
Quyền Vạn Linh
trong nền Chánh Trị Ðạo là một quyền rất nên trọng hệ, và phải đủ 3 Hội làm cơ
quan thì lập quyền Vạn Linh mới đúng qui tắc.
Nói đến Vạn Linh tức nhiên nói chung cả Bát Hồn,
Thần, Thánh, Tiên, Phật thì đã có Hội Thánh và Thượng Hội tức là Thánh Thể của
Ðức CHÍ TÔN làm tượng trưng rồi, còn chúng sinh tức là vật chất,
thảo mộc, thú
cầm, nhân loại thì có Nhơn sanh là phẩm tối linh, là thượng đẳng chúng sanh
thay thế bằng hình tướng của Hội Nhơn Sanh. Vậy thì Nhơn sanh không, không đủ
kể là Vạn Linh, mà toàn Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN cũng chưa phải là Vạn Linh
được.
Ấy vậy, ba Hội phải kế tiếp nhau và phải tổng hợp
đủ ba Hội mới có tánh cách đại diện cho Vạn Linh.
Về sự phân quyền (Séparation des pouvoirs), xem từ
đầu tới cuối cách tổ chức của ba Hội, ta nhận thấy trong nền Chánh Trị Ðạo, sự
phân quyền chỉ tương đối (Séparation relative) mà thôi, chớ không phải phân
quyền tuyệt đối (Séparation absolue). Chư Chức sắc dự hội, vừa là nhơn viên của
Hội Thánh, vừa là Nghị viên của các Hội, theo ta tưởng thế nào cũng có điều tư
vị, song Hiệp Thiên Ðài luôn luôn kề cận để quan sát hành tàng, thành thử lúc
nào cũng giữ vững nét công bình, và có công bình thì quyền hành mới đủ điều
kiện tồn tại và mới có năng lực mãnh liệt đặng điều khiển bộ máy Chánh Trị Ðạo
quá bao quát.
HIẾN PHÁP CỦA ÐẠO
(Pháp Chánh Truyền)
Trước
hãy định nghĩa Hiến Pháp là gì?
Theo nghĩa thông thường. Hiến Pháp là một bản văn
kiện ghi chép những luật lệ căn bản qui định sự tổ chức quyền chánh trị trong
một nước và bảo vệ các công quyền của toàn thể công dân.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN của Ðạo là một bản văn kiện do
huyền diệu cơ bút của Ðức CHÍ TÔN truyền dạy, qui định sự tổ chức của nền Ðại
Ðạo, sắc phục của chư Thiên Phong đẳng cấp, quyền hạn của chư Chức sắc cầm
quyền chánh trị, hầu giữ vững chơn truyền của nền chánh giáo, không cho có sự
xâm phạm, giữ gìn cho cơ Ðạo khỏi qui phàm.
HIẾN PHÁP CÓ HAI LOẠI:
a) Bất thành văn Hiến Pháp:
Ngày trước không có Hiến
Pháp, chỉ có các điều lệ do phong tục, tập quán, vì thời gian mà biến
thành. Bởi nguyên căn của nguồn gốc do sự biến thiên của tập tục và không văn
kiện làm bằng chứng cho nên thường bị xâm phạm. Vì thế về sau, muốn cho nó được
tôn trọng, cần phải biên chép thành Hiến Chương gọi là Hiến Pháp.
b)
Thành văn Hiến Pháp:
Là thứ Hiến Pháp lấy từ chương làm căn bản, được
thông dụng trong các nước, vì nó ấn định một cách minh bạch quyền hạn của chánh
phủ, công nhận và bảo đảm các quyền tự do chánh trị cùng tự do dân sự của nhân
dân.
Hiến Pháp thành văn lập thành do nhiều cách:
1 . Do Vua ban.
2 . Do sự cam kết giữa Vua và dân.
3 . Do Quốc Hội Lập Hiến làm ra.
Pháp Chánh Truyền thuộc về loại Hiến Pháp thành văn
và lập thành theo cách thứ nhứt, song có điều khác nhau với Ðời là Hiến Pháp do
Vua ban hành, còn Pháp Chánh Truyền do Ðấng CHÍ TÔN dụng quyền năng Thiêng Liêng
của huyền diệu cơ bút mà truyền thế.
SO
SÁNH CÁC TÁNH CHẤT CỦA HIẾN PHÁP VÀ PHÁP CHÁNH TRUYỀN
a)
Hiến Pháp khác với pháp luật thường:
Thường trong một nước, sau khi lập quốc, lập tức
Chánh Phủ triệu tập một Quốc Hội Lập Hiến, để lập Hiến Pháp, do theo dân
nguyện. Xong rồi, Quốc Hội Lập Hiến giải tán, để triệu tập Quốc Hội Lập Pháp,
chỉ có quyền hạn lập thành các pháp luật thường để thi hành Hiến Pháp mà thôi.
Trong nền Ðạo, có ba Nghị Hội hiệp lại làm cơ quan
cho quyền Vạn Linh, ba Hội ấy, quyền hạn tương đồng như Nghị Hội Lập Pháp, chỉ
lập Pháp Luật thường do nguyện ước của Nhơn sanh, đặng thi hành chơn truyền
chánh giáo là Pháp Chánh Truyền.
b .
Cang tánh Hiến Pháp và nhu tánh Hiến Pháp:
Khi Nghị Hội Lập Pháp không có quyền sửa đổi Hiến
Pháp thì Hiến Pháp ấy gọi là cang tánh Hiến Pháp (Constitution rigide). Trái
lại, khi Nghị Hội Lập Pháp sửa đổi Hiến Pháp đặng, như các pháp luật thường thì
Hiến Pháp ấy gọi là nhu tánh Hiến Pháp (Constitution souple).
Pháp Chánh Truyền thuộc về loại cang tánh Hiến Pháp,
bởi nó bất di, bất dịch, bất khả xâm phạm và ba Hội lập quyền Vạn Linh không có
quyền sửa cải.
c .
Hiến Pháp đại yếu và Hiến Pháp chi tiết:
Những bản Hiến Pháp nào nói tỉ mỉ về sự tổ chức các
cơ quan, các ty, các sở, như Hành Chánh, Tư Pháp, v.v... gọi là Hiến Pháp chi
tiết. Thứ Hiến Pháp nầy rất bất tiện, vì phải sửa đổi luôn, mà sửa đổi Hiến
Pháp là một điều phiền phức.
Còn Hiến Pháp đại yếu, chỉ nói những điều thật bao
quát. Các điều lệ chi tiết để cho Nghị Hội Lập Pháp tùy nghi ấn định cho hợp
thời.
Pháp Chánh Truyền thuộc loại Hiến Pháp đại yếu.
CHƯƠNG
THỨ BA
CỬU
TRÙNG ÐÀI QUYỀN HÀNH CHÁNH
TỔ
CHỨC HÀNH CHÁNH CỦA ÐẠO.
Sự tổ chức bắt đầu từ dưới lên trên. Nền móng tổ
chức nầy là Hương Ðạo, nhiều Hương Ðạo lập thành Tộc Ðạo, nhiều Tộc Ðạo lập thành
Châu Ðạo, nhiều Châu Ðạo lập thành Trấn Ðạo. Các Trấn Ðạo trực tiếp liên lạc
với Cửu Viện, tức là 9 Viện, đối chiếu Lục Bộ Thượng Thơ của Triều Ðình, hay
Hội Ðồng Tổng Trưởng theo chế độ dân chủ.
Từ Trấn Ðạo trở xuống thuộc về Hành Chánh Ðịa
Phương, còn từ Cửu Viện trở lên là cơ quan trụ cốt ở tại Tòa Thánh, cầm quyền
cai trị toàn Ðạo.
BẢNG
TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH CHÁNH
GIÁO TÔNG
THÁI THƯỢNG NGỌC
CHƯỞNG PHÁP CHƯỞNG PHÁP CHƯỞNG PHÁP
THÁI THƯỢNG NGỌC
ÐẦU SƯ ÐẦU SƯ
ÐẦU SƯ
THÁI THƯỢNG NGỌC
CHÁNH PHỐI SƯ CHÁNH PHỐI SƯ CHÁNH PHỐI SƯ
THƯỢNG THỐNG CỬU VIỆN
KHÂM TRẤN ÐẠO
KHÂM CHÂU ÐẠO
ÐẦU TỘC ÐẠO
BÀN TRỊ SỰ
Ðể
ý:
Trong lúc loạn Ðạo, ba vị Ðầu Sư cầm quyền thống
nhứt, dầu GIÁO TÔNG hay HỘ PHÁP cũng phải tuân mạng. ÐẦU SƯ, GIÁO TÔNG và HỘ
PHÁP hiệp lại thường gọi là "Hội Thánh Anh".
THÁI, THƯỢNG, NGỌC ÐẦU SƯ
GIÁO TÔNG HỘ PHÁP
Ðiều chưa từng thấy và rất nên đặc biệt chú ý trong
Chánh Trị Ðạo là "Hội Thánh Em" tổ chức tại Hương Ðạo.
CHÁNH TRỊ SỰ: ÐẦU SƯ EM
PHÓ TRỊ SỰ: THÔNG SỰ:
GIÁO TÔNG EM HỘ PHÁP EM.
Vậy Ðạo Cao Ðài có một Hội Thánh Anh mà hằng hà sa
số Hội Thánh Em, vẫn tấn hóa mãi mãi lên và nhờ như vậy không một quyền lực nào
có thể diệt tiêu Hội Thánh của Ðạo Cao Ðài cho được.
HÀNG
PHẨM ÐỐI QUYỀN
Cửu Viện: Phối Sư cầm quyền Thượng Thống
Trấn Ðạo: Giáo Sư cầm quyền Khâm Trấn Ðạo
Châu Ðạo: Giáo Hữu cầm quyền Khâm Châu Ðạo
Tộc Ðạo: Lễ Sanh cầm quyền Ðầu Tộc Ðạo
Hương Ðạo: Chánh Trị Sự cầm quyền Ðầu Hương Ðạo
Ấp Ðạo: Phó Trị Sự cầm quyền Hành Chánh
Thông Sự cầm quyền Tư Pháp
Trong việc Hành Chánh nam, nữ đều phân quyền.
Mỗi vị Thượng Thống có một Phụ Thống và nhiều thừa
quyền Phụ Thống giúp việc. Trong các Hương Ðạo thì Bàn Trị Sự nam, nữ cũng hành
sự riêng biệt.
Hội Thánh phái nữ cũng tổ chức y như Hội Thánh nam
phái, duy có một điều là phẩm cùng tột của Nữ là ÐẦU SƯ.
QUYỀN
HÀNH
( Xem rõ trong Pháp Chánh Truyền chú giải )
GIÁO
TÔNG: Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt
toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung
nạp tâm lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên
Triều, trọn cả đường Ðạo và đường Ðời cho trọn câu Thể Thiên Hành Hóa. Ngôi
Giáo Tông là tột bực của loài người, mà chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử.
Như thế mới có thể lập đời Thánh Ðức trường tồn được.
Tại
sao quyền CHÍ TÔN lại chia làm hai?
Trước kia Ðạo Thánh, CHÍ TÔN vì quá thương Nhơn
sanh, đã giao phần hồn và phần xác cho Ðức Chúa Giê Giu (Jésus Christ) đủ quyền
năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn sanh lợi dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ
kế vị cho Chúa, vì mang phàm thân nhục thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao
ấy như ngọn gươm bén mà sát phạt con cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban cho".
Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền hành ấy ra
cho Giáo Tông và Hộ Pháp, Giáo Tông chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về
phương châm giáo hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN
trong đường Ðạo và đường Ðời mà thôi. Còn Hộ Pháp có đặc quyền gìn giữ luật
pháp, bảo thủ chơn truyền, gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn
hàng thất thứ.
Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và chia đôi
cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của người.
CHƯỞNG
PHÁP: (Cardinal Censeur) Ba vị Chưởng Pháp là người có phận sự đặc biệt của
Hiệp Thiên Ðài mà phẩm vị lại ở bên Cửu Trùng Ðài. Ấy là Thánh Ý của Ðức CHÍ
TÔN muốn Cửu Trùng Ðài phải có Hiệp Thiên Ðài chăm nom gìn giữ làm thế nào cho
nền Chơn Giáo của Ðức CHÍ TÔN không qui phàm. Nhờ vậy mà Chánh Trị Ðạo không tự
tung tự tác, tự do canh cải mà làm mất nét đạo đức, để xứng đáng là một nền
chánh trị của Trời tại thế có sự công bằng hi hữu vậy.
Tại
sao Thượng Chưởng Pháp mặc áo trắng?
Thượng Chưởng Pháp có quyền thay thế cho Giáo Tông
khi vắng mặt (Pour remplacer le Pape par intérim). Áo của Giáo Tông màu trắng
tức là màu nguồn gốc của Ðạo. Ðạo không màu sắc, hay tượng trưng một màu rất
trong sạch là trắng, là màu vô tội, trắng có thể biến ra các màu vàng, xanh,
đỏ, v.v... Trở lại màu trắng tức là qui hồi căn bổn vậy.
ÐẦU
SƯ: (Cardinal) Ðầu Sư là Thầy của các Thầy khác. Người có nửa quyền Tư Pháp
và nửa quyền Hành Chánh. Người đứng trung gian giữa Giáo Tông và Chánh Phối Sư,
nghĩa là giữa người cầm quyền cai trị tối cao và người đại diện của Nhơn sanh
là kẻ bị trị.
Ðã được trách vụ quan trọng như thế, nhưng không có
quyền trực tiếp thân cận với Nhơn sanh, việc chi cũng phải đi ngang qua tay
Chánh Phối Sư mới được. Nếu không truất quyền ấy thì Ðầu Sư có thể giục loạn,
làm cho con cái của CHÍ TÔN phải chia phe phân Phái. Bởi cớ, nên khi nào có
loạn Ðạo, Ðầu Sư được cầm quyền thống nhứt, dụng độc tài mà trị loạn, dầu cho
vị Chức Sắc Thiên Phong nào nhỏ hay lớn, cho đến Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải
tuân theo mạng lịnh của Người khi hành sự. Nhưng khi nào hết loạn Ðạo thì không
được dùng quyền thống nhứt nữa.
CHÍ TÔN lập Ðạo, phân phát quyền hành cho mỗi con
cái của người, nhưng vẫn hạn định đặng tránh sự bất công.
Tại
sao truất quyền thân cận với Nhơn sanh?
Chỉ có phẩm Ðầu Sư và Chưởng Pháp được quyền tranh
cử, nếu khuyết ngôi Giáo Tông. Nếu không truất quyền thân cận với Nhơn sanh của
Ðầu Sư thì Chưởng Pháp không trông gì tranh cử đặng.
PHỐI
SƯ: (Archevêque) Phối Sư là người cầm đầu giềng mối chánh trị của Ðạo, có 36
vị, chia ra làm 3 Phái, mỗi Phái 12 vị, trong 12 vị phải có một vị Chánh.
THÁI
CHÁNH PHỐI SƯ: Lo về mặc Tài Chánh, gìn giữ sản nghiệp của Ðạo, làm Chủ Tọa Hội Thánh.
Dưới
quyền Thái Chánh Phối Sư có 3 Viện:
1 . Hộ
Viện: Lo việc thâu xuất tài chánh, phân phát lương hướng, phụ cấp cho Chức sắc
(Trésorerie).
2 . Lương
Viện: Bảo đảm sự sanh nhai, tìm phương nuôi sống toàn Ðạo về mặt vật thực
(Intendence).
3 . Công
Viện: Lo việc tạo tác dinh thự, đường giao thông, gìn giữ sản nghiệp của Ðạo
(Travaux puplics).
THƯỢNG
CHÁNH PHỐI SƯ: Lo về mặt ngoại giao với Chánh Phủ, giữ quyền giáo hóa, làm Chủ Tọa Hội
Nhơn Sanh, dưới quyền có 3 Viện:
1 . Học
Viện: (Instruction publique) lo bảo toàn: Thể, Trí, Ðức dục của toàn thể Chức
sắc, Ðạo hữu và Nhi đồng.
2 . Y
Viện: (Santé publique) chuyên môn khoa cứu tế, lo trị các chứng bịnh của toàn
Ðạo.
3 . Nông
Viện: (Agriculture) lo khai phá mở mang đồn điền, chuyên về trồng tỉa.
NGỌC
CHÁNH PHỐI SƯ: Nắm quyền tạp tụng, cầm quyền Chủ Trưởng Chức Sắc, lo việc văn từ, chưởng
quản 3 Viện:
1 . Hòa
Viện: (Affaires intérieures et extéreures) lo về nội, ngoại giao, gìn giữ trật
tự và bảo an toàn Ðạo.
2 . Lại
Viện: (Service du personnel) lo về công văn, Bộ Ðạo, Bộ Khai Sanh, Bộ Khai Tử,
Bộ Hôn Thú, Bộ Chức Sắc Hành Chánh, thuyên bổ Chức sắc trấn nhậm các nơi.
3 . Lễ Viện: (Service des Rites) lo về nghi tiết, cúng kiến,
quan, hôn, tang, tế.
Cả 9 Viện trên đây họp lại gọi là Cửu Viện Nội
Chánh, tức là Nội Các của Ðạo vậy.
GIÁO
SƯ: (Evêque) Giáo Sư cầm quyền cai trị của Ðạo trong một Trấn, hay một nước.
Toàn thể Ðạo có 72 vị Giáo Sư chia làm 3 Phái: Thái, Thượng, Ngọc, mỗi Phái 24
vị, chẳng đặng tăng thêm hay giảm bớt. Giáo Sư được rộng quyền dạy dỗ Nhơn sanh
trọn vẹn đường Ðạo và đường Ðời. Có quyền xin chế giảm luật lệ cho hạp với
trình độ trí thức, hay sanh hoạt của Nhơn sanh.
GIÁO
HỮU: (Prêtre) Giáo Hữu cầm quyền cai trị của Ðạo trong một Châu hay rộng hơn,
sau nầy trong một nước nhỏ, được quyền thân cận với Nhơn sanh đặng phổ thông
Chơn Ðạo của Thầy, thay mặt Giáo Sư khai đàn cho chư Ðạo hữu. Cả thảy có 3.000
Giáo Hữu, không đặng tăng thêm hay giảm bớt, chia ra mỗi Phái là 1.000 người.
Giáo Hữu cũng có quyền xin chế giảm luật lệ như Giáo Sư, nhưng phải đi theo
đẳng cấp.
LỄ
SANH: (Elève Prêtre) Thánh Giáo của Ðức CHÍ TÔN nói rằng: Lễ Sanh là đứa có
hạnh trong con cái của Thầy lựa chọn, để hiến lễ trọng cho Thầy.
Nhờ ơn Ðức LÝ GIÁO TÔNG định cho, theo Ðạo Nghị
Ðịnh thứ ba, điều thứ hai cho Lễ Sanh được cầm quyền Hành Chánh một Tộc Ðạo.
Số Lễ Sanh không có giới định, bao nhiêu cũng được.
Phải vào hàng Lễ Sanh mới mong nhập vào Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN được.
THIÊN
PHỤC.
(Thiên Phục của Chức Sắc nam, nữ xem Pháp Chánh
Truyền)
Về Tiểu Phục Nam Phái: Do theo ý nguyện của Hội
Nhơn Sanh năm Bính Tuất, được Hội Thánh năm Ðinh Hợi và Thượng Hội năm Mậu Tý
phê chuẩn cho Chức Sắc Hành Chánh nam phái được mặc một kiểu Ðạo phục mới, thế
vì cho Tiểu Thiên phục.
Ðạo
Phục mới nầy gồm có:
1 . Một áo cổ bẻ, tay chẹt, giống như Ðạo phục của Chức sắc Hiệp Thiên Ðài,
yếm tâm dài tới bụng, đơm 9 nút, ý nghĩa là Cửu Trùng Ðài. Bề dài áo nầy còn 15
phân nữa thì chấm đất.
2 . Một cái áo choàng ngoài, may bề dài, dài hơn áo trong 5 phân, và hai bên
may dính lại, chỉ chừa mở dài xuống ngay phía bụng. Cổ như cổ áo Bà Lai rộng,
làm thế nào để nó có thể chừa vỏn vẹn cổ trong ra ngoài.
3 . Một biểu hiệu hình chữ nhựt (5 phân x 3 phân) sơn màu theo sắc Phái và có
chữ Nho (lối cổ tự) ghi phẩm vị của mỗi người, mang bên tay trái, ngay trái
tim. (Vì cổ tự ít người đọc được, nên sau nầy cho để chữ quốc ngữ).
4 . Về phần mão thì dùng mão Tiểu phục cũ, song tất cả đều đổi lại màu trắng.
Sau nầy, có lịnh mới cho Chức Sắc nam phái được
dùng khăn đen thường thế vì mão Tiểu phục.
PHƯƠNG
PHÁP LẬP VỊ VÀO THÁNH THỂ CỦA ÐỨC CHÍ TÔN
Phương pháp lập vị vào nền Ðạo, bắt đầu từ Hương,
Xã, tuyển chọn kẻ làm quan trong khối dân, lựa tài, lọc đức, đào luyện bằng
cách lập công bồi đức, có 3 phương cách:
1 . Cầu phong chiếu theo Ðạo Luật năm Mậu Dần
(1938). (1)
2 . Do khoa mục tuyển
chọn.
3 . Do quyền CHÍ TÔN ân
tứ. (2)
CHÍ TÔN nói rằng lập
Ðạo cho các con cái của Ngài, Ngài lựa ra:
Nhứt Phật,
Tam Tiên,
Tam Thập Lục Thánh,
Thất Thập Nhị Hiền,
Tam Thiên Ðồ Ðệ.
Nhứt Phật là phẩm Giáo Tông
Tam Tiên là ba vị Ðầu Sư
Tam Thập Lục Thánh là 36
Phối Sư
Thất Thập Nhị Hiền là 72
Giáo Sư
Tam Thiên Ðồ Ðệ là 3.000
Giáo Hữu,
hiệp tâm cộng trí lập thành Hội Thánh, tức là Thánh
Thể của Ðức CHÍ TÔN đặng thay thế cho Ngài tại thế.
(1) Luật cầu phong áp dụng từ hàng Lễ Sanh, những
người dự sổ cầu phong phải là Chánh Trị Sự có 5 năm công nghiệp đầy đủ và tròn
trách nhiệm. Một đôi khi có lịnh ân xá cho những Phó Trị Sự hoặc Thông Sự lâu
năm được đem tên vào sổ cầu phong.
Ðạo hữu có công nghiệp phi thường cũng được dự sổ
cầu phong. Và Chức Sắc Ban Thế Ðạo từ phẩm Hiền Tài được cầu ân phong vào phẩm
Giáo Hữu đổ lên.
Ngoài ra mọi người đều phải đi qua mặt luật Chánh
Trị Sự 5 năm tất cả.
(2) Quyền CHÍ TÔN ân tứ cho các Chi Phái gia nhập
về Hội Thánh và do theo công nghiệp phi thường của họ.
Cho nên theo Thể Pháp, phẩm vị tại thế nầy đối với
phẩm vị Thiêng Liêng trong Cửu Phẩm Thần Tiên.
1 . Hễ vào Ðạo rồi, tức
nhiên đứng vào hàng Ðịa Thần.
2 . Bàn Trị Sự (Chánh, Phó
Trị Sự, Thông Sự) vào hàng Nhơn
Thần.
3 . Lễ Sanh Thiên Thần.
4 . Giáo Hữu Ðịa Thánh.
5 . Giáo Sư Nhơn
Thánh.
6 . Phối Sư Thiên
Thánh (1).
7 . Ðầu Sư Nhơn
Tiên.
8 . Giáo Tông Thiên Tiên
tức là Phật
vị.
Từ hàng Giáo Hữu trở lên, con số đã qui định sẵn
rồi, hiện giờ nền Ðạo đang trong thời kỳ phôi thai, còn dễ dàng cho con cái Ðức
CHÍ TÔN lập vị mình. Khi Ðạo đã phổ thông khắp địa cầu nầy, con số Thánh Thể
Ðức CHÍ TÔN đã đủ người đứng vào phẩm vị, thì sự thăng vị ấy nhận thấy khó khăn
vô đối.
Số Lễ Sanh thì hằng hà, bao nhiêu cũng đặng, cũng
chia ra 3 Phái: Thái, Thượng, Ngọc. Thảng như có một vị Giáo Hữu Phái Thái qui
liễu, tất cả Lễ Sanh xúm nhau công cử một vị Phái Thái đặng thay thế, mà chỉ
chọn một người của Phái Thái thôi, còn hai Phái kia còn chờ đợi.
Một thí dụ nữa: Như có khuyết phẩm Giáo Sư Phái
Thượng, cả thảy Giáo Hữu xúm nhau công cử một vị trong 1.000 vị Giáo Hữu Phái
Thượng cho thăng vị, còn 2.999 vị kia phải chờ đợi, sự quan hệ do ở con số mà
cũng do nơi sắc Phái nữa.
Cũng vì các sự khó khăn trên đây, nên những Chức
sắc Hàm phong hay hưu trí (quá 60 tuổi) không còn kể vào con số nhứt định của
Thánh Thể đương quyền Hành Chánh được.
Hai ví dụ nói trên về hàng Thánh Thể, nghĩa là từ
Giáo Hữu (hàng Thánh) trở lên, còn về phần Bàn Trị Sự trong Hương Ðạo, cách
thức công cử cũng đã có phần khó nhiều rồi. Ðược đứng tên vào sổ Cầu phong lên
Lễ Sanh phải là Chánh Trị Sự đầy đủ công nghiệp 5 năm và tròn trách vụ. Bực Ðạo
hữu muốn lên Chánh Trị Sự, phải bao nhiêu công đức. Tỷ như trong Hương Ðạo có 4
Ấp (hay Lý), mỗi Ấp lẽ cố nhiên có một vị Thông Sự và một vị Phó Trị Sự, cả 4
Ấp cộng lại là 8 vị, nếu cứ theo thứ tự mà công cử mỗi ông làm Chánh Trị Sự một
khóa thì vị nào chót cũng phải mất (5 năm x 8 người) 40 năm mới được dự sổ cầu
phong, thì chừng ấy đã lụm cụm rồi. May mắn thay, thỉnh thoảng cũng có kỳ ân xá
và thăng thưởng về công nghiệp phi thường do quyền CHÍ TÔN ân tứ.
Ấy vậy, trong trường đoạt vị, chỉ có lập công và
bồi đức là biết tùng Thánh ý của Ðức CHÍ TÔN, vì phẩm vị tại thế nầy đối hàng
với phẩm vị Thiêng Liêng, nên càng khó khăn, càng có giá trị xứng đáng.
(1) Theo chữ Nho thì chữ Phối có nghĩa là "so sánh" nên phẩm Phối Thánh
là so sánh ngang hàng với phẩm Thánh, nên Phối Sư là Phối Sư, còn Phối Thánh là
Phối Thánh, chớ Phối Thánh không phải là Phối Sư.
Theo Nho Giáo có 4 phẩm Thánh kể từ trên xuống là
Tôn Thánh, Thuật Thánh, Á Thánh và Phối Thánh.
NHỮNG
TRƯỜNG HỢP CẦU PHONG NGOÀI MẶT LUẬT CHÁNH TRỊ SỰ 5 NĂM.
Chiếu theo Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938) về khoản cầu
phong của Hành Chánh thì mọi người đều phải chịu điều kiện 5 năm công nghiệp
đầy đủ và tròn trách nhiệm ở phẩm Chánh Trị Sự, mới được đem tên vào sổ cầu
phong Lễ Sanh.
Song cũng có nhiều trường hợp cầu phong vào hàng Lễ
Sanh qua khỏi mặt luật ấy, do nơi quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo ban cho:
• Giáo Nhi.
• Lễ Sĩ
• Ðầu Phòng Văn
• Bảo Thể Quân
• Tạo công: Sở Mộc và Sở Hồ
• Giáo viên trường Ðạo Ðức
• Sĩ Quan Cơ Thánh Vệ
• Bộ Lễ, Nhạc
• Ðiều Dưỡng Viên Bộ Y Tế.
Giáo Nhi, do nơi Sắc Lịnh số 51 đề ngày 9 tháng 11
năm Bính Tý (22 12 1936) năm thứ 10 (*), thì Giáo Nhi và Lễ Sĩ trọn hiến thân
và có cấp bằng của Hội Thánh, cứ đủ 5 năm công nghiệp thì đặng thăng thưởng Lễ
Sanh, khỏi phải đem ra quyền Vạn Linh công nhận.
Còn những Giáo Nhi nào theo mặt thế, nghĩa là có
chồng con mà còn hành sự tại làng của mình, thì buộc mỗi năm dạy cho được 36
Ðồng Nhi, Chức Việc sở tại, mới được đem vào sổ cầu phong.
Ðầu Phòng Văn đủ 5 năm công nghiệp hành sự kể từ
ngày được chấm đậu do khoa mục tại Tòa Thánh.
Bảo Thể Quân đủ 5 năm công nghiệp hành sự tại Tòa
Thánh ở địa vị Chánh Bảo Thể.
Châu vi Tòa Thánh có cơ quan Công thợ Sở Hồ và Sở
Mộc, chưa định hàng phẩm tương đối với các cơ quan khác, để mở đường lập vị,
nên mới có Thánh Lịnh số: 231/TL ngày 9 tháng 7 Canh Dần, đặt riêng cho Công
thợ những danh từ và chức vụ như vầy:
a . Tá Lý coi về một Sở.
b . Phó Tổng Giám làm đầu nhiều Sở dưới quyền Tổng Giám.
c. Tổng Giám kiểm soát toàn thể các Sở.
Những chức vụ nầy đối hàm như vầy:
a . Tá Lý đối hàm Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
b . Phó Tổng Giám đối hàm Lễ Sanh hay Giáo Thiện.
c . Tổng Giám đối hàm Giáo Hữu hay Chí Thiện.
Mỗi bậc cũng phải hành sự đủ 5 năm công nghiệp mới
đặng thăng lên và tới bậc Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh
công nhận vào hàng Giáo Sư, sau khi đầy đủ công nghiệp.
Giáo viên nam, nữ Ðạo Ðức Học Ðường hành sự đúng 5
năm công nghiệp được ân phong vào hàng Lễ Sanh có Tờ Hiến Thân trọn đời cho Hội
Thánh.
Sĩ Quan Cơ Thánh Vệ (Bất luận phẩm nào trong hàng
phẩm Sĩ Quan Cơ Thánh Vệ) mà chư vị Bảo Thể đã đắc lịnh bổ dụng trong Cơ Thánh
Vệ được đầy đủ 5 năm hành sự được đem tên vào sổ cầu phong Lễ Sanh (Sau nầy Sĩ
Quan quân đội có từ cấp Úy đổ lên được xin cầu phong Lễ Sanh).
Ngoài ra các trường hợp vừa kể trên, nơi chương thứ
ba, điều thứ 14, khoản thứ sáu, Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938) nói như vầy:
Ngoài ra các vị nhân viên Phổ Tế (tức là Chức sắc,
Chức việc thuộc cơ quan Phổ Tế của Hội Thánh) nếu có Chức việc hoặc Ðạo hữu nào
độ đặng từ 500 tới 1.000 người ngoại Ðạo nhập môn, thì vị ấy sẽ được Hội Thánh
đem ra quyền Vạn Linh cầu xin phong thưởng vào phẩm Lễ Sanh, từ 1.000 tới 3.000
thì được vào phẩm Giáo Hữu.
Từ 3.000 đến 10.000 thì đặng vào phẩm Giáo Sư.
(*) Phụ ghi: Ðạo lịch năm thứ 10.
CHƯƠNG
THỨ TƯ
HIỆP
THIÊN ÐÀI QUYỀN TƯ PHÁP
Người ta thường định nghĩa quyền Tư Pháp về mặt
Ðời, là biến tánh của quyền Hành Pháp, nghĩa là trong các trường hợp nào mà
Pháp luật đem ra thi hành không được tôn trọng, thì người ta dùng quyền Tư Pháp
đặng cưỡng chế người tuân theo. Theo nguyên tắc phân quyền thì quyền Tư Pháp là
một quyền độc lập, riêng biệt với quyền Lập Pháp và Hành Pháp. Các Tư Pháp Quan
là các viên chức bất khả xâm phạm, bất khả bãi miễn, bất khả giáng cách. Quyền
Tư Pháp của Ðời để bảo vệ Pháp luật, có nhiệm vụ giải thích tùy trường hợp thực
tế, để cho mọi người biết tôn trọng các Pháp luật ấy, nghĩa là giải quyết các
vụ tranh tụng quyền lợi giữa nhơn dân (dân sự) và trừng trị những tội xâm phạm
Pháp luật (hình sự).
Về mặt Ðạo, quyền Tư Pháp do Hiệp Thiên Ðài đảm
nhiệm, có phận sự bảo thủ Chơn truyền của Ðức CHÍ TÔN, gìn giữ các cơ quan
Chánh Trị Ðạo đi trong khuôn viên Ðạo pháp.
Chức sắc Hiệp Thiên Ðài chia làm ba Chi thuộc quyền
HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM và THƯỢNG SANH chưởng quản.
HỘ PHÁP Chưởng Quản Chi Pháp
THƯỢNG PHẨM Chưởng Quản Chi Ðạo
THƯỢNG SANH Chưởng Quản Chi Thế
Ba Chi đều có phận sự về Tư Pháp, song phân ra như
sau đây:
Chi Pháp : Phận sự định án
Chi Ðạo : Phận sự cải án
Chi Thế : Phận sự buộc tội.
Dưới đây là đoạn trích lục trong Pháp Chánh Truyền
chú giải (từ trương 48 đến 54, Thái Hòa ấn quán, in lần thứ ba).
Trước khi Thầy lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên
Ðài, Thầy kêu "Cả chư Môn đệ khá
tuân mạng" thì Thầy đã chỉ rõ rằng: Thầy lập Hiệp Thiên Ðài rất trọng
hệ là dường nào, sự trọng hệ ấy là chi? Sau đây nên giải rõ:
Cơ Tạo Hóa chỉ có hai bí mật tối trọng, một là quan
sát sự hữu hình, hai là xét đoán sự vô vi; quan sát sự hữu hình thì dễ, mà xét
đoán sự vô vi vẫn rất khó, hữu hình với vô vi chỉ phân nhau với màn bí mật. Từ
thuở tạo Thiên lập Ðịa, dầu cho bực trí thức Nhơn sanh đặng tấn hóa lên tới bực
Ðại giác đi nữa, cũng chưa hề có phương thế hé trọn vẹn màn bí mật ấy mà dòm
qua phía vô vi cho đặng, nhưng Nhơn sanh đã có sẵn nơi tay một cái chìa khóa,
là xem cơ tương đắc của hữu hình và vô vi trong sự sanh hoạt của vạn vật. Vô vi
và hữu hình phải hiệp làm một, mới thuận theo cơ tạo. Trời Ðất có âm dương, vạn
vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn. Sự sống của vạn loại trong Càn Khôn Thế
Giới chỉ nhờ có vật chất (La matère) và tinh thần (L'essence) tương hiệp thành
hình, cả Vật chất hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh
hồn, Tiên hồn, Phật hồn, đều khác đẳng cấp nhau, nên hình thể cũng biến sanh ra
khác. Vật chất không giống Thảo mộc, Thảo mộc không giống Thú cầm, Thú cầm
không giống Người, Người không giống Thần, Thần không giống Thánh, Thánh không
giống Tiên, Tiên không giống Phật, Phật không giống Trời. Nói tóm một lời, hình
thể tâm thần đều khác hẳn.
Vật chất (La matère) phải tùng lịnh tinh thần
(L'essence) mà lập thành hình tướng. Cái cớ hiển nhiên là hình thể của nhơn
loại cũng phải tùy tinh thần mà biệt phân đẳng cấp. Kẻ hung bạo thì hình dung
cổ quái, còn người lương thiện thì tướng hảo quang minh, nhờ đó mà cổ nhơn xem
tướng đoán tánh người.
Xác phải phù hạp với hồn, cũng như vật chất phải
phù hạp với tinh thần, vật chất vốn hữu hình, mà tinh thần lại vô vi, vô vi
cùng hữu hình phải tương đắc, thấy hữu hình đoán vô vi, biết vô vi mới định
quyết hữu hình.
Ấy vậy, Cửu Trùng Ðài là xác, Hiệp Thiên Ðài là
hồn. Ðã nói rằng Cửu Trùng Ðài là Ðời, tức nhiên là xác của Ðạo, còn Hiệp Thiên
Ðài là Ðạo, tức nhiên là Chơn Thần của Ðạo, vậy thì xác thịt có định hạn lệ
đẳng cấp, chớ Chơn Thần chẳng hề định hạn lệ đẳng cấp đặng. Nhiều Ðấng Thiêng
Liêng cao mà lại tái thế muốn ra hèn hạ, còn có nhiều Ðấng Thiêng Liêng thấp,
một phen đắc Ðạo lập vị cao trọng tột phẩm, vậy thì Thiêng Liêng không có giới
hạn, tức là Ðạo không có giới hạn. Ấy là cơ bí mật của Ðạo vậy.
Chư Hiền Hữu cùng chư Hiền Muội sẽ thấy rằng: Thầy
không quyết định trách nhiệm của mỗi người Chức sắc Hiệp Thiên Ðài, bởi cớ mà
gây nên lắm điều trắc trở trong phẩm trật của cả Thiên Phong. Nghĩa là để tự
nhiên cho cả Chức sắc Hiệp Thiên Ðài lập vị mình thế nào cho xứng đáng cùng
phẩm định.
Cửu Trùng Ðài là Ðời mà Hiệp Thiên Ðài là Ðạo, cho
nên buộc Ðời phải nương Ðạo mà lập ra thiệt tướng, mới mong độ rỗi nhơn sanh
chuyển cơ Tạo Hóa.
Cái hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Ðài thì
không có Ðạo, Trời Ðất qua chớ Ðạo không qua, Nhơn loại tuyệt chớ Hiệp Thiên
Ðài không tuyệt (Hay lắm). (1)
Hiệp Thiên Ðài là tay vén màn bí mật cho sự hữu
hình và vô vi hiệp làm một, tức là tay làm cho Ðạo với Ðời tương đắc vậy. Vì cớ
ấy mà Thầy giáng cơ buộc cả chư môn đệ Thầy chẳng khi nào đặng phép trái mạng
lịnh của Thầy.
Dưới đây Thầy đã nói rõ:
P.C.T : Hiệp Thiên Ðài là nơi Thầy ngự, cầm quyền
Thiêng Liêng mối Ðạo, hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.
Chú
giải: Thầy là Chúa cả Càn Khôn Thế Giái, tức là Chúa Tể sự vô vi, nghĩa là chủ
quyền của Ðạo, mà hễ chủ quyền của Ðạo ngự nơi nào là Ðạo ở nơi ấy.
Thầy đã nói, Hiệp Thiên Ðài là nơi Thầy ngự, ấy là
nơi Thầy cầm quyền Thiêng liêng mối Ðạo, vậy Ðạo còn thì tòa ngự của Thầy là
Hiệp Thiên Ðài vẫn còn, hễ nói Ðạo chẳng hề khi nào bị diệt, vì Ðạo diệt thì là
tận thế, vậy thì Ðạo chưa tuyệt, ắt Hiệp Thiên Ðài cũng không tuyệt (Hay lắm).
P.C.T : Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui phàm là
gì khi trước Thầy giao Thánh Giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh Giáo mà
lập ra phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà
thôi, chớ không chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa.
Chú
giải: Câu nầy Thầy đã nói rõ nghĩa, duy Thầy chỉ than rằng, khi trước Thầy lỡ
giao Chánh Giáo cho tay phàm, hễ càng lâu chừng nào thì Thánh Ðức lại càng hao
mòn mà phàm tâm lại tái phục, nhơn loại sửa cải Chánh Giáo cho vừa theo thế lực
của nhơn tình mà lần lần làm cho Chánh Giáo phải trở nên phàm giáo (Hay).
Nay Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ
nhơn sanh mà thôi, chớ không chịu giao nền Chánh Giáo của Thầy cho tay phàm
nữa.
Thảng như có kẻ hỏi: Như đã nói vậy, sao Thầy lại
giao Thánh Giáo cho tay phàm là Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài là ý nghĩa gì?
Trong bài diễn văn của Ðức Hộ Pháp đọc tại Tòa Thánh ngày 14 tháng 2 năm Mậu
Thìn (5-3-1928) có giải rõ rằng: Thầy đến qui các lương sanh của Thầy đã sai
đến trước lại làm một, đặng lập Hội Thánh mà làm hình thể của Thầy hầu tránh
khỏi hạ trần trong lúc Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy (Hay).
Hội Thánh ấy có hai phần tại thế: Phần hữu hình là
Cửu Trùng Ðài, tức là Ðời, nghĩa là Xác; một phần bán hữu hình là Hiệp Thiên
Ðài, nghĩa là nửa Ðời nửa Ðạo, ấy là Chơn Thần; còn phần vô vi là Bát Quái Ðài
tức là Hồn, ấy là Ðạo.
Ðã nói rằng Thầy là Chúa Tể của sự vô vi, ắt Bát
Quái Ðài thì Thầy là chủ, mà chủ Bát Quái Ðài là chủ của hồn Ðạo, hồn hiệp với
xác bởi Chơn Thần, ấy vậy Chơn Thần là trung gian của hồn và xác, xác nhờ hồn
mà nên thì Cửu Trùng Ðài cũng phải nhờ Hiệp Thiên Ðài mới mong thành Ðạo (Hay).
Như có kẻ hỏi nữa: Thầy là CHÍ TÔN, huyền diệu vô
biên, mà lại nói Thầy không giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa, sao lại cũng còn
phải nhờ Hiệp Thiên Ðài, cũng tay phàm vậy? Nếu không Hiệp Thiên Ðài, thì Thầy
không thể lập Ðạo sao?
Ta lại nói: Thầy là chúa sự vô vi, nghĩa là chúa
các việc vô hình, Thầy lại ban cho người đủ khôn ngoan trí thức thiêng liêng
đặng làm chúa cả sự hữu hình, nghĩa là chúa cả vạn vật, nếu muốn cho sự vô vi
và sự hữu hình đặng tương đắc, thì cả hai ông chúa phải liên hiệp với nhau mới
đặng, người có sức sửa cơ Tạo Hóa, song Tạo Hóa cũng tùy người mà làm cho vạn
loại trở nên tận thiện tận mỹ.
Chịu dưới quyền Thiêng liêng của Tạo Hóa, sanh
sanh, tử tử, luật lệ ấy vốn nơi Trời, số số, căn căn, Thiên Ðiều đã định, người
chỉ đặng có một quyền tự lập là mình làm chủ lấy mình, luân luân, chuyển chuyển
dồi cho đẹp đẽ Thánh Ðức căn sanh, đặng lên tột phẩm vị Thiêng liêng, mới nhập
vào cửa vô vi, đồng thể cùng Trời Ðất (Hay lắm, Lão khen đó).
Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước đặng làm cho cả
Nhơn sanh vui theo tấn hóa, thì dầu cho Thầy cũng không cãi qua đặng, vì hễ sửa
cãi, thì mất lẽ công bình thiêng liêng đã định, làm chinh nghiêng cơ thưởng
phạt. Hễ có công thưởng, tội trừng thì phải để rộng quyền cho người tự chủ.
Thiên cơ đã lập có Ðịa Ngục với Thiên Ðàng, ấy cảnh
thăng, cảnh đọa.
Ðịa ngục dành cho kẻ bạo tàn, Thiên Ðàng cho người
đạo đức thì cân công bình Thiêng liêng đã sẵn. Ấy vậy chẳng buộc ai vào Ðịa
Ngục, mà cũng chẵng nâng đỡ ai đến Thiên Ðàng. Ðôi đường hiển hiện, tự quyền
người lựa chọn, siêu đọa tại nơi mình, các Ðấng Thiêng Liêng duy có thương mà chỉ
dẫn.
Thầy đến, nếu dùng cả quyền Thiêng liêng làm cho
chúng sanh thấy đặng đủ đức tin theo đường siêu mà bỏ nẻo đọa, thì cả nhơn loại
ắt xu hướng vào con đường đạo đức, thì là Thầy nâng đỡ các Chơn hồn vào Thiên
Ðàng, không cho vào Ðịa Ngục (Hay) thì sự công bình thiêng liêng bởi nơi nào
bền vững. Thưởng phạt ra bất minh, ắt phải truất bỏ cơ luân hồi chuyển kiếp.
Thầy cùng các Ðấng Thiêng Liêng không nhơn thân
phàm ngữ, thế nào mà thông công cùng cả chúng sanh, lại càng cao khó vói, khuất
không rờ, chỉ nhờ lương sanh giúp công gầy đạo đức, Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng
Ðài là người giúp công cho Thầy và các Ðấng Thiêng Liêng gầy Ðạo.
Luân hồi chuyển kiếp là cơ mầu nhiệm để cho các
chơn hồn đặng cứu chuộc và tấn hóa, nếu truất bỏ cơ mầu nhiệm ấy đi, thì Ðạo do
nơi nào mà bền chặt?
Nhơn loại có hóa nhân, quỉ nhân và nguyên nhân, ấy
là có phân đẳng cấp, nếu Thầy dùng huyền diệu thiêng liêng mà làm cho nhơn loại
cả thảy đều thấy đặng cơ mầu nhiệm của Ðạo, đồng đặng đắc kiếp, thì phẩm vị
thiêng liêng cũng không còn trật tự.
Trước đã nói Hiệp Thiên Ðài là Chơn Thần, Cửu Trùng
Ðài là xác thịt, Bát Quái Ðài là Linh hồn, hồn đặng tương hiệp cùng xác, phải
nhờ Chơn Thần, Chơn Thần lại là bán hữu hình, tiếp vô vi mà hiệp cùng hình thể,
cũng như Ðạo tiếp Thánh Ðức của các Ðấng Thiêng Liêng mà rưới chan cho nhơn
loại (Hay).
Nhơn loại đặng liên hiệp cùng Trời thế nào thì Cửu
Trùng Ðài phải liên hiệp cùng Bát Quái Ðài thế ấy.
Bát Quái Ðài là hồn của Ðạo mà Thầy đã nắm chặt
phần hồn, thì xác phải nương theo hồn mới mong giữ bền sanh hoạt, hồn Ðạo Thầy
đã nắm chặt rồi thì Ðạo chẳng hề khi nào còn chịu dưới tay phàm nữa (Hay lắm,
Hay lắm). Ấy vậy, Thầy nói không chịu giao Thánh Giáo cho tay phàm nữa là tại
vậy.
P.C.T : Lại nữa, Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo
Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất
Ðịa Cầu, Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại.
Chú
giải: Câu nầy đã giải rõ trong chú giải Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài nam
phái, nên không cần nói lại.
P.C.T : Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng, Thầy cũng
nên nói sở dụng phàm trần của nó.
Chú
giải: Sở dụng thiêng liêng là Hiệp Thiên Ðài làm trung gian của Giáo Tông cùng
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật nghĩa là trung gian của Cửu Trùng Ðài và Bát Quái
Ðài, vì Cửu Trùng Ðài cầm quyền độ rỗi, còn Bát Quái Ðài cầm quyền siêu rỗi
(Hay). Cả Chơn Thần toàn trong thế giới đặng tương hiệp nhau, phải nhờ nơi cửa
Hiệp Thiên Ðài, ấy là phần thiêng liêng, còn phần phàm trần, thì cầm quyền luật
lệ, cũng như Ðạo có phép Thiên Ðiều mà gìn giữ công bình thiêng liêng cơ tạo,
chế sửa ngươn tranh đấu ra ngươn bảo tồn, làm cho nhơn loại đặng hòa bình lánh
xa cơ tự diệt (Hay).
Thượng ngươn là Ngươn Tạo hóa, ấy là Ngươn Thánh Ðức tức là ngươn vô tội (Cycle de
création, c'est à dire Cycle de l'innocence).
Trung ngươn là Ngươn Tấn hóa, ấy là Ngươn Tranh
đấu, tức Ngươn Tận diệt (Cycle de progrès ou Cycle de lutte et destruction).
Hạ ngươn là Ngươn Bảo tồn, ấy là Ngươn Tái tạo, tức
là Ngươn Qui cổ (Cycle de conservation ou Cycle de reproduction et rénovation).
Dưới Cửu Trùng Ðài có Tòa Tam Giáo, cũng như Bát
Quái Ðài có Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng. Khi nào có Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài xử
đoán rồi mà người bị cáo còn uất ức hàm oan thì mới kêu nài đến Tòa Hiệp Thiên
Ðài. Thảng như có Tòa Hiệp Thiên Ðài xử rồi mà người bị cáo còn uất ức nữa thì
phải kêu nài lên Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng là quyền của Bát Quái Ðài Chưởng
Quản. Dầu cho lập Tòa Tam Giáo dưới Cửu Trùng Ðài, hay là đệ lên Tòa Tam Giáo
Thiêng Liêng là Bát Quái Ðài cũng đều phải do nơi Hộ Pháp.
P.C.T : Hiệp Thiên Ðài dưới quyền Hộ Pháp Chưởng
Quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm, phần của Hộ Pháp Chưởng Quản về
Pháp.
Chú
giải: Vậy thì Hiệp Thiên Ðài phải dưới quyền HỘ PHÁP Chưởng Quản, cũng như Cửu
Trùng Ðài dưới quyền GIÁO TÔNG và Bát Quái Ðài dưới quyền CHÍ TÔN làm chủ.
(1) Chú ý: Những chữ (Hay, Hay lắm) đó là lời khen
của Ðức Lý Giáo Tông.
QUYỀN
HÀNH HIỆP THIÊN ÐÀI (tiếp theo)
CHI
PHÁP, CHI ÐẠO, CHI THẾ
CHI PHÁP
HỘ PHÁP là ai?
Huyền vi mầu nhiệm của Ðạo có Thiên Ðiều, cơ bí mật của Ðời có Luật Pháp. Hộ Pháp là người nắm cơ mầu
nhiệm của Ðạo, nắm luật của Ðời,
xử đoán Chư Chức sắc Thiên Phong và cả Tín đồ, cùng là xin ban thưởng, công thưởng
tội trừng nơi thế nầy. Hễ có phàm trị mới khỏi Thiên trị, phải chiếu luật Ðạo
cho toàn cả Tín đồ khỏi bị Thiên điều, giữ phẩm vị Thiêng Liêng mỗi Chức sắc ắt
phải gìn giữ đạo đức của mỗi người. Người dùng hình phạt làm cho giảm tội
Thiêng liêng (Hay) nắm cơ mầu nhiệm công bình mà đưa các chơn hồn vào Bát Quái
Ðài hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người nắm trọn cả Luật Ðạo và Luật
Ðời đặng xử đoán, làm chủ phòng xử đoán.
Dưới quyền HỘ PHÁP có 4 vị:
TIẾP PHÁP
KHAI PHÁP
HIẾN PHÁP
BẢO PHÁP
Bốn vị nầy đồng quyền cùng Hộ Pháp, khi đặng lịnh
Người sai đi hành chánh song mỗi vị có mỗi phận sự riêng, quyền hành riêng là:
TIẾP
PHÁP: Là người tiếp luật lệ, đơn trạng, kiện thưa, có quyền xét đoán nên phân
định hay chăng, những điều nào không đáng thì chiếu theo Ðạo Luật hoặc bỏ qua,
hoặc trả lại cho Cửu Trùng Ðài, còn như đáng việc phải phân định thì phải dâng
lên cho Khai Pháp định đoạt.
KHAI
PHÁP: Khi tiếp đặng luật lệ, đơn trạng, kiện thưa, của Cửu Trùng Ðài định xử
hay là đã xử nơi Tiếp Pháp dâng lên, thì quan sát coi nên cho cả Chức sắc Hiệp
Thiên Ðài biết cùng chăng, như đáng việc thì tức cấp nhứt diện tư tờ cho Cửu
Trùng Ðài xin đình đãi nội vụ lại bao lâu tùy ý (song chẳng đặng quá hơn 15
ngày) nhứt diện trình cho Hộ Pháp hay đặng Hộ Pháp mời nhóm Hiệp Thiên Ðài. Khi
hội Hiệp Thiên Ðài thì Khai Pháp phải khai rõ nội vụ ra cho Hiệp Thiên Ðài
quyết định, như quyết định phải sửa cải luật lệ hay là buộc án thì Khai Pháp
phải dưng lại cho Hiến Pháp.
HIẾN
PHÁP: Khi tiếp được luật lệ đơn trạng, thì phải mở đường tra vấn cho minh lẽ
nên hư, phải trái, đủ chứng cớ rõ ràng, rồi dâng lên cho Bảo Pháp cho đủ nội
vụ. Cấm Hiến Pháp không đặng thông công cùng Hiến Ðạo và Hiến Thế. Ấy vậy kể từ
việc chi đã giao vào tay Hiến Pháp rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức sắc Hiệp
Thiên Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
BẢO
PHÁP: Thì gìn giữ sự bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ đoán xét và định án chiếu
theo Luật Ðạo, rồi dâng lên cho Hộ Pháp đặng Người phân xử.
Bảo Pháp là người Ðầu Phòng Văn của Hộ Pháp.
P.C.T : Lo bảo hộ luật Ðời và luật Ðạo, chẳng ai
qua luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.
Chú
giải: Nói tóm lại, Hộ Pháp là người bảo hộ luật Ðời, và luật Ðạo khỏi qui phàm,
nâng đỡ cho Ðời vào Thánh vị, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết,
dầu toàn Cửu Trùng Ðài hay là Hiệp Thiên Ðài sái luật thì Hộ Pháp phải phân xử
cho phân minh, vì vậy mà Thầy buộc cả chi "Pháp" phải thề giữ dạ vô
tư mà hành chánh.
(Trích lục Pháp Chánh Truyền trương 54 đến 56)
CHI
ÐẠO
THƯỢNG
PHẨM là ai ?
Thượng Phẩm là người thay mặt cho Hộ Pháp, phải
tùng lịnh Hộ Pháp mà hành chánh, hễ bước chơn vào cửa Ðạo, thì là có Thiên
phẩm, mà hễ có Thiên phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho tới Thượng Phẩm mới trọn
nghĩa câu phổ độ.
Các Chơn linh dầu nguyên nhân hay hóa nhân, đều nhờ
Thượng Phẩm gìn giữ, binh vực cho ngồi được an ổn địa vị mình, giúp đỡ cho đức
hạnh trổi thêm cao, cho khỏi phạm luật lệ, xem sóc ngôi thứ chẳng cho giành
giựt lẫn nhau, ắt giữ cho Cửu Trùng Ðài được hòa nhã êm đềm, khép cửa Thiên
môn, cấm đường không cho Chơn linh thối bước (Hay). Phẩm trật nhờ Người mà đặng
thăng lên hay là bị Người mà phải hạ.
Người nắm luật Ðạo nơi tay, mà binh vực cả chư Chức
Sắc Thiên Phong và các Tín đồ, chẳng cho ai phạm luật, vừa lo cho người đạo
hạnh lên cho tột phẩm vị của mình.
Thượng Phẩm là chủ phòng cải luật, làm Trạng Sư của
Tín đồ.
P.C.T : THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần Ðạo, dưới
quyền:
TIẾP ÐẠO
KHAI ÐẠO
HIẾN ÐẠO
BẢO ÐẠO
Lo về phần Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc
chư Môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc khổ cho đặng.
Chú giải: Các Tịnh Thất đều về quyền của Thượng
Phẩm cai quản. Cả Tín đồ thì về phần Người binh vực, chẳng cho ai phạm luật đến
khổ khắc cho đặng, các Chức Sắc trấn nhậm mấy Thánh Thất phải do nơi quyền
Người thuyên bổ, liệu lượng tài sức mỗi người mà chỉ định phận sự (Công bình
vậy).
Thượng Phẩm là cây cờ của Ðạo, hễ Ðạo nơi nào thì
Thượng Phẩm nơi ấy.
Thượng Phẩm đối quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng
Ðài.
Hiệp Thiên Ðài là luật lệ, mà Thượng Phẩm lại là
chánh trị, ấy vậy Thượng Phẩm là người của Cửu Trùng Ðài nơi Hiệp Thiên Ðài.
Bốn vị Thời Quân của Chi Ðạo, đồng quyền cùng
Thượng Phẩm khi Người ban quyền hành chánh, song mỗi vị có phận sự riêng, quyền
hành riêng là:
TIẾP
ÐẠO: Là người tiếp cáo trạng, án tiết, thì phải quan sát trước coi có oan khúc
chi chăng, đáng ra binh vực thì phải dâng lại cho Khai Ðạo.
KHAI
ÐẠO: Khi đặng tờ kêu nài cầu rỗi thì liệu như đáng rỗi, phải nhứt diện tư tờ
qua cho Tòa Tam Giáo Cửu Trùng Ðài xin định án bao lâu tùy ý (song chẳng đặng
phép quá 15 ngày) nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu nhóm Ðại Hội Hiệp Thiên Ðài
đặng liệu định, như phải đáng bào chữa thì Khai Ðạo phân giải cho ra lẽ oan
ưng, Hiệp Thiên Ðài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Ðạo.
HIẾN
ÐẠO: Khi Người đặng tờ chi của Khai Ðạo dâng lên, tức cấp phải tìm biết căn
nguyên cho rõ ràng, cấm không cho Hiến Ðạo thông đồng cùng Hiến Pháp và Hiến
Thế.
Sự chi đã vào tay Hiến Ðạo rồi thì đã ra bí mật,
dầu cho Chức sắc Hiệp Thiên Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
Hiến Ðạo phải dâng nội vụ lên cho Bảo Ðạo.
BẢO
ÐẠO: Phải gìn giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ lý đoán binh vực chiếu y
luật Ðạo, rồi dâng lên cho Thượng Phẩm đặng người lo phương bào chữa.
Bảo Ðạo là người làm Ðầu Phòng Văn của Thượng Phẩm.
Thượng Phẩm và tứ vị Thời Quân của chi Ðạo, phải
thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
(Trích lục Pháp Chánh Truyền trương 56 đến 58)
CHI
THẾ
THƯỢNG
SANH là ai?
Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu
sanh, nhơn loại hữu sanh, tức là chúng sanh. Trong chúng sanh có nguyên sanh,
hóa sanh và quỉ sanh (Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có, hóa sanh là khai
Thiên rồi mới biến hóa ra, quỉ sanh là hai phẩm kia phạm Thiên Ðiều bị sa đọa).
(Tỷ như nguyên nhân là khi khai Thiên rồi, thì đã
có chơn linh ấy, còn hóa nhân là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn loại,
còn quỉ nhân là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đọa đày vào quỉ vị).
Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao
hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh.
Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, Thầy đem các chơn linh, dầu
nguyên sanh, quỉ sanh, hay là hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu phổ
độ.
Chơn linh các nguyên nhân bị đọa trần, quỉ nhân
chuộc tội, hay là hóa nhân thăng cấp, đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (Ấy là thế
độ), nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Ðạo nắm luật Thế nơi tay, mà dìu dắt cả
chúng sanh vào cửa Ðạo.
Ai làm cho ngăn cản bước đường tu của thế gian thì
Thượng Sanh đặng quyền kiện cùng Tòa Thánh, chư Chức Sắc phạm luật làm cho
chúng sanh phải xa lánh Ðạo, thì Người có quyền xin trị tội tức thì.
Thượng Sanh làm chủ phòng cáo luật.
P.C.T : Thượng Sanh thì lo về phần Ðời.
Chú
giải: Mỗi sự chi thuộc về Ðời, thì về quyền của Thượng Sanh.
Dưới quyền Thượng Sanh có bốn vị Thời Quân là:
TIẾP THẾ
KHAI THẾ
HIẾN THẾ
BẢO THẾ
Bốn vị Thời Quân chi Thế đặng đồng quyền cùng
Thượng Sanh, khi Người ban lịnh hành chánh, song mỗi vị có một phận sự riêng,
quyền hành riêng là:
TIẾP
THẾ: Khi đặng Thế luật hay là trạng cáo chi của ngoại Ðạo cùng là của Tín đồ
mà kiện thưa trách cứ Chức Sắc Thiên Phong bất câu phẩm vị nào phải dâng lên
cho Khai Thế.
KHAI
THẾ: Khi tiếp được đơn trạng chi của Tiếp Thế dâng lên thì phải kiếm hiểu các
nguyên do, coi có đáng buộc án cùng chăng, như đáng thì nhứt diện tư tờ qua Cửu
Trùng Ðài cho biết nội vụ, nhứt diện dâng sớ cho Hộ Pháp cầu Người mời hội Hiệp
Thiên Ðài đặng định đoạt, khi đặng lịnh của Hiệp Thiên Ðài thì Khai Thế phải
dâng nội vụ lên cho Hiến Thế.
HIẾN
THẾ: Khi tiếp đặng nội vụ của Khai Thế dâng qua, thì tức cấp phải đi tra xét,
cho đủ chứng cớ rõ ràng, rồi dâng lên cho Bảo Thế, cấm nhặt không cho Hiến Thế
thông đồng cùng Hiến Pháp và Hiến Ðạo.
Mỗi việc chi vào tay Hiến Thế rồi, thì đã ra bí mật
dầu cho Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
BẢO
THẾ: Phải giữ gìn sự bí mật ấy cho kín nhiệm, rồi chiếu y theo Ðạo Luật và Thế
Luật mà làm tờ buộc án, kế dâng lên cho Thượng Sanh, đặng Người đến Tòa Tam
Giáo Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài hay Bát Quái Ðài mà buộc tội.
Bảo Thế là người Ðầu Phòng Văn của Thượng Sanh.
Thượng Sanh là cây cờ của Thế, tức là Ðời, ấy vậy
Ðời nơi nào thì Thượng Sanh nơi đó. Người có quyền xem xét kẻ hành Ðạo, coi
Thánh đức có đắc nhơn tâm cùng chăng, nhược bằng kẻ ấy Thế Ðạo, không đủ tư
cách, thì người có quyền dâng sớ cầu xin thuyên bổ.
Thượng Sanh đối quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng
Ðài.
Hiệp Thiên Ðài là luật lệ, mà Thượng Sanh lại là
chánh trị, ấy vậy là người của Cửu Trùng Ðài nơi Hiệp Thiên Ðài.
Thượng Sanh và tứ vị Thời Quân về chi Thế cũng phải
thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
(Trích lục Pháp Chánh Truyền trương 58 đến 60).
THIÊN
PHỤC
của
Chức Sắc HIỆP THIÊN ÐÀI thuộc ba Chi
ÐẠO
PHỤC CỦA HỘ PHÁP
Ðạo Phục của Hộ Pháp có hai bộ, một bộ Ðại Phục và
một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục, Người phải mặc giáp, đầu đội Kim khôi
toàn bằng vàng, trên Kim khôi có Thể Tam Sơn, giống như cái chỉa ba ngạnh,
nghĩa là: Chưởng Quản Tam Thiên bên Tây Phương Cực Lạc. Chơn đi hia, trên chót
mũi hia có chữ "PHÁP",
ngoài giáp thì choàng mãng bào, thế nào bên tả thì giáp, bên hữu thì mãng. Tay
hữu (bên Ðạo nghĩa là bên Thượng Phẩm) cầm Giáng Ma Xử (thể lấy Ðời chế Ðạo),
còn tay tả (bên Thế nghĩa là bên Thượng Sanh) nắm xâu chuổi "Từ Bi" (thể lấy Ðạo chế Ðời)
thành ra nửa Ðời nửa Ðạo, ngang lưng cột dây Lịnh Sắc có ba màu Ðạo (thể Chưởng
Quản Tam Giáo nơi mình) nắm trọn Thể Pháp và Bí Pháp đặng qui nhứt, cái mối dây
Lịnh Sắc phải ngay chính giữa bụng.
Bộ Tiểu Phục thì toàn bằng hàng vàng (màu Ðạo), đầu
đội Hỗn Ngươn Mạo màu vàng (bề cao một tấc), ngay trước trán chính giữa có thêu
ba Cổ Pháp của Tam Giáo (là bình Bát Vu, cây Phất Chủ và bộ Xuân Thu) ngay trên
Cổ Pháp ấy có chữ "PHÁP",
lưng nịt dây Lịnh Sắc y như Ðại Phục.
Khi ngồi Tòa Tam Giáo thì mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại
phục thì chỉ để khi ngự trên Ngai mình.
ÐẠO
PHỤC CỦA THƯỢNG PHẨM
Ðạo Phục Thượng Phẩm cũng có hai bộ, một bộ Ðại
Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng trắng, ngoài mặc áo
lá màu xanh có viền chỉ kim tuyến bạc. Ðầu để trần, chơn đi giày vô ưu màu
trắng, trước mũi có chữ "ÐẠO",
lưng buộc dây Lịnh Sắc y như Hộ Pháp, song mối phải thả ngay bên hữu. Tay hữu
cầm Long Tu Phiến (nghĩa là cây quạt kết đủ 36 lông cò trắng), trên đầu quạt
ngay giữa có Phất Chủ (thể quạt đưa các Chơn hồn vào Tam Thập Lục Thiên, nghĩa
là vào Thiên vị) tay tả nắm xâu chuỗi Từ Bi (thể dâng Ðạo vào cho Hộ Pháp).
Bộ Tiểu Phục cũng bằng hàng trắng, lưng cột dây
Lịnh Sắc y như Ðại Phục, đầu đội Hỗn Ngươn Mạo màu trắng y như của Hộ Pháp,
ngay giữa trán có thêu Long Tu Phiến, ngay trên hình Long Tu Phiến có chữ "ÐẠO".
Khi đến Tòa Tam Giáo thì mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại
Phục chỉ dùng khi đến ngự trên Ngai mình.
ÐẠO
PHỤC CỦA THƯỢNG SANH
Ðạo Phục của Thượng Sanh cũng có hai bộ, một bộ Ðại
Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục cũng y như Thượng Phẩm, đầu bịt Thanh
Cân (nghĩa là một bao đảnh xanh), lưng mang dây Thần Thông (nghĩa là một đường
lụa đỏ) và nịt dây Lịnh Sắc y như của Hộ Pháp và Thượng Phẩm, song mối phải thả
ngay bên tả, nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm (thể tạo Thế và chuyển Thế) tay hữu
cầm cây Phất Chủ (thể đưa Thế vào cho Hộ Pháp), tay tả nắm xâu chuỗi Từ Bi (thể
dâng Ðạo cho Nhơn sanh) chơn đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ
"THẾ".
Bộ Tiểu Phục cũng y như của Thượng Phẩm, song ngay
trước mão, chính giữa có thêu Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ, có chữ
"THẾ", lưng cột dây Lịnh Sắc như Ðại Phục.
Khi đến Tòa Tam Giáo thì phải mặc bộ Tiểu Phục, còn
Ðại Phục thì chỉ khi đến ngự trên Ngai mình.
ÐẠO
PHỤC CỦA THẬP NHỊ THỜI QUÂN.
Ðạo Phục của Thập Nhị Thời Quân có hai bộ, một bộ
Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục toàn bằng hàng trắng, cổ trịch viền chỉ
kim tuyến bạc, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo cũng bằng hàng trắng, lưng nịt dây Lịnh
Sắc theo Chi mình mà thả mối, chơn đi giày vô ưu màu trắng.
Bộ Tiểu Phục cũng toàn hàng trắng, lưng nịt dây Lịnh
Sắc y như Ðại Phục, đầu đội Hỗn Ngươn Mạo cũng như Tiểu Phục của Hộ Pháp,
Thượng Phẩm, Thượng Sanh, song tùy theo Chi mình mà để Cổ Pháp, chân đi giày vô
ưu màu trắng.
Khi hành chánh, thì mặc Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì
khi Ðại Lễ.
(Trích lục những trương 61, 62, 63 Pháp Chánh
Truyền)
Nhưng sau khi xem khoản giải thích về Ðạo Phục, Ðức
HỘ PHÁP có dạy Ngài TRẦN KHAI PHÁP như vầy:
Thêm vào Ðại Phục và Tiểu Phục hiện thời, Ðức Hộ
Pháp và chư vị Thời Quân có thêm một kiểu Ðạo Phục mới nữa:
"Áo
cổ bẻ, có yếm tâm ở trước ngực, tay ráp rộng 25 phân".
"Mão
Tam Quan (Nhựt, Nguyệt, Tinh) tức là kiểu mão của Ðức Khổng Phu Tử trị thế ngày
xưa, màu trắng, có thêu chữ kim tuyến vàng, trước mão thêu Nhựt ở giữa, Nguyệt
bên hữu, Tinh bên tả. Trong vòng minh khí, mặt Nhựt có Cổ Pháp của mỗi Chi. Mỗi
bên hông mão, thêu 6 ngôi sao tám góc và 6 đường linh khí ".
Ðạo Phục nầy dùng hành lễ ngày thường.
Mỗi khi có Tiểu Ðàn, Ðức Hộ Pháp mặc Ðạo Phục cũng
y như trên, mà màu vàng.
GIẢI
THÍCH THÊM QUYỀN HÀNH CỦA HIỆP THIÊN ÐÀI
Trong Pháp Chánh Truyền, Ðức CHÍ TÔN có nói: "Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà
hành Ðạo, Thầy cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền thì ắt có trọng
phạt".
Vì lời khuyên ấy mà Ðức LÝ GIÁO TÔNG buộc cả Chức
Sắc Hiệp Thiên Ðài phải minh thệ giữa Hội Thánh: "Giữ dạ vô tư mà hành sự". Lại muốn tỏ ra rằng Chức Sắc
Hiệp Thiên Ðài thật trọng quyền, Ngài mới ban cho dây Sắc Lịnh. Khi một Chức
Sắc Hiệp Thiên Ðài mang dây Sắc Lịnh hành sự thì mọi người đều phải trọn tuân
theo, dầu phải, dầu không, không được cưỡng lại, chỉ có Hội Thánh mới có quyền
định tội hay trừng phạt vị ấy mà thôi.
Dưới đây xin sao lục lời của Ngài Khai Pháp giải về
quyền năng của dây Sắc Lịnh (thơ số 1421/ P.C) đáp hồi thơ số 47 ngày 23 tháng
9 Mậu Tý (dl. 25 10 1948) của Thừa Sử Nguyễn Huợt Hải, Pháp Chánh Kim Biên:
1/. Về quyền năng Thiêng Liêng: (thì người được
Hiệp Thiên Ðài ban dây Sắc Lịnh) là người đại diện của Hộ Pháp, trong khi hành
sự. Quyền hành y như Hộ Pháp khi thi hành mạng lịnh của Hộ Pháp, dây Sắc Lịnh
là tướng diện của luật pháp, chẳng một quyền nào tương đối lại đặng, khi hành
pháp, thảng như quá quyền thì người đại diện đó phải mang trọng tội là lợi dụng
hay là phỉ nhục Hộ Pháp.
2/. Quyền hành hữu hình: Cả cơ quan hữu vi của Ðạo,
dầu trọng, dầu khinh, đều phải cúi đầu vâng phục Người thay mặt cho Thiên Ðiều
tại thế, tổng hợp cả quyền Tam Giáo nơi mình đặng thi hành luật pháp.
Vì quyền hạn của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, dầu
thượng cấp, dầu hạ cấp, hễ Hộ Pháp ban cho tới đâu, hành quyền tới đó, nó không
có giới hạn định chắc cao hay thấp.
CHỨC
SẮC HIỆP THIÊN ÐÀI CÒN CÓ PHẨM NÀO?
Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ngoài ra Hộ Pháp, Thượng
Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân còn có:
Chức Sắc HÀN LÂM VIỆN, dưới quyền trực tiếp của
GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP, mỗi vị Chức Sắc nầy có sở thức, sở năng chuyên môn của
họ. Những Chức Sắc đó gọi là Thập Nhị Bảo Quân là:
Bảo Huyền Linh Quân
Bảo Thiên Văn Quân
Bảo Ðịa Lý Quân
Bảo Sanh Quân
Bảo Học Quân
Bảo Cô Quân
Bảo Y Quân
Bảo Văn Pháp Quân
Bảo Sĩ Quân
Bảo Nông Quân
Bảo Công Quân
Bảo Thương Quân
Về sau, nhân năm 1935, nhiều vị đạo hữu dày công
cùng Ðạo, vào sổ cầu phong, Ðức LÝ GIÁO TÔNG phê: "Ðể cho Hiệp Thiên Ðài định vị", nên Ðức HỘ PHÁP cầu hỏi
Ðức NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN và lập ra bảy phẩm Chức Sắc dưới nữa:
7 - Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn
6 - Chưởng Ấn
5 - Cải Trạng
4 - Giám Ðạo
3 - Thừa Sử
2 - Truyền Trạng
1 - Sĩ Tải
Sau nữa, Ðức Hộ Pháp ban Sắc Lịnh số 34 ngày 23
tháng 5 Bính Tý (11-7-1936) mở khoa mục tuyển chọn thêm một cấp nữa là Luật Sự
của Hiệp Thiên Ðài (Agent judiciaire) đặng làm tay chơn của quyền Tư Pháp.
SẮC
PHỤC CỦA CHỨC SẮC HIỆP THIÊN ÐÀI
THUỘC
CÁC PHẨM DƯỚI
Sắc phục của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài có một kiểu
giống như nhau, có hai bộ, một bộ Ðại phục và một bộ Tiểu phục.
Bộ Ðại phục thì đội Nhựt Nguyệt Mạo, mặc áo cổ
trịch, tay rộng màu trắng, chơn không mang giày, Cổ Pháp gắn hai bên hông mão,
từ phẩm Sĩ Tải trở lên, còn Luật Sự gắn hai bên vai.
Một bộ Ðại phục thay vì Tiểu phục, đầu đội mão kiểu
Khôi nguyên gắn Cổ Pháp ở trước trán, áo cổ bẻ, gài trước yếm tâm sáu nút, chơn
không mang giày.
Ðại phục mặc khi Ðại Lễ, Tiểu phục mặc ngày thường.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét