Các Nghi-Lễ Về Thiên-Đạo 4 / 5 (TTTN)

 5. - Ngày 10-03
Kỷ-Niệm Thập-Bát Hùng-Vương
Văn Tuế
Thời Duy

Tế thứ ........... niên.  Kiến (giáp thìn ngoạt, giáp thân, kiết nhựt lương thần. Hiện tại (Việt-Nam Quốc, Tây-Ninh tỉnh, Châu-Thành Thánh-Địa Đệ Ngũ phận Đạo.)
Cư trụ (Báo-Quốc-Từ) chi trung.
Tế chủ (Phó Khâm Thành Nam) tịnh Chức-Sắc, Chức-Việc, nam-nữ đẳng cẩn dĩ tư thần thanh chước, thứ phẩm chi nghi. . .
 “Cảm chiếu cáo du”
Việt-Nam quốc tổ Kinh Dương-Vương Lạc-Long-Quân.  Lịch Đại Thập Bát Hùng-Vương, giữ tùng tự Lạc Hầu, Lạc Tướng, liệt vị tồn thân.

Y Dư,
- Đường Nam tiếng vẻ-vang dân-tộc nghiệp lưu-truyền cảm đội Đức Hùng-Vương.
- Cuộc bát phòng vững chắc biên cương công khai-sáng mong nhờ quốc-tế.
- Hồn thiêng trấn-ngự khắp giang-san.
- Phước ấm chở che cùng lãnh-thổ.

Cung Duy Chư Tiên-Vương
-  Tinh hoa ngũ đẳng nung rèn.
-  Linh tú phong châu kiết tụ.
-  Góc nhau rún từ trăm trứng nổ.
-  Thông-minh dũng-cảm Rồng-Tiên cốt cách tạo muôn đời.
-  Nghiệp Đế Vương hai chục ngôi truyền.
-  Chánh-trực nhơn-từ, Hồng-Lạc oai-danh vang từ nhỏ.
-  Sức mãnh tiến ven bờ định cõi, tạo thành dãy non-sông gấm-vóc.
-  Từ Động-Đình thẳng xuống Chiêm-Thành.
-  Ngành hưng Nông mở ruộng khai ngòi dựng nền xã tắc nghiêm-trang khắp viên quận quan về thủ phủ.
-  Văn võ triều nghi sắp-đặt.  Nào Lạc-Hầu, nào Lạc-Tướng tài-năng.
-  Ngang chức-vụ, tiếp tay gầy dựng kỷ-nguyên chung.  Gái trai danh hiệu nêu bày từ Quan-Lang đến Nhị-Nương đức-hạnh xứng ngôi hằng nối bước đắp vun nề-nếp cũ.
-  Hội Linh-Kiệt nước-non người gật tiến Chiêm Việt tích còn ghi.
-  Nung nghĩa tình chồng-vợ, anh em phong-tục Trầu-Cau đời vẫn giữ.
-  Đảnh ngộ khơi hồn nước cũ, sử tạc bốn nghìn năm.
-  Cơ-đồ để lại lớp người sau trước chia 15 bộ.
-  Đổi họ thay Triều qua mấy lớp, Vua quan đều nhớ trí tôn sùng.
-  Phế hưng ly.  Hiệp trải nhiều phen dân chúng đồng tâm ngưỡng-mộ.

Hôm nay chúng tôi:
-  Nhìn tổ-quốc rỡ-ràng sông-núi ơn ngọn rau tấc đất dạ còn ghi.
-  Ngắm dư đồ rộng-rãi phong cương nghĩa cây cội nước nguồn lòng nhớ mãi.
-  Non nước cách tâm thành không chúc văn lời tụng xưng luôn nhắc nhở quân công.
-  Thời đại xa tưởng vọng chẳng hề lơi.
-  Ngày kỷ-niệm vẫn mồ nhìn Miễu mộ.
-  Hương một nén quì trước áng.  Hội thanh-bình mong chuyển khắp giải san-hà.
-  Rượu ba từng khấu điện theo nghi mùa thanh hương nguyện châu hòa ơn vỏ lộ.
-  Tôn nghiêm thay, kính cẩn thay.  Phục di thượng hương.

Phần Thứ Năm

TANG LỄ

Tang-lễ là một hình-thức phô-diễn bên ngoài, có tính cách qui-cũ chuẩn-thằng của tổ-chức Tôn-Giáo.  Đó là Thể-Pháp rất ảnh-hưởng đến Bí-Pháp vô-vi.  Theo lời dạy của Đức Hộ-Pháp:  “...  Không có một điều gì mà Chí-Tôn định trong Chơn-giáo của Ngài, dầu Bí-Pháp, dầu Thể-Pháp mà vô ích đâu.  Đấng ấy là Đấng tưng-tiu, yêu-ái con cái của Ngài lắm;  Thoảng có một điều gì không cần ích, mà con của Ngài nói rằng không muốn Ngài cũng bỏ nữa đa.  Từ ngày khai Đạo, kinh-kệ, lễ bái, sự chi sắp-đặt về đạo-đức cũng chính Đức CHÍ-TÔN tạo-thành, không phải do các Đấng khác;  Ngài buộc mình làm tất có cần-yếu hữu-ích chi đó Ngài mới buộc ...”  (Trích “Lời Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp”, quyển 2 trang 154.)

      Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Đoä là một Tôn-Giáo có tôn-chỉ:  Qui Tam-Giáo, Hiệp Ngũ-Chi;  Tức là phối-hợp triết-lý của các Đạo-Giáo.  Vì vậy với Thánh-ý Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Thiêng-Liêng, cho nên những bậc tiền-bối trong nền Đại-Đạo đã dày-công nghiên-cứu, châm-chước và biên-soạn ra các nghi-lễ dùng trong việc Quan-Hôn, Tang-Tế, rồi dâng lên Quyền Thiêng-Liêng phê-chuẩn.  Ấy vậy nghi-lễ trong nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ không phải do ai tự-ý bày vẽ ra, mà là một công-trình chung (Thiên-Nhơn hiệp nhứt), trong một lề-lối đồng nhứt áp dụng cho tất cả toàn Đạo.

        Thế nên:  “...  Những sự sửa-đổi về nghi-lễ do ý riêng của mình thì rất nên tai-hại, vì nó làm cho tổ-chức Tôn-Giáo tại mỗi địa-phương có hình-thức một nhóm riêng.  Dần dần theo thời-gian, những sự khác biệt ban-đầu coi nhỏ bé, sau sẽ lớn dần ăn sâu vào tâm-trí nhơn-sanh thì sự thất kỳ truyền cũng do nơi đó mà ra.”  Trích “Lời Nói Đầu” của Hội-Thánh, quyển “Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”)

1 - Tang Lễ Cho Bổn Đạo
Ăn Chay Từ Mười Ngày Trở Lên

Nghi-lễ cầu bệnh cho bổn-đạo “Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”

Hành-lễ 3 đêm:
-  Đêm thứ 1:  Vào thời Dậu (ở Việt-Nam, còn ngoại-quốc thì tùy theo hoàn-cảnh.)  Thiết-lễ Đức CHÍ-TÔN có thượng-sớ (dâng Tam-Bửu) do Bàn-Trị-Sự dâng sớ.  Trước khi nhập Đàn lên nhang đèn bàn-thờ ông-bà cho gia-quyến bệnh-nhân cầu-nguyện, buộc gia-quyến phải cúng Thầy để cầu-nguyện.  Cúng Thầy xong bãi Đàn, rồi tiếp tụng “Di-Lạc” và 3 biến “Cứu-Khổ”.  (Tụng “Di-Lạc” và “Cứu-Khổ” càng nhiều càng tốt.)
-  Đêm thứ 2:  Y như đêm thứ 1, nhưng không dâng sớ, chỉ dâng Trà, nhưng vẫn chưng đủ Tam-Bửu trên Thiên-Bàn;  (Để cầu-nguyện thỉnh Rượu và nước Âm-Dương cho bệnh-nhân uống.)
-  Đêm thứ 3:  Cũng y như đêm thứ 2, là xong nhiệm-vụ của Bàn-Trị-Sự;  Nhưng nếu gia-quyến yêu-cầu tụng “Kinh Sám-Hối” thì Bàn-Trị-Sự buộc gia-quyến cùng bệnh-nhân phải giữ trai-giới trọn 3 ngày đêm để tụng “Kinh Sám-Hối”; (trong gia-quyến quì, nếu Bàn-Trị-Sự muốn quì thì tùy-ý.)

Chú-ý:  Bàn-Trị-Sự chưa thọ Pháp giải bệnh thì làm như sau:  Khi cúng Thầy xong (chưa bãi Đàn), nếu bệnh-nhân còn đi được, trong gia-quyến đỡ bệnh-nhân đến trước Thiên-Bàn cho bệnh-nhân lạy cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN vị chứng Đàn vào quì cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN thỉnh ly rượu giữa rửa mặt cho bệnh-nhân, kế thỉnh hai chung nước Âm-Dương ký tế lại (là kê 2 miệng chung cho hai mặt nước giao-nhau rồi đổ thống-nhất vào ly riêng rồi cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN ban phép cho bệnh-nhân uống, nhớ khi uống phải niệm:  “Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” 3 lần, uống xong bệnh-nhân lạy 3 lạy rồi đỡ dậy bước ra bãi Đàn.  Trừ khi nếu có Chức-Sắc thọ Pháp giải-bệnh thì tùng người mà hành-lễ.

Phần cầu bệnh ngoại-lệ
Nếu gia-đình bệnh-nhân không rước Bàn-Trị-Sự đến tư-gia dâng sớ cầu-nguyện, mà chỉ nhờ Thánh-Thất hay Điện-Thờ cầu-nguyện, tụng “Kinh Di-Lạc”, “Cứu-Khổ” thì cũng đọc như có dâng sớ, nghĩa là đến chỗ “Cứu-hộ đệ-tử . . . nhứt thân ly khổ-nạn ...”  Mặc dầu không dâng sớ, mà tâm thành thì Đức CHÍ-TÔN  cũng đã chứng, vì “... nơi lòng Thầy ngự động Thầy hay ...”
Còn người ngoại Đạo mà họ tin-tưởng muốn nhờ ta cầu-nguyện tụng kinh cho họ, thì đến chỗ “... cứu hộ đệ-tử ....” thì ta đọc “... cứu-hộ ...” chớ không đọc “... cứu-hộ đệ-tử ...” vì chưa là môn-đệ Đức CHÍ-TÔN.
*
*          *

Cầu-hồn khi hấp-hối và khi đã chết rồi
Bàn-Trị-Sự lo nghi-lễ cúng Thầy trước (dầu chưa đúng giờ cúng Tứ-Thời.)  Nếu đúng giờ cúng, Thời nào thì dâng Bửu nấy;  Nếu ngoài giờ cúng Tứ-Thời thì: Dâng đủ Tam bửu.
................................................................................................
Sau khi cúng Thầy xong, vị chứng Đàn và 2 vị Chức-Việc vào lạy Thầy cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN rằng:  “Chúng con là Bàn-Trị-Sự đương quyền-hành chánh-sở tại, được lời thỉnh-cầu của vị ... đến cầu-hồn cho vị đạo-hữu ... đã hấp-hối, mong nhờ Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT-MẪU cùng các Đấng Thiêng-Liêng ban ân cho người nhẹ-nhàng linh-hồn.”  Nguyện xong lạy 3 lạy, đứng dậy vị chứng Đàn bước lấy 2 cây đèn cầy để trên dĩa (nơi bàn Kinh), chập lại đốt một lượt, xá Đức CHÍ-TÔN 3 xá rồi tách ra đưa cho 2 vị hầu, vị chứng Đàn ngó ngay trên Thiên-Nhãn định Thần bắt Ấn-Tý vào ngực, cùng 2 vị hầu cầm đèn đến trước đầu bệnh-nhân ngó ngay mỏ-ác người hấp-hối kêu tên nói rằng:  “Nầy . . . tôi vâng lịnh Đức CHÍ-TÔN đến tụng kinh cho vong-hồn đạo-hữu nhẹ-nhàng siêu-thăng tịnh-độ, vậy đạo-hữu phải định-tâm mà nghe và phải cầu-nguyện với Đức CHÍ-TÔN ban ân-lành cho.”  (Nếu là Chức-Sắc thì gọi Thánh-danh và Chức-Sắc hành-lễ).  Nói xong đồng-nhi khởi đọc bài “Rấp nhập-cảnh . . .” 3 lần, dứt niệm:  “Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” 3 lần.  Đoạn vị chứng Đàn và 2 vị Chức-Việc cầm đèn trở lại Thiên-Bàn xá Đức CHÍ-TÔN 3 xá mới tắt đèn và vị chứng Đàn mới xả Ấn-Tý.

Điều Lưu-Ý:
Nếu trong khi cầu hấp-hối mà bệnh-nhân tắt hơi thì tiếp tụng luôn bài “Kinh Khi Đã Chết Rồi” “Ba mươi sáu cõi . . .”  3 lần, dứt niệm chú của Thầy 3 lần;  Rồi đến Thánh-Thất dọng chuông báo tử, nam 7 tiếng, nữ 9 tiếng.  Vị nào không đủ 10 ngày chay thì không dọng chuông báo tử, còn Chức-Sắc thì tùy phẩm-vị mà dọng chuông trống.

Sớ Cầu-Đạo của người qui-vị Bàn-Trị-Sự ghi vô Bộ Tử của Đạo, để khi làm Tuần-Cửu hoặc Tiểu, Đại-Tường thì Lễ-Vụ lật Bộ-Tử để viết sớ.

Nếu dâng sớ ở Thánh-Thất thì ở tại gia Bàn-Trị-Sự cũng cúng Đức CHÍ-TÔN để cầu-nguyện.

* * *
Nghi-Lễ Tẩn-Liệm
Nghi-Lễ Tẩn-Liệm phải cúng Thầy, nhằm Tứ-Thời dâng sớ Tân-Cố vị chứng Đàn là Bàn-Trị-Sự.  Cúng Thầy xong tất cả gia-quyến quì cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN rồi đến chổ người chết quì lạy xác 1 lần (4 lạy), đồng-nhi tụng “Kinh Tẩn-Liệm” “Dây oan-nghiệt ...”  Xong tang-chủ lạy vong 1 lần nữa (4 lạy).  Vị chứng Đàn và 2 Chức-Việc cầm đèn trở lại xá Đức CHÍ-TÔN rồi xả Ấn-Tý và tắt đèn.

Các nghi-thức hành-lễ trên, từ Bàn-Trị-Sự trở xuống đạo-hữu thì vị chứng Đàn là Bàn-Trị-Sự, còn Chức-Sắc từ phẩm Lễ-Sanh trở lên thì phương-pháp cầu hấp-hối hay đã chết rồi và Tẩn-Liệm thì Bàn-Trị-Sự chỉ hành-lễ theo nghi-thức trên.  Riêng về phần chứng Đàn, thượng Sớ phải đưa lên cho Tộc hoặc Châu thay mặt Hội-Thánh dâng Sớ tại Thánh-Thất hay tư-gia người đã chết.
* **
Nghi Thành-Phục Phát Tang
Cúng Đức CHÍ-TÔN trước, rồi Cáo-Từ-Tổ.  Phải đặt 1 nghi ngoài kiến đất-đai, 1 mâm cơm chay hay hoa-quả bánh-nước “tùy-gia vô-hữu.”  Một mâm cúng Cửu-Huyền, 1 mâm đựng đồ tang-lễ để Cáo-Từ-Tổ, đọc bài kinh cầu Tổ-Phụ qui-liễu 1 lần, tiếp “Cứu-Khổ” 3 lần, đến câu “ ... cứu-hộ ...” đọc “... chơn-linh Cửu-Huyền Thất-Tổ siêu-thăng tịnh-độ ...”  Xong bưng mâm tang qua bàn vong hành-lễ.  (Vị chứng Đàn mặc Đại-Phục vào cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN để nhận lịnh phát tang cho tang-chủ.  Xong trở vào bái lễ Đức CHÍ-TÔN, rồi thay Đại-Phục.)
***
Lễ Đăng-Điện
Nghi Đăng-Điện có 6 Lễ-sĩ hiến lễ, cách-thức Đăng-Điện và đồng-nhi thài theo qui-định tùy phẩm cấp trong Đạo.  Tang-chủ lần lượt quì chánh tế, đồng-nhi đọc Kinh Thế-Đạo (vợ, chồng, con, ...) tùy theo trường-hợp.

Tại tư-gia chỉ thực-hiện cúng tế Đăng-Điện 1 lần, không phân-biệt giàu nghèo, các phần khác chỉ châm-chước mà thôi.

Phụ-Tế
Thân-bằng cố-hữu cúng-tế sau phần chánh tế, nghi châm-chước, có nhạc, 2 Lễ-sĩ chấp sự, tế-chủ quì, đồng-nhi đọc một bài Kinh Thế-Đạo “Kinh Cầu Bà Con Thân-Bằng ...”
Phần niệm hương phụ-tế, nếu có tiểu-sử hành Đạo thì đọc trước khi niệm hương phụ-tế.
-  “Kinh Cha-Mẹ Đã Qui-Liễu” câu:  “Cha ở đâu?  Mẹ nơi đâu?”, đây là tiếng than, nên bà Đoàn-Thị-Điểm phết trong câu chớ không có ... để thay vào.  (Có nơi; nếu cha qui liễu mẹ còn thì đọc: cha ở đâu, mẹ nơi đây và ngược lại; mẹ qui liễu thì đọc cha ở đây mẹ nơi đâu là sai).

-  “Kinh Tụng Huynh-Đệ Mãn Phần” chỉ dành cho anh-chị ruột mà thôi, vì:  “... Thân nhau từ buổi lọt lòng ..., Thương những khi co đắp chung mền ...  Giếng thăm hôm sớm song-thân ... phụ, mẫu-thân.”
-  Câu:  “...  Gởi Tổ-Phụ ... hiền cung-phụng ...”  Thay vào “... anh ...” hoặc “... chị ...” vì Tổ-Phụ ở cõi hư-linh, nên khi anh hoặc chị qui-vị thì gởi cho anh-chị cung-phụng ...  Lại nữa, em mới quì tế anh chị chớ anh chị có quì tế em bao giờ!  Trong Kinh Hội-Thánh đã giải rõ.

***
Lễ Cầu-Siêu
Tất cả tang-quyến hoặc thân-quyến quì trước bàn linh.  Chức-Sắc, Chức-Việc, Đồng-Nhi và toàn Đạo đến dự lễ đứng hai bên, tay bắt Ấn-Tý, cùng đọc bài “Kinh Cầu-Siêu”, đọc xen bài “Kinh Khi Đã Chết Rồi”, đọc 3 lần, khi dứt niệm câu chú của Thầy (3 lần).
Đương lúc làm phép xác phải tụng “Kinh Cầu-Siêu”, cho những người ăn chay đủ.

Cúng Vong
(Triêu-Tịch là Sáng-Chiều)

- Hành-lễ theo nghi châm-chước, có nhạc, 2 Lễ-sĩ chấp-sự, Cáo-Từ-Tổ xong, đến bàn vong đọc “Kinh Thế-Đạo” (Cha, Mẹ, ...)
- Khi tụng “Kinh Di-Lạc” thỉnh vong đến trước Điện-Tiền, nơi Điện-Tiền.  Sau chỗ vị chứng Đàn phải để trống một chỗ, nghĩa là cho vong quì cúng Thầy để nghe Kinh.  Chỗ vong quì tùy theo phẩm mà để trống.  (Trang 9 quyển “Kinh-Lễ”)

***
Lễ An-Táng
Cúng Thầy trước, rồi làm lễ Cáo-Từ-Tổ, tang-chủ đến trước bàn vong cúng theo nghi châm-chước, tiếp-theo lễ Cầu-Siêu (nếu có làm phép đoạn căn hoặc độ thăng thì thực-hiện trong lần Cầu-Siêu nầy), rồi làm lễ Khiển-Điện, Đạo-tỳ vào bái quan, di linh-cữu ra Thuyền Bát-Nhã.  Đồng thời vị chứng Đàn (Chức-Sắc hoặc Chức-Việc) cầm phướn dẫn linh-cữu và tang-quyến bưng khai linh-vị đến trước Thiên-Bàn xá 3 xá rồi ra phía trước quan-tài sắp-đặt thứ-tự theo qui-định trong tang-lễ.  Hể phát-hành Đồng-nhi đọc “Kinh Đưa Linh-Cữu” ra tới huyệt.

      Hạ huyệt vị chứng Lễ đến trước linh-cữu thiết-lễ cầu-nguyện Hoàng-Thiên Hậu-Thổ Đất-Đai gởi thi-hài xác-tục của người qui-vị, tang-quyến quì trước đầu huyệt tụng “Kinh Hạ Huyệt” “Thức giấc mộng ...”, “Vãng Sanh” và chú của Thầy (mỗi bài 3 lần).



 Chú-ý:  Trong “Kinh Thiên-Đạo và Thế-Đạo” thì phướn Thượng-Sanh đi trước, sau nầy quyển “Quan-Hôn Tang-Lễ” có Đức Lý phê-chuẩn tại Cung-Đạo Đền-Thánh, là bảng Đại-Đạo đi trước.
***

2 - Tang-Lễ Ngoại-Lệ

a . Tang-Lễ Đạo-Hữu Giữ Lục-Trai  (Châu-Tri số 61)
Những vị nầy không được làm Phép-Xác, chỉ cầu-siêu Bạt-Tiến (tụng bài “Đầu vọng bái ...” và “Kinh Di-Lạc” mà thôi.)  Hành-lễ tế-điện theo vong thường, không làm Tuần-Cửu, Tiểu, Đại-Tường theo Tân-Kinh.  Khi tới ngày Tuần-Cửu, Tiểu, Đại-Tường thì thân-nhân đến Thánh-Thất sở tại xin cầu-siêu;  Nếu làm lễ tại tư-gia thì cũng tụng 2 bài như ở Thánh-Thất vậy thôi.

Nghi-Thức:
-  Tụng “Kinh Hấp-Hối” “Rắp nhập cảnh ...”
-  Tụng “Kinh Đã Chết Rồi” “Ba mươi sáu cõi ...”
-  Thượng sớ tân-cố tại tư-gia hoặc nơi Thánh-Thất (không thượng sớ Tuần-Cửu và Tiểu, Đại-Tường.)
-  Cáo-Từ-Tổ “Giọt máu mủ ...” và “Cứu-Khổ”.  Cầu-Siêu Bạt-Tiến “Đầu vọng bái ...” và chú của Thầy, mỗi bài 3 hiệp.
-  Tụng “Kinh Đưa Linh-Cữu” “Cầu các trấn ...”
-  Tụng “Kinh Hạ-Huyệt” “Thức giấc-mộng ...” và “Vãng Sanh”, niệm chú của Thầy, mỗi bài 3 lần.  (Nghĩa là không dọng chuông báo tử và tụng “Kinh Tuần-Cửu”, “Tiểu-Tường”, “Đại-Tường”.)
***

B . Tang-Lễ Nhi-Đồng (Châu-Tri số 61)
Con nít 3 tuổi trở lên giữ được 10 ngày chay hoặc trường-trai thì được làm Phép-Xác y theo “Tân-Kinh”.  Tuy nhỏ nhưng chơn-linh trong sạch, lại tùng Luật-Pháp của Đức CHÍ-TÔN, nên được hưởng ân-huệ ấy.
***

C . Những Người Sa-Ngã, Ngoại Đạo
Những người chưa Nhập-Môn cầu Đạo chẳng luận giàu-sang hay nghèo-hèn, già-cả hay trẻ-bé cùng đã có Nhập-Môn rồi, sa-ngã bỏ Đạo mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin-tưởng Đức CHÍ-TÔN hay là người đã chết rồi mà thân-tộc người tin-tưởng Đức CHÍ-TÔN đến nhờ chúng ta cầu-hồn cùng là cầu-siêu.  Ấy là một điều phúc-đức độ linh-hồn con-cái của Đức CHÍ-TÔN theo y Chơn-Truyền tận-độ, thì chúng ta cũng nên thi ân giúp-đỡ, linh-hồn ấy siêu-thoát.

Song cách thể hành Lễ;  Chức-Sắc và Chức-Việc phải làm y vầy:
Về việc Cầu-Siêu:
-  Nếu ở gần Thánh-Thất thì Cầu-Siêu nơi Thánh-Thất.
-  Nếu ở xa Thánh-Thất thì thiết-lễ Cầu-Siêu nơi nhà Chức-Sắc hoặc Chức-Việc gần đó.
-  Nếu người trong thân-nhân chịu nhập-môn thì dễ hơn.  Chức-Việc cứ thượng Tượng cho nhập-môn rồi thiết-lễ tang-sự luôn, nhưng nghi-thức làm như những người ăn chay 6 ngày, duy chỉ:

Việc Cầu-Hồn:  (theo “Kinh-Lễ”, trang 14)
-  Cầu-hồn thì tụng bài “Kinh Cầu-Siêu”:  “Đầu vọng bái Tây phương Phật-Tổ ...”
-  Tối lại cả gia-quyến của người lâm-chung phải thành-tâm tụng “Di-Lạc Chơn-Kinh” cho tới ngày di linh-cữu.
-  Điều trọng yếu hơn hết là trọn tang môn phải giữ trai-giới trong mấy ngày linh-cữu còn tại tiền thì mới làm Bạt-Tiến cho linh-hồn giải-thoát được.

Khi An-Táng:
-  Tụng một bài “Kinh Cầu-Siêu” từ lúc khởi-hành đến nơi an-táng (không tụng “Kinh Di Linh-Cữu”, “Kinh Hạ-Huyệt”), chỉ đọc “Vãng-Sanh Thần-Chú”, 3 lần.

Chú-ý:
-  Những người chết không nhập-môn (ngoại Đạo), ta được Cầu-Siêu Bạt-Tiến, đọc “Kinh Thế-Đạo” (vợ, chồng, hay con tế, ...), không thượng sớ (vì không có chân trong nền Đạo, không phải môn-đệ Đức CHÍ-TÔN nên cũng không được đi Thuyền Bát-Nhã.)
-  Không được nhập-môn thế, ăn chay thế cho người chết để xin hành đủ lễ theo “Tân-Kinh” (nếu ăn chay thế, Chơn-Thần người chết vẫn còn trược khí, nên không thể vượt ra khỏi vòng càn-khôn để lên 9 từng Trời (Tuần-Cửu).  Chơn-Thần phải nhẹ hơn không-khí, bởi trong không-khí có điển-lực, trược khí vốn vật-chất, dễ tiếp điển (bon conducteur de éctricite).  Khi ấy Chơn-Thần chưa ra khỏi lằn không-khí thì đã bị sét đánh tiêu-diệt rồi;  Ấy là lẽ không nên ăn chay thế để hành đủ lễ là vậy.
***
D. Tự Vận
-  Không hành-lễ theo “Tân-Kinh”, dầu ăn chay đủ cũng vậy;  Vì chưa tới số mà tự-hủy mình, nên không về với Đức CHÍ-TÔN được, phải ở chờ ngoài Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng sám-hối cho đến khi tới số mới được về thọ-lịnh nơi Ngọc-Hư-Cung;  Bởi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức CHÍ-TÔN đóng địa-ngục, mở tầng Thiên;  Kinh có câu:  “Vô địa-ngục, vô quỉ quan, Chí-Tôn đại-xá nhứt tràng qui-nguyên ...”, nên không đọa xuống phong-đô.  Theo bộ “Kinh Di-Lạc” Tam-Kỳ độ sanh;   Thì tang-chủ năng tụng “Di-Lạc Chơn-Kinh” để cầu cho linh-hồn được nhẹ-nhàng.  Nên đến ngày Cửu-Cửu chỉ đến Thánh-Thất xin Cầu-Siêu mà thôi!!!

***
E. Sét Đánh
-  Hành-lễ theo Thế-Đạo, Tế-Điện, ... không Cầu-Siêu, chỉ đọc vảng sanh 3 lần, niệm chú của Thầy 3 lần khi hạ huyệt.  (Khi sét đánh Chơn-Thần bị tiêu-diệt, còn linh-hồn bị đọa, vì phạm Thiên-Điều:  Phạm-Pháp, Phạm-Luật, Phạm-Thệ, ... bị Ngũ-Lôi tru diệt tiêu tan gió bụi!!!  Còn gì mà Cầu-Siêu!!!!!)
***

3 - Hành-Lễ Tuần-Cửu

-  Cúng Thầy trước, có thượng sớ, và khai Tuần-Cửu vào giờ Ngọ (ở nước ngoài tùy hoàn-cảnh).  Trước Thiên-Bàn, đọc bài “Kinh Khai-Cửu” “Đã quá chín ...” 1 lần (là nếu có trùng nhiều Tuần-Cửu đi nữa cũng chỉ tụng chung một lần Khai-Cửu mà thôi) rồi tiếp-tục đọc bài Nhứt, Nhị Cửu, ... (mỗi bài 3 hiệp).  Nếu tang-quyến có cúng phẩm Tổ-Phụ Ông-Bà và vong-linh thì tự-nguyện.  Bàn-Trị-Sự chỉ hành-lễ Tuần-Cửu và tụng “Kinh Di-Lạc” để cầu-nguyện cho vong-linh được siêu-thoát là xong.
***

4 - Tiểu-Đại Tường

-  Cúng Thầy trước, dâng sớ và Khai-Cửu, (Tiểu hay Đại-Tường).  Trong lễ nầy nếu có nhạc Lễ Tế-Điện hoặc châm-chước thì có Cáo-Từ-Tổ, tiến-hành lễ Tế-Điện, cúng tế xong, lễ thành.  Đoạn lễ thành;  Nếu Tiểu-Tường thì vị chứng lễ mặc Đại-Phục, và Đồng-nhi đến đứng trước Thiên-Bàn (nam tả nữ hữu), mời tang-quyến đến.  Vị chứng lễ quì trước, tang-chủ quì sau cầu-nguyện Đức CHÍ-TÔN và các Đấng để đốt lá phan Tiểu-Tường.  Vị chứng lễ đứng dậy đốt lá phan, tang-chủ vẫn quì, Đồng-nhi đọc vãng-sanh, và niệm chú của Thầy, mỗi bài 3 lần, dứt lạy Thầy 3 lạy.  Nếu là Đại-Tường thì cũng hành-lễ y như Tiểu-Tường, nhưng khi đốt lá phan và linh-vị xong đến phần xả tang thì làm như sau:  Vị chứng lễ đến trước Thiên-Bàn cầu-nguyện thỉnh nước Âm-Dương (ký-tế), để vào cái mâm nhỏ, hay cái dĩa, 1 cái kéo, 1 cái lược và 1 cái bông bưng đến bàn vong;  Tang-chủ cầu-nguyện lạy vong xin xả tang, vị chứng Đàn bưng ly nước Âm-Dương đứng trước gia-đình tang-chủ  .................................lấy kéo nhấp trên đầu tang-chủ (người trưởng trong tang) một cái rồi lột khăn tang xuống, lấy cái lược chải trên đầu 3 cái, ở giữa và 2 bên, còn những người sau tự-động gỡ khăn xuống, gia-đình lạy, đứng dậy, xá và bước ra ngoài cởi đồ tang.  Đến đây là hết phần lễ tang tế sự.  (Nhớ tụng “Kinh Di-Lạc” trước khi đốt lá phan.)

Chú-ý:
-  Tạm-thời Hội-Thánh chưa phục-quyền, nơi hải-ngoại không có Chức-Sắc thọ Pháp, nên dựa vào Nghi-Lễ trước năm 1975 trước khi Hội-Thánh bị giải-thể và tài-liệu “Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”.  Sau nầy Hội-Thánh phục-quyền thì chúng ta sẽ dâng lên cầu xin Hội-Thánh chỉ dạy.
-  Trong Đạo, theo “Tân-Kinh”, mãn Tuần Cửu-Cửu tức là 81 ngày.  Từ đó đến 200 ngày là tới Tuần Tiểu-Tường.  Từ Tiểu-Tường đến 300 ngày là tới Tuần Đại-Tường, cộng chung là 581 ngày, là mãn tang.

Ý-nghĩa chữ Tường:
Chữ Tường nghĩa là lành, là kiết.  Trong nhà có tang, cả nhà mang sự thương-xót, đau-buồn, tưởng nhớ đến người quá cố;  Thời-gian làm xoa dịu nỗi đau-thương, cái buồn bớt lần lần, đem lại cái vui, như đem điềm lành, điềm tốt trở lại.  Vì vậy, mà Tiểu-Tường cũng có cái nghĩa là Tiểu-Kiết-Tường, Đại-Tường cũng có nghĩa là Đại-Kiết-Tường.
Sau đây là bài thi của Đức Cao-Thượng-Sanh nói về Luật-Pháp Chơn-Truyền:

-  Thi  -
Thánh-giáo bảo-tồn thất ức niên,
Nhờ nơi Luật-Pháp hiệp Chơn-Truyền.
Tuân-hành đúng mức đường tu vững,
Tự-tác sai chiều bước Đạo nghiêng.
Lướt khổ đã mong hồi cựu vị,
Gieo nhân há để vướng tà quyền.
Thiên-Điều tại thế nên tôn trọng,
Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên.
Đức Cao-Thượng-Sanh

***

5 - Xe Tang
(Thuyền Bát-Nhã)

Trong Đạo, việc cất táng dùng xe tang bằng một chiếc thuyền trổ hình con rồng, gọi là Thuyền Bát-Nhã.  Từ tín-đồ đến Chức-Sắc thảy đều dùng được.  Duy có màu sắc tấm Diềm treo trên Thuyền Bát-Nhã và tấm vải phủ quan để phân-biệt.
a . Tín-Đồ, Đạo-Hữu, Đạo-Sở, Chức-Việc phụ đi Thuyền Bát-Nhã.  Treo Diềm và phủ quan màu đen.
b . Chánh, Phó-Trị-Sự, Thông-Sự và các phẩm tương-đương (nam phái) đi Diềm và Phủ-Quan màu đỏ.
c . Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài (nam phái) treo Diềm và Phủ-Quan theo sắc Phái.
d . Chức-Sắc, Chức-Việc, Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài (nữ phái) treo Diềm và Phủ-Quan màu trắng.
e . Chức-Sắc, Chức-Việc, Phước-Thiện nam-nữ treo Diềm và Phủ-Quan theo sắc Phái.
f . Chức-Sắc Bộ-Nhạc treo Diềm và Phủ-Quan màu đỏ.
g . Đầu-Sư, Tiên-Tử, Phật-Tử, Thập-Nhị Thời-Quân đổ lên, kỵ Long-Mã, không đi Thuyền Bát-Nhã.
***

6 - Tấm Phủ-Quan

Tấm Phủ-Quan bằng vải, vuông vức 1,20 mét.  Bốn bề viền ren, chính giữa may Thiên-Nhãn có ánh hào-quang tía ra.

Chú giải:
Tang-chủ quì tế:  Cửu-Huyền, hay Ông-Bà, Cha-Mẹ mà quì mọp xuống chống tay là hiếu-nghĩa phủ-phục, còn chồng-vợ, anh-chị quì thẳng là tình-nghĩa.

***

7 - Cách Chế Tang-Phục

- Con trai thọ tang trảm thôi (là quần-áo không lên lai.)
-  Thọ tang cha-mẹ may áo cổ trịch như áo lễ, ở phía sau lưng (chỗ vói không tới) may kèm một tấm vải phụ bản ngang 1.2 và bề xuống 9 phân (tỏ dấu mang sự đau xót.)
- Tang cha con trai chống gậy tre (cha tiết tháo bên ngoài, ngay chính).
- Tang mẹ con trai chống gậy dong (mẹ tiết-hạnh bên trong và đầy lòng từ-ái).
- Gậy dài ngắn không chứng, tùy người cao thấp, nhưng phải từ dưới đất lên yếm tâm (chủ tâm ai bi).
- Mũ bạc, dây rơm buộc ngang lưng, phải đánh 3 tao đậu lại (không có rơm thì dùng vải se làm 3 lằn).
- Bức cân, xé vải hình tam-giác, vừa trên đầu, xếp làm 3 lằn hướng về bên hữu (3 lần xếp tượng-trưng Tam-Cang, là 3 giềng mối trong Đạo Nhơn-Luân).
- Con gái có chồng và rể mặc áo chẹt, quần áo lên lai, gái đội, rể bịt khăn trắng.
- Con gái chưa chồng và con dâu mặc áo rộng, quần-áo xổ lai, bịt khăn trắng.
- Cháu nội gái và cháu ngoại cột khăn trắng.
- Con rể và cháu thành-niên bịt khăn trắng.
- Các cháu nội trai thì đội mấn.  (Khăn tang: dâu, rể, con gái, xé chiều dài 1.5 mét, ngang 0.5 mét, không có tài-liệu.)

Chú-ý:  Còn nói về tang-chủ đội bì sớ.  Ở Trung-Ương Tòa-Thánh Tây-Ninh chỉ có vị chứng Đàn cầm phong bì sớ dâng lên trán cầu-nguyện, còn tang-chủ thì phủ-phục (quì chống hai tay xuống) chớ không đội bì sớ (nếu tang-chủ mỗi người phải đội phong bì sớ thì nếu trong một ngày có tới 9-10 Tuần-Cửu hay Tiểu-Đại Tường thì phong bì đâu cho đủ đội?  Vả lại khi đọc sớ xong phải đi gom phong bì thì làm mất vẻ trang-nghiêm trong Đàn cúng!!!)
- Cựu Chức-Việc (mãn-nhiệm chớ không phải từ nhiệm) lúc đi cúng hoặc lúc lâm chung mặc Đạo-Phục như sanh tiền, nhưng không có dây ren, không Sắc-Lịnh Tam-Thanh và không có dây nịt (nếu C.T.S và T.S.).
- Vấn-đề bưng khay linh-vị xá nhập hoặc bãi Đàn khi cúng Đức CHÍ-TÔN không buộc, ta nên hiểu vì đây là thể tượng-trưng chớ không phải vong-linh ở nơi khay linh-vị; vì khi vào cúng chơn-linh vẫn phải nam tả, nữ hữu và nếu buộc bưng khay linh-vị xá thì rất trở ngại, là tang-chủ không bắt Ấn-Tý khi vào nhập Đàn.
- Thế nên ở Tòa-Thánh và các Thánh-Thất đúng mẫu của Hội-Thánh có Hiệp-Thiên-Đài thì bàn vong để nơi Hiệp-Thiên-Đài (chổ Nhạc và Đồng-nhi hành lễ).  Khi cúng Thầy xong bưng xuống tùy theo Tuần-Cửu của mỗi tang-chủ vào quì để Đồng-nhi đọc kinh (vẫn để chung một bàn).  Cúng xong bãi Đàn thì linh-vị ai nấy bưng.

***

8 - Phẩm-Vật trong khay Linh-Vị

Phần nầy Hội-Thánh không có chỉ rõ nên có người khi cúng vong trong khay linh-vị đi làm Tuần-Cửu ... chưng-bày như trên bàn thờ (hoa, quả, trà, nước, rượu, ...)

Xét về lý người sống cũng như người qui-vị (chơn-linh) khi chầu lễ Đức CHÍ-TÔN cũng như nhau và cũng phải nam tả nữ hữu ...  Để tượng-trưng về Thể, ta có thể để vào khay một linh-vị, một lư-hương và 1 cây đèn là đủ (cũng như khi ta cúng Đức CHÍ-TÔN Hội-Thánh buộc trước khi cúng phải rửa mặt, xúc miệng cho sạch-sẽ cơ mà).

Phần Thứ Sáu

PHỤ LỤC

1 . Lời Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp
Lễ An-Vị Phật-Mẫu lần đầu-tiên tại Báo-Ân-Từ, thời Dậu mùng 9 tháng Giêng năm Đinh-Hợi, 1947.

Lời Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp.

 “... Ngày mùng 9 tháng Giêng năm Tân-Hợi, 1947 di quả Càn-Khôn tại Báo-Ân-Từ về Tổ-Đình Tòa-Thánh, Đức Hộ-Pháp dạy Lễ-Viện Phước-Thiện tạo Long-Vị để thờ Đức Phật-Mẫu tại Báo-Ân-Từ đề chữ:  Diêu-Trì Kim-Mẫu, bên hữu Cửu-Vị Tiên-Nương, bên tả Bạch-Vân-Động Chư Thánh.  Khởi-đầu thờ Phật-Mẫu vào ngày mùng 9 tháng Giêng năm Đinh-Hợi, 1947.  Phận-sự tô điểm, sơn phết, trang-trí giao cho Ban Kiến-Trúc, Tá-Lý Sở đắp vẽ, Lâm-Thành-Kía và Nguyễn-Thế-Trạch lãnh đắp chơn-dung Đức Cao-Thượng-Phẩm, đứng trên mặt dựng trước Báo-Ân-Từ tay cầm Long-Tu-Phiến đưa lên, mặc áo rộng trắng.  Đức Ngài dạy Lễ-Viện Phước-Thiện sửa-soạn 6 giờ chiều ngày 9 tháng Giêng thiết Đại-Lễ An-Vị Phật-Mẫu.  Từ từ toàn-thể Đạo, nam-nữ tề-tựu cả chư Chức-Sắc mặc Đại-Phục theo sắc Phái, khi đến thấy Đức Ngài mặc áo đạo trắng thường phục, khi ấy cả thảy đều thay-đổi lại áo-trắng tay chẹt hết, Đức Ngài nói:  “Nơi Triều-Thiên ở Đền-Thánh chầu lễ Đức CHÍ-TÔN là đẳng cấp áo-mão, còn về đây nơi cửa Phật-Mẫu là tình Mẹ với con mà thôi.  Hễ quan-trưởng chịu luật nghiêm-khắc, về Mẹ không làm oai-quyền, như vậy mới thấy bà Mẹ thương-yêu con cái vô-ngần, dầu vinh-hiển quyền-uy thế nào chung cuộc cũng về cùng Mẹ mà thôi ...”  Đức Ngài sắp Chức-Sắc nữ-phái quì ban giữa, kế tiếp Chức-Việc, đạo-muội quì chót, bên nữ toàn là nữ-phái quì cúng, bên tả Chức-Sắc nam-phái quì trước, kế-tiếp là đạo-hữu.  Ngoại-nghi có bàn Hội-Đồng cũng hương hoa trà quả để mời chư vị Hiệp-Thiên-Đài quá-vãng cùng chư Đại Thiên-Phong Cửu-Trùng-Đài như Đức Quyền-Giáo-Tông, ... dự lễ bái Đức Phật-Mẫu.  Sau nghi ngoại Đức Hộ-Pháp cùng chư vị Thời-Quân Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài, Chức-Việc nếu có quì kế tiếp.  Sau khi lễ thành Đức Ngài gọi Lễ-Viện Phước-Thiện và mấy em Giáo-Nhi, đồng-nhi đến đứng chung quanh bàn Hội-Đồng Ngài dạy:  “Khi cúng rồi phải day xá ra một xá cũng như ở Đền-Thánh.  Nên hiểu không phải xá Hộ-Pháp mà là xá để kính chào Khí Sanh-Quang, tức là nguồn cội của Pháp biến sanh vạn-vật: trước là Phật, Pháp, Tăng gọi là Tam-Qui, trong Pháp ấy xuất-hiện Phật-Mẫu, kế tiếp vạn-linh, vạn-vật, ...  Bởi cái Bí-Pháp Diêu-Trì-Cung có liên-quan mật-thiết cùng Hiệp-Thiên-Đài một căn cội Pháp, vận hành Ngươn-Khí, nơi nào có Hiệp-Thiên-Đài thì có Tam-Qui Thượng-Hạ Pháp-Giới, mặc-dù nơi đây không có thờ chữ Khí mà buộc mình phải xá ra.  Đó là lòng tin-tưởng biết ơn và chào mạng sanh của chúng-ta đó vậy.”  Mấy em Lễ-sĩ nhớ khi cúng Phật-Mẫu phải xướng câu:  “Nam-nữ nhập Đàn.”  Nơi nầy về Mẹ ai cũng là con, không ai dám xưng Chức-Sắc, dầu Hộ-Pháp cũng là con.  Lễ mặc áo vàng phái-Thái, được phép đi giày hay là vớ trắng, theo lẽ có Lễ-sĩ nữ dâng Tam-Bửu mà thấy coi bộ bề-bộn phải mấy đứa thủ trinh còn nhỏ bắt nó tập lễ đi coi bộ gọn hơn.  Mấy em Giáo-nhi khi cúng Đàn nơi Đền-Thờ Phật-Mẫu đọc một bài kinh “Tạo-Hóa Thiên ...” rồi kế điện hoa, rượu, trà.  Khi cúng Tứ-Thời mới tụng bài kinh “Xưng tụng công-đức ...” đến câu “Cùng chung giáo-hóa chung cùng lo-âu ...” sửa lại “Cùng chung giáo-hóa ân-cần lo-âu ...” để rồi Qua cho lịnh Tiếp-lễ sửa lại những chữ kinh trùng-tự.  Bài dâng Hoa đến chỗ “... Cúi mong Thượng-Đế ...” phải thài “ ... Cúi mong Phật-Mẫu ...”  Kỳ lễ nầy theo lẽ cúng thời Ngọ ngày Rằm, nhưng Qua định cúng thời Dậu là cốt-yếu thuộc Âm, lại là ngày vía Đức CHÍ-TÔN.  Buổi-đầu Qua biết thế nào cũng bỡ-ngỡ sơ-sót, đến kỳ Sóc-Vọng tới đây phải chấn-chỉnh cho trang-hoàng.  Từ đây Lễ-viện Hành-Chánh, Phước-Thiện phải tuân y lịnh, đừng sửa-đổi, hễ ngày Sóc-Vọng, các kỳ lễ Vía, Ngươn-Đán phải thiết-lễ cúng Đức CHÍ-TÔN thời Tý, còn cúng Phật-Mẫu thời Ngọ.  Từ đây về sau nơi nào muốn lập Đền-Thờ Phật-Mẫu phải đợi có Thánh-Thất rồi mới lập sau.  Phải coi theo cách-thức hành-lễ ở Tòa-Thánh và Báo-Ân-Từ, phải làm y khuôn-mẫu, chẳng nên canh cải sửa-đổi là trái phép mà sanh biến-loạn hàng thất thứ.”
Ngày 12 tháng Giêng Đinh-Hợi, 1947.
*
*          *

2 - Giải-Thích Ý-Nghĩa và Bí-Pháp
Lễ “Hội-Yến Diêu-Trì”

Hôm nay là ngày lễ Hội-Yến Diêu-Trì nhưng phần đông con cái của Mẹ chưa nhận-thức cả sự huyền-vi mầu-nhiệm, xin cả thảy để tâm nghe và suy nghiệm.  Trước khi bàn đến chỗ Bí-Pháp thì nên tìm hiểu nguyên-lý cơ cấu-tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ hữu-vi, và cơ cấu-tạo cả vạn-loại hữu-sanh, nhứt là người.  Quyền-năng vô-biên của Đức CHÍ-TÔN đã ban cho ánh Linh-Quang giữa Trời người hiệp nhứt.  Ngôi Thái-Cực là cực Dương mà cũng là Thiên, tức ánh Linh-Quang hay là hình-thể Đức CHÍ-TÔN, Đại Từ-Phụ.  Ngôi Thái-Âm là cực Âm mà cũng là Địa, tức là hình-thể Âm cõi Tây-Vương-Mẫu, hay là hình-thể của Đức Phật-Mẫu, cả hai khối hiệp lại tạo một hình-thể thứ ba là cơ-thể hữu-vi, tức là Càn-Khôn Vũ-Trụ.  Rồi trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hữu-vi nầy mới phối-hợp lại, do Âm-Dương tương-hiệp cấu-tạo ra hình-thể của chúng-sanh hay là cả vạn-loại hữu-sanh trên hoàn-vũ mà đại-diện là người, với một hữu-vi đầy đủ.  Vì thế nên có câu:
“Đại Từ-Phụ từ-bi tạo-hóa,
Tượng mảnh thân giống cả Càn-Khôn ...”

Người có đủ Tam-Tài tức là Tam-Bửu là Tinh, Khí, Thần:
- Tinh là hữu-vi.
- Khí là trung-gian, khí chất.
-  Thần là vô-cực, mà điểm Thần ấy có sẳn ở trong vạn-vật.  Song nó là một điểm tượng chung nhỏ nhít không đáng kể;  Duy có nhơn-loại là được Điểm-Linh-Quang sáng chói hơn cả muôn loài, mà chính nhờ đó mà từ thể-chất tiến lên khí-chất và tiến-triển mãi thêm lên cho đến tận-thiện tận-mỹ.  Theo Chơn-Pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thì mọi cơ-cấu nơi cõi vô-hình đều có cơ-cấu hữu-hình đối tượng trong cửa Đạo mặt thế.  Ở cõi Thiêng-Liêng có Cửu-Thiên Khai-Hóa thì trong cửa Đạo Cao-Đài có đối-tượng hữu-vi là Cửu-Trùng-Đài, còn ở cõi vô-hình có cơ cấu-tạo ra cung Trời là Thập-Nhi Khai-Thiên, tức là Thập-Nhị Thời-Thần, thì ở cửa Đạo Cao-Đài có đối-tượng hữu-vi là Thập-Nhị Thời-Quân.

Còn nói về Hội-Yến Bàn-Đào thì ở cõi vô-hình nơi Cung-Diêu-Trì mỗi năm đến mùa đào chín Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu tức là Đức Phật-Mẫu mở lễ Hội-Yến Bàn-Đào có tất cả chư Phật Tiên ở các nơi đều về chầu Lễ, được ăn một quả Đào-Tiên sẽ đặng trường-sanh, thì ở cửa Đạo Cao-Đài cũng có tổ-chức một cuộc Lễ hữu-vi đối-tượng tại Đền-Thờ Đức Phật-Mẫu ở Tòa-Thánh Tây-Ninh cho Chức-Sắc Thiên-Phong ở tứ phương, nhứt là Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài đều về chầu Lễ để hưởng ân-điển của Đức Đại Từ-Mẫu ban cho.

Như vừa giải-thích trên, đối-tượng của Cửu-Thiên Khai-Hóa thì chỉ có một Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và đối-tượng của Thập-Nhị Khai-Thiên chỉ có Thập-Nhị Thời-Quân mà thôi.  Còn đối-tượng Hội-Yến ở Cung Diêu-Trì thường gọi là Hội-Yến Diêu-Trì, thì ở cõi hữu-vi chỉ có một Lễ Hội-Yến ở Đền-Thờ Đức Phật-Mẫu tại Tòa-Thánh Tây-Ninh mà thôi.  Nếu ai mạo-hiểm tự tổ-chức Lễ Hội-Yến một nơi nào khác y như ở Tòa-Thánh Tây-Ninh thì phải bị tội phạm pháp không sao tránh khỏi (trừ phi Đức Hộ-Pháp lúc ở Kiêm-Biên nhân danh là Chưởng-quản Hiệp-Thiên-Đài mới tổ-chức được mà thôi.  Nhưng sau nầy Đức Hộ-Pháp đăng Tiên rồi thì ở Kiêm-Biên chỉ tổ-chức một buổi Lễ Tưởng-Niệm mà thôi, không có thài và không có bồi tửu.)

Về Chơn-Pháp mà cũng về Bí-Pháp, mọi cơ-cấu hữu-vi đều phải có đủ Tam-Bửu là Tinh, Khí, Thần.  Về mặt Tôn-Giáo là một cơ-cấu hữu-vi thì cũng không ngoài luật ấy, nên trước tiên cần có một chủ hướng là tinh-thần;  Tinh-thần ấy là tín-ngưỡng, chủ tinh-thần ấy là linh-hồn của Đạo Giáo, mà linh-hồn của Đạo Cao-Đài là Đức CHÍ-TÔN chỉ về cực Dương.  Một Tôn-Giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp thì Tôn-Giáo ấy phải có đủ Tam-Bửu là Tinh, Khí, Thần.

-  Về Thần: Thì khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức CHÍ-TÔN là chủ linh-hồn của Đạo Giáo.
-  Về Khí: Thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu-thành nên Đức CHÍ-TÔN mượn hình-thể của Diêu-Trì-Cung làm Khí.
-  Về Tinh:  Là tinh-thể của Đạo Cao-Đài tức là 3 chi:  Pháp, Đạo, Thế.  Thế tượng-trưng là Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh.  Lúc nền Đạo mới phôi-thai thì Đức CHÍ-TÔN và Đức Phật-Mẫu giáng-cơ dạy cách-thức lập lễ Hội-Yến Bàn-Đào vào ngày  15 tháng 8 năm Ất-Sửu, nơi căn phố tư-gia của Đức Cao-Thượng-Phẩm và dạy ba vị:  Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh phải ngồi vào Bàn Yến với Cửu-Vị Nữ-Phật dưới quyền chủ-tọa của Đức Phật-Mẫu, còn bên trên thì có Đức CHÍ-TÔN hành Pháp vô-vi lập thành hình-thể hữu-vi của Đạo Cao-Đài có đủ Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt trong một Bàn Yến, mà Bàn Yến ấy về phần vô-vi chủ-yếu là trường-sanh bất-tử.
Nên Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung mà Đức CHÍ-TÔN cho lập tại cửa Đạo Cao-Đài cốt-yếu là hội đủ cả ba Bửu-Pháp:  Tinh, Khí, Thần để lập thành một cơ-cấu trường-sanh bất-tử, tức là sự trường-tồn vĩnh-cửu của Đạo Cao-Đài đó vậy.
Còn hỏi tại sao có mặt Thập-Nhị Thời-Quân dự bồi-tửu trong Bàn Yến thì nên nhớ rằng ở cõi vô-hình phải có Thập-Nhị Khai-Thiên là Thập-Nhị Thời-Quân cũng phải phối-hợp cùng nhau để giúp tạo-thành hình-tướng của Đạo Cao-Đài, vì đó mà Thập-Nhị Thời-Quân mới có mặt bồi tửu trong buổi Lễ Hội-Yến.

Bên Cửu-Trùng-Đài là hình-ảnh của Cửu-Thiên Khai-Hóa mà thôi.  Cõi vô-hình thì Cửu-Thiên Khai-Hóa chỉ là phân chia đẳng-cấp của cơ Trời, còn về phần hữu-hình thì Đức CHÍ-TÔN cũng chỉ là sự phân chia đẳng-cấp trong Đạo mà thôi.

Nếu bên vô-hình Cửu-Thiên Khai-Hóa không có dự phần phối-hợp để tạo ra cung Trời thì trong đối-tượng về phần hữu-hình Đức CHÍ-TÔN cũng không có dự phần phối-hợp để giúp tạo-thành hình-tướng của Đạo Cao-Đài.  Vì những nguyên-do trên đây mà Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài không có dự vào việc bồi tửu trong Lễ Hội-Yến Diêu-Trì và Lễ nầy mới đặc-biệt thuộc phần tổ-chức của Hiệp-Thiên-Đài.

Khi nhận-thức rõ được cả Bí-Pháp nhiệm-mầu và ý-nghĩa sâu-xa cuộc Lễ Hội-Yến Diêu-Trì rồi thì sẽ thấy rõ chỗ cao tối-trọng cuộc Lễ là dường nào.  Hình-ảnh cuộc Lễ Hội-Yến Diêu-Trì nơi cửa Đạo Cao-Đài hiện nay là một Lễ Kỷ-Niệm lưu dấu ngày tạo-thành hình-tướng hữu-vi của Đạo, mà cũng là một đặc-ân cho cửa Hiệp-Thiên.  Lễ Kỷ-Niệm này lẽ ra quan-trọng gấp mấy lần ngày mùng 7 tháng 10 năm 1926, là ngày thông-báo cho chánh-quyền Pháp buổi ấy biết rằng Đạo Cao-Đài chánh-thức lập-thành, và cũng quan-trọng hơn ngày 15 tháng 10 là ngày gọi rằng khai Đạo, chớ thực-sự chỉ là ngày khai-sanh hay là một Lễ Kỷ-Niệm ngày khánh-thành đầu-tiên.  Chớ ngày tạo hình-tướng của Đạo tức là ngày sanh của Đạo là ngày 15 tháng 8 vào ngày Hội-Yến Diêu-Trì, ngày ấy là ngày vui cho sự trường-tồn vĩnh-cửu của cõi Trời, ngược lại cảnh đào độn của Tam-Thập Lục-Động và cũng là ngày vui của sự trường-tồn vĩnh-cửu của Đạo Cao-Đài đến thất-ức niên (700,000 ngàn năm).  Ngày ấy yến-tiệc linh-đình nơi Cung-Diêu-Trì, thì cũng ngày ấy hình-tướng của Thập-Nhị Khai-Thiên ở mặt thế nầy, tức là Thập-Nhị Thời-Quân cũng tổ-chức Lễ Hội-Yến Diêu-Trì để mừng ngày Đạo Cao-Đài đã qui-hợp đủ ba Bửu-Vật cần-thiết cho sự sống và tồn-tại là Tinh, Khí, Thần.  Và cũng là ngày tạo sanh hình-tướng hữu-vi của Đạo Cao-Đài đó vậy.  Như thế mới nhận thấy rõ cả sự hệ-trọng và mầu-nhiệm của cơ Trời và luôn cả sự quí-báu vô song, Bí-Pháp nhiệm-mầu để tạo-thành hình-thể hữu-vi của nền Đại-Đạo cho được trường-tồn vĩnh-cửu.
Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Tòa-Thánh Tây-Ninh, ngày 15-8 Tân-Hợi (3-10-1972)
Bảo-Đạo
Hồ-Tấn-Khoa
(Ấn-Ký)

*
*          *

3 - Cách Lạy Trong Buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ
(“Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển”)
Lạy là gì?
-  Là tỏ ra bề ngoài, lễ kỉnh trong lòng.
Chấp hai tay lạy là tại sao?
-  Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương, Âm-Dương hiệp-nhứt, phát khởi Càn-Khôn sanh-sanh hóa-hóa, ấy là Đạo.
Lạy kẻ sống hai lạy là tại sao? (Hai lạy trơn không gật đầu.)
-  Là nguồn-cội của nhơn-sanh lưỡng-hiệp Âm-Dương mà ra, ấy là Đạo.
Lạy vong-phàm 4 lạy là tại sao?  (Lạy trơn không gật đầu.)
-  Là vì 2 lạy của phần người (nam đứng, nữ ngồi lạy), còn 1 lạy Thiên, 1 lạy Địa (quì lạy).
Lạy Thần, Thánh thì 3 lạy là tại sao?  (3 lạy trơn)
-  Là lạy Đấng vào hàng thứ 3 của Trời, và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp-nhứt, ấy là Đạo.
Lạy Tiên, Phật 9 lạy là tại sao?  (3 lạy, mỗi lạy 3 gật = 9 gật)
-  Đức CHÍ-TÔN ân-xá mỗi gật thay cho 1 lạy.  Là lạy 9 Đấng Cửu-Thiên Khai-Hóa.
Còn lạy Thầy là 12 lạy là tại sao?  (3 lạy, mỗi lạy 4 gật = 12 gật)
-  Các con không hiểu đâu.  Thập-Nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa cả Càn-Khôn Thế-Giái nắm trọn Thập-Nhị Thời-Thần trong tay.  Số 12 là con số riêng của Thầy.

***

4 . Cách Chấp Tay và Ý-Nghĩa Lạy
Theo Ba Thời-Kỳ Mở Đạo

- Nhứt-Kỳ Đức Thái-Thượng lập Đạo dạy cách lạy 2 bàn tay nắm co lại, Kiết-Nhị như bông-sen búp, khi lạy thì xoè hai bàn tay úp xuống đất rồi cúi đầu, 3 lạy kêu là Khể-Thủ.
- Qua Nhị-Kỳ Đức Thích-Ca lập Đạo dạy cách lạy chấp hai bàn tay Hiệp-Chưởng Hoa-Khai như bông sen nở, khi lạy thì ngữa hai bàn tay xuống đất mà cúi đầu, kêu là Hòa-Nam.
- Đến Đức Khổng-Tử dạy Đạo, dạy lạy 2 tay cung lên đến ngang chân mày, kêu là Phủ-Phục.
- Nay Tam-Kỳ Đức CHÍ-TÔN giáng-cơ tiếp-điển mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh là kỳ kết-quả, để độ 92 ức Nguyên-Nhân về nơi nguyên-thủy, có câu:  “Thiên-Địa tuần-hoàn, châu nhi phục-thủy”.  Tam-Giáo qui-nguyên, chấp 2 bàn tay như hoa-sen đã thành trái (quả).  Bên tay trái thuộc Dương, ngón cái là mẫu-chỉ, ngón trỏ là thực-chỉ, ngón giữa là trung-chỉ, ngón út là tiểu-chỉ, còn một ngón không tên là vô-danh chỉ, sách có câu:  “Vô-danh Thiên-Địa chi-thủy.” là trước khi Trời-Đất chưa khai thì một Khí Không-Không, sau định hội Tý mới mở Trời, nên chữ Tý ở tại gốc ngón tay vô-danh.  Khi mở Trời rồi mới có hữu-sanh vạn-vật chi-mẫu.  Muôn-vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa-sanh.

Nay đến hội Tam-Kỳ kết-quả là độ cả quần-linh về Niết-Bàn.  Nên tay tả, ngón cái là mẫu, chỉ vào chữ Tý, còn tay hữu, ngón cái chỉ vào chữ Dần của tay tả, bốn ngón bao ngoài, Thánh-Ngôn quyển một trang 11,  “... Khi bái lễ, hai bàn tay chấp lại song phải để tay trái Ấn-Tý, tay mặt ngữa ra nằm dưới tay trái chụp lên trên ...”  Tay tả là “Nhơn vật quần-linh tận qui nguyên vị.”  Tay tả là Dương mà có ngón tay hữu Âm chỉ vào, còn tay hữu Âm mà có tay tả Dương ở trong.  Vậy nên Kinh-Dịch nói:  “Âm nội hữu chơn Dương, Dương nội hữu chơn Âm, Âm-Dương lưỡng cá-tứ, năng hữu kỷ nhơn-tri.”  Như cách lạy nầy là thời-kỳ dạy Đạo;  Còn người luyện Đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngữa ra mới cúi đầu.  (Cách lạy mầu-nhiệm, nghĩa-lý sâu-xa, chưa đến thời-kỳ tịnh-thất.  “Thiên-Bàn Tại-Gia”, trang 25-27 lời dạy Đức Quyền Giáo-Tông.)

***

5 . Chú-Giải Bắt Ấn Tý

Người ta tréo mấy ngón tay lại, hoặc đưa ngón nọ ra, co ngón nầy vô, theo một cách thức riêng.  Nguyên trong mấy ngón tay, có ngón xuất Điển-Quang như ngón trỏ và ngón út, có ngón tiếp Điển-Quang ở ngoài như ngón giữa và ngón áp út.  Phàm muốn khỏi tiếp tà Điển, khi bắt Ấn người ta co ngón giữa và ngón áp-út lại, hoặc tréo nhau theo cách-thức riêng, đồng-thời lại đưa thẳng ngón trỏ và ngón út đặng xuất Điển mà chống cự, hoặc xua đuổi tà Điển (Ấn Hộ-Pháp).  Còn ngón cái là nguồn chứa sinh-lực, phải co lại đặng tránh tà Điển làm tổn-thương sinh-lực.  Bắt Ấn-Tý thì dùng ngón tay cái ấn vào gốc ngón tay áp út (cũng tay trái) chỗ cung Tý rồi nắm tròn tay lại.  Vì Đức Thượng-Đế là Đại Từ-Bi cho nên Ấn của Ngài chỉ dùng cho chúng-ta hộ-thân, chớ không cần xuất Điển, nên ngón trỏ và ngón út không đưa thẳng ra như bắt Ấn khác (quyển “Thiên-Đạo” trang 132).

Như giải-thích trên, nên Hội-Thánh dạy hễ khi cúng thì phải bắt Ấn-Tý (dầu Vong cũng vậy), vì Ấn-Tý là Ấn của Tam-Kỳ, ta phải bắt cho đúng theo Ngươn-Hội và Chơn-Pháp.

***

6 . Cách Lạy Cúng Tứ-Thời
(Trích lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)

Trước khi cúng, đánh chuông nhứt ba tiếng, rồi sửa-soạn khăn áo đèn nhang cho đủ, như có nhiều người thì phải sắp bày ban, tay bắt Ấn-Tý đi vào Chánh-Điện, đứng cho ngay hàng hai bên, nam tả, nữ hữu, nghe ba tiếng chuông nhì thì hai bên đưa tay kiết-quả lên chí trán xá xuống chí gối một xá, (khi nào có nam-nữ hai bên thì mới xá Đàn, Âm-Dương hiệp nhứt) rồi hai bên đều khởi chân phía trong điện mà bước vào chỗ quì, rồi ngước lên Điện mới đưa tay kiết-quả đến trán xá đến gối ba xá “Phổ Thiên áp Địa gọi là Tam-Tài:  Đưa tay lên trán chỉ về Thiên, đưa xuống chí gối chỉ về Địa, đưa tay lên ngực chỉ về Nhơn; tất cả đều gom về tâm mà thành-kỉnh Đức CHÍ-TÔN tức là: (Thiên, Địa, Nhơn là Tam-Tài)” mới khởi chân trái bước tới một chút, quì chơn mặt xuống trước, chơn trái quì theo sau cho ngay thẳng, mắt ngó ngay Thiên-Nhãn.
-  Lễ-vụ khắc nhẹ một tiếng chuông thì đưa tay kiết-quả lên chánh giữa trán và niệm:  Nam-Mô Phật.
-  Đưa tay qua bên tả; gần lỗ tai niệm:  Nam-Mô Pháp.
-  Đưa tay qua bên hữu; gần lỗ tai niệm:  Nam-Mô Tăng.

Để tay kiết-quả xuống nơi ngực (chổ trái tim) chớ rời ra:  (Mỗi câu niệm khắc một tiếng chuông.)
-  Cúi đầu lần thứ nhứt niệm:  Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
-  Cúi đầu lần thứ nhì niệm:  Nam-Mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
-  Cúi đầu lần thứ ba niệm:  Nam-Mô Lý-Đại-Tiên-Trưởng Kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
-  Cúi đầu lần thứ tư niệm:  Nam-Mô Hiệp-Thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân
-  Cúi đầu lần thứ năm niệm:  Nam-Mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần

Dứt rồi đọc bài “Niệm Hương”, dứt lạy 3 lạy (mỗi bài Kinh có chỉ cách lạy.)  Khi lạy đưa tay kiết-quả lên trán, rồi để xuống nơi ngực mới xòe hai bàn tay ra (kiết-quả rồi rải cho chúng-sanh chung hưởng) gát tréo hai ngón cái lại (lưỡng hiệp) mà úp xuống đất, khi lạy rồi ngước dậy thì đưa tay kiết-quả lên trán rồi mới chấp xuống ngực.  Khi mãn lễ đứng dậy, cũng đứng chơn trái trước, cũng xá 3 xá như trước, mới day ra bàn Hộ-Pháp xá một xá, rồi rút từ hàng thứ-tự mà ra.  (Khi quay ra sau xá bàn Hộ-Pháp thì nam-nữ quay cùng chiều; từ phải sang trái gọi là Vãng-Hồi (hình chữ Vạn [ ] )
***

7 . Ý-Nghĩa Xá Bàn-Thờ Hộ-Pháp
(Chữ Khí)

Cái xá ấy không phải xá Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài mà là xá chữ Khí, là nguồn-cội của Pháp đã biến-sanh vạn-vật ...   Cái xá ấy là kính Đệ-Nhị Tam-Qui;  Trong Pháp ấy xuất-hiện Phật-Mẫu, kế đến mới tới Vạn-Linh ...  Chào chữ Khí là chào cả Tam-Qui Thượng-Hạ Pháp-Giới, tức là chào mạng-sanh của ta ...  (Trích tóm-lược “Lời-Phê của Đức Hộ-Pháp”, trong tờ thỉnh-giáo của ông Hộ-Đàn Pháp-Quân:  20-9 Quí-Tỵ tức 27-10-1953).

***

8. - Ý-Nghĩa Phật, Pháp, Tăng

 (Phật là Thần, Pháp là Khí, Tăng là Tinh.  Dấu niệm:  Thần là Trời, Khí là Đất, Tinh là Người.  Nên bên Thánh-Giáo Gia-Tô lấy dấu:  Nhơn danh Cha, Con và Thánh-Thần cũng là 3 ngôi ấy.)
-  Nam-Mô Phật:  Miệng nói tâm niệm, ta không quên Đấng toàn-tri, toàn-năng, lòng ghi-nhớ Đức Ngài, để noi theo chơn Đức Ngài mà tiến bước trên đường tu tỉnh.
-  Nam-Mô Pháp:  Nhắc ta nhớ Đạo-Pháp huyền-vi mầu-nhiệm quí-báu, dầu khổ-hạnh, phải gắng-sức, không thối chí ngã lòng.
-  Nam-Mô Tăng:  Hội-Thánh là một nhóm lương-sanh đại-diện cho Đức CHÍ-TÔN để dìu-dắt chúng-ta.  Vậy ta phải tuân-lời dạy-dỗ của Hội-Thánh để tiến bước trên đường học Đạo.

***

9 . Ý-Nghĩa Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát

Đức Thượng-Đế, Ngài lấy Thánh-Danh:  Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát là hàm-súc ý-nghĩa Tam-Giáo qui-nguyên hiệp-nhứt.
-  Cao-Đài là cái đài cao ở tận ngôi Thái-Cực, là đài ngự của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, chỉ về Nho-Giáo vì Nho-Giáo tôn-thờ ngôi Thái-Cực.
-  Tiên-Ông chỉ về Tiên-Giáo.
-  Đại-Bồ-Tát, Ma-Ha-Tát chỉ về Phật-Giáo.

Đó là tượng-trưng đức khiêm-nhượng của Đức CHÍ-TÔN, và cũng ngụ-ý khuyên-dạy môn-đệ Ngài phải học theo phép khiêm-nhượng của Đức Ngài mà dìu-dẫn nhơn-sanh.

***

10 . Ý-Nghĩa Dâng Tam-Bửu
(Đức Hộ-Pháp giảng ngày 1-12 Đinh-Hợi)

Mỗi khi cúng Đàn chúng-ta dâng Hoa, Rượu, Trà gọi là Tam-Bửu;  Lễ dâng Tam-Bửu là một cách tiết-lộ cho người hiểu rằng trong châu-thân ta vốn có Tinh, Khí, Thần.  Ba món báu ấy phải hườn-nguyên, hiệp-nhứt mới đắc Đạo.  Khi dâng ta nguyện:  (là khi thài dứt, Lễ-vụ khắc chuông, tất-cả đồng-nguyện.)
-  Hoa:  Con xin hiến cả hình-thể tinh-anh tốt-đẹp nầy mong nhờ Thầy trọn quyền sử-dụng.
-  Rượu:  Con xin hiến cả trí-não năng-lực mạnh-mẽ nầy mong nhờ Thầy trọn-quyền sử-dụng.
-  Trà:  Con xin hiến cả linh-hồn điều-hòa yên-tịnh nầy mong nhờ Thầy trọn-quyền sử-dụng.  Rồi nguyện tiếp:  Ba món báu con đã hiến, chính của Thầy đào-tạo cho con, thì do quyền-hành độc-đoán của Thầy sử-dụng ban ơn lành cho con.  (Mỗi bài 1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm:  Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.)

***

11 . Cách Lạy Sau Khi Cúng Đàn
(những vị hầu Đàn)

Sau bài “Ngũ-Nguyện” chư-vị quì cúng xong đứng dậy thì chư-vị Chức-Sắc, Chức-Việc, đạo-hữu già yếu vào bái-lễ Đức CHÍ-TÔN hay Đức Phật-Mẫu, theo sự sắp-đặt của Ban Trật-Tự Đàn cúng.  Khi bái-lễ không cầu-nguyện, chỉ lấy dấu:  Phật, Pháp, Tăng (vì đã nguyện chung khi dâng sớ, là lúc Lễ-sĩ xướng sớ văn thượng-tấu, Lễ-vụ khắc chuông vị chứng Đàn và tất cả đồng-nguyện, nếu ai muốn nguyện riêng thì khi bãi Đàn rồi, trở vào nguyện sau.)

***

12 . Cách Bái-Lễ Đức CHÍ-TÔN và Thần, Thánh, Tiên, Phật

Người Đạo Cao-Đài hễ khi lạy thì tay bắt Ấn-Tý;  Lạy Thần, Thánh, Tiên, Phật hay vong-phàm đều bắt Ấn-Tý, (Ấn-Tý là Ấn của Tam-Kỳ nên cách lạy cũng cho phù-hợp theo Ngươn-Hội mới nhầm Đạo.)
-  Lạy Đức CHÍ-TÔN 12 lạy, lấy dấu Phật, Pháp, Tăng (3 lạy x 4 gật = 12 lạy.)  Đức CHÍ-TÔN ân-xá, mỗi gật thay cho một lạy.  Khi lạy mỗi gật niệm:  Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
-  Lạy Đức Phật-Mẫu 9 lạy (3 lạy x 3 gật = 9 lạy), không lấy dấu Phật, Pháp, Tăng.  Khi lạy mỗi gật niệm:  Nam-Mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn.
-  Lạy Phật, Tiên (từ Đầu-Sư trở lên) 9 lạy (3 lạy x 3 gật = 9 lạy), niệm Thánh-danh của vị đó.
-  Lạy Thánh, Thần (từ Chánh Phối-Sư trở xuống Lễ-Sanh) 3 lạy trơn (không có gật), niệm Thánh-danh của vị đó.

Chú-ý:  “Châu-Tri 61” chỉ có lạy bậc Thánh như:  Đức Khổng-Phu-Tử, và Tam-Giáo giáo-chuû, Tam-Trấn mới lạy 3 lạy 9 gật, còn các Thần, Thánh khác thì lạy ba lạy trơn.
-  Lạy vong-phàm (từ Bàn-Trị-Sự xuống tín-đồ) 4 lạy trơn; 2 lạy quì là kỉnh Thiên-Địa, còn 2 lạy cho vong, nam đứng, nữ ngồi.  (“Hạnh-Đường Bàn-Trị-Sự”, trang 26).  Nếu khi tế điện hoặc châm-chước thì quì lạy luôn 4 lạy, theo thông-lệ hành đám thời xưa ở Việt-Nam (không có tài-liệu).
-  Lạy người sống 2 lạy trơn, nam đứng, nữ ngồi (quyển “Quan-Hôn Tang-Lễ”, trang 35).

***

13 - LỄ-SĨ NỮ
(Đức Hộ Pháp dạy nên lập Lễ sĩ nữ để cúng Đức Phật Mẫu và hành tang lễ cho nữ phái, nhưng Ngài không dạy mặc sắc phục).

Mỗi nơi nên thành-lập Lễ-Sĩ nữ để cúng Đức Phật-Mẫu và tang-lễ cho Nữ-phái.

 Lễ-phục Lễ-sĩ nữ:
a. Khi hiến lễ Đức Phật-Mẫu thì mặc lễ-phục y như Lễ-Sanh nữ, nhưng màu vàng, áo không dải, đầu bịt khăn vàng, gắn trước trán và hai bên màng tang ba bông cúc vàng.
b. Cúng lễ tang thì Lễ-sĩ nữ mặc lễ-phục màu trắng y như Đạo-Phục Lễ-Sanh nữ, áo không dải, đầu bịt khăn trắng, trước trán gắn một bông cúc, hai bên màng tang gắn hai bông cúc, tất cả là 3 bông cúc trắng (đây là phần sau nầy chớ trước kia vẫn mặc màu xanh đội mão như Lễ-sĩ nam).

Ghi chú: Phần a, b trước năm 1975 ở Trung ương TTTN chưa có, ở địa phương phần b có nhưng mặc đồ như Lễ sĩ Nam màu xanh cho hàng phẩm Bàn Trị Sự trở xuống.....

***

14 . Lễ-phục của Chức-Sắc đi dự các nghi-lễ tại địa-phương

- Chức-Sắc có trách-nhiệm thay mặt Hội-Thánh (đương quyền hành-chánh) tại địa-phương phải mặc áo trường y.  Chức-Sắc Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng mặc Tiểu-Phục (áo dài) khi đến dự lễ tang-hôn trong bổn Đạo hoặc các nghi-lễ Đạo do Hội-Thánh tổ-chức.

- Riêng về đọc tiểu-sử công-nghiệp hành Đạo cho Chức-Sắc hoặc Chức-Việc lâm-chung, vị Chức-Sắc thay mặt Hội-Thánh phải mặc Thiên-Phục vào bái-lễ Đức CHÍ-TÔN, rồi mới đến trước bàn linh tuyên-dương công-nghiệp.  Khi xong phải trở lại Thiên-Bàn xá 3 xá rồi mới trở ra thay Thiên-Phục.

Chú-Giải:
-  Sau ngày lễ đưa chư Thần, Thánh, Tiên, Phật Triều-Thiên (từ ngày 23 đến 30 tháng Chạp Âm-Lịch) nếu có:
a.  Chức-Sắc Đại-Thiên-Phong từ phẩm Đầu-Sư và các phẩm tương-đương trở lên qui Thiên thì được cử hành tang-lễ tại Biệt-Điện trong vòng 3 ngày (không di Liên-Đài vào Báo-Ân-Từ, Đền-Thánh, cũng như ra Cửu-Trùng-Thiên).
.Home   [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét