
Thành giả Thiên chi Đạo
Thành chi giả Nhơn chi Đạo
(Trung Dung)
Tặng quyển "Trên Đường Tấn Hóa"
của Tiếp-Pháp Trương Văn
Tràng.
Trên
Đường Tấn Hóa, bút Trương Quân,
Rừng
Đạo thêm hoa thật đáng mầng.
Trau
hạnh, giúp người vun thiện quả,
Tu
tâm, dìu khách thoát mê tân.
Rọi
đường chơn lý khêu đèn huệ,
Nâng
bước quần sinh tỉnh mộng trần.
Tam
giáo sưu tầm rành luận thuyết,
Công
phu quí trọng sánh ngàn cân.
24/04/1963
CAO THƯỢNG SANH
Hiệp Thiên Đài
TÒA THÁNH TÂY NINH
TÂM NIỆM.
Chúng tôi thành tâm đội ơn
các Đấng Trọn Lành lưu truyền giáo lý và các vị Tiền bối dày công chú thích,
phiên dịch giáo lý thành kinh điển, chúng tôi nhờ đó để nghiên cứu, học tập và
tham bác với Thánh Ngôn của Đức THƯỢNG ĐẾ, biên thành quyển sách nhỏ.
Nam mô CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Soạn giả kính
dâng.
TÁN THƯỞNG
Của Ông Hiến Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
Tôi rất hân hạnh được xem
quyển "TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA"
do bạn Tiếp Pháp Trương Văn Tràng sáng tác.
Trong lúc Đạo CAO ĐÀI đang
thiếu sách phổ thông, quyển sách nầy ra đời rất là cần ích cũng như bất luận
sách nào, thuộc loại khảo sát về đạo lý, hà huống tác giả là một Chức Sắc cao
cấp trong Đạo thì giá trị của tác phẩm ấy xứng đáng là dường nào!
Điều nên nhớ là "Đăng chúc cầu minh, đọc thơ cầu lý".
Cái hay của quyển sách không phải chỉ xem qua rồi nhận xét được, mà cần phải
suy nghiệm ý tứ và lời lẽ. Bất luận trong một quyển sách nào cũng vậy, cái yếu
lý của nó chỉ quy vào một điểm mà thôi, chớ không phải ở toàn bộ cuốn sách, cho
nên mới có câu "Đọc thơ cầu lý"
là vậy.
Một lần nữa, tôi rất hân
hạnh được giới thiệu tác phẩm này cùng bạn đọc.
Hiến Pháp H. T. Đ.
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ
ÐỘ
(Tam Thập Bát
Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
LỜI PHI LỘ
Của Ông Bảo Thế LÊ
THIỆN PHƯỚC
Trần tục là cõi sầu than
khổ lụy dành cho các Đấng vô hình vì bị tội lỗi, lạc lầm mà phải sa đọa đặng
tìm phương giải thoát trầm luân qui hồi cựu phẩm. Trần tục cũng là trường thi
công đức, dành cho khách phàm trả nợ tiền khiên, dứt đường oan trái đặng lập vị
thiêng liêng khỏi luân hồi chuyển kiếp.
Khái niệm như trên thì bao
nhiêu khổn trần, là bấy nhiêu bài học, mặc dầu mặn đắng chua cay, nhưng cứu
cánh là cảnh tỉnh người trí, rút lấy kinh nghiệm, quay về đời sống thuận theo
Thiên lý, bỏ đời sống dựa theo nhục dục. Thiên lý là Đạo, nhục dục là tội tình.
Đạo thì mãi còn, tội tình thì sớm mất.
Vả lại, Đạo không xa
người, duy người xa Đạo, nên sách rằng: "Đạo
giả dã bất khả tu du ly dã. Khả ly phi Đạo dã". Bởi đó:
Người không Đạo thì xử sự không hợp lý, hợp tình.
Nhà không Đạo thì luân thường đảo ngược.
Nước không Đạo thì chơn trị không còn.
Vậy thì ngày nào con người
còn mạnh tranh trên thị trường cơm áo đất đai; ngày nào thiên hạ còn nhị phân
lý tưởng, chưa hòa đồng trên một độc nhứt kế hoạch tồn sinh, thì khó trông mong
tái lai ngày quang đảng.
Ánh Thái Dương rọi sáng
khắp nơi, nẻo Đạo Đức dễ tìm khắp chốn, nhưng nhơn tâm còn lắm say sưa trong
phồn hoa ảo mộng, thì phương tối hậu để vén màn hắc ám là nhờ năng lực tinh
thần của Tôn giáo.
Từ thử nhiều Tôn giáo đã
đem hết thiện chí trợ khổn cho đời, nay ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ cũng cùng theo
một chí hướng.
Với mục phiêu ấy và thể
theo những nhà khảo cổ tiền nhân Việt Nam trong thế kỷ XX, Trần Trọng Kim (Phật
Giáo), Phan Bội Châu (Khổng Học Đăng), Đạo huynh Tiếp Pháp Trương Văn Tràng góp
nhặt tài liệu tinh hoa của TAM GIÁO soạn thành quyển TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA giải
rành phương châm nhập thế và xuất thế. Cả hai phương châm đều thích hợp với sở
cầu của các giới trong đại chúng, từ bậc ưu thời, mẫn thế; bậc tu sĩ phế đời,
đến bậc thường nhơn, không giới nào đọc sách nầy mà không thỏa chí, vui lòng.
Quyển TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA
sẽ góp thêm một bửu vật trong kho tàng của TÔN GIÁO.
TÒA THÁNH, ngày 3
tháng 3 năm Quý Mão
(27- 3 - 1963
d.l.)
BẢO THẾ
LÊ THIỆN PHƯỚC
LỜI GIỚI THIỆU
Của NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Khoa Trưởng Đại Học Văn
Khoa
SAIGON
Văn hóa Đông Nam Á vốn có
khuynh hướng truyền thống là tinh thần hợp hóa; cái tinh thần mà một bài cổ thi
Chà-và Autasoma đã toát yếu vào khẩu hiệu điển hình "Bhinueka Tunggal Ika" Đồng nhất trong sai biệt! Cái tinh
thần mà năm thế kỷ Lý Trần trong lịch sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã lấy
làm Quốc học Tam giáo.
Cái tinh thần mà học giả
danh tiếng Lê Quí Đôn (1726-1784) đã nhắc lại: "Thù đồ đồng qui, nhất trí
bách lự". Đường khác cùng về, trăm nghĩ đến một.
Cái tinh thần mà gần đây
đã biểu hiện ra nơi nhân dân miền Nam, thành một Tôn giáo hằng triệu Tín đồ,
nhất đán bỏ mặn; ăn chay.
Cái tinh thần ấy là một
thực kiện nhân văn linh động, thâm sâu không phải một chủ nghĩa phù phiếm vậy.
Mới đây tác giả "TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA" là cụ
Tiếp Pháp Trương Văn Tràng trong Tây Ninh, có nhã ý đem cho tôi đọc tập khái
luận về Triết lý Tam giáo của cụ.
Vốn mộ Đạo lý từ lâu, và
từ lâu mong mỏi phụng sự truyền thống văn hóa dân tộc, tôi lấy làm hân hạnh
được giới thiệu với độc giả cái Triết lý uyên thâm sâu rộng của Tam giáo:
Nho vì nhân sinh,
Lão vì thiên nhiên vũ trụ,
Phật vì tâm linh siêu nhiên.
Tuy ba mà là một, nền tảng
chung của triết học truyền thống Á châu, triết học ấy không phải là những hệ
thống danh lý khái niệm lạnh lùng mà là những đường lối thực hiện nguồn sống vô
hạn tràn ngập khắp hết các trình độ hiện sinh, vật lý, sinh lý, tinh thần và
siêu tinh thần, cho nên nó đòi người ta phải thông cảm với cả tâm tình và lý
trí.
Để trình bày cái Triết lý
Tam giáo ấy là cơ sở của Đạo Cao Đài thì không ai đủ tư cách hơn là một nhà
Tiếp Pháp đã đem đời sống cống hiến cho Đạo, cố thực hiện Giáo lý của Khổng Tử.
"Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ".
Nay giới thiệu
Saigon, ngày 6
tháng 12 năm 1962
(Ký tên)
NGUYỂN ĐĂNG THỤC
LỜI TỰA của SOẠN GIẢ.
Dường như người ta, ai
cũng có sẵn trong lòng một cái tinh thần tấn hóa. Chúng ta thấy mỗi người, mặc
dầu, ở địa vị nào; hoàn cảnh chi, cũng đều chăm chỉ thực hiện sự tấn hóa của
mình, với cách nầy; hoặc phương khác. Đứa học sinh cập sách đến trường học,
ngày qua, tháng lại, cứ miệt mài với đèn sách, gian lao khó nhọc không màng,
miễn hậu nhựt thành tài hữu dụng. Anh nhạc sĩ lắm khi quên ăn, quên ngủ, tập
dượt những bài đờn, tìm tòi những ngón hay, để đưa nghệ thuật của mình đến một
trình độ tuyệt xảo. Ngoài những sự tấn hóa thường thức nói đây, còn có một sự
tấn hóa theo đạo tự nhiên Trời Đất, cao quí hơn, thâm trầm hơn, linh động hơn.
Ở đây, chúng tôi muốn nói đường tấn hóa ấy.
Trong quyển "TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA" nầy,
chúng tôi muốn nói sự tấn hóa của một cá nhơn theo đạo tự nhiên Trời Đất, nghĩa
là kẻ học phải bắt chước Đạo Trời để sửa đạo người, lần hồi tiến bộ: từ chỗ dở
đến chỗ hay; từ chỗ tối đến chỗ sáng, làm cho mình có một tinh thần chí Chơn,
Thiện, Mỹ, vượt lên trên những tục lụy, trần ai và chung qui cầu sự giải thoát
kiếp Luân hồi ra ngoài vòng sanh tử, đặng trở về cảnh an nhàn tự tại, Phật gọi
là Niết Bàn, hay Cực Lạc Thế Giái.
Vậy phải học hỏi cách nào
để biết Đạo Trời mà làm theo?
Muốn học Đạo Trời, một mặt
chúng ta phải quan sát sự vật ngoài thế giái vạn hữu, tìm biết luật tự nhiên
tiềm tàng trong muôn loài. Khoa học thực nghiệm chứng minh rằng trong võ trụ có
điện khí, nguyên tử v.v... Chúng ta nương theo khoa học thực nghiệm để tìm học
về phương diện nầy.
Một mặt khác, chúng ta
quay về nội giới, tìm hiểu cái dịch lý của tâm lý và sanh lý; ý hội nội giới và
ngoại giới để biết Đạo Trời và đạo người rồi tận lực tu tập thân tâm của mình
cho đến chí Chơn, Thiện, Mỹ.
Cổ nhơn quan niệm rằng
thân tâm người ta là bầu Võ trụ nhỏ, hàm súc đủ tất cả mọi khí chất và lẽ nhiệm
mầu của Trời Đất. Ấy vậy, nên hễ biết Thiên Đạo thì biết được thân tâm mình,
hoặc biết được thân tâm mình thì biết được Đạo Trời Đất.
Thầy Tử Tư nói rằng: "Đạo chi bổn nguyên xuất ư Thiên, nhi
bất khả dịch, kỳ thiệt thể bi ư kỷ nhi bất khả ly". Nghĩa là: "Đạo gốc ở nơi Trời mà ra, người ta
chẳng khá sửa đổi; còn cái thể của Đạo có đủ trong mình, người ta chẳng khá lìa
xa".
Mạnh Tử nói: "Tận kỳ Tâm giả, tri kỳ Tánh giả. Tri
kỳ Tánh tất tri Thiên hỷ". Nghĩa là biết hết Tâm thì biết được Tánh;
biết được Tánh thì biết được Trời.
Ông Socrate một vị Hiền Triết ở xứ Hy Lạp nói
rằng: "Connais toi toi même, tu
connaitras l'Univers". Nghĩa là: "Ông
hãy tự biết mình trước đi, rồi sau
ông sẽ biết được Võ Trụ".
Tự biết mình đây Phật giáo gọi là tự giác. Thế
mà tự giác là sao?
Tự giác đây chẳng phải biết hình hài tốt xấu,
cao thấp mập ốm, mà thật phải biết tật hư, nết xấu, đức tốt hạnh lành rồi cố gắng diệt trừ
bên nầy; hàm dưỡng bên kia, lần hồi tạo lập cho mình một tinh thần đạo đức cao siêu, linh động đúng theo cái hòa điệu của
Trời Đất, vượt ra ngoài những tục lụy, trần ai và chung qui cầu sự giải thoát
kiếp luân hồi ra ngoài vòng sanh tử. Công phu tu tập lấy Niết Bàn làm chuẩn
đích.
Niết Bàn ra sao?
Chữ Niết Bàn có nhiều ý nghĩa khác nhau như: Hữu dư Niết
Bàn, Vô dư Niết Bàn v.v... Ở đây, chữ Niết Bàn có nghĩa là diệt độ, tức một
trạng thái tâm linh, quét sạch cả vô minh, nghiệp chướng, lâng lâng trong sạch,
quyền năng của nó có thể cảm thông với Đức Chí Linh: Toàn tri năng, tận thiện
mỹ, tức Đại Từ Phụ sanh dục muôn loài vạn vật. Người tu hành đạt tới trình độ
nầy, thì sống theo đạo tự nhiên. Họ coi muôn loài là anh em một nhà. Họ coi võ
trụ là đại gia đình của vạn vật. Họ là một phần tử của võ trụ: đời sống của họ
luôn luôn khích lệ trên nền tảng: "Giữ
Thiên Địa đồng sanh, giữ vạn vật đồng thể". Học Đạo Trời để làm qui củ
thể hiện đạo người, tức thực hành câu sách Trung Dung: "Thành giả Thiên chi Đạo; Thành chi giả nhơn chi Đạo".
Để tiện bề giảng giải pháp
môn tự giác, tự tu, chúng tôi tạm chia quyển sách nầy ra năm phần:
I . Võ Trụ Thiên
Địa
II . Võ Trụ Dịch
Lý
III . Phương châm
nhập thế
IV . Phương châm
xuất thế
V . Kết luận.
Năm phần nầy, đại cương
nghị luận pháp môn tu tập. Còn giảng giải chi tiết, chúng tôi thể theo giáo lý
của Tam Giáo và Thánh Ngôn của Đức Thượng Đế mà thuật lại, chớ sự thật chúng
tôi không bịa đặt điều gì cả.
Có điều chúng tôi xin thưa
trước là: Đạo pháp rộng mênh mông như biển. Người học Đạo pháp ví như chim uống
nước biển. Thử hỏi: Từ xưa có chim nào uống cạn nước biển chăng? Ắt không. Thì
người học Đạo pháp cũng vậy. Trừ ra các vị Giáo chủ siêu phàm thì không nói,
còn hạng thường nhơn như chúng ta chẳng qua tìm học một vài pháp môn sơ đẳng,
cầu sự giải thoát tâm linh mà thôi. Chơn truyền của Đức Thầy chúng tôi dạy rất
chu đáo, nhưng sự thực hiện đạo đức, chúng tôi còn khuyết điểm là tại sự giác
hành của chúng tôi chưa viên mãn, nhưng, nghĩ vì bổn phận kẻ hành đạo chẳng
phải tự độ mà còn phải độ tha nữa. Quyển sách nhỏ nầy ra đời chỉ vì soạn giả
muốn góp chút công vào cơ phổ độ. Mặc dầu sự khuyết điểm không ít, mong rằng nó
sẽ giúp bạn đồng môn một phần nhỏ mọn nào.
SOẠN GIẢ CẨN CHÍ
VÕ TRỤ THIÊN ĐỊA
Đây chúng tôi muốn nói về
Võ Trụ đạo đức tâm linh, nghĩa là chúng tôi muốn tìm hiểu đạo tự nhiên tạo lập
Càn Khôn, hóa sanh vạn vật; lưu hành trong không gian, thời gian và có liên đới
quan hệ với đời sống của người, để rồi theo đó chỉnh đốn lẽ sống của mình, hầu
tránh khỏi hệ lụy trần ai; không vướng mắc trong luật Nhơn quả; chung quy, cầu
sự giải thoát kiếp Luân hồi.
Thế đạo tự nhiên ra sao?
Chúng tôi đã giảng diễn
trong quyển Đại Đạo Giáo Lý rồi, đây không nhắc lại, mà chỉ nghị luận thêm hai
chương như sau, để giúp cho sự học hành được sáng tỏ thêm hơn.
I . Đấng Tạo Hóa
II . Luật Nhơn Quả, Luân Hồi.
PHẦN THỨ NHỨT
ĐẤNG TẠO HÓA
Theo lẽ thường, hễ trông
thấy một tòa nhà nguy nga, đồ sộ, chúng ta liên tưởng đến vị kiến trúc sư, phác
họa và tạo tác ra nó. Trông thấy một đứa bé ngộ nghĩnh, chúng ta nghĩ ngay đến
cha mẹ nó. Cũng như trông thấy võ trụ bao la, trên có trời che, dưới có đất
chở, sơn xuyên thủy tú, thảo mộc muôn màu, lại ngẫm đến vạn vật, thiên hình vạn
trạng, và mỗi mỗi đều an bày một cách tuyệt diệu thì chúng ta nghĩ ngay đến
Đấng Sáng Tạo thế giái vạn hữu. Vậy thử hỏi Đấng ấy là ai?
Chúng tôi xin đáp ngay: Đó
là Đấng Tạo Hóa. Mời quý ngài cùng chúng tôi tham khảo như sau:
Tham cứu kinh điển xưa:
Bà La Môn giáo có giảng
cái thuyết: "Tam vị nhứt thể".
(Brahma, Vishnou, Shiva). Đạo giáo có nói lẽ ứng hóa Tam Thanh (Thái Thanh,
Thượng Thanh, Ngọc Thanh). Thế thì đủ rõ một vị là Đấng Thượng Đế ứng hóa Tam
Thể.
Tham cứu lễ nghi thờ phượng:
Tôn giáo nào cũng sùng bái
một Đấng cao cả hơn hết trong Càn Khôn Võ Trụ, tức Đấng Tạo Hóa, nhưng mỗi
Giáo, tùy cách lập ngôn mà xưng tụng một danh từ riêng biệt như: Phật giáo Đại
Thừa thờ A Di Đà Phật, tức Đức Phật sanh trước muôn vàn Đức Phật khác. Đạo giáo
thờ Đức Thái Thượng, tức vị Tiên tối cao. Nho giáo thờ Đức Thượng Đế, tức vì
vua Thượng giới, nay Khai Đại Đạo, Đức Ngài tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT
MA HA TÁT. Danh từ tuy khác, song tựu trung chỉ có một Đấng Chí Linh.
Tham cứu thực tế:
Người thế nhơn, chưa mấy
ai nghe lời của Trời nói; chưa mấy ai trông thấy Thiên thể của Trời, song, mỗi
khi lâm nạn ai ai cũng kêu Trời cầu cứu. Vậy đủ biết lòng tín ngưỡng Đức Chí
Tôn chẳng phải mới phát minh ngày nay, mà thật đã có từ ngàn xưa, nhơn loại vẫn
còn truyền thống cho nhau.
Rất may cho nhơn loại,
ngày nay Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Tiên gia, khai mở mối Đạo Trời. Nhờ đó,
chúng ta xác nhận sự hiện hữu của Thái Cực Thánh Hoàng (1) được rõ ràng hơn.
Xem như hai vị Đồng tử phò Ngọc cơ ở giữa đàn tế lễ trong giây lát Ngọc cơ
chuyển động, viết ra chữ. Thử hỏi tại sao Ngọc cơ viết ra chữ: Ấy là khi tế lễ,
người hầu đàn thành tâm cầu nguyện cảm ứng Đức Chí Tôn, rồi Đức Ngài dùng Thần
lực, giáng điển linh, huy động Ngọc cơ viết ra chữ.
(1) Đức Thượng Đế ngự trên
ngôi Thái Cực nên gọi là Thái Cực Thánh Hoàng. Hơn nữa, bài Ngọc Hoàng Kinh có
câu: "Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng".
Để minh xác rõ ràng thêm
nữa, chúng tôi theo sách Ấn Độ, chép chuyện người con hỏi cha về chân lý như
sau:
Người con nói: - Thưa cha,
xin cha giảng chân lý cho con nghe.
- Được, con lấy một nắm
muối bỏ vào chậu nước, đến sớm mai ngày sau, con trở lại xem.
Người con cứ theo lời dạy
mà làm. Và hôm sau người cha bảo nó:
- Muối mà con bỏ vào nước
hôm qua, con mang lại đây cha coi.
Bây giờ người con vớt mãi
mà chẳng thấy muối, vì muối đã tan rã và hòa với nước rồi.
- Con hãy nếm nước trong
chậu, trên mặt xem thế nào?
- Thưa cha mặn.
- Hãy nếm nước ở giữa
chậu.
- Thưa cha mặn.
- Nếm cho thật kỹ rồi lại
đây cha bảo.
Người con nếm đi nếm lại
và nói:
- Thưa cha, vẫn thế.
Người cha bây giờ, trịnh
trọng nói:
- Thế đó con ạ! Con không
phân biệt cái thực thể tinh vi tạo dựng võ trụ, sanh hóa vạn vật, vì nó đã hòa
hợp với thế giái vạn hữu, cũng như muối tan rã và hòa hợp với nước kia vậy.
Chuyện nầy đại ý cũng như
câu Thánh ngôn Đức Chí Tôn nói rằng: "Các
con đủ hiểu rằng mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do chơn linh Thầy mà ra.
Có sống ắt có Thầy. "Thầy là Cha sự sống, vì thế mà lòng háo sanh của Thầy
vô cùng tận".
Hoặc, cũng như kinh
Upanishads nói rằng: "Tất cả cái gì
hiện hữu ở thế gian đều có Thượng Đế bao bọc. Cái thực thể ấy là nguồn sống
tràn ngập Trời Đất. Từ các vì tinh tú vận chuyển bình hành trong vòng trật tự,
cho đến các loài cầm thú, thảo mộc, đều nương nhờ nguồn sống vô biên đó".
Có điều khó cho người thế
nhân, là vì Đức Chí Tôn ngự trên ngôi Thái Cực tuyệt đối, im lìm lặng lẽ. Người
ta không dùng trí phàm ngẫm nghĩ được; không dùng ngôn ngữ nói rõ được, thành
thử, nhiều người bán tín; bán nghi. Trái lại, người có đức tin thì mặc khải,
cảm thông với Đức Chí Tôn một cách tinh tường. Các nhà chơn tu nhờ lòng tín
ngưỡng ấy mà đạt được chơn lý hoàn toàn.
CHƯƠNG THỨ HAI
LUẬT NHƠN QUẢ, LUÂN HỒI
Kể từ thuở Âm Dương tương
hiệp, tạo thành Càn Khôn; hóa sanh vạn vật thì không gian vô tận, vô biên,
không hình không sắc, tức Đạo, giữ vững cơ định quả; còn thời gian chịu luật
định hình. Nghĩa là thời gian chiếu theo luật định của không gian rồi vận
chuyển; chuyển vận định hình muôn vật. Vậy, sự sanh thành muôn loài không phải
ngẫu nhiên, mà thật có Nhơn trước rồi sau mới có Quả.
Sau đây chúng tôi lược
khảo Luật Nhơn Quả và Luân Hồi.
I .
NHƠN QUẢ
Nhơn chỉ về hột giống; Quả
chỉ về trái mới sanh. Nhơn quả nghĩa đen là trồng cây nào thì hái trái ấy. Về
Đạo pháp nhơn quả có nghĩa bóng là làm lành thì có phước trả lại; làm dữ thì
họa đến chẳng sai. Luật báo ứng định: Hễ có Nhơn thì có Quả, cũng như trồng cây
thì hái trái, như đã kể trên. Kinh Phật thường lấy sự trồng dưa, để cắt nghĩa
luật báo ứng. Chúng tôi xin phân tách như sau, để rồi nương theo mà nhận thức
Luật Nhơn Quả đối với kiếp người.
Hột dưa gieo xuống đất là
Nhơn.
Đất, nước, gió và hơi nóng
mặt trời là Duyên.
Trái dưa mới sanh là Quả.
Nhơn, Duyên, Quả là ba yếu
tố cấu sanh muôn loài vạn vật. Đối với kiếp người thì tư tưởng, lời nói, việc
làm, sau khi động tác rồi, còn lưu lại trong không gian một dấu vết ấy là Nhơn.
Tinh thần của Võ Trụ là
Duyên.
Phước họa trả lại là Quả.
Theo lẽ nầy mà suy ra,
chúng ta hiểu rằng: những điều phước họa bây giờ là kết quả của sự hành động
trước, hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc trong kiếp quá khứ. Còn những hành động
bây giờ sẽ là Nhơn ngày sau, hoặc mau thì trong kiếp nầy; hoặc lâu thì trong
kiếp vị lai. Kinh Phật thường ám chỉ sự báo ứng liên tục trong ba đời, cho nên
nói rằng: kiếp hiện tại vừa trả quả cho kiếp quá khứ; vừa tạo nhơn cho kiếp vị
lai, rồi Nhơn kia, Quả nọ; Quả nọ, Nhơn kia liên kết thành một đoàn dây duyên
nghiệp, ràng buộc chúng sanh trong bánh xe luân hồi, hằng xoay mãi không lúc
nào ngừng.
Đã hiểu như thế, nay muốn
giải thoát Kiếp Luân Hồi thì tất nhiên phải tránh Luật Nhơn Quả, nghĩa là chẳng
tạo ác nghiệp thì ắt chẳng có ác quả. Mà hễ không nghiệp quả tiện thị chẳng có
kiếp luân hồi.
II .
LUÂN HỒI
Người Phật tử ý thức rằng:
một kiếp sống của người ta có hai giai đoạn: Sanh và Tử. Sanh là mối bắt đầu
của tử. Tử là chỗ khởi thỉ của sanh, cũng như mùa xuân ngấm ngầm nẩy nở trong
mùa đông. Kiếp sống ấy chẳng phải đến với người ta một đôi lần, mà nó đã trải
qua nhiều lắm rồi và nó còn sẽ còn đến nữa mãi mãi và mãi mãi nếu người ta
không giác ngộ.
Đức Chí Tôn có giáng cơ
dạy rằng:
THÁNH NGÔN: "Các con sanh trưởng nơi thế nầy, khi
tử hậu các con đi đâu. Chẳng có một đứa nào hiểu cơ mầu nhiệm ấy.
Thầy nói cả kiếp luân hồi của chúng sinh, Thầy đổi từ
vật chất ra thảo mộc, từ thảo mộc ra côn trùng, từ côn trùng ra thú cầm. Loài
người phải chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn phẩm.
Nhơn phẩm chia ra nhiều hạng: Bậc Đế Vương nơi địa cầu
nầy chưa bằng bậc chót của Nhơn phẩm địa cầu 67. Nhơn phẩm chia ra nhiều cấp,
số địa cầu càng cao, nhơn phẩm càng quý trọng; mãi đến đệ Nhứt cầu, Tam thiên
Thế giới, Tứ đại Bộ châu, rồi mới vào Tam thập lục Thiên, qua Tam thập lục
Thiên, còn phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới vào Bạch Ngọc Kinh, Phật gọi là
Niết Bàn.
Một kẻ kia, tuy chưa có chưn trong Tôn giáo, song đã
làm tròn Nhơn đạo, tức làm xong bổn phận Người, thì buổi chung quy, cứ theo nấc
trên mà tiến lần. Trên đường về Thầy, các con thử nghĩ ngày nào mới đến? Vì
vậy, Thầy ban cho nhơn loại một quyền hành rất rộng. Nếu các con sớm tỉnh ngộ,
một đời tu cũng có thể trở về cùng Thầy. Nhưng tiếc thay, Thầy chưa từng thấy
kẻ ấy".
Sau đây, chúng tôi thể
theo Thánh ngôn của các Đấng Trọn Lành giáng cơ dạy, lược giải Luật Luân Hồi
đối với ba xác thân người ta là:
Nhục thân
Chơn thần
Chơn linh.
LUÂN HỒI CỦA NHỤC THÂN
Cả cơ chuyển sanh, biến
kiếp, đều do khí Âm Dương, Ngũ hành, diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành.
Nghĩa là từ buổi thành hình trong thai bào, đến khi ra đời và nên vai, nên vóc,
lúc nào cũng nhờ Âm Dương, Ngũ hành sanh hóa, trưởng dưỡng. Mãi đến khi thể xác
mãn kỳ sanh thọ, thì thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, các yếu tố lại hườn nguyên
về bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hóa hình hài khác nữa.
Vậy, nhơn thân vốn tạm khí
chất của năm hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ cấu thành. Cho nên người phải
vay nợ của các giống ấy, gọi là nợ tiền khiên. Đó là Luật Nhơn Quả đã định cơ
vay trả, trả vay, dầu ai muốn chối cũng không chối được. Mà Nhơn quả là nguyên
nhân sanh kiếp Luân hồi. Tôn giáo thành lập ở thế gian, mục đích giúp phương
tiện cho người thanh toán mối nợ tiền khiên đó.
LUÂN HỒI CỦA CHƠN THẦN
Chơn thần cũng gọi là Thần
quang, cái thể bán hữu hình ấy có một sức mạnh thiêng liêng và có bổn phận dìu
dẫn nhục thân hành động theo Thiên lý.
Trong lúc sanh tiền, nếu
Chơn thần kiềm chế được nhục thân hành động trọn vẹn theo Đạo thì Chơn thần sẽ
được hiệp một với Chơn linh, tạo nên một thể khí vô vi, chẳng những khi tử hậu
được siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn tương đối, mà buổi sanh tiền cái thể khí
ấy cũng có thể xuất ngoại vân du khắp cõi Ta bà nữa. Người tu đến đây gọi là
đắc đạo. "Thân ngoại hữu thân".
Trái lại, nếu trong lúc sanh tiền, Chơn thần không kiềm chế được nhục thân, để
nó buông lung theo phàm trần; phóng túng theo vật chất, gây ra tội tình, ác
nghiệp thì chung quy, khi nhục thân tan rã dưới mồ rồi, Chơn thần phải chuyển
kiếp khác, để tạo dựng một nhục thân khác thô kệch thấp hèn hơn, đó gọi là thối
hóa.
LUÂN HỒI CỦA CHƠN LINH
Chơn linh người ta là điểm
sáng của Trời phú cho. Nó hằng nương theo Chơn thần đặng dự trường thi công quả
tại thế gian. Chơn thần có phận sự chế ngự nhục thân. Chơn linh lại phải gìn
giữ Chơn thần.
Trong kiếp hiện tại, nếu
Chơn thần không chế ngự được nhục thân; Chơn linh không gìn giữ được Chơn thần
chăm theo Luật pháp Chơn truyền thì sau khi nhục thân tiêu diệt, Chơn thần phải
chuyển kiếp. Còn Chơn linh thì phải chờ mãi đến khi nào Chơn thần tạo được một
nhơn hình khác; đầy đủ thiện quả thì Chơn linh mới đến cùng Chơn thần hiệp
nhứt, tạo nên thể khí Vô vi như đã nói trên, tiếng thông thường gọi là đắc vị
thiêng liêng.
Theo luật tự nhiên, người
tu hành phải tạo kỳ được thể khí vô vi nầy, thanh khiết, diệu huyền, thì mới có
thể siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn tương đối và trở về với Thái Cực tuyệt
đối, ấy là Luật Luân Hồi của Chơn linh.
Tóm lại, cõi thế gian là
một trường học lớn và là một trường thi công quả của cả chúng sanh. Đắc thì về
cõi thiêng liêng hằng sống; thất thì ở lại trần gian. Đắc thì giải thoát kiếp
sanh tử; thất thì còn lẫn lộn, chen lấn cùng các vật thể hữu vi trong cõi trần
hoàn tương đối, để định cơ chuyển luân, tấn hóa; mà then chốt là Luật Nhơn Quả
và Luân Hồi. Chữ Nhơn quả và Luân hồi, thường đấp đổi lẫn nhau mà cắt nghĩa
cuộc sanh tử của chúng sanh. Bởi vì có Nhơn quả mới có Luân hồi. Hoặc có Luân
hồi mới có Nhơn quả. Ấy vậy, nên hễ ngày nào, chúng sanh chẳng tạo Nhơn quả thì
ắt chẳng có Luân hồi, mà hễ chẳng có Luân hồi thì cũng không gây ra Nhơn quả.
Không Nhơn quả, không Luân hồi tiện thị là giải thoát kiếp sanh tử.
PHẦN THỨ HAI
VÕ TRỤ DỊCH LÝ
Khoa học và Đạo học, đều
công nhận vạn vật dưới gầm trời thay đổi; đổi thay không ngừng. Cổ nhơn cho sự
biến đổi ấy là do dịch lý của Võ Trụ, (tức Đạo) mà ra.
Chúng tôi thể theo giáo lý
của Đạo giáo và Nho giáo tham bác với Thánh ngôn của Đức Chí Tôn để giảng diễn
cơ tạo lập Trời Đất, hóa sanh muôn loài, do Đạo trải qua hai thời kỳ biến
chuyển kể như sau:
* Tiên Thiên Đại Đạo
* Hậu Thiên Đại Đạo.
TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO;
Tiên Thiên Đại Đạo, là Đạo
có trước Trời. Chỗ nầy Đạo Đức Kinh chương I có nói rằng: "Vô danh Thiên Địa chi thỉ". Cái vô danh có trước Trời
Đất. Trong Đạo Đức Kinh, chương 42, Đức Lão Tử nói rằng: "Đạo sanh nhứt; nhứt sanh nhị". Nghĩa là Đạo sanh Thái
Cực; Thái Cực sanh hai khí Âm Dương, chỗ nầy Nho Giáo nói rằng: "Vô Cực nhi Thái Cực". Thái
Cực sanh Âm Dương nhị khí. Còn Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"Khi chưa có Trời Đất thì khí Hư vô sanh có một
Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi
sanh Tứ Tượng; Tứ Tượng biến ra Bát Quái; Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập Càn
Khôn Thế Giái".
Vậy cái Vô danh, Vô cực,
hay khí Hư vô, tuy có khác danh từ nhưng tựu trung vốn một, mà Đức Lão Tử tạm
gọi là Đạo. Còn Âm Dương do Thái Cực sanh ra là hai yếu tố tạo lập Càn Khôn Thế
Giái.
Nay như hỏi cái Vô danh mà
Đức Lão Tử tạm gọi là Đạo kia ra sao? Ngài nói rằng: "Có vật tự nó sanh nó. Vật ấy có trước Trời Đất yên lặng trống
không; đứng riêng một mình mà chẳng hề nghiêng chích; lưu hành khắp nơi mà
chẳng hề mỏi mòn. Vật ấy khá gọi là nguồn sanh hóa thiên hạ. Ta chẳng biết tên,
song mượn chữ gọi là Đạo". "Hữu
vật hổn thành. Tiên Thiên Địa sanh, tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, châu
hành nhi bất đãi; khả dỉ vi thiên hạ mẫu, ngô bất tri kỳ danh; tự chi vi
Đạo" (Đạo Đức Kinh, chương 25). Rồi Ngài nói tiếp rằng: "Ta suy diễn
thì thấy Đạo lúc nào cũng có một thể, không biết đâu là đầu đuôi; đâu là manh
mối; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta trông lên phía trên thì không thấy phản
chiếu ánh sáng; xem xuống phía dưới thì không thấy ẩn khuất bóng tối, lâng lâng
trong sạch, hồn nhiên, giản dị, mà chính Đạo là bản thể của Võ trụ".
Muốn được rõ thêm, chúng
ta nên xem lại lời của Chu Liêm Khê là một danh Nho đời Tống bên Tàu kể như
sau:
"Vô cực nhi Thái cực". Tại sao lại nói
Vô cực mà Thái cực: Bởi vì Vô cực là cái thể "Tịnh"; Thái cực là cái
thể "Động". Cái Động ở
trong cái Tịnh mà ra; cho nên nói rằng: Vô cực mà Thái cực. Đứng về mặt tham
cứu, người ta không thể ngẩm nghĩ luận bàn về được cái thể của Vô cực, thành
thử người ta căn cứ vào Thái cực là cái động thể để nghiên cứu sự dịch lý.
Nên hiểu rằng: đối với Vô
cực thì Thái cực là động thể, cho nên Thái cực hàm súc hai trạng thái là Tịnh
và Động. Tịnh thì Thái cực sanh khí Âm. Tịnh hết sức rồi lại Động, mà hễ Động
thì Thái cực sanh khí Dương. Âm Dương là hai yếu tố biến hóa vô cùng, kể đại
lược như sau:
Nguyên Âm Dương có tánh
tương khắc mà lại tương hòa. Bởi tương khắc, cho nên Âm Dương gặp nhau thì xô
xát, mà xô xát cùng cực rồi lại điều hòa. Chính sự hỗn độn điều hòa của hai khí
Âm Dương là cơ định vị Trời Đất.
Theo sách Nho, trong lúc
Âm Dương hỗn độn điều hòa thì khí nhẹ bay lên thành Trời; khí nặng chìm xuống
thành Đất, và sau khi phân ngôi vị Trời Đất rồi, trong khoảng không gian ở giữa
Trời Đất, khí Âm Dương lại hỗn độn điều hòa nữa mà hóa sanh muôn loài.
Nói rút lại, thời kỳ Tiên
Thiên Đại Đạo biến hóa nói trên đây là thể hiện "Hà đồ Bát Quái Tiên Thiên" của vua Phục Hi phát minh từ
Thượng cổ thời đại. Hà đồ vẽ HAI NGHI Âm Dương và cứ MỘT biến ra HAI; HAI biến
ra BỐN; BỐN biến ra TÁM; TÁM biến ra MƯỜI SÁU, và CỨ THẾ MÀ BIẾN HÓA VÔ CÙNG.
Lẽ nầy cũng giống như Đức Chí Tôn nói rằng: "Thầy
phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng; Tứ Tượng biến ra Bát
Quái. Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập Càn Khôn Thế Giái" như đã nói
trên.
HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO.
Nhắc lại, khi Trời Đất
phân ngôi cao, thấp rồi, trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí Âm Dương
hỗn độn điều hòa nữa mà hóa sanh vạn vật, chỗ nầy Đức Chí Tôn dạy rằng:
THÁNH NGÔN: "Khi tạo lập Càn Khôn Thế Giái rồi,
Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú
cầm, gọi là chúng sanh. Vậy, các con đủ hiểu rằng, mỗi vật hữu sanh nơi thế
gian nầy đều do Chơn linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha sự sống.
Vì vậy, nên lòng háo sanh của Thầy vô cùng tận".
Câu Thánh ngôn trên đây
đại ý nói rằng: "Khi tạo lập Trời
Đất rồi; Đức Ngài phân tánh mà sanh vạn vật. Tánh ấy, khi tách khỏi Đức Chí Tôn
rồi, theo Đạo tự nhiên lưu hành khắp Võ trụ, và hễ đến đâu, thì nó tùng luật
"hấp dẫn" thu hút những khí chất đồng loại với nó để rồi cấu thành
vật thể của nó. Ấy vậy, nên Nhơn thân hàm xúc đủ khí chất và lẽ nhiệm mầu của Võ
trụ. Bởi vì người ta là một vật trong số muôn loài, cho nên người ta ai cũng
phải ở trong công lệ hóa sanh của Đạo". Chỗ nầy Đạo Đức Kinh chương I
nói rằng:
"Hữu danh vạn vật chi mẫu". Chữ hữu danh đây
chỉ về Tượng Trời Đất (Le ciel et la terre) là nguồn sanh hóa vạn vật.
Cũng đồng với lẽ này,
chúng ta thấy Kinh Dịch chép rằng:
"Thiên Địa nhơn huân vạn vật hóa thuần, nam nữ
cấu tinh vạn vật hóa sanh". Nghĩa là Trời Đất ngui ngút, vạn vật theo đó mà
hóa thuần. Muôn loài, đến lượt nó, khi trưởng thành rồi, giống đực, giống cái,
giao cấu mà sản xuất thêm ra mãi.
Đây là thể hiện Hậu Thiên
Bát Quái của vua Võ đời nhà Hạ. Tiên Thiên Bát Quái của vua Phục Hi thì vẽ Âm
Dương, Hậu Thiên Bát Quái của vua Võ thì thể theo Cửu trù mà định số Ngũ hành.
Hai Bát Quái làm biểu lý nhau mà thành Dịch lý.
Tóm lại, Đạo có Thái cực
sanh Âm Dương, Ngũ Hành. Chung Ngũ Hành, Âm Dương trở về với Thái Cực. Dịch lý
gồm hai trạng thái:
Một trạng thái bàng bạc
trên cõi hư không; còn một trạng thái nữa thì trường lưu trong vạn vật. Một
đàng thì phân tán, một đàng thì thu liễm, thành một đóng; một mở máy huyền vi
(1) là nơi xuất sanh; nhập tử của muôn loài vạn vật. Cái máy huyền vi nầy, nếu
đứng ngoài xem, thì chúng ta thấy nó dường như mâu thuẩn; nhưng nếu thâm nhập
vào trong để quan sát, thì chúng ta thấy nó điều hòa tuyệt đối. Tại sao? Bởi vì
Âm Dương có tánh tương khắc mà lại tương hòa. Bởi tương khắc, cho nên hễ gặp
nhau, thì xô xát, nhưng sự xung khắc đây chẳng phải để xâm hại lẫn nhau, mà
thật để điều chỉnh cho đôi bên đều nhau. Có điều mới có hòa. Âm Dương có điều
hòa mới có hóa sanh vạn vật. Nhơn lẽ ấy, nên trong người chúng ta có hai khuynh
hướng là: Thiên lý và Nhơn dục, dường như trái ngược nhau, nhưng tựu trung, đó
là hai trạng thái của một bản thể mà thôi.
(1) Máy huyền vi tức Đạo
biến hóa. Nguyên vạn vật do Đạo mà sanh ra thế gian, nên gọi là xuất sanh; vạn
vật tử ở thế gian thì trở về với Đạo, nên gọi là nhập tử. Trong Cung Oán Ngâm
Khúc, Ôn Như Hầu có viết: "Máy huyền
vi mở đóng không lường".
Dịch lý Võ Trụ vận hành
như đã nói trên và không lúc nào nghỉ. Một hôm Đức Khổng Phu Tử đứng trên bờ
sông, ngắm nước chảy mà than rằng: "Thệ
giả tư phù, bất xá trú dạ". Nghĩa là: Ngày đêm cuồn cuộn chảy đi thế
này ư! Đại ý câu nầy ám chỉ Đạo Trời Đất cứ tuần hườn, hễ mãn chu nầy thì bắt
đầu chu khác. Vạn vật cứ theo đó mà diễn tiến không ngừng, nghĩa là muôn loài
theo Đạo mà sanh thành, trưởng dưỡng, già chết rồi cũng theo Đạo mà tái sanh
lại nữa và cứ như thế mãi mãi.
Lẽ sanh tồn của vạn vật
theo Đạo Trời Đất thay đổi; đổi thay như vậy, cho nên hôm nay chúng ta thấy nó
thế nầy thì ngày mai nó lại biến ra thế khác, cũng như nước chảy dưới dòng
sông. Chúng ta mới vừa thấy cái hiện tại, thì phút chúc nó đã biến thành cái
quá khứ.
Nói tỉ: Nước chịu hơi nóng
Thái dương. Nước thoát lên không gian thành mây. Mây tan rã rớt xuống trần gian
thành nước. Còn những vật hóa sanh như: lá cây biến thành sâu, củ cỏ biến thành
dế, chuột biến thành dơi, lươn biến thành chồn vân vân ... Biết đâu những vật
nầy còn biến hóa thế nào nữa, nhưng chúng ta chẳng hề biết được.
Chúng tôi thử tạm dùng hột
lúa là vật hữu hình chất, trông thấy được để minh xác dịch lý vạn vật như sau:
Thoạt kỳ thỉ, Âm Dương vận
hành một đơn tử phát xuất, lưu hành trong hoàn vũ và nương theo luật "Đồng khí tương cầu" thu hút
khí chất của Võ trụ, cấu thành hình chất hột lúa thế nào, chúng ta không mục
kích được; nhưng khi hột lúa có đủ hình thể rồi, nó cũng vẫn còn thay đổi nữa.
Đại để như: hột lúa được
gieo xuống đất thì nó nương theo Tứ Đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) mà biến thành
cây mạ. Cây mạ khi được cấy xuống ruộng thì cây mạ biến thành cây lúa. Cây lúa,
đến lượt nó, đơm bông trổ hột lúa khác. Hột lúa mới nầy, nếu được gieo nữa thì
nó cũng biến hóa như trước. Có điều lạ là: khi hình thể này biến thành hình thể
khác, thì cái nguyên thể của nó không còn nữa. Như hoa thành trái thì hoa tàn,
trái lên cây thì trái hư hại. Đó là tại vật nầy ăn sâu vào vật nọ; cho nên hễ
nó sanh ở đây thì tử ở kia.
Nói tóm lại, sự vật ở thế
gian, tuy chúng ta trông thấy hình tướng thật; song nó chẳng có tánh thường
trụ, mà vốn do nhơn duyên cấu sanh. Hễ nhơn duyên hiệp thì sanh, mà hễ nhơn
duyên tan thì tử.
Ví dụ: Hột lúa là Nhơn. Tứ đại là Duyên. Nhơn
và Duyên hiệp nhau thì sanh ra cây mạ, cây lúa, và hột lúa khác như đã kể trên.
Hột lúa mới nầy, nếu được gieo nữa thì nó cũng thay đổi như hột lúa trước vậy.
Sự diễn tiến của vạn hữu
không ngừng, cái giác quan chậm chạp của chúng ta chưa kịp nhận định trạng thái
nầy thì nó đã biến thành trạng thái khác. Bởi sự vật vô thường như kinh
Upanishad đã kể trên kia cho nên Duy Thức Học cho sự vật là giải pháp.
Sự vật giải pháp, thân thể
của chúng ta cũng nằm trong công lệ ấy, nghĩa là nó cũng do nhơn duyên cấu
sanh, chớ chẳng có tánh thường trụ, cho nên Duy Thức Học cho là giả pháp ngã.
Chúng tôi xin mượn cái thuyết "Thập
nhị nhơn duyên" của Phật Giáo để minh xác lẽ nầy.
THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN
Nguyên nhơn đời quá khứ Vô minh (Avidya)
mê muội
Hành (Sanskara) xu
hướng
Thức (Vijnana) hay biết
phân biệt
Danh sắc (Nama
Ruba) hình danh
Nguyên nhơn đời
hiện tại Lục nhập (Chadâyata) sáu giác quan
Xúc (Sparsa) cảm xúc
Thụ
(Védana) nhận lãnh
Ái
(Tricha) ham muốn, thèm khát
Thủ (Upâdâna) cố
chấp
Nguyên nhơn đời vị lai Hữu (Bhava) có hình sắc
Sinh (Jasa) tái
sanh
Lão Tử (Garamrana)
già chết
Mười hai nhơn duyên cấu
kết thành Kiếp Luân Hồi liên tục đến ba đời, như đã chỉ trong bảng thống kê
trên đây. Theo sách Phật thì Vô minh sanh thành, nghĩa là vì mê muội, không
biết luật Trời báo ứng cho nên mới xu hướng, động tác tội lỗi. Có xu hướng động
tác tội lỗi mới sanh ra Thức, tức hay biết phân biệt; có hay biết phân biệt mới
sanh ra Danh sắc, tức hình danh; có hình danh mới sanh ra Lục nhập, tức sáu
giác quan là chỗ ỷ lại của Lục căn. Có sáu giác quan mới sanh ra Xúc; tức cảm
xúc. Có cảm xúc mới sanh ra Thụ, tức nhận lãnh. Có nhận lãnh mới sanh ra Ái,
tức ham muốn, thèm khát. Có ham muốn, thèm khát, mới sanh ra Thủ, tức chấp lấy.
Có chấp lấy mới sanh ra Hữu tức có thân thể vật chất. Có thân thể vật chất mới
sanh ra Sinh, tức tái sanh. Có tái sanh mới sanh ra Lão, Tử, tức già chết.
Trong số 12 nhơn duyên kể
xuôi như thế; còn như đảo ngược lại mà nói rằng: có già chết mới có Sinh; có
Sinh mới có Hữu v.v... và cứ kể mãi.
Tổng số Thập Nhị Nhơn
Duyên hoặc nói xuôi, hoặc kể ngược thế nào rồi chung quy cũng thấy Vô minh là
cái đại nguyên nhơn sanh kiếp luân hồi. Ấy vậy, nên Phật Giáo chủ trương rằng:
Khi đã giác ngộ thì hết vô minh; mà hễ hết vô minh thì các nhơn duyên kia cũng
theo đó mà tiêu ma. Tại sao? Bởi vì Thập Nhị Nhơn Duyên liên hệ lẫn nhau, cái này
ăn sâu vào cái kia; cái kia ăn sâu vào cái này, thành thử chúng ta quét sạch Vô
minh thì các nhơn duyên kia cũng theo đó mà hết. Đại khái như thế, nhưng chúng
nó liên kết nhau, cho nên muốn hiểu Vô minh thì phải ý hội tất cả mười hai nhơn
duyên mới được.
Giả pháp và Giả ngã, là
hai danh từ để đánh thức lòng mê chấp của chúng ta, nói tỉ như chúng ta chấp
cái "Ta" và sự vật ở đời là
chơn thật, là trường tồn, như Linh hồn bất sanh, bất diệt, rồi lòng vật dục bắt
chúng ta hóa theo vật và đồ mưu, định kế thâu đoạt những của quí, sắc đẹp để
thỏa mãn mình, còn ai sao mặc kệ. Tật ích kỷ ấy dẫn chúng ta đến một cuộc sống
tư phân, ngoài hệ thống của Thượng Đế; ngoài tình thương yêu của chúng sanh.
Cái đời sống ấy gây phiền não cho kiếp hiện tại và kiếp luân hồi cho kiếp vị
lai. Vậy, kẻ hành giả phải đặt tinh thần mình vào cảnh Hư vô tịch diệt, cầu sự
giải thoát hoàn toàn. Đó là học lý của Phật giáo.
Nay, chúng ta thử quay về
thực tế suy gẫm cái Giả pháp và Giả ngã, thì chúng ta nhận thấy rằng sự vật đối
với thế nhơn, hay những người còn đương tìm học Đạo lý, như chúng ta chẳng hạn,
có một phần thiệt và một phần hư. Hư là đối với chơn ly tuyệt đối; còn thiệt là
thiệt tương đối với nhục thân. Nghĩa là nhục thân nhờ sự vật để di dưỡng sanh
lực và làm tài liệu học hành, khai mở tinh thần, hoặc nói rõ ra là sự vật để
cho người dùng; chớ không phải người làm nô lệ sự vật.
Ví dụ: Chúng ta dùng quyển
sách để học Đạo lý mãi đến khi có kinh nghiệm rồi quyển sách trở nên vô dụng
đối với chúng ta. Cổ nhơn bảo chúng ta "Mượn
giả tu chơn" là lẽ như vậy.
Đến đây, chúng ta đã hiểu
rằng kẻ học giả phải thực hiện ngay cái thuyết "Vô thường" và "Vô
ngã" của Phật giáo để cầu sự giải thoát kiếp sanh tử luân hồi. Còn như
muốn thực hành cái Pháp "Tiệm
tu" mượn "Giả tu chơn"
thì chúng tôi xin đề cập hai phương châm là nhập thế và xuất thế sau đây. Công
phu một phần thì kết quả một phần; công phu hai phần thì kết quả hai phần, lần
hồi rồi cũng đến viên mãn được.
PHẦN THỨ BA
PHƯƠNG CHÂM NHẬP THẾ
Trong phần thứ ba nầy,
chúng tôi nghị luận phương pháp tu kỷ xử thế, là một pháp môn rất cần cho người
còn ở tại gia và cũng là một con đường dẫn dắt đến đài vinh quang "Chơn-Thiện-Mỹ".
Theo lẽ đương nhiên, thiên
hạ muốn phán đoán phẩm hạnh người nào, thì người ta căn cứ vào ba điểm chánh
là: tư tưởng, lời nói và việc làm. Nghĩ như thế nên trong phần sách này, chúng
tôi lấy phép "Tam lập" làm
đề tài.
Tam lập là:
* Lập đức, tức trau dồi tư
tưởng, hay tu đức.
* Lập công, tức trau dồi
cách hành động hay tu dưỡng thân căn.
* Lập ngôn, tức trau dồi
lời nói, hay tu dưỡng khẩu căn.
Nhưng trước khi bàn phép "Tam lập", chúng tôi xin lược
thuật đức tin là một sức mạnh tinh thần vừa dắt đường, vừa đôn đốc nghị lực,
giúp chúng ta chiến thắng giặc lòng trong lúc cải tà quy chánh.
Ấy vậy, nên phần "Phương châm nhập thế" gồm có
bốn chương:
I . Đức tin
II . Lập đức
III . Lập công
V . Lập ngôn
CHƯƠNG THỨ NHỨT
ĐỨC TIN
Đức tin là gì?
Đức tin là lòng tin tưởng
sự gì như có thiệt một cách chắc chắn. Đức tin khó nói rõ, bởi vì nó xuất phát
tự nơi tâm linh. Theo lẽ thường, mỗi người muốn đặt lòng tin tưởng vào điều
chi, thì tự mình quan sát; tìm hiểu Chơn lý, rồi tự lập Đức tin của mình, chớ
không ai bảo mình tin điều nầy, hay phủ nhận điều kia. Đức tin không thể trình
bày bằng cớ rõ ràng; song Đức tin có một sức mạnh phi thường. Ngoài lòng tín
ngưỡng Trời Phật, Đức tin còn giúp nhơn sanh nhiều việc trên đường sanh sống và
Tấn hóa nữa. Đại để như:
a - Nhà thông thái tin rằng: Sự tương khắc
giữa nước và lửa phát xuất một sức mạnh, có thể dùng làm việc hữu ích. Tin như
thế rồi họ cặm cụi thí nghiệm và phát minh nhiều cơ khí mạnh mẽ, tinh xảo như:
tàu thủy, xe lửa v.v...
b - Người nông phu tin rằng: Trồng lúa thì
cuối mùa sẽ gặt được lúa. Nhờ lòng tin như thế, người nông phu mới chịu dãi
nắng dầm mưa khi cày cấy.
c - Anh học sinh tin rằng: Học hành văn chương, có
thể khai hóa trí não, hầu trở nên người hữu dụng. Có lòng tin tưởng như thế,
anh học sinh mới chịu khó: nấu sử, xôi kinh.
d - Nhà tu sĩ tin rằng: Nếu theo Đạo pháp tu
hành thì ngày sau sẽ có kết quả, không thành Tiên, tác Phật thì cũng được hưởng
phước lộc, bởi vì làm lành thì phước trả lại.
Thế đủ hiểu rằng, người ta
làm việc chi cũng nhờ có đức tin rọi đường và đôn đốc mình đi đến chỗ thành
công, kết quả. Cái công dụng phi thường ấy đã có nhiều lời minh chứng như:
Triết học Tây phương nói:
"La foi transporte la montagne".
Đức tin có thể dời non. Kinh Hoa Nghiêm (Kusumsutra) nói: "Đức tin là gốc đạo; hay sanh hóa các công đức. Đức tin có thể
nuôi lớn các căn lành. Đức tin có thể vượt khỏi đường ma, Đức tin có thể vào
đặng chánh định. Đức tin có thể qua khỏi biển sanh tử. Đức tin có thể thành đạo
Bồ Đề".
Ấy đó, đủ thấy cái công
dụng của Đức tin có thể sai khiến phàm thân vượt khỏi những đoạn đường gian lao
nữa. Tại sao? Bởi vì Tâm là chủ tể của thân; còn Đức tin vốn do tâm sanh ra,
cho nên Đức tin có thể dẫn dắt phàm thân theo nó. Ấy vậy, kẻ tu sĩ phải thận
trọng cho lắm, nếu nông nổi ngộ nhận và đặt Đức tin sái chỗ, thì lại thành ra
mê tín. Nên biết rằng: Chánh tín có thể dẫn dắt phàm thân đến Bồng lai Tiên cảnh,
thì mê tín cũng có sức mạnh đưa người ta vào lối tà mị, si mê. Thế nên, kẻ tu
sĩ phải phân biệt tinh tường: đâu là chánh tín; đâu là mê tín.
CHÁNH TÍN: Nói vắn tắt, chánh tín là tin tưởng theo Thiên
lý, chớ không tin nhảm nhí theo tà thuyết, dị đoan. Tuy mới nghe qua thì dễ
dàng; nhưng sự thật: Chánh tín là một việc rất khó. Duy có bậc chơn tu giải
thoát Tâm linh ra ngoài vòng Thế tu, sanh sống theo Chơn như, bất sanh diệt;
bất điên đảo và vượt lên trên sự nhận thức của giác quan; cảm thông với Đức Chí
Tôn thì mới có thể nhận định chơn lý toàn diện. Còn bậc tu sĩ thường như chúng
ta, còn dùng kiến thức, để phân biệt chơn giả, thì chúng ta chỉ nhận thức chơn
lý trong cõi tương đối mà thôi; nghĩa là chúng ta chỉ biết một khía cạnh nào
đó, chớ chưa phải chơn lý toàn diện. Ấy vậy, chúng ta phải nhờ kinh cao, sách
Thánh, đọc đi, đọc lại tìm hiểu và nhận định theo người xưa, để rồi lần bước
theo đó mà vượt lên cõi tuyệt đối, là nơi chẳng có thời gian, không gian trở
ngại nữa. Đến đó mới khỏi e sợ sự ngộ nhận. Còn ngay bây giờ, nếu chúng ta nghe
người ta nói việc chi mà mình chưa hiểu rõ thì chớ vội tin, hưỡn lại, để có
ngày giờ suy gẫm đáo để, rồi sẽ hay. Thận trọng và thận trọng nữa, nhiều thận
trọng chừng nào hay chừng nấy. Phật Tổ dạy rằng: "Các anh hãy tự mình đốt lấy đuốc cho sáng để đi".
MÊ TÍN: Mê tín là tin tưởng theo tà thuyết, dị đoan. Giả
như có người nói: Trên ngọn cây có cá; dưới đáy biển có chim. Nếu chúng ta
chẳng suy nghĩ kỹ càng và cứ tin liều như thế thì chung cuộc, chúng ta sẽ thất
bại nặng nề.
Thế kỷ hai mươi, trí thức
người ta tiến đến một trình độ quá cao. Lý thuyết nầy; lý thuyết nọ, đua nhau
truyền bá, mà hầu hết đều tự cho mình là cao cả, là chánh lý. Nếu như chúng ta
nhẹ dạ, non lòng, nghe lầm, hiểu lộn, thì chẳng những lòng tu hành phải hoang
mang mà đường thế sự cũng phải lạc vào nẻo quấy, đường tà. Ấy là chỗ mà chúng
ta phải dè dặt cho lắm.
Nói tóm, kẻ tu hành phải
cố gắng đặt mình ra ngoài vòng thế sự, vượt lên trên cõi thị phi, phóng quang
cảm ứng với Đức Từ Bi, để lập đức tin của mình theo chơn lý tuyệt đối kia, thì
mới khỏi lầm. Trái lại, nếu chúng ta chưa đến trình độ ấy thì chúng ta phải lần
theo kinh sách; theo chưn các vị Tiên Phật thời xưa, để tìm tòi chơn lý. Nói tỉ
như chúng ta nghe theo lời của ĐỨC PHẬT THÍCH CA MẤU NI, dặn Môn đồ của Ngài
rằng: "Các người đừng tin việc gì mà
các người cho rằng không hợp Chơn lý, mặc dầu việc do nơi ông nào nói, hay biên
chép trong kinh sách chi cũng vậy". Lời dặn nầy đang làm bài học kim
cổ cho mọi người.
Có đức tin chơn chánh rồi
lần hồi theo đó mà học tập cho hết sức mình, dầu cực nhọc, gian lao đến đâu
cũng đừng thối chí; ngã lòng. Bền chí tu hành thì chúng ta có ngày thấy kết
quả.
CHƯƠNG
THỨ NHỨT
ĐỨC
TIN
Đức tin là gì?
Đức tin là lòng tin tưởng sự gì như có thiệt một cách chắc chắn. Đức tin khó nói rõ,
bởi vì nó xuất phát tự nơi tâm linh. Theo lẽ thường, mỗi người muốn đặt lòng
tin tưởng vào điều chi, thì tự mình quan sát; tìm hiểu Chơn lý, rồi tự lập Đức
tin của mình, chớ không ai bảo mình tin điều nầy, hay phủ nhận điều kia. Đức
tin không thể trình bày bằng cớ rõ ràng; song Đức tin có một sức mạnh phi
thường. Ngoài lòng tín ngưỡng Trời Phật, Đức tin còn giúp nhơn sanh nhiều việc
trên đường sanh sống và Tấn hóa nữa. Đại để như:
Nhà thông thái tin rằng:
Sự tương khắc giữa nước và lửa phát xuất một sức mạnh, có thể dùng làm việc hữu
ích. Tin như thế rồi họ cặm cụi thí nghiệm và phát minh nhiều cơ khí mạnh mẽ,
tinh xảo như: tàu thủy, xe lửa v.v...
Người nông phu tin rằng:
Trồng lúa thì cuối mùa sẽ gặt được lúa. Nhờ lòng tin như thế, người nông phu
mới chịu dãi nắng dầm mưa khi cày cấy.
Anh học sinh tin rằng: Học
hành văn chương, có thể khai hóa trí não, hầu trở nên người hữu dụng. Có lòng
tin tưởng như thế, anh học sinh mới chịu khó: nấu sử, xôi kinh.
Nhà tu sĩ tin rằng: Nếu
theo Đạo pháp tu hành thì ngày sau sẽ có kết quả, không thành Tiên, tác Phật
thì cũng được hưởng phước lộc, bởi vì làm lành thì phước trả lại.
Thế đủ hiểu rằng, người ta
làm việc chi cũng nhờ có đức tin rọi đường và đôn đốc mình đi đến chỗ thành
công, kết quả. Cái công dụng phi thường ấy đã có nhiều lời minh chứng như:
Triết học Tây phương nói:
"La foi transporte la montagne".
Đức tin có thể dời non. Kinh Hoa Nghiêm (Kusumsutra) nói: "Đức tin là gốc đạo; hay sanh hóa các công đức. Đức tin có thể
nuôi lớn các căn lành. Đức tin có thể vượt khỏi đường ma, Đức tin có thể vào
đặng chánh định. Đức tin có thể qua khỏi biển sanh tử. Đức tin có thể thành đạo
Bồ Đề".
Ấy đó, đủ thấy cái công
dụng của Đức tin có thể sai khiến phàm thân vượt khỏi những đoạn đường gian lao
nữa. Tại sao? Bởi vì Tâm là chủ tể của thân; còn Đức tin vốn do tâm sanh ra,
cho nên Đức tin có thể dẫn dắt phàm thân theo nó. Ấy vậy, kẻ tu sĩ phải thận
trọng cho lắm, nếu nông nổi ngộ nhận và đặt Đức tin sái chỗ, thì lại thành ra
mê tín. Nên biết rằng: Chánh tín có thể dẫn dắt phàm thân đến Bồng lai Tiên
cảnh, thì mê tín cũng có sức mạnh đưa người ta vào lối tà mị, si mê. Thế nên,
kẻ tu sĩ phải phân biệt tinh tường: đâu là chánh tín; đâu là mê tín.
CHÁNH TÍN: Nói vắn tắt, chánh tín là tin tưởng theo Thiên
lý, chớ không tin nhảm nhí theo tà thuyết, dị đoan. Tuy mới nghe qua thì dễ
dàng; nhưng sự thật: Chánh tín là một việc rất khó. Duy có bậc chơn tu giải
thoát Tâm linh ra ngoài vòng Thế tu, sanh sống theo Chơn như, bất sanh diệt;
bất điên đảo và vượt lên trên sự nhận thức của giác quan; cảm thông với Đức Chí
Tôn thì mới có thể nhận định chơn lý toàn diện. Còn bậc tu sĩ thường như chúng
ta, còn dùng kiến thức, để phân biệt chơn giả, thì chúng ta chỉ nhận thức chơn
lý trong cõi tương đối mà thôi; nghĩa là chúng ta chỉ biết một khía cạnh nào
đó, chớ chưa phải chơn lý toàn diện. Ấy vậy, chúng ta phải nhờ kinh cao, sách
Thánh, đọc đi, đọc lại tìm hiểu và nhận định theo người xưa, để rồi lần bước
theo đó mà vượt lên cõi tuyệt đối, là nơi chẳng có thời gian, không gian trở
ngại nữa. Đến đó mới khỏi e sợ sự ngộ nhận. Còn ngay bây giờ, nếu chúng ta nghe
người ta nói việc chi mà mình chưa hiểu rõ thì chớ vội tin, hưỡn lại, để có
ngày giờ suy gẫm đáo để, rồi sẽ hay. Thận trọng và thận trọng nữa, nhiều thận
trọng chừng nào hay chừng nấy. Phật Tổ dạy rằng: "Các anh hãy tự mình đốt lấy đuốc cho sáng để đi".
MÊ TÍN: Mê tín là tin
tưởng theo tà thuyết, dị đoan. Giả như có người nói: Trên ngọn cây có cá; dưới
đáy biển có chim. Nếu chúng ta chẳng suy nghĩ kỹ càng và cứ tin liều như thế
thì chung cuộc, chúng ta sẽ thất bại nặng nề.
Thế kỷ hai mươi, trí thức người ta
tiến đến một trình độ quá cao. Lý
thuyết nầy; lý thuyết nọ, đua nhau truyền bá, mà hầu hết đều tự cho mình là cao
cả, là chánh lý. Nếu như chúng ta nhẹ dạ, non lòng, nghe lầm, hiểu lộn, thì chẳng những lòng tu hành phải hoang mang mà
đường thế sự cũng phải lạc vào nẻo quấy, đường tà. Ấy là chỗ mà chúng ta phải
dè dặt cho lắm.
Nói tóm, kẻ tu hành phải cố gắng đặt mình ra
ngoài vòng thế sự, vượt lên trên cõi thị phi, phóng quang cảm ứng với Đức Từ Bi, để lập đức tin của mình theo
chơn
lý tuyệt đối kia, thì mới khỏi
lầm. Trái lại, nếu chúng ta chưa đến trình độ ấy thì chúng ta phải lần theo kinh sách; theo chưn các vị Tiên
Phật thời xưa, để tìm tòi chơn lý. Nói tỉ như chúng ta nghe theo lời
của ĐỨC PHẬT THÍCH CA MẤU NI, dặn Môn đồ của Ngài rằng: "Các người đừng tin việc gì mà các người cho rằng không hợp Chơn lý, mặc
dầu việc do nơi ông nào nói, hay biên
chép trong kinh sách chi cũng vậy". Lời dặn nầy đang làm bài
học kim cổ cho mọi người.
Có đức tin chơn chánh rồi
lần hồi theo đó mà học tập cho hết sức mình, dầu cực nhọc, gian lao đến đâu
cũng đừng thối chí; ngã lòng. Bền chí tu hành thì chúng ta có ngày thấy kết
quả.
CHƯƠNG THỨ HAI
BỐN THƯỢNG ĐỨC
Thể theo Nho giáo: Trời có
bốn Đức là: Ngươn, Hanh, Lợi và Trinh do cung Càn phát xuất. Nguyên cung Càn
đứng đầu trong Bát Quái đồ thơ, thuần dương tượng trưng Trời sanh ra bốn Đức
lớn, kể sơ lược như:
Ngươn là cơ Tạo đoan định
vị Trời Đất, hóa sanh vạn vật.
Hanh là cái Đại lý suốt
thông muôn vật, hợp với các vẻ đẹp.
Lợi là lý định rõ các bộ
phận trong cơ điều hòa.
Trinh là lý chánh giữ vững
mọi vật.
Tóm lại, Ngươn là Đạo biến
hóa. Hanh, Lợi, và Trinh là ba phép giúp cho Đạo biến hóa thành tựu cơ sanh dục
muôn loài, mà chẳng hề sai luật bình hành, trật tự của Trời Đất.
Người có bốn Đức là: Nhân,
Nghĩa, Lễ và Trí do Tâm phát xuất.
Đức Nhân vốn là một điểm
lành của Trời phú cho mọi người, ai ai cũng có nó ở trong trung tâm điểm của
mình. Thế nên, hễ muốn làm Nhân thì ai cũng có thể làm được. Nó đứng đầu trong
các điều lành. Người ta cứ lập đức Nhân vững vàng viên mãn thì đủ làm người,
cho nên cổ nhân nói: "Nhân giả nhân
dã". Nhân là Đạo làm người vậy. Còn Nghĩa, Lễ và Trí là khuôn phép mực
thước để đo lường cân độ mà làm Nhân.
Trời có bốn đức: Ngươn,
Hanh, Lợi và Trinh. Người có bốn đức là Nhân, Nghĩa, Lễ và Trí. Đức Khổng Phu
Tử giảng giải đức Trời, khai mở đức người là có ý giúp người biết đức Trời để
làm theo. Bốn đức người nói đây, chúng tôi đã luận trong quyển ĐẠI ĐẠO GIÁO LÝ rồi.
Đây, không nhắc lại mà chỉ góp thêm một vài ý kiến nữa, như sau:
Mạnh Tử nói rằng:
"Trắc ẩn chi tâm, Nhân chi đoan dã;
Tứ ố chi tâm, Nghĩa chi đoan dã;
Từ nhượng chi tâm, Lễ chi đoan dã;
Thị phi chi tâm, Trí chi đoan dã".
Nghĩa là: Lòng thương xót
là đầu mối của Nhân; lòng ghét bỏ là đầu mối của Nghĩa; lòng từ nhượng là đầu
mối của Lễ; lòng thị phi là đầu mối của Trí.
Biết được đầu mối của bốn
đức thường rồi, chúng ta theo đó mà tập rèn cho hết sức mình, làm cho nhập tâm,
để rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày của mình. Mạnh Tử bảo rằng: "Người sung mãn bốn đức ấy thì có thể
giữ được bốn biển. Trái lại, kẻ mất bốn đức ấy, thì không đủ phụng sự cho cha
mẹ nữa".
Sau đây, chúng tôi thể
theo sách Đại học bàn thêm cái lý "Minh
Minh Đức" để giúp công phu lập đức cho được rộng rãi thêm hơn.
MINH MINH ĐỨC
Minh minh đức nghĩa là
khai sáng đức sáng. Nguyên chúng ta sẵn có nơi mình một điểm đức sáng Trời ban
phú cho, nó ở trong thâm tâm của mỗi người. Cái đức sáng ấy huyền diệu lắm, tự
nhiên cảm thông biết mọi lẽ thiện ác một cách tinh tường, đến tận nguồn gốc tự
nhiên, chớ không phải nhờ học hỏi khai mở. Ở nơi phàm nó không giảm bớt; ở nơi
Thánh nó chẳng tăng thêm. Lúc nào nó cũng tự nhiên, nhi nhiên. Nhưng khi nhập
thế, chúng ta bị nhiểm trần, tình dục tế tắc bản Tâm làm cho Minh đức lu mờ, đó
là một điểm đáng lo ngại cho thế nhơn.
Khai sáng đức sáng nói
đây, không phải học tập theo khoa học hữu vi mà thật phải hồi hướng về nội giới
Tâm linh; một mặt phải khám phá và loại trừ những thành kiến mê lầm, những tình
dục quấy quá, một mặt khác phải tồn dưỡng tâm tánh. Hễ tâm tánh trở về nguyên
bản rồi Minh đức sẽ xuất hiện.
Tại sao?
Bởi vì Minh đức ở tận
trong cõi lòng vị phát chi trung (Tâm chưa dấy động) cho nên, hễ tâm tánh thanh
tịnh vô vi, thì đức sáng sẽ xuất hiện cảm thông với sự vật mà biết lẽ Thiện Ác.
Vậy phải làm sao đặng khai
sáng đức sáng?
Về phương pháp học tập,
sách Đại học dạy rằng:
"Tri chỉ nhi hậu hữu định;
Định nhi hậu năng tịnh;
Tịnh nhi hậu năng an;
An nhi hậu năng lự;
Lự nhi hậu năng đắc.
Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy, tri sở tiên
hậu tắc cân đạo hỉ.”
Nghĩa là: Biết dừng chơn trước ngưỡng cửa nhân
dục và đem tâm khuynh hướng về Thiên lý rồi sau tâm được định. Định được rồi sau mới hay tịnh; tịnh được mới hay
an; an được rồi sau mới hay suy nghĩ; suy nghĩ được rồi sau mới tâm đắc.
Đại phàm, hễ vật thì có gốc ngọn, việc thì có
chung thủy; ai biết được cái trước sau đó thì gần Đạo vậy.
Đại ý nói rằng, chúng ta phải hồi hướng về nội
giới tâm linh, dịch hóa những tư tưởng phức tạp, lãng mạn của mình cho đến
thuần nhứt bất biến. Tâm đắc nhứt thì giác ngộ được cái Minh đức của mình để
làm căn bản cho tình cảm và lý trí.
Lập đức đến đây, nghĩa là Minh minh đức và khai
thác bốn đức thường, rồi chúng ta cứ theo đó mà tư tưởng, mặc dầu chưa được
chí thiện, nhưng cũng không đến đỗi hệ lụy trần ai.
CHƯƠNG THỨ BA
LẬP CÔNG
Lập công, nghĩa là kiến
thiết cách hành động của mình nhằm
vào mục đích đạo đức chí thiện. Mà muốn nhục thân hành động theo ý muốn của
mình, chúng ta phải có một tâm hồn sáng suốt tự chủ. Ấy vậy, nên phép "Lập công" gồm có hai mặt là:
Nhục thân phải thanh khiết, để khiến và có sức khỏe. Tinh thần phải cứng rắn đủ
nghị lực điều khiển nhục thân tuân hành mạng lịnh của tâm hồn. Sau đây, là
những kỷ luật phải thi hành để đạt được mục đích nói đây.
a.) VỆ SINH TRONG SỰ ĂN UỐNG
Vấn đề chọn
lựa thức ăn đã bàn cãi rất nhiều. Đạo học nói: dùng lê hoát (1) thích hợp vệ
sinh. Khoa học nói ăn thịt bổ nhiều. Nhờ bàn qua, cãi lại, chúng ta hiểu rõ
rằng: Ăn uống cốt để nuôi mạng sống, cho nên ngạn ngữ nói: "Ăn để sống". Vậy, chúng ta nên chọn những thức ăn uống
nào dễ tiêu hóa và có đủ khí chất bồi bổ tạng phủ, thanh nhuận khí huyết là
được.
(1) Lê hoát:
là hai thứ rau mà chốn thôn quê nhà nông thường dùng. Trong Cung Oán
Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu viết rằng:
"Miếng cao lâu phong lưu nhưng lượm,
Mùi lê hoát thanh đạm mà ngon".
Kinh nghiệm dạy chúng ta
biết rằng ăn chay thích hợp với người già và bậc chơn tu, vì cơ quan tiêu hóa
và bộ thần kinh của hạng người nầy rất mảnh khảnh, không đủ sức bài tiết vật
nặng, như rượu thịt. Nhưng ăn chay cũng phải tập luyện: ban đầu mỗi tháng 6
ngày, 10 ngày, 15 ngày rồi đến trường chay. Nếu đi mau quá thì tạng phủ chưa
quen, có khi sẽ bị công phạt.
Ăn uống phải có tiết độ.
Chúng ta chỉ ăn khi đói; uống khi khát, ăn uống phải có chừng độ. Vả lại, vật
ăn vào tỳ vị, tiêu hóa ra khí huyết để bổ dưỡng vật lực và tinh thần; cho nên
cách chọn lựa thức ăn phải lấy sự tiêu hóa làm đầu. Vật uống cũng nên chọn lựa
kỹ càng. Rượu mạnh nên kiêng hẳn, cà phê, nước trà đậm không nên dùng nhiều.
Nha phiến phải kiêng hẳn, cũng như rượu mạnh, thuốc lá chẳng khá dùng nhiều.
Khi ăn phải nhai vật ăn
thật nhỏ như bột, rồi sẽ nuốt. Trong bộ phận tiêu hóa, miệng có phận sự quan
trọng. Nhai vật ăn thật nhỏ trước khi nuốt, là bắt miệng giúp công cho bộ phận
tiêu hóa một phần nào.
b.) VỆ SINH TRONG VIỆC LÀM HẰNG NGÀY
Nhục thân có tật ham ăn
chơi; ham sung sướng, thành thử khi đứng trước việc làm khó nhọc thì nó hay
tháo thứ. Chúng ta phải tận lực đánh đổ tật biếng nhác. Làm việc hằng ngày phải
siêng năng nhậm lẹ; kỹ càng châu đáo cũng có việc không làm, nhưng việc nào đã
làm thì phải hết tâm hết sức châu tất; rồi còn phải kiểm soát lại nữa.
Phải có thời dụng biểu,
chỉ định giờ làm việc, giờ ăn, giờ nghĩ rồi cứ theo đó mà thi hành triệt để,
cầu có thói quen, vì thói quen là tánh tự nhiên thứ nhì.
Ngủ cũng phải có giờ,
chẳng nên ngủ nhiều quá, mà cũng không nên lấy đêm làm ngày; lấy ngày làm đêm.
Thức đêm nhiều tổn sức khỏe lắm.
Xác thân là khí cụ, hoặc là
kẻ giúp việc ngoan ngoản cho Tâm, hoặc tỷ như nó là cái nhà, để che chở Tâm,
chúng ta không vì lẽ gì mà hủy hoại nó, hay hành hạ nó. Xác thân không phải vô
tri, vô giác, nó là bộ máy sống, chúng ta phải khép nó vào khuôn mẫn đạo pháp;
phải thi hành trong trật tự, chẳng khá làm mất điều hòa tự nhiên của nó. Việc
làm đừng quá vội vàng, đừng quá trì hưỡn. Mục tiêu của chúng ta là di dưỡng sức
khỏe và một thân hình dễ khiến, hầu nó có đủ tài năng phát biểu tư tưởng của
mình, và chịu đựng những việc khó nhọc mà chúng ta phải cáng đáng.
Ban đầu tập làm việc dễ,
quen rồi nhục thân sẽ hết trái chứng. Chúng ta phải nói với nó rằng: "Ngươi là con ngựa của ta cỡi. Ta có
bổn phận săn sóc ngươi. Ngươi có bổn phận tuân lời ta. Ngươi với ta phải tìm
hiểu ý nhau, tương đắc nhau để đi trên đường ngàn dậm".
Bức bản đồ Tam kế của Đức
Khổng Phu Tử có câu rằng:
Cái kế sanh trong một đời
tại sự siêng năng
Cái kế sanh trong một năm
tại mùa Xuân (Vì xuân là mùa thảo mộc sanh, nếu mùa xuân chẳng trồng tỉa, thì
mùa thu lấy đâu mà gặt hái).
Cái kế sanh trong một ngày
tại giờ Dần, tức là nói rằng: Bửng tưng mà không bắt tay vào việc thì trọn ngày
phải thất công.
Những lời châu ngọc của
Thánh Hiền còn lưu lại, chúng ta nên biết và làm theo hằng ngày. Chúng ta tận
lực làm bổn phận mình. Làm một cách tử tế, chính chắn, ăn uống phải có tiết độ;
hình dung phải nghiêm trang mặc áo, đội nón, phải chỉnh tề, đi đứng phải vững
vàng, ăn ở phải đoan chính. Muốn khởi làm việc chi, trước phải suy nghĩ cùng
lẽ, rồi sau sẽ hạ thủ thi hành. Đức độ mặc dầu chưa cao, song, cũng phải giữ
còn và làm tăng thêm lên. Thấy người làm lành thì mình vui, cũng như mình đã
làm được. Thấy người làm quấy thì mình buồn, cũng như mình bị đau ốm. Khi có
việc vui thì vui, nhưng không kiêu hãnh, khi có việc hoạn nạn thì lo, nhưng
không phiền não.
Cổ ngữ có câu: "Ngôn cố hành, hành cố ngôn". Nghĩa
là lời nói đúng theo việc làm; việc làm đúng theo lời nói. Nói được mà chẳng
làm được thì lời nói không bảo đảm. Đức độ cũng theo đó mà sứt mẻ.
Chẳng khá bắt chước những
kẻ hương nguyện. Hạng người nầy là giặc phá đức, chớ không phải kẻ tu đức. Họ
vốn không trung tín, vốn không liêm khiết, mà cư xử giống như người liêm khiết.
Mọi người đều đẹp lòng mà khen ngợi.
Mọi việc làm của mình
chẳng những phải suy nghĩ trước mà khi làm xong rồi còn phải kiểm soát lại nữa.
Ông Mạnh Tử nói: "Xét lại thân tâm
mình với một tấm lòng thành thật thì có cái vui nào lớn hơn".
c.) THỂ DỤC
Tập thể thao: Chọn một môn
thể thao nhẹ, vừa sức mình. Mỗi ngày nhơn ra hai chục phút, tập luyện thân thể
với chủ đích là: thư cân, hượt huyết và phát hạn, để bài tiết những cặn bả độc,
còn lưu ẩn trong tạng phủ và lỗ chân lông. Chớ nên hiểu lầm sự thể thao nói đây
với những cách thể thao du hí. Du hí tập thể thao cầu bắp thịt nở nang, gân cốt
rắn rỏi, sức mình dồi dào, để thắng đối phương, tức là vì người mà thể thao;
còn thể thao nói đây có mục đích khác là đào luyện sức khỏe của mình, tức là vì
mình mà thể thao.
Tập thể thao phải thực
hành nơi thoáng khí, bởi vì trong thanh khí có sinh lực. Nhờ tập thể thao nơi
thoáng khí, chúng ta đem được nhiều sinh lực vào trong tạng phủ. Sức khỏe sẽ
nhờ đó mà được dồi dào, khí huyết nhờ đó mà được tươi nhuận.
Năng tắm gội, năng giặt
giệm, áo quần sạch sẽ là phép vệ sinh thường thức. Cố nhớ nói: "Tận dục thân an". Nghĩa là năng
tắm gội thì thân thể được an toàn.
Mục đích của chúng ta là
tạo một cuộc đời sống thanh đạm, vô vật dục, chớ chẳng phải ép xác, mà cũng
chẳng phải phóng túng theo vật chất. Ấy vậy, nên sự thể thao của chúng ta nhắm
vào sự đào luyện một thân thể sức khỏe và lúc nào nó cũng tùng mạng lệnh của
Thần lương tâm.
Chúng ta nên tập rèn thế
nào cho gân cốt dẽo dai; bắp thịt cứng rắn, hầu có đủ sức lực cáng đáng việc
cực nhọc. Nhưng, nên nhớ rằng sức người có hạn, cho nên trong khi làm việc và
tập thể thao, chúng ta chẳng khá đòi hỏi quá sức của thân thể. Nếu quá lạm
dụng, thì thân thể sẽ mất điều hòa mà cơ thể sanh bệnh tật.
Có điều khó là thân thể
thuộc về vật chất, nó phải lệ thuộc dưới luật tự nhiên là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử.
Thế nên, thân thể không thế nào tránh khỏi bệnh hoạn. Nói cùng, như chúng ta
rủi đau ốm, thì phải dùng thuốc men để trị bịnh. Kẻ tu có khác với người thường
là mình tự chủ, biết giữ vệ sinh, biết điều hòa khí huyết làm cho đời sống ung
dung theo luật tự nhiên.
d.) CẤM DÂM DỤC
Tân luật Đại Đạo cấm tà
dâm cho người học hạ thừa và khuyên người thượng thừa phải tuyệt dục. Cấm dâm
dục: một là để tránh Luật Nhơn quả; hai là tránh sự tồi phong bại tục; ba là
tích tinh, dưỡng khí.
Tránh Nghiệp Quả:
THÁNH NGÔN: "Vì sao tà dâm là trọng tội?"
"Nguyên xác thân con người, tuy mắt phàm trông
thấy như một, tựu trung chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật. Sanh vật ấy cấu
kết nhau thành tế bào. Nó có linh tánh. Chất dưỡng sanh nó là rau, cỏ, bông
trái, lúa gạo. Thử hỏi, những lương thực nầy nếu chẳng có chất sanh và chẳng
hàm chứa sinh lực thì thế nào tươi đặng. Hoặc giả, nếu nó khô rũ, thì nó phải
chết; mà các con có ăn vật khô héo bao giờ? Còn như dùng lửa nấu, bất quá tẩy
trược mà thôi; kỳ thật sanh vật bị nấu chưa hề chết.
Vật ăn vào tỳ vị tiêu hóa ra khí; khí biến ra huyết.
Nó có thể hườn thành nhơn hình. Vì vậy mới có cơ sống, chết của chúng sanh. Một
giọt máu là một khối Chơn linh, nếu các con dâm quá độ, tức là sát hại nhiều
Chơn linh. Khi các con thoát xác, nó đến Nghiệt Cảnh Đài mà kiện thì các con
chẳng hề chối tội đặng. Vậy, các con phải giữ giới cấm nầy cho lắm".
Thánh Ngôn trên đây đã rõ
lắm rồi, khỏi phải chú thích nữa.
TỒI PHONG BẠI TỤC
Luân lý cổ truyền của
người Việt Nam trọng sự trinh tiết. Xã hội quở trách nặng nề những kẻ gian dâm,
vô độ.
TÍCH TINH DƯỠNG KHÍ
Tinh là một chất hơi bàng
bạc, lưu chuyển trong không gian. Mỗi sanh vật phải hàm dưỡng nơi thân mình một
phần tinh ấy, thì mới sống và sinh hóa thêm ra. Đại khái như ở trong sanh vật:
tinh là một mãnh lực hay sanh sản; ở trong thảo mộc: tinh là một sức mạnh đâm
chồi, trổ lá; ở trong thân thể người ta: tinh thường bốc lên một thứ hơi, mạng
danh là khí. Công dụng của khí, chẳng những làm cho người có sức khỏe, mà còn
di dưỡng Chơn thần được kiện cường, sáng suốt nữa. Người tu hành tránh sự dâm
dục là vì những lẽ nói trên.
e.) KIÊNG SÁT HẠI SANH MẠNG
Không biết tại sao: hễ
người ta thấy một con súc vật như hưu, nai v.v... hay một con điểu thú như:
chim, cu, cò v.v... thì người ta có một ý muốn sát hại. Phải chăng, vì thường
hay ăn thịt chúng nó, cho nên người ta có thói quen sát hại. Các nhà Tôn giáo
cấm sát sanh, chỉ vì lòng bác ái, thương đều muôn vật. ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ dạy
đại khái như vầy:
THÁNH NGÔN: "Mạng sống của cả chúng sanh cũng như nhánh cây trong cội, (cả
chúng sanh đều do Chí Tôn sanh ra, vậy nên Chí Tôn nói Đức Ngài cũng như cội
cây, cả chúng sanh cũng như nhánh cây) phải có đủ ngày giờ Thầy định để nở
bông; sanh trái, đặng trồng nữa, biến hóa thêm ra. Kẻ nào làm hại nửa chừng là
sát hại một kiếp sanh, không cho biến hóa. Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp,
đến thế nầy hoặc lâu, hoặc mau đều có định trước, nếu ai giết một mạng sống
phải chịu quả báo. Mạng sống là Thầy. Mà giết Thầy không phải dễ. Các con rán
dạy nhơn sanh điều ấy".
Kẻ tu hành ăn chay: Một là
vì lòng bác ái; hai là tránh những nghiệp quả, như Thánh giáo kể trên.
f.) KIÊNG THAM LAM TRỘM CẮP
Chúng tôi xin chép bài
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn dạy về sự tham lam như sau:
THÁNH NGÔN: "Ôi! Thầy sanh các con, Thầy yêu các con; Thầy cho các con đến thế
nầy với một Thánh Thể thiêng liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống;
không mặc mà lành. Các con không chịu, lại nghe lời cám dỗ, luyến ái hồng trần,
ăn cho phải bị đày; dâm cho phải bị đọa, rồi các con phải chịu dưới nạn áo cơm.
Lợi, Thầy để dành cho các con chung hưởng, nhưng, vì
lòng tham, đứa giựt nhiều, đứa phải chịu kém.
Quyền, Thầy ban cho các con, y như Thầy đã ban cho
Thần, Thánh, Tiên, Phật, để cho các con có đủ phương tiện kiềm chế lẫn nhau
đặng giữ vẹn Thánh Thể của Thầy. Thế mà cái quyền ấy thành một món lợi khí,
buộc trói các con trong vòng tội lỗi. Ôi, cái thất vọng của Thầy rất nên đau
đớn!
Các con có hiểu vì sao Nhơn sanh có lòng tham gian
chăng? Thì cũng vì muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi của mình. Vả lại,
người đời cần nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục tùng không chi bằng
nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước, quỉ quyệt thâu đoạt,
lợi lộc, quyền thế. Vì vậy, mà Đời trở nên trường hỗn độn, tranh đấu, giựt
giành; mạnh được, yếu thua, mất hẳn công bình; thiên nhiên Tạo hóa.
Ấy vậy, phải biết rằng: "Tham lam vào Tâm, Tâm
hết đạo đức. Tham lam vào nhà, nhà hết chánh giáo; tham lam vào nước, nước mất
chơn trị. Tham lam lộng khắp Thế giới, Thế giới hết Thần Tiên. Lòng tham lam có
thể giục các con lỗi đạo cùng Thầy".
Thế thì không những chúng
ta phải tuân hành Thánh ngôn trên đây để tránh sự tham lam, trộm cắp mà kinh
nghiệm còn cho chúng ta biết rằng: người ta chết vì trúng thực thì nhiều, mà
chết vì đói khát thì ít. Trời không sanh người vô lộc; Đất không sanh cỏ vô
căn. Người ta cứ siêng năng làm lụng thì có ăn, chớ cần chi phải tham lam trộm
cắp. Cổ nhơn nói: Giàu lớn là do mạng Trời, giàu nhỏ là nhờ siêng năng. Ở đời
không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, nếu chúng ta ở vào trường hợp thiếu
thốn thì được phép vay mượn của người; nhưng, phải khu xử thế nào cho tài
thượng phân minh, chớ khá tham lam trộm cắp.
g.) GIAO THIỆP VỚI BẰNG HỮU
Cổ nhơn nói: Người đàn bà,
nếu chẳng có gương trong, để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ
sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm. Theo đó thì sự
giao thiệp với bằng hữu rất cần cho chúng ta. Nhưng kết bạn cần phải có người
hiền. Cách chọn bạn của người xưa rất kỹ càng, họ thường bảo nhau rằng: "Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần
người hiền thì tỏ, gần người tài thì sáng, gần kẻ dại thì ngây, gần người lành
thì có đức". Trái lại, gần kẻ trộm thì sanh cắp, gần kẻ nịnh thì a
dua. Lại nói rằng: "Kết bạn với
người lành cũng như gần mùi thơm của cỏ chi, cỏ lan. Kết bạn với kẻ chẳng lành,
cũng như người bồng con leo lên vách tường, một người rủi sẩy chơn thì cả hai
phải khốn hại. Ở chung với người tốt cũng như đi giữa đám sương mù, mặc dầu áo
không ướt, nhưng thắm nhuộm mù sương. Ở chung với kẻ chẳng biết điều, cũng như
ngồi giữa hàng cá ươn, mặc dầu không dơ áo, nhưng hẳn nghe mùi hôi."
Đại để phép trạch hữu như
thế, chúng ta nên bắt chước. Còn khi đã kết bạn rồi, chúng ta phải một lòng
thành thật, đối đãi với nhau. Lúc bạn có lầm lỗi thì nên lựa khi vắng vẻ, dùng
lời nhỏ nhẹ khuyên can, với một tấm lòng chơn thành. Trong sự giao thiệp, chúng
ta phải có lòng kính nhường lẫn nhau, để giữ niềm hòa ái, tương trợ, tương
thân. Điều chi mình không muốn thì chớ làm cho người. Nếu có việc nào không vừa
ý bạn, thì mình phải trở lại xét mình; chớ khá cường từ đoạt lý. Trong đức
nghiệp, anh em phải khuyên nhau, giúp nhau; lỗi lầm phải sửa nhau; hoạn nạn
phải thương nhau; nghèo nàn phải cứu trợ nhau.
Người trượng phu nên dung
thứ người, mà chẳng khá để người dung thứ mình. Trời sanh người đã phú cho một
lý tánh vững chắc. Người giữ được cái lý tánh vững chắc ấy thì có tự chủ. Chúng
ta phải gát nó lên trên tất cả tình cảm và lý trí.
CHƯƠNG THỨ TƯ
LẬP NGÔN
Lập ngôn nghĩa là trau dồi
lời nói, hiền lành theo lẽ chí thiện. Mà lời nói vốn do khẩu căn phát xuất;
thành thử, muốn thực hiện phép Lập ngôn, chúng ta phải làm chủ khẩu căn, để cho
mình có đủ ngày giờ suy nghĩ, rồi sau sẽ thốt ra những lời mực thước, chơn
thành. Đi sâu hơn nữa, chúng ta biết rằng lời nói là âm thanh, biểu dương tư
tưởng, tình cảm ý kiến của người. Ấy vậy, chẳng những phải tịnh khẩu, mà chúng
ta còn phải trau sửa tâm hồn, trí huệ nữa thì phép Lập ngôn mới có kết quả viên
mãn. Nên biết rằng, thiên hạ lấy lời nói để đo trình độ tấn hóa của mình, còn
đối với Luật Trời, một lời nói chẳng lành sẽ có họa trả lại. Vậy đủ hiểu lời
nói trọng đại đến ngần nào. Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt bàn phép "Lập ngôn".
a.) LỜI NÓI ĐỐI VỚI LUẬT NHƠN QUẢ
THÁNH NGÔN: "Nơi thân phàm các con, Thầy cho một Chơn linh theo gìn giữ. Chơn
linh ấy vốn vô tư, đặng phép giao thông cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật và các
Đấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt việc lành, việc dữ, đều có ghi, vậy
nên một mãy không sai; lành dữ đều có trả.
Lại nữa, Chơn linh ấy có
tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con mà còn dạy dỗ nữa. Đời thường
gọi lẫn là Lương tâm. Thánh nhơn xưa nói rằng: Khi nhơn tức khi tâm; khi tâm
tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội, hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã.
Như các con nói dối, điều
ấy chưa dối đặng người, mà các con đã dối Lương tâm rồi. Một lời nói, tuy chưa
thi hành, song tội tình cũng đồng thể, như đã có làm. Thầy dặn các con phải cẩn
ngôn, cẩn hạnh. Thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, chẳng hơn nói tội mà
phải tội tình đồng thể".
Ngoài Thánh Ngôn trên đây,
chúng ta thấy Kinh Dịch nói rằng: "Xuất
từ ngôn thiện, tắc Thiên lý chi ngoại ứng chi. Xuất kỳ ngôn bất thiện tắc Thiên
lý chi ngoại di chi". Nghĩa là nói ra một lời lành, thì ngoài xa ngàn
dặm ứng lành; nói ra một lời chẳng lành thì ngoài xa ngàn dặm dời đó, tức đổi
lành ra dữ.
Câu nầy, đại ý nói rằng:
lời nói có sức mạnh làm chuyển động điện lực trong không gian và cảm thông với
những tư tưởng đồng khí với nó để rồi cụ thể hòa lẫn nhau, cho đến thành một sự
kiện hữu hiệu. Ấy vậy, nên nói lời chẳng lành, mặc dầu chưa thực hành, song tội
tình cũng như việc đã thi thố rồi.
Huyền Trân nói rằng: "Nhơn gian tư ngữ, Thiên văn như lôi;
ám thất khuy tâm, Thần mục như điện". Nghĩa là lời nói thầm của người;
Trời nghe như sấm, những việc tà mị trong nhà kín, Thần thấy như điện.
Theo lẽ trên đây mà suy
rộng ra thì lời nói của người ta, một khi thốt ra khỏi miệng rồi, nó có sức
vang dội rất xa và nó sẽ có một cái phản lực rất mạnh. Lành thì người nói được
phước, chẳng lành thì kẻ nói phải chịu tai họa. Lành dữ báo ứng một mảy không
sai.
b.) LỜI NÓI TRONG KHI XỬ KỶ, TIẾP VẬT.
Có bốn điều răn cấm mà kẻ
tu sĩ phải triệt để áp dụng vào đời sống của mình.
Cấm vọng ngữ, tức cấm nói
dối.
Cấm lưỡng thiệt, tức cấm
đem chuyện người nầy thuật lại với kẻ nọ, làm cho hai đàng cãi cọ.
Cấm ác khẩu, tức cấm nói
lời hung dữ.
Cấm ỷ ngữ, tức dùng lời
khôn khéo để gạt gẫm người ta sa vào tội lỗi.
Lời nói chẳng lành do
nhiều nguyên nhân và hình thức khác nhau như:
Vì ghen ghét mà nói xấu
người, tự cao mà chê bai người, thù vơ; oán chạ, mà nói lời chẳng lành; tự tôn,
tự đại, hống hách, nói càn, sanh ra tranh luận. Ấy vậy, nên chúng ta luôn luôn
phải kiểm duyệt lời nói của mình trước khi thốt ra.
Ngoài sự trì giới trên
đây, chúng tôi xin đề cập thêm một pháp môn nữa là "Tịnh khẩu", tức kiềm chế khẩu căn vào cảnh thanh tịnh.
Đành rằng lời nói do tâm mà sanh, ngược lại, lời nói cũng có ảnh hưởng đến tâm,
cho nên kẻ nói nhiều thì bị loạn tâm; ít nói tâm được yên lặng.
Trong số vạn vật, duy có
loài người biết nói, mà cũng vì biết nói, nên người ta sanh nhiều lời cãi cọ;
nhiều việc tranh luận. Có một vài trường hợp, người ta đánh giết nhau cũng vì
tiếng nói. Ấy vậy, nên sự Tịnh khẩu rất cần, nhứt là hàng tu sĩ cần Tịnh khẩu,
để có ngày giờ suy nghĩ trước rồi sau sẽ nói.
Anh nên tập làm thinh; nhờ
sự trầm lặng mà những quyền năng sâu kín sẽ tiết lộ; tư tưởng được ổn định. Anh
phải theo chơn lý mà khai thông nó. Trong lúc hội đàm, anh nên lặng thinh và
suy nghĩ những ý kiến của đối phương phát biểu. Đó là phương thức tạo sức mạnh,
để rồi thốt lên những lời hòa giải, dung hợp tất cả ý kiến của người và bàn
luận trong bầu không khí vui tươi, thuận thảo.
Một mình anh không thể có
đủ sáng kiến để giải quyết mọi vấn đề. Tại sao anh buộc người khác phải theo ý
kiến của anh? Phải để cho người ta bàn luận, tìm rõ lẽ phải. Làm thinh là cái
gương thuyết giáo nhiều hơn lời nói. Đó là bước đầu tiên để đi đến chinh phục
sức mạnh trong người mình và ở chung quanh mình.
Chúng ta phải làm chủ kỳ
được khẩu căn. Chúng ta nói thật ít, càng ít càng hay. Chẳng những không nói
hành; không nói xấu người, mà chuyện vô ích chúng ta cũng chẳng nên nói nữa.
Đức Lão Tử dạy chúng ta
rằng: Ít nói thì mình theo được đạo tự nhiên. Rồi Ngài đặt thí dụ cho chúng ta
hiểu. Ngài nói: "Chiêu phong bất
chung triêu; sậu võ bất chung nhựt. Thục vi thử dã? Thiên địa. Thiên địa,
thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhơn hồ!". (Đạo Đức Kinh chương 23).
Nghĩa là trận gió lớn chẳng trọn buổi sáng; đám mưa to chẳng trọn cả ngày. Thử
hỏi ai làm việc đó? Trời Đất. Thế thì Trời Đất còn không làm được việc lâu dài,
huống chi người ta.
Đại ý bài này nói rằng: Kẻ
tu sĩ ở vào hoàn cảnh nào, thì cứ an vui theo cảnh ấy. Ở với Đạo thì vui theo
Đạo; ở với Đức thì vui theo Đức, ở với Nhân, Nghĩa, Lễ thì vui theo Nhân, Nghĩa
và Lễ chớ cần chi phải vọng cầu vô ích.
Tuy thế mà chẳng lẽ chúng
ta làm thinh mãi, thành thử, phải nói, nhưng nói thật ít; càng ít càng hay.
Ở đời, có những tư tưởng
biến đổi được lòng người, có những tư tưởng làm nên sự nghiệp. Những tư tưởng
ấy là ngọn đuốc thiêng dẫn dắt người ta vào cõi chí thiện. Chúng ta nên dùng
lời nói của mình để phát biểu những tư tưởng giống như vậy. Trái lại, tư tưởng
nào có tánh cách xoi bói người khác, hoặc làm hại người, hại vật, thì hẳn chúng
ta không nên dùng lời nói của mình mà phát biểu nó ra ngoài.
Ông Mã Phục Ba nói: "Nghe người lầm lỗi cũng như nói tên
cha mẹ mình. Tai nghe nhưng không chịu lập lại. Ai nghe lời lành mà quì lạy,
như Vua Võ; ai nghe điều quấy của mình mà vui mừng, như Thầy Tử Lộ. Hạng người
như vậy quả thật là người có khí phách Thánh Hiền".
Phải biết rằng lời nói
chẳng lành chưa hại người mà nó đã hại mình, cũng như ngậm máu phun người,
trước nhơ miệng mình. Ở đời thường xảy ra nhiều chuyện đôi co là tại mình hay
nói. Kẻ sĩ gặp nhau nên nói những lời hữu ích, cùng người già nên bàn lẽ dạy
con em; cùng trẻ thơ nên nói lẽ thảo thận, cùng chúng nhơn nên bàn trung tín,
tư tưởng. Cường ngôn đoạt lý sẽ có phương hại chánh nghĩa, một lời nói mích
lòng có thể phá hư Chơn đạo. Trang Tử nói: "Nói
một lời lành thì ấm áp, như mặc y phục bằng vải, bằng lụa. Nói một lời có hại
như dao đâm mình. Người ở đời chẳng nên lấy sự nói nhiều làm hơn, chớ khá lấy
sự vui cười làm điều hay. Một vết thương do dao đâm, dễ lành hơn lời nói dữ.
Miệng là cái búa giết người; lời nói là cái dao cắt lưỡi, cho nên người nào
giấu lưỡi thật kín thì thân được yên. Người ta trong lúc khốn cùng, nếu khéo
dùng một lời nói lành thì có thể cởi mở người trên và để phước hậu cho kẻ
dưới".
Được nghe một lời phải
cũng như được vàng ngọc. Nghe lời phải vui hơn nghe đờn cầm, đờn sắt, cho nên
lời phải quí hơn văn chương, thi phú. Mình ít nói thì người ít bàn soạn đến
mình, ít lòng dục thì giữ được Tâm. Thuốc hay đắng miệng, nhưng lợi cho bịnh;
lời nói chánh nghe trái tai, nhưng lợi cho việc làm. Có lỗi mà không biết sửa,
ấy là che lấp mình. Cũng vì nói mà bị oán thù. Ấy là tự làm cho mình mắc họa.
Xảo ngôn thì loạn đức. Kẻ hay trách thiện người ta thì chẳng hay kết bạn vẹn
toàn. Người nào hay dung túng mình thì người ấy không hay chừa lỗi lầm.
c.) CẨN NGÔN
Một hôm, Đức Khổng Phu Tử vào Miếu đường nhà hậu tắc
(trào nhà Châu). Ngài trông thấy một cốt tượng người bằng vàng. Nơi miệng có ba
sợi dây buộc, lại thấy phía sau lưng có khắc chữ rằng: "Đừng nói nhiều, vì
nhiều lời nói thì nhiều lầm lỗi; ít bày việc thì ít lo sợ, lúc yên vui phải lo
giữ gìn. Đừng tưởng không hại mà lầm. Cái hại nhỏ lần lần hóa ra to. Cũng đừng
tưởng chẳng ai nghe mà chẳng sợ, vì lời nói thốt ra nó theo điển lực truyền đi
rất xa. Phải giữ gìn khi chưa nói cũng như lửa, khi mới dập tắt, nếu để đến khi
cháy bừng thì làm sao được, cũng như nước hồi còn ít phải lo ngăn đón, nếu để
khi thành sông rồi thì làm sao được, cũng như cây, khi mới mọc thì phải lo nhổ,
nếu để lớn rồi phải dùng rìu búa mà cốt. Cẩn thận là gốc của điều phước. Người
quân tử biết thiên hạ không thể tránh hơn được, cho nên hạ mình ở chỗ thấp,
biết kẻ chúng nhơn chẳng chịu ở sau; cho nên người quân tử lui lại sau. Khiêm
cung nhỏ nhẹ, thì người ta mến".
Khi về đến nhà, Đức Ngài
bảo kẻ Môn đệ rằng: "Các trò nên nhớ
những điều này. Lời ấy quả là chơn ngôn".
Vàng ngàn lượng là quí, nhưng
chưa bằng một lời lành. Bởi vì ngàn vàng dễ kiếm, lời Thánh khó tìm. Cầu người
tha lỗi, không bằng mình đừng phạm lỗi. Người trí xảo hay luận bàn, người quê
dốt ít nói năng. Ai xảo trá nấy nặng nhọc; ai quê dốt được yên vui. Người xảo
trá mất Thiên lương (Tánh Trời phú cho), người quê dốt hay giữ được bổn tánh,
lanh lợi gặp hung dữ; quê dốt gặp hiền lành. Ôi! Phải chi Thiên hạ quê dốt thì
ĐẠO ĐỨC hoằng khai đáo để!
Tuy thế mặc dầu, nhưng gặp
người đáng nói cũng phải nói. "Khả
dữ ngôn, nhi bất dữ nhi ngôn, thất nhơn. Bất khả dữ ngôn chi, nhi dữ chi ngôn,
thất ngôn. Trí giả bất thất nhơn, diệc bất thất ngôn".
Nghĩa là gặp người đáng
nói mà chẳng nói thì mất người, gặp người chẳng đáng nói mà nói thì mất lời. Kẻ
trí không để mất người mà chẳng để mất lời. Đại ý bài nầy nói rằng tuy chúng ta
cẩn ngôn, cẩn hạnh; nhưng gặp trường hợp đáng nói thì phải nói. Giữa đám đông
người, nếu chúng ta nói ra một lời nói có lỗi thì mặt mày hổ thẹn. Bởi vậy, nên
lời nói chẳng khá chẳng dè dặt. Miệng là cửa hại người, nên có câu nói: "Họa tùy khẩu xuất".
d.) NÓI HAI ĐẦU
Chuyện người mặc người lo,
chúng ta chẳng nên đem việc người nầy học với kẻ nọ mà phải sanh đôi co, cãi
cọ.
Giấu sự lành của người là
che lấp người hiền, bày việc dữ của người là tiểu nhơn. Nói cái lành của người
thì mình vui, như mình đã có điều lành ấy, nói cái dữ của người cũng như mình
đã mang việc chẳng lành ấy. Khi người ta chê mình thì đừng nổi giận, khi nghe
người ta khen mình thì chớ vội mừng. Khi nghe người ta nói điều dữ của kẻ khác
thì mình chớ vội chê. Trái lại, khi nghe người ta nói cái tốt của kẻ khác thì
mình vui mừng hòa theo. Cổ thi có câu:
Chánh văn Thích nôm
Lạc kiến thiện nhơn, Vui thấy người hiền,
Lạc văn thiện sự, Vui nghe việc lành,
Lạc Đạo thiện ngôn, Vui nói lời lành,
Lạc hành thiện hành. Vui làm việc lành.
Nghe việc xấu của người
như mình đạp chông gai; nghe việc tốt của người cũng như mình mang bông lan
huệ. Đức Khổng Phu Tử nói: "Đem
chuyện đầu nầy nói đầu kia là tự bỏ Đức mình vậy".
Trong sự giao du với bằng
hữu, nên lấy điều ngay lành mà bảo thẳng; khéo tìm cách khuyên răn, nếu chẳng
nghe thì thôi; chớ đừng chuốc lấy nhục. "Trọng
cáo nhi thiện Đạo chi, bất khả bất chỉ, vô tư nhục yên". (Luận Ngữ).
e.) THỦ TÍN
Tránh lời dữ, nói lời lành
và cũng phải nói nhỏ nhẹ, lễ phép. Còn khi nói ra rồi phải giữ lời nói của
mình. Cổ nhơn nói: "Nhơn vô tín bất
lập". Nghĩa là người không được tín nhiệm thì không làm nên được. Lại
nói: Người không đức tính cũng như xe không gọng kéo. Xem đó đủ biết thủ tín là
quan trọng dường nào?
Đức Lão Quân nói: "Người quân tử nói ra một lời bốn ngựa
khó theo". Thủ tín là một đức tánh quan trọng trên đường giao tế. Vua
tôi thất tín thì nước chẳng yên; cha con thất tín thì nhà chẳng hòa; anh em
thất tín thì xa nhau; bậu bạn thất tín thì tình giao hảo phải đứt.
Những lời lẽ trên đây
chúng ta nghiền ngẫm cho thành thói quen. Thói quen gọi là hạnh, hay hạ đức,
rất cần khi xử sự tiếp vật.
TÓM LUẬN
Trong cõi lòng chưa có
vọng động, thì đã có sẵn một điểm Minh đức ngự trị. Nho giáo cho Minh đức là
đức của Trời phú cho người. Nó sáng suốt viên thông, có thể cảm ứng với Trời
Đất, quán triệt Càn Khôn, tinh thông vạn vật. Giá như người ta giữ được cái đức
ấy, để làm ngọn đuốc thiêng, rọi đường cho mình hành động thì ắt người ta được
trọn lành. Nhưng có điều khó khăn cho người ở thế gian là vì họ còn phải vật
lộn với đời sống vật chất, và còn phải lo tròn những bổn phận làm người. Ấy
vậy, nên chúng ta phải thực hiện bốn đức thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đã kể
trước kia, để thay thế cho Minh đức trong lúc đức nầy chưa xuất hiện hoàn toàn.
Thực hiện nghĩa là phải học tập thế nào cho bốn đức thường biến thành hạnh kiểm
của mình, và sẵn sàng ứng đối xử sự tiếp vật.
Thứ nữa, phải kiểm điểm
lại cách hành động, nói năng và phải sửa lại, nếu có tật hư, nết xấu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét