Đại Đạo Học Đường (大 道 學 堂) 1 / 5 - Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu & Bảo Thế Lê Thiện Phước.


PHẦN GIÁO LÝ, ĐẠO LÀ GÌ?
Nghĩa lý chữ Đạo rất cao siêu, khó mà giải rõ được, vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.
Đức Thích Ca gọi Đạo là Chơn Như, là Phật Tánh, là Bồ Đề.
Đức Lão Tử gọi Đạo là Cốc Thần, là nguồn sanh ra Vũ Trụ vạn vật.
Đức Khổng Tử gọi Đạo là Thái Cực, là Thiên lý.

Danh từ tuy khác nhau, chớ tựu trung điều chỉ cái nguồn cội của Càn Khôn Vũ Trụ và Vạn Vật. Cái nguồn cội ấy khi còn bất động gọi là Đạo. Còn khi đã động mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy.

Đức Lão Tử lại nói:
"Đạo mà nói ra được thì chẳng phải Chơn Đạo, Danh mà gọi là được thì không phải thiệt danh".
"Đạo khó mà nói ra. Học giả phải tự mình tỏ ngộ lấy".

Tỷ thí một người câm thấy cảnh chiêm bao như thế nào rồi mà mô tả lại cho người khác biết. Chúng ta muốn giải lý cho rõ cái Đạo thì chẳng khác nào người câm muốn giải rõ chuyện chiêm bao kia vậy.

Bởi vì Đạo là chơn lý tuyệt đối, bổn tánh của Đạo là Hư-không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ không đụng, không lớn, không nhỏ, không trước, không sau, không thể dùng lời nói mà diễn tả được, hoặc đem ra mà so sánh. Đạo sanh ra Trời Đất vạn vật, lưu hành trong Vũ Trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo là tinh thần của Trời, Đất, Vạn vật mà Trời, Đất, Vạn vật là bản thể của Đạo.

Nhưng Đạo vốn vô hình, cho nên muốn trình bày cái Đạo ra, tất phải mượn hữu hình để phô bày cái "Dụng" mà thiệt hành cái "Thể".

Ví dụ ta có một tư tưởng nào, cái tư tưởng ấy vốn vô hình, mà muốn trình bày nó ra cho người ta biết, cần phải mượn văn chương là vật hữu tình.
Vì lẽ đó mới phát sanh nhiều tôn giáo là những cái "Dụng" của Đạo như Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo, v.v...

Thế thì các tôn giáo vốn một gốc mà ra vẫn tôn thờ Đấng Chúa Tể, Càn Khôn Thế giới, chỉ vì khác ngôn ngữ mà xưng tụng bằng danh hiệu khác nhau.

Như Phật giáo gọi Đấng ấy là A Di Đà, Do Thái giáo gọi là Jéhovah, Hồi giáo gọi là Allah, Ấn Độ giáo gọi là Brahma, Ai Cập gọi là Osiris, Công giáo gọi là Đức Chúa Trời, người Việt Nam gọi là Thượng Đế (Ông Trời), ngày nay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Cao Đài.

Mặc dầu các tôn giáo khác nhau về cách tổ chức và Lễ nghi tế tự, nhưng vẫn giống nhau ở chỗ lấy từ bi bác ái mà dạy chúng sanh, lấy sự “Chuyển mê khải ngộ” làm tôn chỉ, lấy sự giải thoát luân hồi làm cứu cánh.
Vậy tôn giáo vẫn có một.

GIẢI NGHĨA CHỮ ĐẠO ()

Nếu dùng ngữ nguyên học phân tách chữ Đạo ra mà xem xét cách cấu tạo của nó, ta thấy Ông Thương Hiệt (người đặt ra văn tự nước Trung Hoa) dụng ý một cách sâu xa mỗi phụ ngữ đều có ý nghĩa hay của nó.

Viết chữ Đạo, bắt đầu là hai phết () tượng trưng âm dương nhị khí, dưới gạch một ngang () tượng trưng âm dương hiệp nhứt là cơ sanh hóa. Kế dưới là chữ Tự () là mình, tự mình nghĩa là con người phải tự tri, tự giác, tự giải thoát, chớ chẳng ai làm những điều đó cho mình được. Trên dưới lại ráp thành chữ Thủ () là đầu, là trước hết, vì Đạo là đầu mối, là nguồn gốc của Càn Khôn vạn vật. Bên trái chữ Thủ lại có chữ Tẩu () là chạy, là vận động, tượng trưng cơ vận chuyển, cơ biến hóa của Đạo, tức Pháp luân thường chuyển.

TU LÀ GÌ?

Có nhiều người nói: Tu cần tin Trời, tưởng Phật, chuyên làm lành lánh dữ, nhưng chưa tu được, vì gia đình còn ràng buộc, Nhơn Đạo chưa xong.

Bảo như thế tức là chưa hiểu nghĩa chữ tu. Họ lầm tưởng hễ tu là phải ly gia cắt ái, phế hết việc đời, cạo đầu, mặc áo dà, rồi vô chùa, hoặc lên non tụng kinh gõ mõ, trường trai khổ hạnh.

Vậy thiệt nghĩa chữ Tu là gì?
Theo nghĩa thông thường, Tu là trau dồi, sửa chữa chẳng hạn như tu bổ (sửa sang cái gì hư hỏng) tu kiều bồi lộ (sửa cầu đắp đường) tu chỉnh (sửa lại cho đúng).

Hiểu theo lẽ Đạo, Tu là trau lòng cho trong sạch thanh cao, sửa tánh cho ra tốt đẹp, rồi chế ngự dục tình, Đoạn trừ ích kỷ, dọn mình chơn chánh để hành động đúng theo luật trời.

Thế thì ở đâu cũng có thể Tu được. Tu tại gia mà giữ vẹn công phu, còn hơn ẩn non ẩn núi, vì chính ở chốn phồn hoa náo nhiệt, là chỗ dễ kích thích dục tình đê tiện, mà đạo tâm vẫn được vững bền, không nhiễm bợn nhơ, tỷ như hoa sen sanh chốn bùn lầy mà vượt lên tốt tươi trong sạch. Tu ở tại thị thành mà không sanh trần niệm, mới thiệt là bậc đại ẩn, sách có câu: "Đại ẩn ẩn thành thị".

Tu cốt yếu là trau dồi cái tâm:
Tâm con người lúc ban sơ vốn minh mẫn và trọn lành, nhưng trải qua nhiều kiếp, nó bị cái nghiệp vô mình lưu tồn từ mấy đời trước, lại thêm khí bẩm câu thúc, vật dục phủ che mà lu mờ cái bổn thể đi. Nay ta lo tu hành cốt là trau dồi cái tâm cho sáng tỏ lại như lúc ban sơ, thì hành động của ta sẽ quay về lẽ phải. Thế thì trong việc tu hành, cốt phải lấy Tâm làm nền móng. Cái tâm mà giữ được hư không, thì ngoại vật hết xâm nhập, mà nội niệm cũng không sanh được, như thế là dứt cả tham sân, phiền não, khỏi lo tạo nghiệp, thì không còn chi là chướng ngại nữa.

Mạnh Tử cho rằng cái Tâm của con người chìm đắm trong vòng vật dục như con chim sổ lồng, nên Ông gọi Tâm ấy là Phóng Tâm.

Vương Dương Minh thì cho rằng cái Tâm là tấm gương sáng. Để mất cái Tâm chẳng khác nào để cho bụi bậm che lấp cái gương sáng đi. Cho nên người biết tu phải cần lau chùi (trau dồi) cái Tâm cho sáng lại. Cái Tâm vốn không phải tối, chỉ vì bị cái tập tục mờ ám, tư dục phủ che, cho nên bỏ được các vật phủ che làm mờ ám đi, tự nhiên cái Tâm sáng lại.

Đức Đạo Tín lại bảo: Cảnh với duyên vốn không tốt xấu mà phân biệt ra là tại cái Tâm. Nếu Tâm chẳng trì tục theo duyên cảnh, thì vọng tình do đâu mà khởi đặng? Mà hễ vọng tình chẳng khởi, thì Chơn Tâm sáng tỏ.

Vậy tu hành cốt là lo làm cho cái Tâm sáng trở lại như buổi ban sơ, để ứng hiệp cùng Trời, vì Trời và Tâm con người vốn là một.

TÂM LÀ GÌ?

Chữ Tâm vốn có nhiều nghĩa, người ta gọi Tâm là trái tim, ý muốn chỉ một khối nhục đoàn làm cơ quan cho sự tuần hoàn trong châu thân, như Bác sĩ nói: "Ông đau tim, bà yếu tim" là chỉ trái tim nầy.

Có khi người ta gọi Tâm là Lòng, nếu muốn chỉ về tình cảm. Một thiếu nữ bị một tình nhân phụ bạc, người ta nói thiếu nữ ấy đau lòng, chớ không nói đau tim.

Hiểu về mặt Đạo, chữ Tâm lại có nghĩa khác. Theo giáo lý nhà Phật, con người vốn có bát thức mà thức thứ tám gọi là A-lại-da thức, người Trung Hoa gọi Tạng thức hay Nghiệp thức tức là cái Tâm đó vậy. Gọi Tạng thức vì cái tâm, tuy vô hình, nhưng nó là cái thức chứa đựng các hột giống tốt xấu, lành dữ, thanh trược và những tư tưởng ác kiến, tà kiến, ngã chấp, pháp chấp...

Một cái kho chứa đồ vật, tuy rộng lớn tới đâu cái thể tích của nó vốn có giới hạn. Nhưng cái tâm vô hình vô thể, nhưng sự chứa đựng của nó vốn vô cùng vô tận, dầu chứa đựng bao nhiêu cũng không đầy.

Gọi Nghiệp thức là vì cái Tâm, lúc đi đầu thai, đem theo cái hột giống nói trên, tức là những dục vọng, những tư tưởng tốt hay xấu và những ảnh hưởng việc làm Thiện hay Ác của kiếp trước để tạo cái nghiệp báo cho kiếp tái sanh.

Thông Thiên Học gọi cái Tâm là Thượng trí (Corps mental supérieur). Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Nhơn hồn hay Giác hồn (Âme humaine ou âme sensitive).

Tam Giáo dạy trăm điều ngàn việc rút lại chỉ khuyên con người chú trọng cái Tâm hơn hết

- Đạo Nho dạy: "Tồn tâm dưỡng tánh", là giữ cái tâm cho còn đặng, dưỡng cho cái tánh cho minh mẫn.
- Đạo Lão dạy: "Tu tâm luyện tánh", là trau dồi cái Tâm cho trong sạch, lặng lẽ, đặng luyện cái tánh đến chỗ siêu phàm nhập thánh.
- Đạo Phật dạy Minh tâm kiến tánh là làm sáng cái Tâm đặng thấy rõ cái Chơn tánh của mình.

Thánh hiền xưa lại do theo nguyên ngữ học phân tách chữ Tâm ra, mà giải nghĩa như vầy:
"Tam điểm như tinh tượng,
Hoành câu tợ nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố Phật dã do tha."

Nghĩa là: Ba chấm như tượng hình sao, móc câu ngang tợ trăng tà. Thành cầm thú mang lông đội sừng vẫn do đó, mà thành Tiên Phật cũng do đó.
Lại nói: "Nhất thiết do Tâm tạo".

Nghĩa là: Mọi việc đều do Tâm tạo ra, Tâm tạo ra thiên đường địa ngục, làm chúng sanh mê mẫn trầm luân cũng do Tâm, mà làm Phật hoàn toàn giác ngộ cũng do Tâm.

PHƯƠNG PHÁP TU THÂN

Những bực tu thượng thừa, trọn hiến thân cho Đạo tức cần phải ly gia cắt ái, phế hết phàm tình tục sự.

Còn hàng Thiện tín, chỉ là những người giữ Đạo mà thôi. Hạng này cần phải làm lụng sanh sống, nhưng khác hơn người thường là ngoài giờ làm lụng, thay vì rong chơi vô ích, họ nhơn lúc rảnh rang lo lập công bồi đức, hoặc dạy dỗ lẫn nhau, cùng trau sửa tánh tình bằng cách kiểm soát tư tưởng và việc làm của mình.

Kiểm soát tư tưởng.
- Trước khi ta sắp làm một việc chi, nơi đầu óc ta đã phát sanh cái tư tưởng về việc ấy rồi. Tư tưởng càng mạnh càng xúi giục xác thân thi hành liền. Còn một tư tưởng quấy, dầu chưa đem ra thực hành, cũng đã làm cho tâm thần ta hoen ố. Đức Chí Tôn đã dạy:
" Thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể ".

Nói tội: chẳng khác nào nghĩ quấy, vì do tư tưởng quấy mới nói tội. Vì thế mà chúng ta cần phải kiểm soát tư tưởng của chúng ta từng li, từng tí.
Kiểm soát tư tưởng nghĩa là giữ đừng để cho Tâm trí phát sanh ra những tư tưởng quấy.

Thế nào gọi là Tư tưởng lành? Tư tưởng quấy?
- Gọi lành là những tư tưởng nào không có tánh cách ích kỷ, mà là lợi nhơn, lợi vật. Gọi quấy là những tư tưởng nào lợi cho mình mà lại hại cho người cho vật.

Lại trong giờ rảnh việc, nhất là ban đêm thanh vắng là lúc Tâm hồn an tịnh, ta cần phải tưởng Trời, tưởng Phật, tức là ta dùng tư tưởng mà cảm thông với Trời Phật, hầu tiếp điễn lành tẩm tưới tâm hồn, ngày được thanh cao minh mẫn.

Kiểm soát việc làm:
- Ông Tăng Sâm, môn đồ của Đức Khổng Tử, thường ngày xét mình về ba việc (Tam tỉnh ngô thân) sau đây:
1 . Mưu việc cho người có bất trung không?
2 . Giao thiệp với bậu bạn có bất tín không?
3 . Dạy học trò, tự mình có bất cập không?

Thánh hiền xưa còn kiểm soát việc làm của người hằng bữa huống chi là chúng ta.
Vậy mỗi buổi tối, ta nên kiểm điểm sự hành động của ta trong ngày và tự hỏi:
1. - Ta có ích kỷ không?
2. - Ta có phạm Ngũ giới cấm không?
3. - Ta làm việc có chểnh mảng không?
4. - Ta có làm ngơ trước một điều thiện nhỏ nào không?
5. - Ta có làm điều gì phạm đến danh giá người không?
6. - Ta có làm hại ai không?
7. - Ta có xúi giục người làm quấy không?
8. - Ta có làm điều chi trái với thuần phong mỹ tục không?
9. - Ta có làm điều chi trái luật nước không?
10. - Ta có làm điều gì bất công không?

Mỗi ngày ta cứ tự xét mình như vậy mãi, hễ nhận thấy mình đã làm điều chi thuộc về 10 câu tự vấn ấy, tức khắc phải lo sửa cải, một ngày cải tiến được một ít, lần lần ta sẽ quay về với lẽ phải.

Tổng kết:
Ngoài những phương pháp tu dưỡng cao siêu, dành riêng cho bực Thượng Thừa, những quy tắc vừa kể trên đây rất hạp với chư Thiện Tín, mà vẫn không có điều chi bó buộc khó khăn, mà cũng không mảy may nào gọi yếm thế, dị đoan, mê tín.

TỊNH TAM NGHIỆP

Tịnh Tam nghiệp là dẹp yên Tam nghiệp cho tâm hồn ta được trong sạch. Tam nghiệp là gì? Là Ba nghiệp chướng làm cho con người vì đó mà phải chịu ác quả.

Tam Nghiệp là Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp.
Thân nghiệp: Thân nghiệp do ba nguyên nhơn cấu tạo:
1. - Sát sanh.
2. - Trộm cắp.
3. - Dâm dục.

Sát sanh: Đã có Thánh giáo Đức Chí Tôn cấm sát sanh. Đây xin bàn thêm. Người tu hành có lòng bác ái thấy loài Tứ sanh bị sát hại, rất nên thương xót, tự mình tìm phương cứu hộ, hoặc lấy của chuộc mạng cho chúng thay, thì đâu nỡ nào giết chúng cho đành?

Kinh Phật: (Dhammika Sutla) có dạy: “Người chủ nhà không nên tự mình giết một con vật nào, cũng không nên đồng lòng cho người khác giết, hoặc xúi họ giết”.

Trộm cắp: Trộm cắp vốn do lòng tham lam mà ra.

Đã có Thánh giáo cấm tham lam. Đây xin phụ thêm vài chi tiết. Người tu hành vì lòng bác ác tự xuất của tiền bố thí cho kẻ nghèo, thì đâu còn ham muốn tài vật của người khác? Dầu trong lúc chiêm bao cũng không mơ tưởng của hoạnh tài, huống lựa là khi thức tỉnh mà khởi lòng trộm cắp?

Dâm dục: Đã có Thánh huấn cấm tà dâm. Đây xin bàn thêm. Dâm dục chẳng những là một trọng tội về luân lý, mà còn thâu ngắn đời sống con người. Biết bao người làm điều can danh phạm nghĩa vì dâm dục? Biết bao người khuynh gia bại sản cũng vì dâm dục.

Phàm đạo tặc cướp lấy tiền của là vật bên ngoài của người, thì người phải nghèo, còn sắc dục cướp lấy tinh lực là vật báu bên trong của người, thì người phải chết.

Tóm lại, tránh được sát sanh, trộm cắp và dâm dục là giữ trọn ba điều tịnh giải của Thân, tức giải được cái nghiệp chướng thứ nhất là Thân nghiệp vậy.

Khẩu nghiệp: Khẩu nghiệp do bốn nguyên nhân cấu tạo:
1. - Láo xược.
2. - Đâm thọc.
3. - Lời nói thô ác.
4. - Lời nói không nghĩa lợi.

Láo xược: Đã có Thánh huấn cấm nói dối. Đây xin bàn thêm. Thánh hiền xưa dạy rằng: "Nửa câu nói ra chẳng phải, đủ tổn đức bình sanh" (Bán cú phi ngôn, tổn bình sanh chi đức). Phương chi ba tấc lưỡi mà việc không nói có, việc có nói không, quấy đổi ra phải, phải sửa thành quấy, thì tổn đức biết bao. Vậy người có Đạo phải nói năng chơn thật, đã khỏi tổn đức lại được người kính tin mến phục.

Đâm thọc: Người tu hành chẳng nên đem chuyện người này thuật lại với người kia, rồi đem chuyện người kia mách thóc với người nọ, cốt làm cho hai đàng giận hờn, thù ghét nhau. Trái lại, nên hòa giải những sự bất bình, xích mích nhau.

Lời nói thô ác: Người tu hành chẳng nên nói những lời thô ác và hung bạo, chỉ có người không giáo dục, thiếu lễ độ mới dùng những lời thô tục. Người nói thô tục gợi ý niệm dâm đảng và hạ thấp phẩm giá con người nói ra. Người trong cửa Đạo bao giờ cũng trọng phẩm giá mình, nên lời nói cần phải nhã nhặn, ôn hòa, dịu ngọt, gây được thiện cảm của người nghe.

Lời nói hung ác như hăm he, nguyền rủa, chứng tỏ rằng người thốt ra những lời ấy có một tâm địa hiểm sâu, ác độc, là cái nguồn sanh ra tội lỗi, mà người tu hành phải tránh.

Lời nói không nghĩa lợi: Những lời nói bông lơn đùa bỡn, thường làm cho người nghe phật ý, vì nó làm chạm đến lòng tự ái của người. Những lời nói xuyên tạc vô nghĩa lý, không đem lợi ích cho ai, mà làm cho người bị xuyên tạc mất thiện cảm với mình, mà thiện cảm là điều cần thiết trong phép xã giao.

Người tu hành muốn cảm hóa ai, hoặc muốn đem ai về chánh nghĩa, cần phải ôn hòa mà dẫn độ, thành thật mà khuyên lơn, người ta mới cảm mến mà nghe theo.

Tóm lại, tránh được láo xược, đâm thọc, lời nói thô ác, và không nghĩa lợi, là giữ trọn bốn điều tịnh giải của Khẩu, tức giải được cái nghiệp chướng thứ nhì là Khẩu nghiệp vậy.

Ý nghiệp: Ý nghiệp do ba nguyên nhơn cấu tạo:
1. - Ganh ghét.
2. - Sân si.
3. - Tà kiến.

Ganh ghét: Người tu hành vốn trọng điều nhơn.
Mình nên, cũng muốn người nên; mình đạt cũng muốn người đạt (Kỷ dục lập, nhi lập nhơn; kỷ dục đạt, nhi đạt nhơn). Cho nên, thấy người đó có khả năng về việc gì, mình nên giúp cho người chóng thành công việc ấy, chớ không nên đem lòng ganh tị, kiếm chuyện soi bói, hoặc tìm cách cản trở bước đường tiến thủ của người.

Người Đạo phải tránh ích kỷ mà trọng vị tha.
Sân si: Thánh hiền xưa ghép chung 2 chữ Sân (giận) và Si (ngu dại) thật chí lý. Hẳn vậy, sự giận làm cho con người mất trí khôn mà ra ngu dại. Hoặc giả chỉ có người ngu dại mới hay giận dữ.

Tục ngữ có câu: "No mất ngon, giận mất khôn".
Chúng ta thử tưởng tượng một người trong khi giận dữ: Trán nhăn, mắt nháng lửa, gân mặt nổi lên, sắc mặt đỏ ngầu, hay xanh nhợt, tay chân run rẩy, lời nói lập cập, khi cộc cằn thô lỗ, khi dứt nổi không chừng. Con người lúc này, không còn tự chủ, cho nên phát ra những cử chỉ và hành động đáng tiếc. Cái tâm phát hỏa rồi, thì phải trái nan phân; trí khôn lúc bấy giờ bị nộ khí choán hết, thành ra xử sự quấy, nói năng quấy mà tổn âm đức. Nên nhớ rằng: Nóng như Trương Phi là cái nóng giết mình, nguội như Trương Lương là cái nguội nên danh.

Tà kiến: Người tu hành phải biệt phân chơn ngụy để khỏi lạc vào tà kiến. Nên tin theo giáo lý của bề trên dạy, vì những giáo lý ấy, một phần do Đấng Thiêng Liêng giảng dạy, một phần do các bậc Đạo trưởng đã dùng lý trí sáng suốt mà thành lập đúng theo chơn truyền, đàn em cứ tin theo là khỏi sai lầm.

Có người tín ngưỡng minh mông, nghe nói lý thuyết nào mới lạ, phép tắc chi linh nghiệm, là vội tin theo, đến đổi bỏ Đạo mình, chạy theo những điều mà họ lầm cho là huyền diệu.

Đức Chí Tôn có dạy rằng:
" Phần nhiều trong các con chẳng lo thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một sự ích riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm của các con ".

Lại có người còn mê tín bóng chàng, coi bói, cầu vái cho xu kiết tị hung. Nên biết rằng theo Luật Nhơn quả, theo phép công bình cảm ứng, nếu ta hằng ngày cứ lo hành Thiện không phụ ác, không tưởng ác, không hành ác, thì thế nào ta không gặp việc lành, việc tốt, cần chi phải cúng sao cúng hạn cầu quẻ, xin xăm, coi tướng, coi số, lựa ngày, lựa giờ, cúng sao cúng hạn, mà ta tự gây ác cho ta hoài, thì sao hạn có đem thiện quả cho ta được không?.

Lựa ngày lành tháng tốt để làm một việc chi mà nếu ta cứ bo bo tích ác, thì chắc gì ngày lành tháng tốt ấy giúp ích được ta?

Vẫn nghĩ rằng việc bói khoa cũng có khi linh nghiệm, nhưng người tu hành thì cứ giữ phận yên ổn mà đi tới, phước thì hưởng phước, gặp họa thì lãnh họa, không cần tìm hỏi việc tốt xấu, cứ thuận theo Thiên Lý mà lưu hành. Mạnh Tử có nói rằng: "Tận kỳ đạo nhi tử giả, chánh mạng giả". Nghĩa là: Giữ trọn một chủ nghĩa đạo đức, mà chết là chánh mạng vậy.

Tóm lại, tránh được ganh ghét sân si, tà kiến là giữ được điều tịnh giải của Ý, tức giải được cái nghiệp-chướng thứ ba là Ý nghiệp vậy.

Tổng kết:
Tịnh được Tam nghiệp rồi, ta tự thấy nhẹ nhàng thơ thới, tinh thần an tịnh như nước không sóng dợn, nước tự nhiên trong, như gương không bụi vậy, gương tự nhiên sáng. Nước trong gương sáng, thì các vật tượng đều hiện vào đó cả. Cho nên người tịnh được Tam nghiệp tự thấy mình phát huệ.
ĐỨC TÁNH CỦA NGƯỜI TU

Người Đạo cần phải giữ bổn hạnh cho chánh đáng thì tinh thần mới mau tấn hóa. Cần phải có những đức tánh: Từ bi, hỉ xả, nhẫn nhục, tinh tấn, bình đẳng, bác ái, nhu hòa, tự tại, chí thành, vong ngã, lợi tha, khiêm tốn.

1. - Trọng mạng sống tất cả loài tứ sanh; xót thương người đói khó, cô đơn mà trợ giúp, buồn thấy người làm dữ, vui xem kẻ làm lành. Đó là từ bi.

2. - Ai chê không giận, ai ghét chẳng hờn; đại lượng với người thù nghịch; dĩ ân báo ân, mà không dĩ oán báo oán, hơn nữa, dĩ oán vi ân. Đó là hỉ xả.

3. - Vui chịu đủ phương thử thách, gặp biến cảnh thế nào cũng biết chìu theo thế ấy, mà không phiền muộn trách than, không ngã lòng thối chí. Đó là nhẫn nhục.

4. - Cố tâm tiến trên con đường công đức. Quyết không nhiễm một mảy vọng niệm, để tâm hồn được hư không, thơ thới, ngoài không biếng nhác tháo lui, một mực hăm hở lo tròn bổn phận. Đó là tinh tấn.

5. - Xem vạn vật vốn đồng nguyên, xem các loài máy động vẫn đồng tánh. Đối đãi với người không phân giai cấp, không phân quốc tịch, chẳng so đo phú bần quý tiện; lấy đức làm trọng, lấy đạo làm cao, không cậy thế ỷ quyền, không xu phụ người thế lực, xem ta như người, xem người như ta. Đó là bình đẳng.

6. - Xem tất cả chúng sanh là con một Cha, thương người mến vật, trọng tất cả sanh mạng mà không phạm giới sát. Đó là bác ái.

7. - Dùng nhã lượng, lễ nghi ứng đối với người phỉ báng, mềm mỏng mà khuyên lơn, ôn hòa mà hóa độ, dầu gặp rối ren gây cấn thế nào, cũng bình tĩnh điều đình ổn thỏa. Đó là nhu hòa.

8. - Phàm ở đời, bất câu vào cảnh ngộ nào, hễ tri túc là toại, tùy phận là yên, lập công với đời là phỉ nguyện, chớ không cần khen thưởng; thấy lợi sợ điều phi nghĩa, gặp may không đắc chí, gặp rủi chẳng nao lòng, lành dữ đều phú cơ báo ứng, cứ ung dung thơ thới, chẳng cho lưới trần lao lung câu thúc. Đó là tự tại.

9. - Thành thật với mọi người, dầu trong đạo hay ngoài đời cũng vậy, trong tất cả hành vi động tác, nhứt nhứt đều ngay thẳng thật thà, không một lời giả dối, không một ý tà tây, xử sự chẳng mưu mô lừa đảo. Đó là chí thành.

10. - Làm phải không cần khen, làm lành không cần thưởng, giàu sang không ham, quyền hành chẳng thích, một mực cứ quên mình, quên cả nếp sống tiện nghi, quên cả công lao cực nhọc, để phụng sự chúng sanh. Đó là vong ngã.

11. - Giúp người lợi vật, chỉ cho người biết làm âm đức, giúp người già cả, tùy phương tiện thí tài, thí pháp. Ấy là lợi tha.

12. - Đừng khoe tài đức, nhất là khi tài đức mình chẳng có, không tự cho mình giỏi hơn ai, hạ mình mà trọng người. Đó là khiêm tốn.
Người tu hành giữ tròn 12 đức tánh trên đây lo gì không nên Đạo.

KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Đại Ân Xá Kỳ Ba vốn là một nền giáo lý mới mẻ, do thần cơ diệu bút của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra. Nền tân giáo lý này cũng gọi là Đạo Cao Đài, lấy theo Thánh Danh của Thượng Đế là vị Giáo Chủ dùng lập Đạo trong thời Mạt Pháp này. Cao Đài có nghĩa là cái Đài cao nhất ở ngôi Thái Cực, tức Đài ngự của Thượng Đế.

Cao Đài Xuất Thế.
Ngày 14 tháng 10 năm Bính Dần (18 November 1926) Đạo Cao Đài chính thức thành lập với một Đại Lễ cực kỳ long trọng tại Từ Lâm Tự, Gò Kén (Tây Ninh) giữa hàng muôn đạo hữu từ các tỉnh Nam Việt tựu về.

Tôn Chỉ:
Tôn chỉ Đạo Cao Đài là quy Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi. Tôn chỉ này dung hòa một phần lý thuyết chơn chánh từ xưa hiệp với Thánh giáo ngày nay, lập thành một Tân Giáo Lý. Một triết lý Đại đồng, hầu xây dựng một nền tảng tinh thần đạo đức chung, thích hợp với tín ngưỡng và trình độ tấn hóa của nhơn loại hiện kim.

Chủ nghĩa:
Chủ nghĩa của Đạo Cao Đài là Bác Ái và Chí Thành, Hòa Bình và Công Lý. Câu liễn ghi hai bên cổng vô Tòa Thánh Tây Ninh nói một phần nào về chủ nghĩa này.

Cao thượng Chí Tôn, Đại Đạo hòa bình dân chủ mục.
Đài tiền sùng bái, Tam Kỳ cộng hưởng tự do quyền.

Cứu cánh:
Thượng Đế lập ra Đạo cứu cánh là mở một con đường giải thoát linh hồn khỏi đọa luân hồi.
Con đường cứu cánh tuy được Trời mở ra, nhưng người hành Đạo phải tự giải thoát bằng cách phổ độ chúng sanh, để lập công bồi đức là điều kiện tối yếu của cơ đắc Đạo. Đi phổ độ, người hành Đạo vừa phục vụ chúng sanh, vừa lập vị Thiêng Liêng cho mình.
Cơ cứu thế của Đại Đạo chỉ thuần về mặt Thiêng Liêng.

Giáo lý:
Về mặt luân lý:
Đạo Cao Đài nhắc nhở người ở đời những bổn phận đối với mình, đối với gia đình, đối với xã hội là một gia đình lớn hơn, đối với nhơn loại là một gia đình đại đồng.

Về mặt triết lý:
Đạo Cao Đài khuyên nên khinh thường danh lợi, quyền tước, tránh những xa hoa phù phiếm. Tóm lại, là giải thoát mọi ràng buộc về thể chất để cầu hoàn toàn hạnh phúc cho tâm hồn.

Về mặt tín ngưỡng:
Đạo Cao Đài dạy tôn sùng Đức Thượng Đế là Đấng hóa sanh muôn vật, Đức Diêu Trì Kim Mẫu chủ về phần âm và tin tưởng các Đấng Thiêng Liêng cao thượng được liệt vào hàng Tam thừa Cửu phẩm siêu hình, Đạo Cao Đài duy trì sự thờ phượng tổ tiên, nhưng cấm dùng cúng phẩm huyết nhục và đốt giấy tiền vàng bạc, giấy áo quần và đồ mã v.v...

Đạo Cao Đài cũng dạy tin có linh hồn bất diệt, có luân hồi quả báo là cơ thưởng phạt của công bình Thiên Đạo.

Đạo Cao Đài không nghịch với bất câu tôn giáo nào, vì quan niệm rằng tất cả tôn giáo do một gốc mà ra.

Về mặt công truyền:
Đạo Cao Đài dạy trì trai thủ giới, lánh dữ làm lành, biết bổn phận công dân trong nước, bổn phận người trong khuôn viên đạo đức.

Về mặt tâm truyền:
Đạo Cao Đài giảng giải những yếu lý về hình nhi thượng học và phương pháp tu luyện đến chỗ minh tâm kiến tánh.
Đạo Cao Đài cũng mật truyền Bí pháp nhờ đó mà linh hồn được siêu thăng.

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ LÀ GÌ?

Đại Đạo là nền Đạo lớn khai lần thứ ba để cứu độ Nhơn sanh khắp cả nhơn gian.
Có Tam Kỳ Phổ Độ, tức phải có Nhất kỳ và Nhị kỳ phổ độ.

Vậy xin lược giải dưới đây:
Sách có câu: "Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ" Nghĩa là: Trời Đất xây vần giáp vòng thì trở lại lúc khởi đầu.

Cuộc tuần hoàn vẫn có thứ tự. Kể theo thời gian thì hết ngày sang đêm rồi hết đêm trở lại ngày. Tính theo thời tiết, thì hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông rồi hết đông trở lại xuân.

Cuộc tuần hoàn của Vũ Trụ gồm có ba Nguơn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn và Hạ Nguơn.

Thượng Nguơn là Nguơn Tấn hóa, Nguơn gầy dựng Kiền khôn Vũ Trụ. Nhơn loại bấy giờ còn giữ Thánh đức của Thượng Đế ban cho, nên còn thuần chất phác thiện lương, cứ thuận tùng Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Đó là thời đại Thái bình, tức là nguơn Thánh đức, nguơn Vô tội.

Lần lần con người vì nhiễm hồng trần phải lu lờ Thánh Đức, bỏ Thiên Lý mà sa vào nhơn dục.

Vì vậy, Thượng Đế mới khai Tam Giáo phổ độ chúng sanh bỏ dữ về lành, tức là "Nhất Kỳ Phổ Độ".

Các vì Giáo chủ là:
Nhơn Đạo : Văn Tuyên Đế Quân.
Tiên Đạo   : Hồng Quân Lão Tổ.
Phật Đạo   : Nhiên Đăng Cổ Phật.
Được tạo hóa, nhơn loại tất phải tấn hóa. Tấn hóa phải tranh đấu. Tranh đấu tất phải tự diệt. Đó là thời kỳ Trung nguơn tức là nguơn Tấn hóa, nguơn Tranh đấu, nguơn Tự diệt.

Cho nên Thượng Đế thiết "Nhị Kỳ Phổ Độ".

Nhơn Đạo có Khổng Tử cảnh tỉnh nhơn tâm đặng duy trì đạo đức.
Tiên Đạo có Lão Tử dìu dẫn nhơn sanh ra khỏi vòng thấp hèn vật chất mà xu hướng về chỗ tinh thần cao thượng.
Phật Đạo có Thích Ca truyền bá chủ nghĩa từ bi tránh cho nhơn sanh cái nạn tự diệt.
Không tự diệt, tức bảo tồn. Hạ nguơn tức là nguơn bảo tồn vậy.

Vì lẽ bảo tồn, nên ngày nay Hạ nguơn hầu mãn, Thượng Đế dùng huyền diệu cơ bút lập "Tam Kỳ Phổ Độ". Lại cũng bởi Hạ Nguơn là Nguơn cuối cùng, Đại Đạo quy nguyên phục nhất theo lẽ tuần hoàn. Vậy mới có cái Tôn chỉ: "Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi hiệp nhất".

THÁNH DANH CAO ĐÀI

Hai kỳ trước, Đức Thượng Đế phân tánh giáng sanh lập Đạo Ngài có dạy:
"Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã,
"Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
"Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
"Kim viết Cao Đài."

Tam kỳ Phổ Độ nầy, Đức Chí Tôn không giáng thế với xác phàm như hai kỳ trước, lại dùng huyền diệu cơ bút giáng điễn linh lập Đạo. Vậy Đức Giáo Chủ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (gọi tắt Đạo Cao Đài) là Đấng siêu hình, tức Thượng Đế.
Ngài lấy Thánh danh: Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Thánh danh này hàm xúc cái ý nghĩa Tam Giáo quy nguyên hiệp nhất.

Cao Đài: Là cái Đài Cao ở tận ngôi Thái Cực, Đài ngự của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉ về Nho giáo, vì Nho giáo gọi Thượng Đế là Thái Cực.

Trong sách "Ấu Học Tầm Nguyên" lại giải rằng: "Đầu thượng viết Cao Đài"

Tiên Ông: Chỉ về Tiên giáo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: chỉ về Phật giáo.

Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Các con nghe!
Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi Nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ, thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thế nào? Vì vậy mà nhiều kẻ môn đệ của Thầy cho Thầy là nhỏ.... cười....

Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa con phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy, Thầy lại nói, buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.
Ấy vậy các con rán độ kẻ tội lỗi, là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết."

TẠI SAO THƯỢNG ĐẾ KHÔNG PHÂN TÁNH
GIÁNG TRẦN LẬP ĐẠO NHƯ HAI KỲ TRƯỚC

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phải phổ biến khắp năm Châu, độ rỗi chúng sanh thoát nạn luân hồi, nhất là phải độ tất cả 92 ức nguyên nhân quy hồi cựu vị.

Nguyên từ khai thiên lập địa, Đức Chí Tôn cho 96 ức nguyên nhân giáng trần khai hóa chúng sanh, song mấy vị ấy lại sa đắm hồng trần quên cả cựu vị của mình.

Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ chỉ độ được 4 ức nguyên nhân, Tam Kỳ Phổ Độ lại phải độ tới 92 ức. Xem đó đủ biết Tam Kỳ Phổ Độ lớn lao quan trọng dường nào.

Vì chỗ lớn lao quan trọng ấy, Đức Chí Tôn không mượn xác phàm lập Đạo, vì hễ mang nặng xác phàm, thì sự xê dịch từ xứ này tới xứ khác để truyền giáo lấy làm bất tiện, lại cũng không tránh khỏi lỗi lầm chẳng nhiều thì ít. Sự truyền bá Đạo Trời vì thế mà khó phổ thông; còn dùng huyền diệu cơ bút, Đức Chí Tôn có thể trong một lúc giáng điễn khắp nơi mà dạy Đạo.

NHỮNG BẰNG CỚ CHỨNG TỎ
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ DO ĐỨC THƯỢNG ĐẾ LẬP RA

I. - Trong mấy năm đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn có ban cho đàn anh chúng ta nhiều huyền diệu nhờ đó Đạo bành trướng rất mau và gây được một đức tin cứng rắn.

Hồi Pháp thuộc, Đạo gặp phải nhiều trở ngại, nhiều thử thách mà vẫn lướt qua không mấy khó. Đó là nhờ sức hộ trì của Đức Thượng Đế, Đức Phật Mẫu và Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Và trải qua mấy năm binh lửa, Đạo tuy phải nhiều phen điên đảo nhưng rốt cuộc, chẳng những cứu vãn được thanh thế buổi đầu, mà mối chơn truyền lại còn phổ biến khắp nơi.
Nếu chẳng phải là Đạo của Trời lập ra, thử hỏi người phàm ai làm được?

II. - Các vị Giáo Chủ thời xưa cũng có tiên tri về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
a.- Sách Phật Tông Nguyên Lý có nói:

Khi Đức Thích Ca sắp Nhập Niết Bàn, đệ tử yêu quý nhứt của Ngài là A Nan Da "Phiên âm là Ất Nan" rơi lụy hỏi Ngài: "Khi Tôn Sư viên tịch rồi, ai dạy bảo chúng con? Ngài đáp: "Ta chẳng phải là vị Phật đầu tiên hay vị Phật cuối cùng giáng thế. Ngày giờ đến, sẽ có vị Phật khác xuất hiện cứu đời, một vị Chí Thánh, một vị Đại Giác cực kỳ cao thượng, một vị dẫn Đạo vô song của nhơn loại: Một vị Chúa Tể cả Thần Thánh và nhơn loại, Đấng ấy sẽ truyền lại cho các con một mối Đạo vinh diệu về buổi sơ khai, vinh diệu về buổi thạnh hành, vinh diệu vào buổi kết cuộc. Đấng ấy sẽ đề xướng một đời sống đạo đức hoàn toàn và thuần khiết."

Phụ chú: Vị Phật mà Đức Thích Ca đã nói tiên tri, theo Phật giáo là Đức Di-Lạc, chúng ta tin chắc Đức Di- Lạc của Phật giáo và Ngôi Ba của Thiên-Chúa giáo vốn là một Đấng Chí Tôn và đúng theo những lời tiên tri ấy, Người đã đến trong lúc Tam Kỳ Phổ Độ này với danh hiệu Cao Đài.

b. - Đức Giê-Su đã phán:
“Nếu các con kính mến ta, các con hãy nhớ những lời ta dạy bảo. Ta sẽ xin Cha Ta sai Đấng cứu khổ giáng trần và ở luôn với các con. Đó là Thần Chơn Lý mà hiện giờ các con chưa thể gặp được Đấng ấy sẽ độ dẫn các con và ở nơi Tâm linh của các con.

Đó là Ngôi ba, ngôi Thánh Thần, mà vì Ta, Cha Ta sẽ sai xuống thế. Đấng ấy sẽ dạy các con đủ điều và sẽ nhắc lại các con những điều Ta đã dạy các con rồi”. (Kinh Phúc-Âm theo Thánh Jean, chương XIV).

PHỤ LỤC: Trong sách Khải Huyền của Thánh Giăng (Apoea lypse de Jean) có bức thư của Đức Chúa Giêsu dạy ông viết gởi cho Hội Thánh Sạt-Đe ( ) như vầy:

THƠ CHO HỘI THÁNH SẠT ĐE

Người cũng hãy viết cho Thiên sứ của Hội Thánh Sạt-Đe rằng:
Nầy là lời phán của Đấng có bảy vị thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao: Ta biết công việc ngươi, ngươi có tiếng là sống nhưng mà là chết.

Hãy tỉnh thức, và làm cho vững sự còn lại là sự hãy chết vì ta không thấy công việc của ngươi là trọn vẹn trước mặt Đức Chúa Trời ta.

Vậy hãy nhớ lại mình đã nhận và nghe Đạo thế nào thì giữ lấy và ăn năn đi. Nếu ngươi chẳng tỉnh thức, ta sẽ đến như kẻ trộm và ngươi không biết giờ nào ta đến bắt ngươi thình lình.

Nhưng ở Sạt-Đe ngươi còn có mấy người chưa làm ô uế áo mình, những kẻ đó sẽ mặc áo trắng mà đi cùng ta vì họ xứng đáng như vậy.

Kẻ nào thắng, sẽ được mặc áo trắng như vậy. Ta sẽ không xóa tên người khỏi sách sự sống và sẽ nhận danh người trước mặt cha ta, cùng trước mặt các thiên sứ Người.
Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh.

*  *  *

Đạo Minh Sư bên nước Trung Hoa sáng lập hồi đời nhà Thanh, có hai câu sấm do các vị Tổ Sư lưu lại. Hai câu đối này tiên tri về Đạo Cao Đài và được nêu lên ở bìa kinh điển của Đạo này.

Cao như Bắc khuyết Nhơn chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam-phương Đạo thống truyền.

Nghĩa là Đạo cao như Bắc khuyết, người ta ngước mặt lên mà kính mến.
Đạo liên tục truyền bá không ngừng, mà nơi phát sanh ra Đạo là Phương nam (ám chỉ nước Việt Nam).

*  *  *

Trong một quyển kinh xưa (Giác Thế Kinh) có bốn câu tiên tri về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ như vầy:
"Thánh, Hiền, Tiên, Phật hi hữu chi nhơn.
Tam Kỳ Phổ Độ hi hữu chi sự.
Phi hi hữu chi nhơn.
Yên năng hành vi hi hữu chi sự?"

   Nghĩa là:
   Thánh, Hiền, Tiên, Phật là bậc ít có.
   Cũng như Tam Kỳ Phổ Độ là việc ít có.
   Không phải là bậc ít có há làm được việc ít có hay sao?

TẠI SAO TA THỜ ĐỨC THƯỢNG ĐẾ
BẰNG THÁNH TƯỢNG THIÊN NHÃN

Đức Thượng Đế là Đấng toàn năng, toàn tri, vô cùng siêu việt, trí phàm không thể tưởng tượng được cái tinh thể ra sao, nhưng chúng ta tin tưởng Ngài, thì chủ lấy cái động thể của Ngài mà căn cứ cho sự tin tưởng của ta.
Đạo tuy vô hình nhưng phải tạo ra hữu vật để phô bày cái dụng mà thiệt hành cái thể.
Về hình thức Thánh Thượng Thiên Nhãn chỉ là một biểu hiện tôn kính, một tượng trưng tôn giáo thôi.
Nhưng xét về tinh thần, thì lại có nhiều ý nghĩa sâu xa.

Trong Thánh Huấn ngày 25 tháng 2 năm 1926 Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"... Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng "Con Mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả, Ngã giả.

"Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh-Khí" đặng hiệp đủ "Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

"... Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày bị bế Đạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Đình mỗi phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh Khí.

"Thầy đến đặng huờn nguyên chơn thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến danh Thầy".

Vả chăng, con mắt là chủ thị quan, tức là biểu hiện sự quan sát cái tâm thức của mình cho thiệt tinh vi, đặng lo đoạn tuyệt tam nghiệp, lục căn mà trở về nguyên bổn.

Lại nữa, hồi Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giáng sanh lập Đạo lại mang lấy xác phàm, nên phải thờ Người bằng cốt Tượng, Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn chỉ dùng huyền điệu cơ bút mà dựng nên chánh giáo, ấy là một cuộc bán hữu hình, nên thờ Đức Chí Tôn bằng Thiên Nhãn, cũng là cách thờ phượng bán hữu hình đó vậy.

TẠI SAO CHỈ THỜ MỘT THIÊN NHÃN THÔI

Chúng ta thờ Thượng Đế bằng con Mắt phía tả vì tả thuộc Dương mà Đức Thượng Đế chủ về Chơn Dương hay Thái Dương, cũng như Đức Diêu Trì Kim Mẫu chủ về Chơn Âm hay Thái Âm.
Thờ một Thiên Nhãn vì Một là tuyệt đối, Một là duy nhất có nghĩa là: Chơn lý vốn Một thôi, đời đời kiếp kiếp con người cứ do một lẽ “Thiên lý lưu hành” là Tôn chỉ bất di bất dịch.

Chủ đích của Đại Đạo là gồm các tôn giáo về Một, vứt bỏ những tin tưởng ở chỗ tiểu dị mà chú trọng ở chỗ tín ngưỡng đại đồng mới biết nhìn nhận, nguồn cội của Vũ Trụ là cái bổn thể độc Nhất vô nhị của Đạo, tức Đấng Tạo Hóa.

Vả lại, chỗ lập thuyết của Tam Giáo đều căn cứ ở số Một ấy.
- Đạo Phật thì "Vạn pháp qui Nhất" nghĩa là muôn phép đều gom về Một.
- Đạo Tiên thì "Bảo nguơn thủ Nhứt" nghĩa là giữ Nguơn khí cho đặng Một.
- Đạo Nho thì "Duy tinh duy Nhứt" nghĩa là học Đạo lý cho tinh giữ tâm chí cho đặng Một.

Xem thế đủ biết Tam Giáo đều chỉ Một chơn lý mà thôi. Vậy thờ Một Thiên Nhãn là tượng trưng cái số Một ấy.

HỘI THÁNH

Theo chánh thể của Đức Chí Tôn đã ấn định trong "Pháp Chánh Truyền", Đại Đạo đại diện bởi một đoàn thể gọi Hội Thánh.

Hội Thánh là một nhóm lương sanh của Đức Chí Tôn tuyển hiệp làm một. Đức Chí Tôn đã dùng quyền Thiêng Liêng dạy dỗ, trước un đúc nơi lòng làm một khiếu từ bi, cho tâm địa có tình ái vật ưu sanh, để làm lợi khí phàm tục mà độ rỗi người phàm tục.

Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu cơ bút dạy dỗ từng người cho có tư cách đứng ra hành Đạo.

Hội Thánh có hai phần tại thế:
1. - Phần hữu hình: là Cửu Trùng Đài thuộc Đời tức là xác của Đạo.

2. - Phần bán hữu hình: là Hiệp Thiên Đài, nửa Đời nửa Đạo tức là chơn thần của Đạo.

Về vô vi: Có Bát Quái Đài thuộc Đạo, tức là Hồn của Đạo vậy, xác nhờ chơn thần mà liên lạc với Hồn, thì Cửu Trùng Đài cũng nhờ Hiệp Thiên Đài mà thông công với Bát Quái Đài.
Ba Đài cần phải có đủ thì Đạo mới được toàn thể.

CỬU TRÙNG ĐÀI

Cửu Trùng Đài là Tòa ngự của Chức Sắc Thiên Phong, đối hàm với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Cửu Trùng Đài là hình trạng Cửu Trùng Thiên, Cửu phẩm Thần Tiên vâng mạng lịnh cầm quyền trị thế, thì Cửu Trùng Đài cũng vưng mạng lịnh cầm quyền quản trị Đạo nơi tay.

Tất cả chơn linh trong càn khôn thế giới phải vào Cửu Trùng Đài đặng đoạt giả trạng sắp đặt nơi ấy mới mong lập Thiên vị mình.

Chẳng vào cửa Đạo hiệp với Cửu Trùng Đài thì chẳng còn đi đường nào khác mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng.

Cửu Trùng Đài do Giáo Tông chưởng quản dưới quyền có: Ba Chưởng Pháp, Ba Đầu Sư, Ba mươi sáu Phối Sư (trong số này có Ba Chánh Phối Sư) bảy mươi hai Giáo Sư và ba ngàn Giáo Hữu.

Tỷ số này chiếu theo Thiên thơ phải có Nhất Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền, Tam Thiên Đồ Đệ chưởng quản cơ quy “Tam Giáo Ngũ Chi” hiệp Nhất.

Từ Chưởng Pháp đổ xuống Chức Sắc Cửu Trùng Đài chia làm ba phái là:
1 - Phái Thái: về Phật giáo mặc Thiên phục màu vàng.
2 - Phái Thượng: về Tiên giáo mặc Thiên phục màu xanh.
3 - Phái Ngọc: về Khổng giáo mặc Thiên phục màu đỏ.

Chức Sắc nữ phái chỉ tới bực Đầu Sư, Chức Sắc nữ phái mặc thiên phục toàn màu trắng và không chia làm ba phái như bên nam. Chức Sắc nữ phái vốn có quyền tương đương với đồng đẳng nam phái, song phải dưới quyền chưởng quản của Giáo Tông.

Lễ Sanh (Nam và Nữ) là hạng Chức Sắc để lo việc lễ, chưa đứng vào Hội Thánh.

Nhiệm vụ của Chức Sắc Cửu Trùng Đài đều quy định trong "Pháp Chánh Truyền""Tân Luật".

Chú ý: Ba vị Chưởng Pháp vốn Chức Sắc của Hiệp Thiên Đài bổ qua Cửu Trùng Đài cũng như Thượng Phẩm và Thượng Sanh là Chức Sắc của Cửu Trùng Đài bổ qua Hiệp Thiên Đài, ấy là Dương Nội Hữu Nhất Âm, Âm Nội Hữu Nhất Dương.

HIỆP THIÊN ĐÀI

Hiệp Thiên Đài là nơi chuyên về Đạo pháp bảo hộ luật đời và luật Đạo. Hiệp Thiên Đài nắm luật lệ như Ngọc Hư Cung nắm Thiên Điều.

Hiệp Thiên Đài tức là hình trạng Ngọc Hư Cung tại thế.

Hiệp Thiên Đài do Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm, Hiệp Thiên Đài gồm có ba chi: Chi Pháp, Chi Đạo và Chi Thế.
Hộ Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài kiêm chỉ huy Chi Pháp dưới có: Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp.
Chi Pháp lo bảo hộ pháp luật trong Đạo, chẳng ai hành động qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.
Thượng Phẩm chỉ huy chi Đạo dưới có Bảo Đạo, Hiến Đạo, Khai Đạo và Tiếp Đạo.
Chi Đạo lo về phần Đạo nơi các Tịnh Thất và Thánh Thất xem sóc và bênh vực chư môn đệ của Đức Chí Tôn.
Thượng Sanh chỉ huy chi Thế, dưới có: Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Thế và Tiếp Thế.
Chi Thế lo bảo hộ chư môn đệ của Đức Chí Tôn về phần đời.
Mười hai vị Bảo, Hiến, Khai, Tiếp gọi là "Thập Nhị Thời Quân" đối hàm với "Thập Nhị Thời Thần".

Hiệp Thiên Đài còn có "Thập Nhị Bảo Quân" tức là Hàn Lâm Viện của Đạo cùng nhiều Chức Sắc phụ thuộc khác như: Luật Sự, Sĩ Tải,...

Trên đây là sở dụng phàm trần của Hiệp Thiên Đài.

Về sở dụng Thiêng Liêng, Hiệp Thiên Đài là nơi Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật đến tiếp xúc với Hội Thánh, hễ Đạo còn, Hiệp Thiên Đài vẫn còn. Điều hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài thì Đạo không có xuất hiện. Trời Đất qua, chớ Đạo không qua, nhân loại tuyệt chứ Hiệp Thiên Đài chẳng tuyệt.

Hiệp Thiên Đài lại là nơi Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giới, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung mà cầu siêu cho nhân loại.

Ba Chi trên của Hiệp Thiên Đài: Thế, Pháp, Đạo tượng trưng ba giai đoạn tấn hóa của phép tu, ai tu đúng theo luật, hành theo pháp mới được thế nhân ca tụng công đức mình, ấy là Đắc Thế.

Đắc Thế rồi còn phải tầm Chơn Pháp đặng cứu chữa, dạy dỗ nhơn sanh đúng theo Tâm Pháp, nếu mình Hành Pháp được hiển linh thì nhơn sanh ngưỡng mộ, ấy là Đắc Pháp.

Đắc Pháp rồi phải tầm hiểu chỗ nhiệm mầu của Đạo vô vi để tự giải thoát luân hồi, ấy là Đắc Đạo.

BÁT QUÁI ĐÀI

Bát Quái Đài tại Tòa Thánh là nơi thờ phượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Chức Sắc và Tín Đồ qui vị cho trọn phép Trời Người hiệp Nhất.

Các Đấng Thiêng Liêng thờ phượng nơi Bát Quái Đài là các vị Giáo Chủ của Tam Giáo, Ngũ Chi, cùng các vị thay mặt tôn giáo mà hành Đạo trong buổi “Tam Kỳ Phổ Độ” cho nên cách thờ phượng sắp đặt nơi đây chủ về ý nghĩa Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi hiệp nhất.

Đã nói Bát Quái Đài là Hồn Đạo mà Đức Chí Tôn vẫn nắm phần Hồn và làm chủ Bát Quái Đài, thì Đạo chẳng khi nào còn chịu dưới quyền phàm nữa, cho nên Đức Chí Tôn đã nói: “Không chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa” là vậy.

Cơ mầu nhiệm của Đạo là do chỗ Đức Chí Tôn mở cửa Bát Quái Đài cho các chơn linh đã tự mình lập vị nơi Cửu Trùng Đài vào tận Bát Quái Đài mà hiệp một cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Cửu Trùng Đài chỉ cách Bát Quái Đài có một cánh cửa như Niết Bàn cách phàm trần có một xác thân. Cánh cửa ấy nay đã mở thì cơ đắc Đạo tại thế đã mở ra rồi vậy.

Cửu Trùng Đài lo phần độ rỗi chúng sanh, thì Bát Quái Đài lo phần siêu rỗi.
Cửu Trùng Đài: do pháp luật mà hành Đạo đặng độ rỗi chúng sanh.
Hiệp Thiên Đài: lo bảo tồn pháp luật. Về sở dụng Thiêng Liêng.
Bát Quái Đài: nắm Thiên điều làm cân thưởng phạt Thiêng Liêng.

1. - Cửu Trùng Đài: là ngôi vị Thánh, Thần, Tiên, Phật của Đức Chí Tôn sắp sẵn tại thế cho Chức Sắc Thiên Phong cũng như bổn Đạo đoạt thủ. Cửu Trùng Đài tức là Cửu Trùng Thiên tại thế.

2. - Hiệp Thiên Đài: là Thiên môn mở rộng ra rước cả nguyên nhơn trở về cựu vị, và giúp cho cả hóa sanh đến tranh đoạt phẩm vị Thiêng Liêng ấy là cái ngỏ hiệp các chơn linh trong toàn thế giới.

Hiệp Thiên Đài là Ngọc Hư Cung tại thế.
3. - Bát Quái Đài: là tòa ngự của Thần, Thánh, Tiên, Phật dưới quyền chưởng quản của Đức Chí Tôn tức là Thiên Triều, là Bạch Ngọc Kinh tại thế.

TÔN CHỈ CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Quy Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi. Qui hiệp để làm gì? Để chung hiệp nhau mà phổ độ chúng sanh.

Đành rằng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có giáo lý và tâm pháp mật truyền riêng, nhưng tôn chỉ là quy Tam Giáo hiệp Ngũ Chi nên lý thuyết có một phần rút trong tinh ba của lý thuyết các tôn giáo, cốt để thực hành cái tôn chỉ ấy. Vì vậy mà dung hòa và nạp dụng những giáo lý bất câu của Đạo nào đã được công nhận là chơn lý, vì chơn lý chỉ có một mà thôi. Đồng thời Đại Đạo có trách nhiệm thuyết minh những lý thuyết đã bị người đời hoặc vì canh cải hoặc vì hiểu lầm mà sai biệt chơn truyền.

Thực hành tôn chỉ “Qui nguyên phục Nhất” là thừa nhận các tôn giáo đều một gốc mà ra, đều tôn sùng một Đấng Chúa Tể tức Ông Cha chung, mặc dù mỗi nước vì khác ngôn ngữ mà xưng tụng bằng danh hiệu khác nhau.

Đức Chí Tôn đã dạy:
" Nhiều đạo cũng như cái nhà, phải có nhờ nào là cột cái, nào là cột con, đòn tay, kèo, rui. Rui là nhỏ, mỏng mảnh hơn hết, mà cũng phải nhờ nó, tuy là kể cho nhiều tên, chớ cất rồi thì có một chủ ở mà thôi".

CHỦ NGHĨA CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Hai yếu điểm của chủ nghĩa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Bác Ái và Chí Thành.

Đức Chí Tôn đã dạy:
"Đạo gốc tại lòng bác ái và chí thành"

Bác Ái: Là lòng đại từ đại bi thương xót sanh linh hơn thân mình cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ như mẩy lông, mà coi thiên hạ trọng bằng Trời Đất.

Còn Chí Thành là lòng thành thật đem đến cực điểm mà đối đãi ngoài đời và trong đạo.

Lòng bác ái của Đức Khổng Tử gốc ở điều Nhân mà Đạo Nhân thì lấy sự thương yêu làm trọng.

Ở Chúa Giêsu lòng bác ái không hạn chế ở sự giúp đỡ, ban phước và giải nạn, mà còn tự đem mình chịu khổ trên Thập Tự Giá để cứu chuộc tội lỗi cho chúng sanh.

Lòng bác ái của Đức Chí Tôn vốn không tận cùng như Người đã dạy sau đây:
"... Các con đủ hiểu rằng: Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận."

Trong một Thánh giáo khác, Đức Chí Tôn lại dạy:
" Thầy thường nói với các con rằng Thầy là cha của sự yêu thương, Do bởi thương yêu, Thầy mới tạo thành thế giới và sanh dưỡng các con.
Vậy thì các con sản xuất nơi sự yêu thương, các con là cơ thể của sự yêu thương."

Ấy vậy, sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Bởi sự yêu thương mà vạn loại hòa bình, càn khôn an tịnh, mới không thù nghịch nhau. Không thù nghịch nhau, mới không tàn hại nhau. Không tàn hại nhau, mới giữ bền cơ sanh hóa.

Còn kẻ nghịch cơ sanh hóa là gì?
- Là Quỷ Vương đó, Quỷ Vương vốn là tay diệt hóa. Cũng như có sống của Thầy ắt phải có chết của Quỷ Vương.

Quỷ Vương lấy cơ thể nào để tàn hại các con?
- Ấy là sự ghét vì ghét nhau vạn loại mới nghịch lẫn nhau, nghịch lẫn nhau mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế.

Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu thì cũng chẳng đặng ghét nhau”.

Tóm tắt bài Thánh giáo này chúng ta có thể nói:
Thương người, thương vật là gần Trời,
Ghét người, ghét vật là gần Quỷ Vương.

TẠI SAO CHÚNG TA THƯƠNG CẢ NHƠN LOẠI

Trên mặt địa cầu nhơn loại sở dĩ chia ra thành nhiều giống là bởi phong thổ cùng khí hậu mỗi xứ khác nhau, song chỉ khác về hình thức thôi, nhưng về Thiêng Liêng thì ai cũng thọ của Thượng Đế một điểm linh quang (Hồn) nhờ đó mà sanh sống, mà tri giác. Thế thì cả nhân loại đều là con một cha. Là con một cha, tất phải thương yêu nhau mới phải Đạo, song ngày nào còn thấy nhân loại dùng binh lực để xô xát lẫn nhau, ngày nào còn thấy sức mạnh đè ép sức yếu, ngày ấy thế giới hòa bình chỉ là cái không tưởng mà thôi. Phải đi sâu vào tâm hồn người để tìm cội rễ của sự trạng ấy: tánh ích kỷ, lòng tham dục, óc tranh đấu, chiếm đoạt và cái quan niệm sai lầm về danh lợi chính là bao nhiêu động lực xô đẩy loài người vào cuộc cắn xé lẫn nhau.

Từng ấy, bản năng không thể dùng võ lực đàn áp được. Cần có một nền luân lý, một tôn giáo cao thượng cảm hóa được lòng người và gieo vào đây chút tình bác ái.

Bác ái là nền tảng của một tôn giáo chơn chánh. Tôn giáo tức là tình thương nhân loại vì thương nhân loại tôn giáo mới phục vụ nhân loại, mới lo cứu rỗi linh hồn của nhơn loại.

Thật tế mà nói, chúng ta không thể thương tất cả mọi người cùng một mức độ. Sự thương yêu phải khởi từ thân đến sơ, từ gia đình đến làng mạc, từ làng mạc đến quốc gia, từ quốc gia đến quốc tế. Vả lại có người ta vừa gặp mặt là thấy không thể nào ta có thiện cảm được. Có người vừa thấy là ta muốn tránh xa, lại cũng có người tánh tình hung tợn, nói năng thô bỉ mà đối với họ ta càng phải dè dặt từng chút. Nhưng đó có phải là lý do chính đáng cho chúng ta nếu thiếu tình thương yêu với họ chăng? Không. Dầu sao, họ với chúng ta cũng vốn là con một cha. Họ là những người hoặc thiếu giáo dục, hoặc đã chịu ảnh hưởng xấu của hoàn cảnh, hoặc lúc ấu thơ không được hưởng tình yêu đầm ấm của gia đình. Nhưng trong tâm hồn họ bao giờ cũng tiềm tàng một điểm thiên lương. Hãy đánh thức điểm thiên lương ấy, họ sẽ là người khả ái.

Đấy là việc phải làm của những Chức Sắc lãnh sứ mạng phổ độ chúng sanh. Mà phổ độ tức là cụ thể hóa tình thương yêu nhân loại vậy. Tình thương minh mông như trời biển, bao gồm vạn vật, cũng như ánh thái dương soi ấm vạn vật mà chẳng sót vật nào.

Thương yêu nhân loại, tức là thể theo đức háo sanh của Thượng Đế. Mọi hành vi của bậc chơn tu đều thấm dần đạo đức. Hành vi ấy chẳng những do bổn phận mình sai khiến, mà còn để tình thương ấy đối với Thượng Đế.

Cũng như con thảo không làm điều quấy, không phải vì điều ấy quấy, mà vì không muốn trái với cha mẹ, cho nên lòng tín ngưỡng tôn giáo, cũng như lòng hiếu thảo, có một ảnh hưởng hiệu nghiệm và cứu rỗi về tinh thần.

Đức Chí Tôn có dạy:
" Sự thương yêu là giống bảo sanh của càn khôn, thế giới bởi sự yêu thương yêu mà vạn loại hòa bình, càn khôn an tịnh, đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa ".

Tình thương! giản dị thay danh từ ấy! mà cũng lớn là hữu ích thay! Vì tình thương là nguồn hạnh phúc, là cơ cấu hòa bình, Nhưng thiếu tôn giáo để làm nền tảng thì tình thương chỉ là một danh từ rỗng tuếch.

   Home                                 [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét