ. Vì vậy cần phải có cơ quan Phổ Tế, mang bầu xách gậy, đến
gieo rắc hột Thánh Cốc trong tinh thần con cái CHÍ TÔN, dầu gốc bể chơn trời
nào, như vậy đặng tỏ rằng cân công bình của CHÍ TÔN không bỏ xót một ai cả, ấy
mới trọn câu tận độ.
Cơ quan Phổ Tế độ rỗi nhơn sanh vào cửa Ðạo, giao
cho Cửu Trùng Ðài giáo hóa, có Hiệp Thiên Ðài gìn giữ đường tu để tạo phẩm vị.
Nói rõ hơn nữa, Phổ Tế là cơ quan truyền giáo của
Ðạo vậy.
B . NGUYÊN TẮC CAI TRỊ CỦA
ÐẠO
Ðã nói trên rằng nền Chánh Trị của Ðạo do hai Ðài
Chưởng Quản: Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài, một bên phận sự luật pháp, một
bên phận sự hành pháp. Hai Ðài liên quan với nhau mật thiết như xác và hồn, xác
không hồn thì không làm gì được, mà hồn không xác không chỗ dựa nương. Cho nên
trong Pháp Chánh Truyền có nói: "Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo
không quyền", thì đây, Hiệp Thiên Ðài là hồn, tức là Ðạo, còn Cửu Trùng
Ðài là xác, tức là Ðời, nếu Ðạo không Ðời tức là không có hình thể, không
phương phổ hóa chơn truyền, còn Ðời không Ðạo, nghĩa là nếu không có khuôn
viên, được tự do phóng túng, thì còn đâu quyền hành phân minh, đẳng cấp trật tự
nữa. Cho nên Ðạo tạo quyền cho Ðời bằng sự công chánh, Ðời lập nên hình tướng
cho Ðạo nhờ luật thương yêu.
Còn phương pháp cai trị, chiếu theo câu "Ý dân là ý Trời", biết rằng
quyền Vạn Linh đối với quyền Chí Linh, nên lúc nào cũng lấy nhơn sanh làm
trọng.
CHƯƠNG
THỨ HAI
CÁC
TRỊ QUYỀN TRONG NỀN CHÁNH TRỊ ÐẠO.
QUYỀN
LẬP PHÁP: QUYỀN VẠN LINH.
Nền Chánh Trị Ðạo tuy vẫn chủ trương bởi hai Ðài
hữu hình là Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài, song các trị quyền cũng chia làm
ba như chánh trị của mặt Ðời: Quyền Lập Pháp, Quyền Hành Pháp và Quyền Tư Pháp.
Nói
về Quyền Lập Pháp tức là Quyền Vạn Linh:
Một quốc gia biểu lộ sự sanh tồn bằng các quyền
năng (fonctions), quyền năng ấy lại phải có cơ quan (organe) để thi hành. Trong
cửa Ðạo, muốn biểu lộ sự hoạt động không ngừng của bộ máy Chánh trị cũng có đủ
các quyền năng và cơ quan để thi hành quyền năng đó. Quyền năng và cơ quan hiệp
lại gọi là trị quyền. Như quyền Lập Pháp tức là Quyền Vạn Linh là một trị
quyền. Quyền năng của nó phải biểu lộ ý chí và nguyện vọng của Nhơn sanh, còn
cơ quan thì có ba Hội.
Quyền Lập Pháp của Ðời lấy Nghị hội làm cơ quan,
gọi là Viện, thường chia ra hai Viện (Lưỡng Viện chế) là: Thứ Dân Nghị Viện hay
là Hạ Nghị Viện và Nguyên Lão Nghị Viện hay Thượng Nghị Viện, hay là thống nhất
lại thành một viện (Nhứt Viện chế) Quốc Dân Ðại Hội (kêu tắt là Quốc Hội).
Trong nền Ðạo, cơ quan Lập Pháp theo một chế độ
khác lạ, là chia ra làm ba Nghị Hội, ta có thể tạm gọi là chế độ ba viện (Tam
Viện chế).
Ba Hội ấy là:
1 . Hội Nhơn Sanh (Conseil
populaire) giống như Thứ Dân Nghị Viện, nghĩa là trực tiếp với Nhơn sanh, gồm
có các Ðại Biểu trực tiếp do Nhơn sanh bầu cử đặng thay mặt cho mình, đem lời
thỉnh nguyện của mình ra trình bày giữa hội (tánh cách dục tấn).
2 . Hội Thánh (Conseil
sacerdotal) giống Nguyên Lão Nghị Viện với tánh cách bảo thủ đặng dung hòa, kềm
chế bớt những ý nguyện quá bồng bột của Nhơn sanh, do Hội Nhơn Sanh dâng lên.
Hội Thánh có quyền tán thành hay phản đối lời thỉnh cầu của Nhơn sanh chiếu
theo Luật Pháp của Ðạo.
3 . Thượng Hội (Haut Conseil)
tức là Hội Tối Cao, có quyền xem xét đề nghị của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh rồi
có quyền chấp thuận hay là không.
Ba Hội nầy hiệp lại làm Cơ quan của "Quyền Vạn Linh".
Tại sao có Quyền Vạn Linh?
Từ xưa đến nay, xem qua Chánh trị của Ðời, Quyền
Lập Pháp thường do một người hay một thiểu số người chủ trương, thành ra đa số
thường bị áp bức phải tuân theo ý chí của nhóm thiểu số kia. Mà pháp luật đã
đặc ra do một thiểu số người, chỉ thích hợp với quyền lợi của một nhóm người
nầy mà không thích hợp với quyền lợi của nhóm người khác, thích hợp với tập
quán của địa phương nầy mà không thích hợp với tập quán của địa phương khác.
Vậy thì ta chỉ thấy "Người cai trị người" chớ chưa hề thấy "Luật
cai trị người". Vì cớ cho nên Ðời thường loạn.
Con người có ý chí trước, rồi hành động sau, thì
hành động đó mới thích hợp được, bằng không thì chỉ là những hành động lầm lẫn,
thiếu suy gẫm, thiếu tính toán.
Pháp luật cũng như ý chí của con người, có pháp
luật làm khuôn viên, thì toàn Nhơn sanh cứ một mực khép mình vào khuôn viên ấy,
mới có thể tránh những hành vi trái phép được. Ý chí của con người thường biến
đổi. Trình độ của Nhơn sanh luôn luôn tiến hóa về mặt trí thức tinh thần, cần
phải có luật pháp chế biến cho thích hợp với trình độ tiến hóa với nhơn ý, nhơn
nguyện thì Nhơn sanh mới vui lòng tuân hành.
Ðức CHÍ TÔN là Ðấng Tối Cao, sản sanh ra muôn loài,
song Ngài đã nói rằng: "Thầy là các con, các con là Thầy" ý nghĩa nói
rằng: Quyền Vạn Linh bằng với quyền của Chí Linh. Ý muốn của Vạn Linh
(Créatures) tức là ý muốn của Chí Linh (Créateur): Ý muốn của "con
cái" tức là ý muốn của "Cha Lành" đó vậy. Vì thế mới có lập
Quyền Vạn Linh để Vạn Linh tự lập luật lấy, đặng tự kiềm chế mình trong con
đường tu, hầu qui hồi cựu vị, hội hiệp cùng Thầy.
Sự
lợi ích của chế độ nhiều Nghị Hội trong Quyền Lập Pháp.
Như đã nói trên, tánh cách của Hội Nhơn Sanh là dục
tấn, nghĩa là bồng bột, đòi hỏi rất nhiều, nếu trong Quyền Lập Pháp chỉ có một
Hội Nhơn Sanh làm cơ quan, thì ý nguyện của Nhơn sanh nhiều khi đi quá cao hơn
sự thực hành của họ, tất nhiên Nhơn sanh không thế nào theo kịp. Cần phải có
Hội Thánh để dung hòa ý chí quá cấp tiến của Nhơn sanh và Thượng Hội để quyết
định chấp thuận đề nghị nào. Thành ra cả ba Hội đều tự thấy mình cần phải dung
hòa cùng nhau, mỗi Hội tự nhượng bộ một ít, trong khuôn Luật pháp.
Về phương diện chuyên môn, một đề nghị đi qua sự
thảo luận của nhiều Hội, tức nhiên chính chắn hơn là chỉ đi qua có một Hội.
Cách
Tổ Chức Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Nói rằng ba hội hiệp lại thành Quyền Vạn Linh, song
sự tổ chức của mỗi hội mỗi khác.
HỘI
NHƠN SANH.
Các
hạng Ðại Biểu: Cũng như cái tên của nó đã chỉ, Hội nầy gồm các Ðại Biểu của Nhơn sanh
trực tiếp bầu cử.
Làm đầu Nhơn sanh là Lễ Sanh, nên Ðại Biểu của Nhơn
sanh kể từ phẩm Lễ Sanh trở xuống gồm có:
1 . Chư vị Lễ Sanh, Ðầu Tộc Ðạo.
2 . Nghị viên, tức là Ðại Biểu gián tiếp của Nhơn sanh. Ba vị mỗi Tộc
Ðạo:
Một Chánh Trị Sự (Tất cả Chánh Trị Sự trong Tộc Ðạo
xúm nhau công cử một người).
Một Phó Trị Sự (Tất cả Phó Trị Sự trong Tộc Ðạo xúm
nhau công cử một người).
Một Thông Sự (Tất cả Thông Sự trong Tộc Ðạo xúm
nhau công cử một người).
3 . Phái viên, tức là Ðại Biểu
trực tiếp của Nhơn sanh. Cứ 500 Tín đồ trường trai công cử ra một Ðại Biểu gọi
là Phái viên.
Số Nghị viên và Phái viên nam phái thế nào, thì bên
nữ phái cũng đồng số với nhau, theo qui tắc.
Hạn
lệ nhiệm kỳ. Mỗi Nghị viên và Phái viên có
nhiệm kỳ 3 năm. Ðến năm thứ tư thì tổ chức cuộc tuyển cử lại. Thảng trong thời
gian ba năm đó, có người chết hoặc vì lẽ gì không thể đi dự hội, phải cử người
khác thay thế trong hạn lệ của nhiệm kỳ.
ÐIỀU
KIỆN TUYỂN CHỌN ÐẠI BIỂU HỘI NHƠN SANH.
Như trên vừa nói, thì không có điều kiện chi quá
đáng, đại khái có mấy điều như sau:
1 . Phải là Tín đồ Cao Ðài
Giáo thuộc Tòa Thánh Tây Ninh.
2 . Phải trường trai.
3 . Không phân biệt nam,
nữ.
4 . Phải trên 18 tuổi, là
hạng tuổi đem tên vào bộ chánh của Ðạo.
Xem các điều kiện trên đây thì sự tuyển chọn Ðại
biểu tùy theo địa phương và tỉ lệ nhơn số Tín đồ trong mỗi địa phương (élection
par loccalité et élection proportionnelle).
Khi đã đắc cử rồi, mỗi Nghị viên và Phái viên Hội
Nhơn Sanh chụp 3 tấm hình giao cho Khâm Châu Ðạo gởi về Tòa Nội Chánh (Lại
Viện): (cỡ hình dán căn cước 4x6).
• Một gắn vào Giấy
Chứng Nhận Nghị viên, hoặc Phái viên.
• Một gắn vào Bộ Nghị viên và Phái viên Hội Nhơn Sanh.
• Một lộng khuôn để tại nhà nhóm.
Cả Nghị viên và Phái viên nơi Châu Ðạo hội nhóm lại
nhằm ngày Rằm tháng Chạp, hiệp cùng chư Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu trong
địa phương mình thảo luận chương trình của Hội Nhơn Sanh và lấy quyết nghị
chung. Vi Bằng cuộc hội nhóm nầy làm 3 bổn, giao cho các Ðại Biểu 1 bổn, lưu
chiếu 1 bổn, còn 1 bổn gởi về Lại Viện trước ngày khai mạc Hội Nghị.
Các Nghị viên và Phái viên lãnh một Tờ Chứng Nhận
tạm của Chức Sắc địa phương sở tại, khi về đến Tòa Thánh Tây Ninh, vào trình
diện tại Văn Phòng Lại Viện (Tòa Nội Chánh) đặng đổi Giấy Chứng Thiệt Thọ và
ghi tên vào sổ để tiện việc sắp đặt trật tự. Hạn lệ phải đến Tòa Thánh ít nhứt
hai ngày trước ngày mở Hội, nghĩa là phải đến Tòa Thánh vào ngày 13 tháng Giêng
và lưu lại đến ngày Hội bế mạc. Nếu vô cớ đến trễ thì không được dự hội. Còn
trong thời gian hội họp mà vô cớ không đến nhóm hội thì:
• Nghị viên bị mất quyền nhóm hội ba năm.
• Phái viên mất quyền ứng cử ba năm.
Các năm sau, chư Nghị viên và Phái viên nhớ đến lệ
thì về nhóm chớ không có thơ mời, nhớ đem Giấy Chứng Nhận theo mới đặng nhập
Hội.
Ngày nào từ giã Tòa Thánh, phải trình ghi Giấy
Thông Hành tại Tòa Nội Chánh (Lại Viện).
Mỗi năm, vào ngày 1 tháng Chạp thì Nghị Trưởng gởi
chương trình những vấn đề sẽ đem bàn cãi cho các Châu Ðạo. Nơi Châu Ðạo nhóm
ngày Rằm tháng nầy (Chạp) đem ra bàn cãi, xem xét trước cho kỹ lưỡng.
Nghị viên nào muốn xin canh cải, thêm bớt, hủy bỏ
điều chi trong Luật Ðạo, hay điều chi khác nữa thì phải gởi Tờ xin phép Nghị
Trưởng hai mươi (20) ngày trước Ðại Hội và phải nói rõ mình muốn xin canh cải,
thêm bớt, hoặc hủy bỏ điều chi.
TƯ
CÁCH CỦA CHƯ HỘI VIÊN.
a) Y
phục: Nếu là Chức sắc hay Chức việc thì mặc Ðạo phục, nếu là Tín đồ vào hạng
Phái viên thì mặc thường phục (áo dài trắng khăn đen).
b)
Khi đứng ngồi: Phải thủ lễ, ngồi ngay ngắn không nên dựa nghiêng, dựa ngữa, không được
ăn trầu, hút thuốc.
Ðương nhóm mà vị nào có việc cần ra ngoài, phải xin
phép Nghị Trưởng, xong rồi trở vô liền.
c)
Khi nói năng: Khi Nghị viên đương nói mà có vẻ nổi giận, Nghị Trưởng rung chuông ngăn
lại, đặng khuyên giải. Nếu không vâng lời, Nghị Trưởng hỏi ý kiến các Nghị
viên, nếu phần đông đồng ý kiến, thì Nghị Trưởng mời vị đó ra khỏi Hội.
Khi một Nghị viên đương nói, các người khác phải im
lặng nghe, chẳng nên xen vào làm đứt đoạn.
Khi vị nào mặt có sắc giận dữ, xin phép nói đặng tỏ
ý giận của mình, Nghị Trưởng có quyền không cho phép nói.
Tóm lại, tất cả Nghị viên phải tuân y "Luật lệ chung của các Hội".
BIỂU
QUYẾT CÁC VẤN ÐỀ.
Có hai cách biểu quyết:
1 . Gặp việc quan trọng cần yếu thì phải bỏ thăm kín.
2 . Gặp việc thường thì quyết nghị bằng cách giơ tay lên.
Với cách thứ nhứt, hay cách thứ nhì, Quyết nghị các
Hội vẫn lấy thái bán số thăm làm quy tắc, nghĩa là bên nào được một lá thăm
nhiều hơn bên kia là thắng số và vấn đề ấy được công nhân hay bác bỏ.
Thảng như số thăm thuận và thăm nghịch đồng nhau,
Nghị Trưởng đồng ý kiến với bên nào, thì bên đó thắng số.
Vấn đề thường hay trọng yếu nào có một phần ba
(1/3) số Nghị viên hiện diện xin bỏ thăm kín, thì Nghị Trưởng cho lịnh y theo.
TỔ
CHỨC HỘI NHƠN SANH.
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư, điều thứ tư của
Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (Ðệ Ngũ Niên)
thì Thượng Chánh Phối Sư làm Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh.
Vậy, Hội Nhơn Sanh sắp đặt như sau:
1 . Thượng Chánh Phối Sư : Nghị Trưởng.
2 . Nữ Chánh Phối Sư : Phó Nghị Trưởng.
3 . Lễ Sanh, Hội
Viên.
Chánh, Phó Trị Sự, Thông
Sự
và Phái viên: Nghị Viên hay Hội
Viên.
4 . Một Nghị Viên Nam
Một Nghị Viên Nữ: Từ Hàn.
5 . Hai Nghị Viên Nam
Hai Nghị Viên Nữ: Phó Từ Hàn.
Ngoài ra chư vị Ðại Biểu của Nhơn sanh trên đây còn
có:
1 .
CỬU TRÙNG ÐÀI.
a)
Thái và Ngọc Chánh Phối Sư.
b)
Chư vị Chức Sắc Ðại Thiên Phong cầm quyền Cửu Viện Nội Chánh đến dự Hội để trả lời
những điều nào Nghị viên không rõ xin bày tỏ, hoặc minh triết những vấn đề Nghị
viên chất vấn.
Nếu có một vấn đề thuộc Viện nào bị chỉ trích thì
Chánh Phối Sư hay Thượng Thống Viện đó phải giải thích cho rõ ràng và bày tỏ đủ
lý lẽ để khỏi sanh điều khó khăn cho việc bàn cãi và giúp chư Nghị Viên giải
quyết dễ dàng nhanh chóng.
c)
Dự thính: Cả Chức sắc, Chức việc và Ðạo hữu không đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh,
được thong thả đến Tòa Thánh nhập Hội, nhưng chỉ được dự thính mà thôi. Nơi nhà
nhóm có sắp đặt chỗ ngồi riêng cho những vị nầy.
2 . HIỆP THIÊN ÐÀI.
Một Chức sắc Hiệp Thiên Ðài (thường thì có vị
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh và các Ty Pháp Chánh địa phương) đến chứng kiến và
bảo thủ luật lệ không cho Hội phạm đến.
PHẬN
SỰ CỦA HỘI NHƠN SANH.
Hội Nhơn Sanh nhóm để bàn cãi những việc nầy:
1 . Giáo hóa Nhơn sanh.
2 . Liệu phương hay cho Ðạo với Ðời khỏi phản khắc nhau, và nâng cao tinh thần
trí thức của Nhơn sanh.
3 . Phổ Ðộ Nhơn sanh vào cửa Ðạo, dìu dắt Tín đồ
cho khỏi trái bước và trọn dâng theo các luật lệ của Ðạo.
4 . Xin sửa cải, thêm bớt hay hủy bỏ những luật lệ
của Nhơn sanh.
5 . Lo cho nền Ðạo được trong ấm ngoài êm và đủ
phương tiện đặng phổ thông nền Chơn Giáo.
6 . Xem xét và công nhận phương diện Chánh trị của
Ðạo, quan sát sổ thâu xuất, tài sản, nghị số phỏng định năm tới.
NƠI
NHÓM HỌP.
Ðại Hội Nhơn Sanh nhóm nơi nhà nhóm riêng tại Tòa
Thánh.
THỜI
KỲ LÀM VIỆC CỦA ÐẠI HỘI NHƠN SANH.
Ðại Hội Hội Nhơn Sanh mỗi năm nhóm lệ một lần, khai
mạc vào ngày Rằm tháng Giêng.
Khi có việc chi thiệt trọng hệ thì được phép nhóm
ngoại lệ Ðại Hội tại Tòa Thánh mỗi năm một kỳ mà thôi. Như vậy, thì thiệp mời
phải gởi đến trước 15 ngày, hoặc điện tín thì phải gởi trước 3 ngày.
Trước bữa Ðại Hội mà nam nữ sẽ nhóm chung nhau,
Thượng Chánh Phối Sư hoặc Nữ Chánh Phối Sư có điều chi phải hỏi ý kiến riêng
Hội viên phái mình thì được quyền mời nhóm (Nam theo Nam, Nữ theo Nữ).
Kỳ nhóm nầy Từ Hàn phái nào theo phái nấy, lập Vi
Bằng 2 bổn, Nghị Trưởng và Từ Hàn ký tên (1 bổn để lưu chiếu, còn 1 bổn thì
Chánh Phối Sư nam gởi cho Chánh Phối Sư nữ, còn Chánh Phối Sư nữ thì gởi cho
Chánh Phối Sư nam), hầu hiểu rõ những điều của mỗi phái bàn tính.
LỄ
KHAI MẠC ÐẠI HỘI.
Trước giờ mở Hội, thì Nghị Trưởng phái vài Hội viên
đi rước Giáo Tông và Hộ Pháp đến dự lễ.
Khi nhị vị Ðại Thiên Phong nầy đến thì Lễ Viện cho
nhạc trổi tiếp mừng. Chánh, Phó Nghị Trưởng, Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài và Nội
Chánh nam, nữ ra cửa đón rước. Toàn thể Hội Viên đứng dậy, chờ cho nhị vị an
tọa rồi mới ngồi xuống sau.
Giáo Tông ngồi ghế Chủ Tọa, bên tay mặt thì Hộ
Pháp, bên tay trái Nghị Trưởng.
Giáo Tông đọc bài Diễn văn khai mạc, Hộ Pháp chú
giải những khoản Luật Pháp mà Hội không hiểu rõ. Kế đó, Nghị Trưởng đọc bài
Diễn văn trình bày chương trình nghị sự.
Xong rồi nhị vị Ðại Thiên Phong trên đây ra về. Lễ
đưa sắp đặt cũng như lễ rước, nghĩa là Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng đưa ra tới
cửa, chư vị Hội Viên đứng dậy chào như lúc đến.
Lễ Khai mạc Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh giống như
nhau, chỉ khác có nơi nhóm họp mà thôi.
BAN
ỦY VIÊN.
Sau khi khai mạc Ðại Hội, Nghị Trưởng trình bày chương
trình nghị sự, xong rồi thì toàn Hội chọn cử ra các Ban Ủy Viên ngánh theo Phái
đặng tùy phương diện thảo luận các vấn đề cho cặn kẽ thấu đáo.
Có 4 Ban Ủy Viên:
1 . Phái Thái.
2 . Phái Thượng.
3 . Phái Ngọc.
4 . Phái Nữ.
Mỗi Ban Ủy Viên gồm có:
1 . Một Nghị Trưởng.
2 . Một Phúc Sự Viên.
3 . Số Nghị Viên còn lại chia đều cho các Ban.
Mỗi khi bàn định điều chi rồi thì Phúc Sự Viên tóm
tắt lại, lập Tờ Phúc đệ ra Ðại Hội nghị quyết.
Ban Ủy Viên khi nhóm thì mặc Ðạo phục thường dùng
hằng ngày.
VIỆC
TRẬT TỰ.
Một vị Lễ Sanh Phái Ngọc lãnh phần Cai quản cơ Tuần
phòng Bảo Thể Quân, mặc Thiên phục, buộc dây Sắc Lịnh tam sắc Ðạo của Hiệp
Thiên Ðài ban cho trong lúc hội nhóm. Khi Hội giải tán thì đem nạp lại cho Hiệp
Thiên Ðài.
SAU
KHI HỘI NHÓM.
Hai mươi ngày (20) sau khi hội nhóm bế mạc, Từ Hàn
phải lập Vi Bằng cho rồi, trong đó Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam, nữ
và một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ký tên vào.
Vi Bằng nầy phải lập ra năm bổn:
• Một bổn gởi cho
Thượng Hội.
• Hai bổn gởi cho
Hội Thánh.
• Một bổn gởi cho
Hiệp Thiên Ðài.
• Một bổn lưu
chiếu.
Khi Thượng Hội và Hội Thánh gởi trả lại ba bổn với
những lời phê công nhận hay bác bỏ khoản nào thì Thượng Chánh Phối Sư giữ một
bổn, một bổn gởi cho Nữ Chánh Phối Sư, một bổn gởi cho Ngọc Chánh Phối Sư đặng
cho hai vị đó thi hành.
HỘI
NGÁNH THƯỜNG XUYÊN HỘI NHƠN SANH.
Mục đích của Hội Ngánh thường xuyên tại Tòa Thánh
nầy là bàn tính các điều ngoại chương trình nghị sự của Ðại Hội và các việc
trọng hệ xảy ra thình lình, nhứt là việc Chánh Phối Sư, hoặc Chức Sắc nào mà
Hội Thánh ủy quyền cho giao thông với Chánh Phủ.
Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn Sanh gồm có:
• Thượng Chánh Phối Sư : Nghị
Trưởng.
• Nữ Chánh Phối Sư : Phó Nghị
Trưởng.
• Từ Hàn Nam của Ðại Hội & Từ Hàn Nữ của
Ðại Hội: Từ Hàn.
• Phó Từ Hàn Nam của Ðại Hội & Phó Từ Hàn
Nữ của Ðại Hội: Phó Từ Hàn.
Sau khi bế mạc Ðại Hội, mỗi Tỉnh chọn trong hàng
Nghị viên của mình một người Nam, một người Nữ để thường xuyên tại Tòa Thánh
(Nam Tông Ðạo hay các Tông Ðạo Ngoại Giáo cũng vậy). Nghị
viên.
Chức Sắc Nội Chánh, Chưởng Quản các Viện tùy theo
việc bàn tính. Ðại diện Cửu Trùng Ðài.
Một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài. Ðại
diện Hiệp Thiên Ðài.
NGÀY
GIỜ LÀM VIỆC.
Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn Sanh nhóm mỗi năm
ba kỳ, (bốn tháng một kỳ).
Kỳ thứ nhứt: Mùng 6 tháng 4
Kỳ thứ nhì: 13 tháng 8
Kỳ thứ ba: 13 tháng 11.
SAU
KHI HỘI NGÁNH THƯỜNG XUYÊN NHÓM
Mười ngày (10) sau ngày bế mạc Hội Ngánh, vi bằng
phải lập xong và làm y như Ðại Hội. Chánh, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn nam, nữ, với
một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ký tên vào Tờ Vi Bằng ấy.
BAN
ỦY VIÊN XEM XÉT TÀI CHÁNH.
Hội Ngánh thường xuyên chọn ba (3) vị Nghị Viên
nam, và ba (3) Nghị Viên nữ lập thành một Ban Kiểm Soát Tài Chánh.
Trước ngày khai mạc thường lệ của Hội Ngánh thường
xuyên, Ban Kiểm Soát nầy đến xem xét sổ sách của Hộ Viện, lập Tờ Phúc Trình đệ
ra giữa Hội thảo luận.
NGỤ
SỞ CỦA NGHỊ VIÊN THƯỜNG XUYÊN.
Hội Thánh cắt đất trong châu vi Tòa Thánh chia cho
các Tỉnh cất nhà cửa hoặc cơ sở vĩnh cữu đặng cho người Ðại Biểu của tỉnh mình
ở thường xuyên gần Tòa Thánh, đó là phần của các Tỉnh thuộc Việt Nam.
Còn riêng các nước lân bang, Hội Thánh cất nhà
khách đặng đón rước và làm nơi lưu trú cho chư Nghị Viên thuộc các nước đó. Về
quyền hạn Ðại Biểu, họ vẫn đồng quyền như các Nghị Viên sở tại vậy.
TRÁCH
VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA HỘI NHƠN SANH.
Quyền Vạn Linh có ba Hội làm cơ quan như trên đã
nói: Quyền Vạn Linh đối với Quyền Chí Linh, cũng như câu "Ý dân là ý Trời", cho nên Nhơn sanh có quyền hạn rất
rộng rãi trong nền Chơn Giáo của Ðức CHÍ TÔN. Có như vậy ta mới thấy được mặt
cân công bình Thiêng liêng tại thế.
I . Trách vụ Lập
Pháp.
Hiến Pháp của Ðạo tức là Pháp Chánh Truyền do CHÍ
TÔN truyền xuống, bằng huyền diệu cơ bút, là một bộ Hiến Pháp bất di, bất dịch,
bất khả xâm phạm (cang tánh Hiến Pháp).
Vậy thì quyền Lập Pháp nay, là lập các luật lệ
thường thức đặng thi hành Pháp Chánh Truyền, khép mình vào khuôn viên Ðạo, để
có thể đi trọn vẹn con đường phổ độ của Ðức CHÍ TÔN một cách sáng suốt, minh
mẫn và trong sạch.
Tất cả ý nguyện của Nhơn sanh đề nghị, qua sự xem
xét của Hội Thánh và Thượng Hội, được dâng lên xin quyền CHÍ TÔN phê chuẩn, tức
nhiên thành Luật Lệ, ban hành trong toàn Ðạo.
Một đề nghị nào do ý nguyện của Nhơn sanh đưa ra ba
Hội thay nhau thảo luận và chấp thuận, thì đã thành ra ý nguyện chung của ba
Hội, mà ba Hội là Cơ quan của quyền Vạn Linh, tức nhiên ý nguyện đó thành ra ý
nguyện của Vạn Linh rồi, cho nên Luật Lệ lập thành do ý nguyện của Vạn Linh là
tượng trưng ý chí chung của toàn vạn loại, để ấn định quyền hạn của toàn Ðạo và
tổ chức quyền chánh trị chung toàn Ðạo.
Nhơn sanh được tự do đề nghị và thảo luận thế nào
cho đúng hợp với trình độ tiến hóa của Nhơn loại và thích nghi với khắp các địa
phương.
Trách
vụ lập pháp của Nhơn Sanh có thể chia ra:
a.
Quyền sáng kiến: Lập pháp của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, CHÍ TÔN cho Nhơn sanh được tự lập để
khép mình vào cái khuôn khổ do mình tạo ra, vì cớ Nhơn sanh được đưa đề nghị
lập những Ðạo Luật mới, tùy theo sự tấn triển của nhơn trí. Các dự án Luật đó
phải gởi trước một bổn đến vị Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh đặng vị nầy đem vào
chương trình nghị sự giữa Ðại Hội Nhơn Sanh (Droit d'initiative).
b.
Quyền phủ quyết: Thảng có điều luật nào không còn thích hợp với phong hóa, có thể cản trở
bước đường đạo đức của toàn Ðạo, Nhơn sanh được quyền xin hủy bỏ (Droit de
véto).
c.
Quyền phúc quyết: Chia làm hai loại:
1.
Phúc quyết thăm dò: Hội Thánh có thể đưa ra một dự án luật cho Nhơn sanh
bàn cãi trước khi lập thành điều luật thiệt thọ.
2.
Phúc quyết thừa nhận: Cũng có nhiều điều luật do Hội Thánh ban hành trong
vòng một năm từ ngày Ðại Hội năm trước, tới kỳ nầy đem ra cho Nhơn sanh xem xét
coi điều luật đó trong khi thi hành đã làm lợi cho Nhơn sanh hay là làm hại.
Thảng đã làm lợi và còn thích hợp thì Nhơn sanh thừa nhận, để còn đủ hiệu lực.
Bằng không, xin hủy bỏ. Trường hợp nầy, quyền phúc quyết thành ra quyền phủ
quyết.
II . Trách vụ kiểm soát chánh
trị.
Trách vụ kiểm soát nền chánh trị của Hội Nhơn Sanh
có nhiều khoản:
1 . Quyền tuyển cử: Trong cửa Ðạo,
mỗi Chức sắc của Ðạo đều tuyển cử bắt đầu từ Tín đồ trở lên. Cân công bình của
CHÍ TÔN muốn cho con cái của Ngài tạo công nghiệp xứng đáng, tu tâm đức vững
chắc, đặng lập vị Thiêng liêng phải đi có trật tự từ hàng Tín đồ vào hàng Chức
việc Bàn Trị Sự trong Hương Ðạo, lần lần đủ công nghiệp y như Luật định, được
đem ra quyền Vạn Linh xem xét công nhận. Nếu không có Nhơn sanh công nhận thì
trừ phi do khoa mục, hay do quyền CHÍ TÔN ân tứ, chiếu theo công nghiệp phi
thường thì không còn con đường nào khác đặng bước lên Thiêng Liêng vị. Mà tại
thế nầy, đẳng cấp trong Cửu Phẩm Thần Tiên được nhìn nhận cân đối ngang nhau
với Thiêng Liêng vị ngày qui liễu về cùng Ðức CHÍ TÔN.
Vừa nói Nhơn sanh tuyển chọn Chức sắc của Ðạo trong
hàng Tín đồ. Bắt đầu cho chọn vào phẩm vị Chức việc Bàn Trị Sự rồi mỗi khi
thăng cấp, phải có sự công nhận của quyền Vạn Linh, hay nói trước hết của Hội
Nhơn Sanh.
Quyền nầy tánh cách như quyền khảo thí trong ngũ
quyền Hiến Pháp của Tôn Dật Tiên (Quốc Phụ của Trung Hoa).
CHỦ
NGHĨA DÂN QUYỀN CỦA TÔN DẬT TIÊN.
Nhân dân có năm chủ quyền:
1 . Quyền bầu cử.
2 . Quyền ứng cử.
3 . Quyền bãi miễn.
4 . Quyền sáng chế.
5 . Quyền phúc quyết.
Chánh phủ có năm trị quyền:
1 . Quyền Lập Pháp.
2 . Quyền Hành Pháp.
3 . Quyền Tư Pháp.
4 . Quyền khảo thí.
5 . Quyền giám sát.
2 .
Quyền bầu cử và ứng cử Nghị viên: Quyền của Nhơn sanh được rộng rãi vô cùng, song
không thể tất cả mọi người đều ra giữa nghị hội được, thành thử phải chọn người
Ðại Biểu theo tỷ lệ.
Những người Ðại Biểu nầy được bầu cử trực tiếp (như
Phái viên) hay gián tiếp (như Nghị viên).
Ðến quyền ứng cử, mọi người đều có quyền cũng như
bầu cử. Vả lại, cũng là nhiệm vụ tối trọng của cả Tín đồ, phải tham gia việc
chánh trong Ðạo đặng dự phần "cải cựu hoán tân" cho kịp theo trào lưu
tiến hóa nhân loại.
3 . Quyền ủy nhiệm quyền hành: Thường những
quyền nào trong nền Chánh Trị Ðạo đã khuyết mà không người thay thế, vì nó có
tánh cách quan hệ, cơ quan Chánh trị trao cho Hội Nhơn Sanh để Hội nầy giao lại
cho người nào và trọn ủy nhiệm cho người đó hành sự.
Ví dụ như: Quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo thuộc về
Ðầu Sư mà trong Ðạo khuyết phẩm Ðầu Sư nên Hội Nhơn Sanh năm Mậu Dần (1938) ủy
nhiệm quyền thống nhứt cho Ðức Hộ Pháp cầm cho tới ngày nào có Ðầu Sư chánh vị.
4.
Xem xét công việc đã thi hành và kết quả của nó: Mỗi năm, kỳ Ðại Hội Nhơn
Sanh, Hội Thánh trình bày công việc của mình sắp sửa làm, đang làm hoặc đã làm,
và trình bày kết quả của nó giữa Hội và sẽ được Hội Nhơn Sanh thừa nhận hay là
không.
III . Trách vụ kiểm soát tài
chánh.
Y như trong khoản phận sự của Hội Nhơn Sanh đã nói
sơ lược và chiếu theo Nội Luật Hội Ngánh thường xuyên Hội Nhơn Sanh, thì Hội
Nhơn Sanh còn có trách vụ quan sát tài sản, sổ thâu xuất và đề nghị số phỏng
định cho năm tới.
Trước ngày Ðại Hội Nhơn Sanh, các cơ quan trong nền
Chánh Trị Ðạo dự đoán sổ thâu xuất tài chánh trong năm tới của Cơ quan mình,
rồi dâng lên Cửu Viện, nơi đây tổng số các khoản thâu xuất đem ra Hội Nhơn Sanh
công nhận.
Quan hệ nhứt về vấn đề tài chánh nầy thuộc Phái
Thái (có ba Viện: Hộ, Lương, Công) cho nên trong lúc Ðại Hội Ban Ủy Viên Phái
Thái phải chú ý đến điều nầy, đến tại ba Viện trên, nhứt là Hộ Viện xem xét sổ
sách, rồi Phúc sự viên lập tờ trình đem ra giữa Ðại Hội, đặng toàn Hội Nhơn
Sanh thảo luận lại, hoặc công nhận, hoặc bác bỏ các khoản dự toán chi phí vô
ích.
HỘI
THÁNH.
Như cái tên của Hội, Nghị viên của Hội nầy gồm các
Chức sắc thuộc hàng Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN và phải đương quyền hành chánh.
Hội Thánh dung hòa các ý nguyện quá bồng bột của
Nhơn sanh, tánh cách giống như Viện Cộng Hòa (Conseil de la République) theo
chánh trị Ðời, trong chế độ Ðại Nghị Pháp.
PHẬN
SỰ CỦA HỘI THÁNH.
1 . Thảo luận lại các vấn đề của Hội Nhơn Sanh dâng lên hoặc của Thượng Hội đưa
xuống, đặng lập phương ban hành.
2 . Lo về sự Phổ Ðộ chúng sanh, việc châu cấp cho
Chức sắc hành Ðạo tha phương, xem xét lại tài chánh của Ðạo, kiểm thảo lịch
trình chánh trị của Ðạo.
3 . Bàn cãi, và công nhận số phỏng định thâu xuất
tài chánh năm tới.
4 . Xin hủy bỏ, thêm bớt, sửa cải những luật lệ nào
không phù hạp với sự tấn hóa về dân trí của Nhơn sanh.
5 . Quan sát các việc có ảnh hưởng về nền Ðạo.
ÐIỀU
KIỆN CHỌN NGHỊ VIÊN.
a . Từ hàng Giáo Hữu đổ lên đến Chánh Phối Sư được kể là Nghị viên của Hội
Thánh vì đã nhập vào Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN.
b . Phải dưới sáu mươi (60) tuổi.
c . Phải đương quyền hành chánh.
HỘI
THÁNH GỒM NHỮNG AI?
A.
CỬU TRÙNG ÐÀI
1.
Chức Sắc dự Hội Thánh
• Thái Chánh Phối
Sư: Nghị
Trưởng
• Nữ Chánh Phối Sư: Phó Nghị Trưởng
• Phối Sư, Giáo Sư,
Giáo Hữu, nam nữ: Nghị
Viên
• Một Nghị Viên nam:
Một Nghị Viên nữ: Từ Hàn
• Hai Nghị Viên nam:
Hai Nghị Viên nữ: Phó Từ Hàn
2 . Chức Sắc Nội Chánh
• Thượng và Ngọc
Chánh Phối Sư và Chư Ðại Thiên Phong cầm quyền Cửu Viện Nội Chánh đến dự đặng
minh triết các điều hạch hỏi của Nghị viên. Chức Sắc Nội Chánh có cả Chức Sắc Nữ
Phái cũng đồng quyền như Nam Phái, đều là Nghị viên cả.
3.
Dự thính
• Chức Sắc Hàm
Phong Nam Nữ đặng quyền dự thính, chỗ ngồi sắp đặt riêng.
Số Chức Sắc dự Hội Thánh, nếu kể ra cho đủ số phải
có, bên Nam phái:
• 36 vị Phối Sư
• 72 vị Giáo Sư
• 3.000 vị Giáo Hữu
Còn về phần Nữ phái, thì gồm tất cả Chức Sắc Nữ
Phái hiển hiện từ hàng Giáo Hữu đổ lên.
B . HIỆP THIÊN ÐÀI.
Thập Nhị Thời Quân phải có mặt đặng bảo thủ luật
pháp không cho Hội phạm đến, cũng đồng quyền như Nghị viên.
Trước
khi nhóm Ðại Hội.
Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Sáu, Nghị Trưởng (Thái
Chánh Phối Sư) lập xong chương trình Ðại Hội Hội Thánh và gởi cho chư vị Thiên
Phong mỗi người một bổn. Rồi đến ngày nhóm, cả thảy tự tiện về Tòa Thánh dự
nhóm chớ không có thơ mời.
Khi đến Tòa Thánh, phải đến Lại Viện Nội Chánh ghi
Giấy Thông Hành, chừng trở về cũng phải trở lại Nội Chánh trình ghi như khi
đến, nếu vô cớ đến trể không được dự nhóm.
Ngày
giờ nhóm Ðại Hội.
Mỗi năm, Ðại Hội Hội Thánh nhóm thường lệ một kỳ
vào ngày Rằm tháng Bảy. Chư Nghị Viên phải có mặt tại Tòa Thánh trước 3 ngày và
lưu trú lại cho đến ngày bế mạc.
Nhóm
ngoại lệ.
Khi có việc chi thật trọng hệ, cần yếu thì được
nhóm ngoại lệ, một năm một kỳ mà thôi, thiệp mời phải gởi trước 15 ngày.
Trong
khi nhóm Ðại Hội.
Chư Nghị Viên phải tuân y theo thể lệ chung các
Hội. Buổi nhóm mà vô cớ không đến, bị đệ ra Tòa Tam Giáo.
Tư cách Nghị Viên trong lúc nhóm hội phải nghiêm
chỉnh, mặc Thiên phục trang hoàng.
Phương
pháp biểu quyết.
Hội Thánh có đủ hai bên Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng
Ðài dự nhóm, cho nên sự biểu quyết các vấn đề có khác hơn Hội Nhơn Sanh.
Nếu một vấn đề nào, sau khi bàn cãi rồi mà Cửu
Trùng Ðài bỏ thăm thuận, còn Hiệp Thiên Ðài bỏ thăm nghịch, hoặc là Hiệp Thiên
Ðài bỏ thăm thuận, mà Cửu Trùng Ðài bỏ thăm nghịch, thì vấn đề ấy phải bàn tính
mà bỏ thăm lại.
Nếu hai bên bàn cãi mà vẫn còn phản khắc nhau, thì
Nghị Trưởng tuyên bố liền rằng: Vấn đề ấy sẽ dâng lên Thượng Hội định đoạt.
Quyền
chất vấn.
Chư Nghị Viên, muốn xin canh cải, thêm bớt hay hủy
bỏ điều chi, luật lệ nào, phải gởi tờ xin phép trước ngày mồng 1 tháng 6 đặng
Nghị Trưởng ghi vào chương trình.
Nếu có điều chi chất vấn, hạch hỏi ở giữa Hội, thì
phải gởi tờ trước ngày 15 tháng 6 và nói rõ muốn chất vấn về khoản nào, đặng
Hội Thánh đủ thì giờ minh triết.
Trong lúc đang nhóm Hội, Nghị Viên được quyền xin
hạch hỏi, hoặc công kích Hội Thánh, Nội Chánh có quyền trả lời liền lúc đó.
Thảng như gặp việc trọng hệ phải quan sát lại, thì Nghị Trưởng có quyền đình
lại đến kỳ nhóm Hội Ngánh thường xuyên, Hội Thánh sẽ đem vấn đề ấy ra minh
triết, hoặc gởi Châu Tri trả lời các câu hỏi đó.
Nơi
nhóm họp.
Hội Thánh nhóm Ðại Hội giữa Ðền Thờ Ðức CHÍ TÔN.
Trật
tự.
Cơ Bảo Thể, Tuần Phòng lãnh giữ trật tự trong lúc
nhóm Ðại Hội.
Một vị Giáo Hữu phái Ngọc chỉ huy công việc nầy,
mặc Thiên phục, mang dây Sắc lịnh ba màu Ðạo của Hiệp Thiên Ðài ban cho, sau
khi mãn Hội, phải trả lại cho Hiệp Thiên Ðài.
Sau
khi Ðại Hội Hội Thánh bế mạc.
Hai mươi (20) ngày sau khi bế mạc Ðại Hội, Từ Hàn
phải lập cho xong 5 bổn vi bằng, lưu chiếu 1 bổn, đệ lên Thượng Hội 3 bổn, gởi
cho Hiệp Thiên Ðài 1 bổn. Khi Thượng Hội giao trả 3 bổn trở lại, Hội Thánh lưu
chiếu 1 bổn, còn lại 2 bổn gởi cho Ngọc Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư ban
hành.
Vi bằng nầy có Nghị Trưởng (Thái Chánh Phối Sư),
Phó Nghị Trưởng (Nữ Chánh Phối Sư), Từ Hàn Nam, Nữ và một Chức Sắc Hiệp Thiên
Ðài ký tên.
Phiên
nhóm riêng Nam, Nữ.
Cũng như Hội Nhơn Sanh, trước khi nhóm Ðại Hội Hội
Thánh, Thái Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư có quyền mời nhóm riêng chư Nghị
Viên, nam theo nam, nữ theo nữ.
Từ Hàn nam, nữ của Ðại Hội cũng thi hành phận sự
mình ở Hội nhóm nầy và cùng với vị chủ tọa ký tên bảng vi bằng. Xong rồi, vi
bằng của Hội nhóm nam phái gởi cho Hội nhóm nữ phái và trái lại, đặng hai bên
hiểu rõ công việc của mỗi phái đã bàn tính.
HỘI
NGÁNH THƯỜNG XUYÊN CỦA HỘI THÁNH.
Hội Ngánh thường xuyên của Hội Thánh lập tại Tòa
Thánh đặng thảo luận các việc bất thường xảy ra, trọng yếu nhứt là kiểm soát
hành vi của vị Chánh Phối Sư hay Chức Sắc nào được quyền giao thông với Chánh
Phủ. Kế đó là phận sự kiểm soát tài chánh của Ðạo, cho nên trong Hội Ngánh
thường xuyên Hội Thánh có một Ban Kiểm Soát Tài Chánh, thi hành phận sự như Ban
Kiểm Soát Tài Chánh của Hội Nhơn Sanh vậy.
Ngày
giờ làm việc.
Hội Ngánh nhóm một năm 3 kỳ (4 tháng một kỳ).
• Kỳ thứ nhứt ngày
13 tháng 2.
• Kỳ thứ nhì ngày
13 tháng 6.
• Kỳ thứ ba ngày 13
tháng 10.
Chư Nghị Viên phải có mặt trước một ngày.
Bốn vị Kiểm Soát Tài Chánh phải tới trước 3 ngày
cho tiện việc xét Sổ Hộ Viện.
Trong 3 kỳ Hội nầy, chư vị Thượng Thống có quyền
vắng mặt và phái các vị Phụ Thống thay thế.
Sau
khi Hội Ngánh thường xuyên nhóm.
Chư vị Nghị Trưởng, Phó Nghị Trưởng, Từ Hàn, Phó Từ
Hàn nam, nữ của Ðại Hội Hội Thánh vẫn giữ y phận sự cũ ở Hội Ngánh thường xuyên
và 10 ngày sau mỗi kỳ nhóm, ký tên vào vi bằng, có một vị Chức Sắc Hiệp Thiên
Ðài ký chứng.
Nhiệm
kỳ của Nghị Viên Hội Ngánh thường xuyên Hội Thánh:
Các Tỉnh Nam Việt chia làm 9 địa phận như sau đây:
1 . Sài Gòn, Chợ Lớn,
Tân An.
2 . Gia Ðịnh, Tây Ninh.
3 . Bà Rịa, Biên Hòa,
Thủ Dầu Một.
4 . Mỹ Tho, Gò Công.
5 . Bến Tre, Trà Vinh.
6 . Sa Ðéc, Vĩnh Long.
7 . Châu Ðốc, Hà Tiên,
Long Xuyên.
8 . Cần Thơ, Rạch Giá.
9 . Bạc Liêu, Sóc
Trăng.
Sau nầy có thay đổi ra làm 5 Trấn Ðạo gồm có 20
Châu Ðạo:
• Gia Ðịnh.
• Biên Hòa.
• Ðịnh Tường.
• Long Hồ.
• An Giang.
Mỗi Trấn (*1) cử 2 Nghị Viên, 1 Chánh,1 Phó, nhiệm
kỳ 1 năm.
Các nước lân bang được cử từ 1 đến 3 Nghị Viên,
nhiệm kỳ từ 1 năm đến 3 năm, nam nữ đồng số.
Ngụ sở Chư Nghị Viên cư ngụ tại Nhà Khách.
(*1) Nguyên bản chánh in là: Mỗi Quận cử 2 Nghị Viên,
1 Chánh,1 Phó, nhiệm kỳ 1 năm.
THƯỢNG
HỘI.
Thượng Hội là Hội tối cao trong ba Hội lập quyền
Vạn Linh, cho nên Hội Viên là chư vị Ðại Thiên Phong cầm quyền Ðạo trong nhị
Hữu Hình Ðài.
Hội nầy gồm có:
1 . Giáo Tông: Nghị
Trưởng.
2 . Hộ Pháp: Phó
Nghị Trưởng.
3. Thượng Phẩm: Nghị
Viên
4 . Thượng Sanh: Nghị
Viên
5 . 3 vị Chưởng Pháp: Nghị Viên
6 . 3 vị Ðầu Sư Nam phái: Nghị Viên
7 . Ðầu Sư Nữ phái: Nghị
Viên
8 . Một vị Giáo Sư hay Phối Sư
(Không có quyền bàn cãi và bỏ thăm ): Từ Hàn.
Trừ ra mấy vị trên đây, không có một ai có quyền dự
thính Thượng Hội.
Từ
Hàn Thượng Hội.
Vị Từ Hàn của Thượng Hội chọn trong hàng Chức Sắc
Thiên Phong Cửu Trùng Ðài từ Giáo Sư đổ lên. Từ Hàn có nhiệm kỳ 4 năm. Khi mãn
hạn có quyền tái cử, nếu đủ đạo đức, đủ siêng năng và làm tròn trách nhiệm.
Phận sự của Từ Hàn là lo giữ gìn giấy tờ, sổ sách
của Thượng Hội. Mỗi kỳ nhóm Từ Hàn phải tùng Giáo Tông mà lập chương trình và
viết thư mời chư Hội viên. Khi nhóm họp, Từ Hàn chỉ có quyền dự thính, biên
chép các lời bàn cãi đặng lập vi bằng mà thôi, ngoài ra có quyền nói là khi cần
nhắc khoản gì trong chương trình có ghi trước mà chư Nghị Viên bỏ quên không
thảo luận tới.
Ngày
giờ làm việc của Thượng Hội.
Mỗi năm sau ngày Lễ Noel thì Thượng Hội nhóm lệ
thường niên trong hạn kỳ là 15 ngày.
Ngoài phiên nhóm lệ nầy, Thượng Hội còn nhóm 3
tháng một lần.
Còn khi có việc gấp rút, Nghị Trưởng (tức Giáo
Tông) gởi tờ mời nhóm liền, hay là viết thơ hỏi ý kiến chư Nghị Viên cũng được.
Phận
sự của Thượng Hội.
Thượng Hội xem xét và phê chuẩn:
1 . Các điều của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh bàn luận về việc Ðạo.
2. Các điều ước nguyện của Hội Nhơn Sanh và Hội
Thánh, những điều nào hoặc của Hội Nhơn Sanh mà Hội Thánh đánh đổ, hoặc của Hội
Thánh mà Hội Nhơn Sanh đánh đổ, thì không được phép đệ lên Thượng Hội, trừ khi
nào có đơn của hai ông Nghị Trưởng kêu nài.
3 .Thương Hội bàn luận và định đoạt các việc cần gấp hoặc yếu trọng phải ban
hành trong Ðạo.
Trước
khi nhóm Thượng Hội.
Chư vị Ðầu Sư Nam phái và Ðầu Sư Nữ phái cầm quyền
cai trị về phần Ðạo và phần Ðời của con cái Ðức CHÍ TÔN, thì phải lập tờ phúc
về những điều bàn tính của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh đệ lên Giáo Tông xem xét
rồi đem ra Thượng Hội thảo luận. Tờ phúc phải nạp 15 ngày trước bữa Thượng Hội.
Cả giấy tờ đem ra Thượng Hội phải có đủ cả Nghị
viên xem xét trước 7 ngày.
Khai
Hội và bãi Hội.
Bữa Lễ khai mạc Thượng Hội thì 3 vị Chánh Phối Sư
Nam phái đến rước GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP, còn Chánh Phối Sư Nữ phái đến rước Nữ
ÐẦU SƯ.
Cả Chức sắc Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài nam, nữ
hiện diện tại Tòa Thánh mà không có phận sự cần yếu, mặc Thiên Phục đến trước
Ðền Thờ hầu rước.
Khi Giáo Tông và Hộ Pháp đến thì Lễ Viện cho lịnh
đánh 6 hồi trống và chuông, dứt hồi trống chuông thì chư Nghị Viên vào Ðại Ðiện
bái lễ Ðức CHÍ TÔN. Nhạc trổi bản "Tấu Quân Thiên" dứt bản nhạc cả
thảy an vị và khai Hội.
Bốn vị Chánh Phối Sư tạm xuất ngoại chờ có lịnh mời
mới đến. Cả Chức Sắc khác vào Thiên Phong Ðường chỉ chờ bãi Hội mới đến hầu lễ
đưa.
Hội nhóm trong Ðền Thờ, trên Ðiện thì mỗi hương đăng
6 vị Lễ Sanh thuộc 3 Phái đứng hầu tại Bát Quái Ðài, 2 vị Nữ Lễ Sanh hầu bên
hữu ban, 2 vị Lễ Sanh Phái Ngọc hầu tả ban, mỗi giờ phải thay đổi.
Lúc bãi Hội, chư vị Ðại Thiên Phong ra về, Lễ Viện
cũng cho đánh 6 hồi chuông trống, 4 Chánh Phối Sư đưa chư vị Ðại Thiên Phong
mỗi người về đến tư dinh của mình.
Trật
Tự.
Một vị Giáo Sư Phái Ngọc mặc Thiên Phục mang Sắc
Lịnh của Hiệp Thiên Ðài, Cai Quản Cơ Bảo Thể giữ gìn trật tự bên ngoài, khi Hội
bế mạc phải đem dây Sắc Lịnh trả cho Hiệp Thiên Ðài.
Khi nhóm Thượng Hội thường xuyên thì nhóm tại Giáo
Tông Ðường, (Cơ Bảo Thể cũng giữ trật tự) song mặc y phục thường, vị Giáo Sư
Cai Quản cũng vậy, Lễ Viện khỏi cho đổ chuông trống và đánh nhạc.
Phương
pháp bàn cải.
Trong mỗi việc đem ra bàn luận, mỗi Hội Viên được
xin nói 3 lần, mỗi lần 5 phút, hay là một lần 15 phút đồng hồ. Phải chờ Hội
Viên khác dứt lời, mới được đứng lên nói, không được chận lời của một Hội Viên
nào.
Biểu
Quyết.
Khi đã bàn cãi xong rồi, Hộ Pháp và Giáo Tông có ý
kiến chi thì mới tỏ bày sau rốt, rồi Nghị Trưởng (Giáo Tông) định cho bỏ thăm,
vẫn lấy đa số thăm làm quy tắc.
Quyền của Giáo Tông và của Hộ Pháp hiệp lại là
quyền CHÍ TÔN tại thế, cho nên 2 vị Ðại Thiên Phong nầy không có bỏ thăm.
Nếu cả 3 Hội phản khắc nhau, thì quyền Giáo Tông và
Hộ Pháp hiệp lại chỉ định thế nào thì Chánh Trị Ðạo phải đi theo thế ấy.
Thảng Giáo Tông và Hộ Pháp phản khắc nhau thì cả
thảy ý kiến chánh trị và nguyện ước của chúng sanh đều hủy bỏ. Chừng ấy Hội
Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội phải nhóm lại để thảo luận lần thứ hai nữa.
Trước giờ bế mạc Thượng Hội 15 phút, Giáo Tông và
Hộ Pháp cùng vào Ðại Ðiện mật nghị, rồi trở ra cho Thượng Hội rõ biết quyết
nghị chung của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét