
MÊ TÍN DỊ ĐOAN
Giữa thời đại văn minh vật chất nầy, tiền tài lợi lộc
hay làm cho nhơn tâm nảy sanh những mưu này kế nọ, để cho người gạt người, cho
kẻ khôn lường kẻ dại, tưởng không phải là việc lạ. Nhứt là về mặt tín ngưỡng,
có những khía cạnh rất dễ khiến kẻ mê tâm muội tánh, dám hi sinh làm dụng cụ
cho người khác sử dụng.
Và một khi thâm tâm nhiễm về đường tà, thì thành mê tín
dị đoan nan giải.
Nguyên nhân: Dân tộc nào cũng vậy, hễ còn xa ảnh hưởng
văn minh khoa học, và chưa được đào luyện trong tinh thần khoa học thì không khỏi
lầm vào lối mê tín dị đoan.
Mê tín là quá tin tưởng theo những điều gì một cách mù
quáng, trước khi tìm hiểu cho ra lẽ phải trái.
Dị đoan là tin chắc tưởng thiệt những điều quá kỳ dị
không thể tin được.
Hậu quả: Bị lợi dụng, kẻ mê tín không khỏi mất tiền mất
của, thậm chí có thể lụy đến thân là khác.
Như gieo sự bất yên trong số người mê tín, có nhà lo
đi xem bói, coi đồng coi cốt, có người nhờ thầy pháp đánh bùa đánh phép chữa bịnh,
đó là hành động vô ý thức và thiếu sáng suốt để tiền mất tật còn.
Lâu ngày căn bịnh trầm kha (nếu nói về bịnh hoạn) rốt
cuộc phải nhờ lương y điều trị.
Còn nói về tội tình, thay vì ăn năn chừa cải, lại cậy
kẻ khác tụng kinh cầu phước, tội kia còn đó, kinh nọ làm gì cho tiêu, nghiệp
chướng vẫn còn là nghiệp chướng.
Vì yếu tánh và thất học, kẻ tin dị đoan vừa thấy một
viên đá to tướng liền thắp hương khấn vái cầu xin này nọ và cho đó là Đá Thần,
có đủ oai linh cầm quyền sinh sát. Người đi biển rủi gặp lượn sóng khổng lồ thì
cho là Sóng Thần rồi cũng thắp nhang đèn khấn vái cho biển lặng sóng êm, thay
vì lánh nạn nơi khuất gió.
Có nhiều nơi ở gần biển, một khi gặp Cá Ông mắc cạn,
chết khô trên bãi, thì dân cư nội vùng xúm lại để tang, lập miếu phụng thờ và cầu
an cho bá tánh. Càng kể càng thêm nhiều điều hoang đàng vô lối.
Thử nghiệm kỹ hành vi và tin tưởng như thế đem lại kết
quả gì nếu chẳng phải là kết quả làm cho trí óc tán loạn, tinh thần thấp kém
thì muôn việc đều hư hỏng.
Phương cứu chữa: Hễ có Mê thì có Ngộ.
Mê là đem tâm đeo đuổi theo những cái ảo ảnh vô thường,
thoạt có thoạt không, không dựa vào đâu để bảo đảm kết quả chắc chắn theo nguyện
vọng của kẻ hữu cầu.
Nếu tinh ý đem tâm quy về cái lẽ chân thật duy nhất
không bao giờ mất và dùng lý trí để cứu xét phải trái chánh tà. Phải thì theo,
trái thì tránh, chánh thì làm, tà thì hủy. Dốt thì học hỏi nơi người hữu học,
ám muội thì noi theo gương kẻ sáng suốt mà đồ theo, chẳng nên nghe lời huyễn hoặc,
chẳng nên làm chuyện dị đoan luôn luôn thận trọng mọi sự và mọi dịp.
Ấy là chuyển Mê khải Ngộ là vậy.
NGHĨA TƯƠNG TRỢ
Ở cõi phàm này không ai sống cô độc mà hưởng đầy đủ
nhu cầu cho được. Không ai có thể tự hào mình làm được trăm việc, tự cung cấp mọi
điều cho mình mà không nhờ đến xã hội.
Thử xem một bằng chứng rất minh xác trước mắt chúng ta
hằng thấy là một người làm ruộng có lúa ăn mà không có nhà ở nếu không có thợ mộc
giúp tay. Còn thợ mộc phải cần thợ rèn mới có dụng cụ hành nghề v.v... Người
này nhờ sức người kia mới đủ phương tiện sanh sống, sự liên đới quan hệ giữa
các ngành nghề nghiệp trên đây là chỉ cho ta thấy sự giúp đỡ xoay vần về tài lực
giữa người trong xã hội có ích là dường nào.
Thiết nghĩ xã hội nào cũng có người bất túc kẻ hữu dư,
có người lành mạnh, kẻ tật nguyền, thì tương trợ là điều cần thiết để tạo phúc
cho nhau trong khoảng đời thống khổ của mỗi người.
Có nhiều cách tương trợ hoặc bằng lời nói, việc làm hoặc
bằng tiền bạc của cải. Ai cũng có thể giúp kẻ khác nếu không với hằng sản thì với
hằng tâm. Chớ đừng vị kỷ vong tha mà phải bị xã hội ghét bỏ. Một khi mất đi sự
tương trợ của xã hội, thì dầu tung tiền muôn bạc ức để đổi lấy bất cứ thứ gì
cũng không được, thì sự giàu sang khi đó sẽ trở nên vô ích.
Nghĩ vì đời thường khổ lại thường gặp nhiều cảnh khổ,
như bị hoả hoạn, thủy tai, hay thiên tai địa ách, nên xã hội mới lập ra nhiều tổ
chức có tánh cách tương trợ như tương tế, chẩn bần, vừa giúp ích cho cá nhân, vừa
giúp lợi cho nước nhà. Bởi đó mới có câu cách ngôn "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương
nhau cùng".
Nói riêng về phần cá nhân đối với cá nhân, có lời tục
rằng: " Khó giúp nhau mới thảo, giàu
tư trợ ai màng ". Câu này có ý nhắn nhủ với ai là khách trần tục chẳng
nên quên lập nền nhân nghĩa bằng cách tương trợ tương thân và để tình nhân
nghĩa cho đúng chỗ, đúng thì, mới thật là có nghĩa tương trợ.
Thêm một mẫu chuyện như dưới đây của một người mù với
một người bại, hai người cùng giúp sức nhau để đi hành khất bằng cách người mù
không thấy đường thì nhờ cặp mắt sáng của người bại dẫn lối, còn người bại
không đi được thì nhờ cặp chân của người mù đặng lần đường. Chuyện này tả cảnh
tương trợ giữa người đồng khổ không cảnh nào thiết thực bằng, huống hồ giữa một
người khổ với một người ít khổ lại không có sự hộ trì nhau sao?
Sự tương trợ trong
cửa Đạo:
Trong cửa Đạo là nơi giải khổ, thì sự tương trợ có nhiều
ý nghĩa thâm viễn hơn, mà mỗi người cần lưu tâm, để làm nét chuẩn thằng trên
con đường hành Đạo. Thiên về mặt tinh thần người trong bổn Đạo phải trợ giúp lẫn
nhau bằng cách giáo hóa trên con đường hạnh đức. Phô bày phương pháp phá mê hầu
dìu độ nhau vào nẻo quang minh chánh đại. Ngó về đường vật chất thì Chương Thế
Luật trong Tân Luật đã ấn định rành rành chánh sách tương trợ để đi đến chỗ hiệp
sức hòa tâm, rút trong nguồn cộng ái. Vả chăng, nên nhớ rằng sự bất tín bất hòa
là mầm chia rẽ, là mối nguy nan trong vòng thế sự cũng như trong phạm vi tôn
giáo, nếu thiếu tương trợ tương thân thì họa diệt vong hậu kề.
Tổng luận:
Trên đời không có việc chi là khó, mà không làm được
là bởi lòng mình không chuyên chú, ân cần đó thôi. Vậy thì thà là tạo nhân đáp
nghĩa với ngàn người, chớ đừng kết oán với một người, mà làm hư hỏng một kiếp
sanh rất uổng, sống có tương trợ thì sức lực được mạnh mẽ để phấn đấu, tinh thần
được tráng kiện để tăng tiến trên đường giải khổ, mới thấy cái thú vị trong cái
sống giữa đời phiền lụy khổ não này.
HI SINH CHO MỘT
LÝ TƯỞNG
Hi sinh có nghĩa là quên cả sự sống, không kể tánh mạng
mình để mưu cầu ích lợi chung cho nhiều người.
Lý tưởng là ước vọng cao xa của một cá nhân mà cá nhân
ấy cố đạt cho kỳ được.
Hi sinh cho một lý tưởng tức là quên mình hay là hiến
cả thân mình để làm một việc gì theo cái ý nghiệm mà mình cho là cao thượng, là
tốt đẹp để tô điểm cá nhân mình và cùng phụng sự cho kẻ khác.
Cho hay kiếp sống con người không phải để ăn uống, nằm
ngồi, đi đứng, hầu kéo dài ngày tháng cho tới chết là hết. Như vậy, thì kiếp sống
không có nghĩa và không bổ ích vào đâu cả.
Trái lại, sống với một mục đích, một chủ nghĩa hay một
lý tưởng gì ngoài mình và cao hơn mình, mới thấy cái lạc thú để sống. Cố gắng
theo đuổi cái mục đích ấy và để hết năng lực cùng tinh thần vào đó, cho tới mức
thành công sẽ thấy dầu hi sinh đến đâu cũng không tiếc và vui lòng hi sinh là
khác.
Do đó mới có trổ mặt những anh hùng liệt nữ, những
quân tử hiền tài, nơi nầy nơi nọ mà đời hằng ca tụng sùng bái.
Như Đức Phật Thích Ca có một lý tưởng cao siêu là
thoát khổ. Ngài hi sinh cả quyền cao tước trọng, phú quý vinh huê, luôn cả gia
đình, rồi hãm mình trong vòng khổ cực, tìm cho rõ nguyên nhân sự khổ và tầm
phương diệt khổ. Ngài đắc pháp là nhờ theo đuổi cho đến kỳ cùng cái lý tưởng duy
nhứt ấy.
Như Đức Khổng Phu Tử vì theo đuổi cái lý tưởng sửa đời
tệ, trị đời loạn, không hề thối bước trước một trở lực nào, mặc dầu ra làm quan
giúp nước Lỗ, kế qua Tề, sang nước Vệ, tới nước Tống, nước Trần, nước Tấn, nước
Sở rồi trở về nước Lỗ. Không nước nào dung nạp Ngài cho được lâu dài. Mãi đến
tuổi về hưu, Ngài còn tiếp tục tạo dựng cho xong một nền luân lý thuần túy cho
dân tộc Trung Hoa, thêm viết một bộ sách Xuân Thu để bày tỏ cái Đạo của Ngài về
đường chánh trị.
Như Đức Jésus Christ có một lý tưởng chuộc tội cho
loài người, vì nhận thấy thời bấy giờ loài người đang đắm đuối trong vòng tội lỗi,
Ngài chịu đổ máu trên Thập Tự Giá và đạt thành mục đích.
Như Hai Bà Trưng trong xứ ta, theo đuổi một lý tưởng
phải trả thù chồng, bằng cách diệt trừ kẻ tàn bạo và đuổi quân xâm lăng ra khỏi
nước. Hai Bà không màng sức yếu quần thoa xông pha trận mạc cho đến lúc thành
công mới ngừng.
Sanh ra ở cõi trần này nếu ta chịu khó kiếm hiểu vì
sao ta sống, sống để làm gì, ắt ta thấy con người là người của xã hội, và đã là
người của xã hội, thì không khỏi có một niềm ưu tư phục vụ cho xã hội. Chừng ấy
ta sẽ nẩy nở những tư tưởng cao xa, những quan niệm tốt lành, để tạo được một đời
sống vẻ vang cho mình, và hữu ích cho xã hội.
Đứng về mặt tôn giáo mà nói, phải có đại nguyện mới
mong thành chánh quả. Đại nguyện là hi sinh, chánh quả là lý tưởng.
Như hiện thời trong cửa Đại Đạo mỗi người trong chúng
ta đều lãnh một sứ mạng Thiêng Liêng dìu chúng sanh vào đường đạo đức. Trước hết,
chúng ta cần ly gia cắt ái, xả phú cầu bần, rồi kế đó phải gắng công trau dồi hạnh
đức cho tới chỗ chí thiện, mới xứng đáng một người truyền giáo.
Sách Đại Học rằng: "Đại
học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện".
Chí thiện là lý tưởng, còn những phương châm đạt thành
lý tưởng như trên vừa kể là hi sinh vậy.
Tổng luận:
Đại phàm trong muôn việc có khó mới có nên, thậm chí
muốn tới nơi thành tựu của một đại sự, dầu phải phủi hết cái gì của mình mà
mình cho là quí báu trọng hậu cũng sẵn sàng hưu hủy. Muốn thâu cái lợi lớn, phải
thí cái lợi nhỏ là lẽ hằng xưa nay vậy.
TINH THẦN ĐOÀN
KẾT
Đoàn kết là hiệp tại nhiều người thành nhóm, thành
đoàn cùng theo một chí hướng để thực hiện một mục đích có ích chung hoặc phụng
sự cho một chủ nghĩa cao thượng ngõ hầu thâu thập kết quả chắc chắn và tốt đẹp.
Trái lại, riêng lẻ một người không thể thành công được.
Có đoàn kết mới có sự liên lạc mật thiết, mới hiểu
nhau, mến nhau rồi sẽ giúp nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn không bỏ qua một việc
nào.
Việc nhỏ như một người lăn không nổi một cây súc, mà
năm bảy người phụ lực vào thì lăn rất dễ.
Việc lớn như muốn lấp đất đê ngăn nước, một người làm
không xuể, đông người làm chẳng mấy hồi.
Việc lớn hơn nữa như giữ gìn biên cương, bảo vệ quần
chúng, có đoàn kết với mọi người mới chung lưng đâu cật, đồng lòng quyết thắng
thì quân địch không dám đến hay đến rồi phải thất bại.
Những nghiệp đoàn trong các ngành kinh tế hay chính trị,
hoặc binh bị là những hình thức đoàn kết hiệu nghiệm, để bênh vực quyền lợi và
giữ vững tinh thần phấn đấu cho ngành mình, mà không mất tình hữu nghị giữa người
trong ngành.
Lời ví rằng: “Chia rẻ thì chết, đoàn kết thì sống”. Số
đông là số mạnh, đã đông lại thêm đồng một chí hướng thì làm việc gì cũng thành
công. Hội nghị Diên Hồng là một đoàn kết lịch sử của Việt Nam vậy.
Sự đoàn kết của những người trong một nhóm, là một việc
hay, còn đoàn kết nhóm này với nhóm khác, để tương trợ lẫn nhau trên đường sanh
sống, là một việc càng hay hơn thêm cần thiết là khác.
Một xã hội cho đặng sống điều hòa và bình hành thì sĩ,
nông, công, thương, phải phù trì nhau, mới cung cấp đầy đủ nhu cầu và tiện nghi
được.
Lời Thầy Mạnh Tử về sự đoàn kết rất hữu lý và thâm
thúy như vầy: “Không có người Quân Tử (là các quan) thì chẳng ai ra chánh giáo
để cai trị dân quê, không có dân quê thì chẳng ai cày cấy lấy lương bổng để
cung cấp cho người Quân tử (Vô quân tử mạc trị dã nhân, vô dã nhân mạc dưỡng
Quân tử).
Từ cổ cập kim, ở thế hệ nào cũng vậy, đời sống có đoàn
kết mới có tiến hóa. Thế hệ này đã qua, để lại cái di sản đoàn kết lại cho thế
hệ khác, và cứ lưu truyền từ đời này sang đời nọ, cái di sản ấy chỉ tăng thêm
phần tốt đẹp mà thôi. Thảng như di sản đó bị phân chia ra từng mảnh múng, bởi một
lẽ gì chẳng hạn, thì vì sự sanh tồn của xã hội ta phải kíp ráp lại cho lành,
chuyển hư thành nên, mới khỏi đắc tội với thế hệ sau cũng như với thế hệ trước.
Tổng luận:
Sự đoàn kết giúp cho người ít tổn sức mà lập được đại
công. Trái lại thì phí nhiều sức mà thành công dã tràng.
Ở trong cửa Đạo, sự đoàn kết rất hữu ích về phần vật
chất cũng như tinh thần. Về vật chất có đoàn kết mới giữ trọn nét yêu thương, để
trợ giúp nhau khi hữu sự. Về tinh thần có đoàn kết, mới tận tâm dìu dắt nhau
trên đường hành Đạo, mới có đủ năng lực truyền bá chơn truyền cứu nhân độ thế.
XÃ HỘI
Ở thế gian này ngoại trừ những vật vô tri, các vật hữu
tri hữu giác đều sống có gia đình có tổ chức có nhóm, có đoàn, mới tiến hóa và
tồn tại tới ngày nay và sẽ còn tiếp diễn.
Loài người hồi đời thượng cổ chỉ sống chật hẹp trong
tiểu gia đình. Lần hồi vì cuộc mưu sanh cấp thiết, mới nhìn nhau trong kẻ đồng
tông và mở rộng đường tiếp tế, bằng cách trao công đổi của. Nhưng vì nhu cầu
thân xác, cứ đòi hỏi thêm tiện nghi, mà một nhóm người không thể thực hành cho
nên việc. Rút kinh nghiệm trong sự cộng tác đắc lợi của người đồng tông, nhiều
tông và nhiều tiểu gia đình khác mới hội hợp lại làm một đại gia đình hay một
xã hội. Mục đích là tương trợ khi hữu cầu.
Với mục đích này, xã hội có trách nhiệm nâng cao đời sống
của mỗi người, bằng cách bổ túc những nơi nào còn khuyết điểm. Chẵng những vậy
thôi còn tìm phương cải thiện đời sống cho tận mỹ hơn, về phần vật thể cũng như
về phần tinh thần.
Về phần vật thể thì trợ khổn phò nguy. Lập dưỡng đường,
dựng cô nhi viện, tạo dưỡng lão đường, v.v... Về phần tinh thần thì lập trường
học, xây nền giáo huấn bách khoa, nâng cao dân trí để phấn đấu cho xã hội được
dễ dàng phát triển trên mọi phương diện.
Vả lại, xã hội là nơi quy tụ ý kiến của các bậc nhân
tài, là nơi đấu trí của các nhà thông thái, tiện thị là nơi sản xuất những cái
hay cái tốt để tô điểm đời sống còn của toàn thể.
Vậy thì công trạng của xã hội đời này là để bảo vệ cái
di sản của xã hội đời trước, cũng như sẽ kế truyền cho xã hội đời sau. Hay nói
một cách khác, có xã hội mới có văn minh tăng tiến. Cái văn minh đời này đã
thành hình từ đời trước, rồi đời này cải thiện cho đời sau thừa hưởng, đời sau
còn cải thiện thêm thì nền văn minh (vật chất lẫn tinh thần) không khi nào sút
kém.
Thiết tưởng, mỗi một thế hệ đều có một trình độ tiến
hóa riêng: nên xã hội của thế hệ này có bổn phận vừa giữ gìn cho nguyên vẹn cái
văn minh của xã hội của thế hệ dĩ vãng, vừa nâng cao nền văn minh ấy cho hợp với
dân sanh, dân trí đương thời, rồi xã hội của thế hệ tương lai, cũng sẽ do theo
nguyên tắc kế truyền mà để bước.
Tổng luận:
Không có xã hội, nhơn loại sẽ yếu thế, và mất thăng bằng
trong đời sống của mỗi người. Song le những năng lực của xã hội ở thế kỷ XX này
đã đến mức dõng mãnh phi thường, thành thử gây trở lại một nỗi lo âu cho thiên
hạ. Nó đoạt được một phần cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa, là làm chủ nguyên tử năng,
điều khiển khinh khí lực, và còn lên viếng cả cung trăng. Nhưng ngặt nỗi, hiện
nay khoa học phần nhiều lại chỉ mạnh tiến về cách sát hại sanh linh, mà ít quan
tâm đến bảo toàn sự sống.
Duy những đặc điểm khác của nguyên tử năng hay của khinh
khí lực, để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh hãy còn trong vòng bí mật. Phải chăng
vì loài người chưa quay hẳn về đường đạo đức nghĩa nhân nên tìm chưa ra điểm ấy.
LIÊN HỆ GIỮA
CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Một số đông người hợp lại để theo đuổi một chương
trình hành động, mưu sinh cho toàn thể, gọi là đoàn hay nhóm hay câu lạc bộ.
Nhiều đoàn hợp lại, theo đuổi một chương trình rộng rãi hơn, cũng thiên về sự
ích lợi chung gọi là xã hội. Mỗi cá nhân là một phần tử của xã hội. Vậy thì xã
hội hình thành bởi cá nhân, và được nâng đỡ, duy trì tồn tại cũng do công cán của
cá nhân.
Vả lại sự đòi hỏi của đời sống rất phức tạp, nên phải
nhiều tay, nhiều trí, nhiều của... bồi đắp nhau mới làm cho thỏa mãn các nhu cầu
được.
Thử xem từ thế hệ này đến thế hệ khác, có ai không ước
ao ăn ở cho được an ninh, cho có nghĩa tình giữa người đồng xóm, đồng làng, đồng
xứ sở? Nào là quyền lợi riêng tư, nào là tự do cá nhân, nào là tiện nghi ăn ở, ấy
là những điều kiện muốn thực hành cho hoàn toàn, phải trải qua biết bao việc nhỏ
nhặt phiền phức liên đới buộc ràng, từ hạ từng cơ sở đến thượng từng kiến thiết.
Nếu không có xã hội đảm đương trọng trách điều khiển mọi hành tàng, và giữ gìn
kỷ cương thì sự sống còn của cá nhân không có nền tảng vững chắc, nếu nó không
sụp đổ. Đồng thời nhiệm vụ cá nhân đối với xã hội không phải không quan hệ, vì
mỗi người tùy khả năng phải tận tâm vùa giúp cho xã hội làm tròn phận sự. Vì
đó, sự cố gắng của cá nhân là kết quả thành công của xã hội. Thoảng như rủi có
điều gì lầm lỡ của vài phần tử xã hội, thì toàn thể chung chịu trách nhiệm. Nếu
không chỉnh đốn cải thiện cấp kỳ, thì cái tệ hại này có ảnh hưởng tới thế hệ
tương lai hoặc tới nhiều thế kỷ khác.
Theo luật thiên nhiên sanh hóa của Càn Khôn Vũ Trụ vạn
vật phải có biến mới có tiến.
Đây nói về nhơn loại, một khi ngộ biến thì xã hội phải
tầm phương giải nạn, và phòng ngừa tai nạn tái lại. Đó là cơ hội cho cá nhân
vùa giúp xã hội, chống chỏi với mọi trở lực trên con đường tiến hóa, và một lần
thành công là một lần phát triển. Song le muốn đi đến thành công, có khi gặp
trường hợp phải chịu nhiều thất bại. Nếu kiên tâm trì chí, và khéo xoay trở đối
chiếu, thì có thể chuyển hư thành nên. Sự thất bại sẽ lui bước, nhường chỗ cho
sự thành công, là phần thưởng cuối cùng.
Tuy thất bại vẫn là bài học để tiến hóa, nhưng nên
nhìn nó là cây thước để đo trình độ dân sanh, và là sự kiện để giúp xã hội canh
tân theo kịp thời gian và hợp dân trí.
Tổng luận:
Cá nhân là phần tử tạo dựng xã hội, xã hội là hình ảnh
năng lực của các phần tử.
Phần tử tốt thì tạo xã hội tốt, phần tử xấu thì xã hội
khó tiến hóa.
Vì vậy mà người ta nhìn xã hội mà đoán quốc vận.
TÔN TRỌNG CỔ
TÍCH, THẮNG CẢNH
DANH LAM VÀ
TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
Cổ tích là những vật ghi dấu những hành tàng từ ngàn
xưa của các bậc tiền bối và tiêu biểu cho trình độ văn minh của thế hệ đã qua
mà người đời nay nhìn vào phải sanh lòng hoài cổ.
Thắng cảnh là những bức tranh thiên nhiên kết thành bởi
đỉnh núi đầu gành, non xanh nước biếc, hạc nội mây ngàn, có khí vị quyến rũ tao
nhơn mặc khách làm nơi giải trí, xui khiến kẻ lánh chốn phồn hoa làm nơi tịnh
dưỡng tinh thần.
Danh lam là những chùa những tháp từ nhiều đời chịu đựng
mưa sa nắng táp, lưu lại những dấu tích ngưỡng mộ đạo đức của loài người.
Tác phẩm nghệ thuật và tác phẩm văn chương là những
tuyệt xảo sáng tác và tinh hoa trí thức chẳng luận cổ kim có tánh cách dọn đường
cho văn minh tấn bộ.
Trên đây là những vật vô tri, tuy không biết nói,
không cử động, mà lại có cái vi diệu khêu gợi sự nhớ nhung, quý mến, cũng như sự
tôn sùng, ngưỡng mộ, những chuyện xưa tích cũ, để cho đời hậu tấn làm tài liệu
cải thiện đời sống cho tận mỹ hơn.
Những vật ấy không thuộc quyền sở hữu của một người
nào, mà là của toàn dân toàn xứ. Song le có người không nhận thức cái vẻ đẹp
thiên nhiên thắng cảnh, cái giá trị cao cả cổ tích, rồi xem thường và phá
phách. Hành tàng như thế là đi ngược vòng học hỏi, chỉ biết thoái chứ không biết
tiến. Vì đó mới có những Hội Khảo Cổ, khai thác đất đai tìm cổ tích, những tổ
chức mạo hiểm vào hang sâu vực thẳm, lặn bể trèo non, tầm vật lạ thiên nhiên, hầu
bổ túc và khuyếch trương khoa học.
Như vậy là người ta biết tôn trọng cổ tích, và cố giữ
gìn cho nguyên vẹn, hầu lưu truyền những cái hay, cái khéo luôn cả cái vụng,
cái sơ, của đời dĩ vãng cho đời hậu lai lấy cái đó làm kinh nghiệm, hầu phát
huy tư tưởng và tô điểm hành tàng thì không phải là điều vô ích.
Nếu chép cho hết những cổ tích, và tác phẩm nghệ thuật
từ hồi nguyên thủy đến buổi hiện kim, thì không biết bao nhiêu sách cho đủ. Có
điều ta nhận kiếm không sai là trên thế giới này loài người cứ tái diễn những tấn
tuồng bất vi thiện, những trò tàn phá đặng rồi kiến thiết. Vì thế mà văn minh vật
chất được phát triển còn văn minh tinh thần lại sút kém.
Như vua Neron (Ý Đại Lợi) vì hà khắc người Công giáo
làm cho thành La Mã phải xiêu đổ. Tần Thủy Hoàng (Trung Hoa) cho đặng ngăn giặc
xây Vạn Lý Trường Thành phải tiêu hao về số sanh mạng. Các vua Ai Cập xây Kim Tự
Tháp, chất đá thành non làm nơi cất xác, đó là gương hùng cường.
Thành Jérusalem, thành La Mecque (Trung Đông), sông Hằng
Hà (Ấn Độ), xứ Tây Tạng (Trung Hoa) là những nơi có địa điểm tích trữ những sự
kiện khi thạnh khi suy của các tôn giáo.
Hiện giờ sau hai trận đại chiến Âu châu và thế giới
hay nói một cách khác, sau hai cuộc phá hoại toàn cầu nhân loại lo tái tạo. Đồng
thời khoa học đang mạnh tiến và càng mạnh tiến càng đe doạ hòa bình, khiến cho
nền luân lý thuần túy khó được phục hưng, thiên hạ cũng nên xem cổ tích và chuyện
đã qua rồi suy gẫm cái sở hành nào để chuyển họa vi phước.
Tổng luận:
Vô cổ bất thành kim, và yểm cựu nghinh tân không phải
là thượng sách trên con đường học vấn và tiến hóa.
TINH THẦN BẢO
THỦ VÀ CHÍ TIẾN THỦ
Ở đời có hai con đường để cải thiện xã hội cho mỗi
ngày mỗi thêm tiện nghi và tốt đẹp hơn. Ấy là con đường bảo thủ và con đường tiến
thủ.
Vả chăng mỗi con đường đều có cái hay và cái dở của
nó, chớ chẳng phải trọn toàn, song lẽ tùy sở thích và quan niệm cá nhân, có người
xu hướng theo con đường bảo thủ, còn người khác lại theo chiều tiến thủ.
Bảo thủ:
Đành rằng xã hội nào cũng cần tiến hóa về phần vật chất
cũng như tinh thần, nhưng có người với ý chí thủ cựu quyết giữ những thành kiến
xưa, những phong tục cũ mà thôi. Vì cho rằng đã được xã hội nạp dụng những
thành kiến ấy không phải dở, những phong tục ấy không phải hủ lậu. Nếu sửa cải,
sợ e dở hơn hoặc hỏng đi chăng. Những người đó còn công kích các sự cải tiến
canh tân và chỉ thích những gì hợp với trí thức xưa và cho đó là bất khả di dịch.
Họ luyến tiếc cái dĩ vãng và ưa sống trong cảnh an bài, không cần bày biện nầy
nọ, cho thêm rộn lại càng lo ngại sẽ thất bại là khác.
Với độ lượng hẹp hòi không có tính cách tiến triển,
tinh thần bảo thủ là một trở lực rất lớn trên con đường tiến hóa của xã hội. Nếu
không biến cải và cứ ở trong tình trạng đứng chựng hay thụt lùi, thì xã hội chỉ
làm nô lệ cho những tư tưởng không có khả năng phát triển.
Tiến thủ:
Một số người khác ngó về tương lai xã hội và thích
thay cũ đổi mới đặng cải tiến mà không vững chãi, họ cũng tin rằng sẽ thành
công. Nếu thất bại họ vẫn theo đuổi chí hướng đã định cho đến đạt kỳ sở vọng mới
thôi.
Hai chữ tiến thủ hàm súc cái ý nghĩa cách mạng và quyết
tâm phá đổ cái gì mà người ta cho là dở, là không hạp thời. Nếu trải qua những
trận lưu huyết dữ dội, người ta cũng không sờn lòng.
Chí tiến thủ được cái lợi lớn là thúc đẩy văn minh mau
tiến hóa.
Sách rằng: "Nhựt
tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân", ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới.
Câu nầy khuyến khích cứ mỗi ngày mỗi mở mang trí hóa để đi đến cái hay hơn ngày
đã qua và tìm thêm cái hay cho ngày sẽ tới.
Tổng luận:
Nếu dung hòa tinh thần bảo thủ và chí tiến thủ hay nói
rõ hơn, nếu hai đức tánh này bổ túc cho nhau thì xã hội sẽ tiến hóa trong vòng
trật tự và điều hòa.
Trong cửa Đại Đạo, chúng ta có Tân Luật tượng trưng
tinh thần tiến thủ để cải thiện đời sống nhơn sanh trong nề nếp thương yêu và
công bình hơn. Còn Cựu Luật của Tam Giáo và Ngũ Chi là bảo thủ để giúp nhơn
sanh thoát nơi đỡ khổ, vừa thủ cựu vừa canh tân thì đứng giữa thâu lợi cả đôi
bên ấy là doản chấp quyết trung, không còn chi hơn nữa.
BỔN PHẬN ĐỐI VỚI
CẦM THÚ
Cầm thú là những giống không biết phải trái hư nên,
không biết thiện ác là gì. Tuy vậy chúng vẫn biết đau đớn, biết ham sống sợ chết,
biết thương yêu đồng loại. Chúng khác với loài người là không có trí khôn và vì
đó nên chịu phận thấp hèn để cho loài người tùy ý sử dụng.
Song le chẳng phải vì có quyền làm chủ cầm thú mà loài
người không có bổn phận đối với chúng.
Bổn phận loài người:
Cầm thú giúp Đời về nhiều phương diện rất quan trọng
như sau này:
1 . Trải thân làm thức ăn hằng bữa để nuôi mạng người.
2 . Làm công chuyện nặng nề cho người đỡ nhọc trong cuộc
nông tang, chuyển vận.
3 . Phục vụ khoa học bằng cách để cho các nhà khoa học
nghiên cứu cái sở dụng của chúng nó trong những tiện nghi về vật chất, nhứt là
về mặt y khoa.
Đối với công trạng như trên, người có bổn phận phải
nuôi chúng nó cho tử tế, cho ăn no đủ, cho ở chỗ có vệ sinh. Gặp khi bệnh hoạn
có thuốc men điều trị.
Có người không xét công cho chúng nó nhờ, lại dùng
chánh sách bạo tàn làm cho chúng nó đau khổ. Chẳng hạn như có kẻ đánh đập con
bò, ngựa trong lúc nó làm việc cho đến nỗi nó quị xuống đất mà chịu đau chớ
không biết than. Số phận của nó đã đành như thế, duy đáng trách là kẻ ấy lại
quên rằng nó đang giúp mình trong kế sanh nhai.
Nếu hiểu rằng thú vật đã mang cái số phận cùng căn mạt
kiếp làm nô lệ cho loài người thì hiếp đáp chúng nó chẳng khác nào kẻ trí đấu sức
với vật vô tri tức là hạ mình ngang hàng với cầm thú thì còn gì là nhơn phẩm.
Bổn phận người Đạo:
Trong cửa Đạo là cửa rất kỵ những hành động bạo ác, những
tính nết hung hăng thì chư thiện tín có bổn phận xem loài cầm thú như kẻ bạn bị
xếp vào hàng xấu số hơn mình, không đáng cho chúng ta hành hạ hủy hoại. Trừ khi
gặp trường hợp tự vệ phải trị thú dữ, người Đạo nên chú ý về sự sát sanh là điều
răn đứng đầu trong ngũ giới cấm vì nó quan hệ hơn cả. Theo luật luân hồi quả
báo, vạn vật hữu sanh đều phải trải qua nhiều kiếp mới mong đến kiếp chót là kiếp
hoàn toàn thiện mỹ. Trong khoảng thời gian ấy một kiếp thú có thể là hậu quả của
một kiếp người bị đoạ cũng như kiếp người có thể là hậu quả của một kiếp thú
mãn đoạ. Vậy thì chung quanh chúng ta nói theo lẽ Đạo dầu người hay dầu thú, vì
tiền kiếp mà nên hình, cả thảy đều là anh em.
Tổng luận:
Trong những xứ văn minh hiện đại người ta đã tổ chức
nhiều hội thảo bảo vệ loài cầm thú cốt ý kêu gọi lòng nhơn từ của loài người
cho chúng nó bớt bị hành hạ vô lối.
Kinh Sám Hối cũng có khuyến thiện như sau này mong
dành một phần nào hạnh phúc cho chúng nó trong lúc sống còn ở trên cõi trần:
" Lòng Trời
Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh
Tiên, Phật một màu.
Thượng cầm hạ
thú lao xao,
Côn trùng thảo
mộc loại nào chẳng linh.
Nó cũng muốn
như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào
tuyệt giống dứt nòi.
Bền công Kinh
sách xem coi,
Vô can sát
mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế
gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim,
thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay
phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng
biết chừng nào an."
ĐỨC SANH CỦA TẠO
HÓA
Trong Càn Khôn Vũ Trụ có Âm Dương nhị khí cùng điều
hòa với nhau mà sanh ra vạn vật. Đứng đầu trong vạn vật loài người là phần tinh
ba có tính thông minh hơn cả để suy nghiệm các việc của Trời Đất. Vậy thì ai là
kẻ quán triệt được cái đức sanh của Đấng Tạo Hóa, sẽ cảm thấy cái kiếp sống ở đời
chẳng phải là vô vị, trái lại có nhiều lý thú, chỉ người thượng trí cao minh mới
biết thưởng thức để trau dồi và tô điểm bản thân cho hạp với đạo lý.
Vả chăng bao nhiêu khổ trần, đã làm sầu khách tục, chẳng
phải do sự sống sanh ra, mà do tư tâm tư dục tạo thành. Như biết sống thuận
theo lẽ tự nhiên thì không còn những quan niệm hoạ phước kiềm thúc, còn biết nhận
định sự sanh là đức lớn và cũng là mục đích của Tạo hóa, thì việc sống chết
không còn là vấn đề nghị luận.
Sách rằng "Thiên
địa chi đại đức viết sanh" nghĩa là cái đức lớn của Trời Đất là sanh
hóa ra mãi.
Nhưng cần quan tâm rằng đức háo sanh là một việc, còn
lẽ công bình Thiêng Liêng là một việc khác. Cho nên chẳng vì hưởng đặng kiếp
sanh của Tạo Hóa ban cho, rồi kẻ phàm phu tục tử lại đem vùi nó trong chốn tội
tình, thì không khỏi bị Thiên Điều hành khiển. Duy kẻ đạt được cái lý nhiệm mầu
của Trời Đất mới vui sống cái đời đáng sống.
Thiết tưởng Đấng Tạo Hóa lúc nào cũng hộ trì cho sự sống
được mạnh mẽ tươi tỉnh, thì đời người từ thanh mi chí bạch phát, ví như bốn mùa
từ xuân hạ thu đông, mỗi mùa đều có cái vẻ đẹp của nó. Nếu không lưu luyến
trong vòng ngũ trược, thì cái thú vị phong phú của đời người, lúc nào cũng xuất
hiện nơi thâm tâm để tự mình tịnh tiến.
Có điều không tránh khỏi, là thời đại hay di chuyển,
hoàn cảnh sinh hoạt hay đổi xây, thì người khôn không đi ngược trào lưu tiến
hóa. Nhưng có khi ẩn hiện, lúc xuất lúc xử, là vì lẽ tùy thời đó thôi. Và dẫu ẩn
dẫu hiện, người ta không bao giờ mất cái lạc thú trong lòng.
Những thi gia đa sầu đa cảm hay khóc những cành hoa
tàn, những chiếc lá rụng, để tỏ dấu bi ai cho cái bóng phù du của nó. Nhưng mà
cành hoa tàn để kết trái, chiếc lá rụng để nhường chỗ cho lộc non, còn thân cây
vẫn đứng vững theo thời tiết. Giọt lụy của thi nhơn dẫu đổ, vật hữu thể cứ biến
hình biến chất theo cơ sanh hóa.
Trời không riêng thân với ai và thường không phụ người
lành (Duy thiên vô thân, thường dữ thiện nhơn) thì việc gì hợp với đức sanh là
thiện, còn trái lại là ác.
Tổng luận:
Từ sắt đá cỏ cây, thú vật cho tới loài người, không vật
nào không nhờ đức háo sanh của Tạo Hóa mà được tồn tại duy trì phần xác lẫn phần
hồn.
Nhược bằng kẻ nào không khám phá được cái sở dụng phàm
trần, cùng cái sở dụng Thiêng Liêng của sự sanh thì kẻ ấy lấy làm vô phước.
TRÍ THỨC VÀ
TÌNH CẢM
Con người sanh ra bởi hai yếu tố chánh cấu thành, là
xác và hồn. Xác do tinh huyết của cha mẹ biến thể. Hồn do điểm linh quang của Đức
Thượng Đế ban cho. Hồn ở trong cái xác hay nói một cách khác xác bao bọc hồn. Hồn
thuộc về phần tâm linh tinh thần, xác thuộc phần hữu thể vật chất. Tuy cùng
chung lộn trong một vật hữu hình duy nhứt mỗi phần đều có bổn phận và phạm vi
riêng biệt. Song lẽ không phải vì thế mà rời nhau được.
Tâm linh hay linh hồn là cái đức sáng tự nhiên của con
người. Nhờ đó mà cái trí thông suốt được cả sự vật. Nhưng trí thức kia chưa phải
đủ vì nó chỉ là một phần nửa trong cái đạo học làm người. Đi đôi với trí thức
còn có tình cảm để bổ túc vào hầu đạt tới cái đạo lý làm người hoàn toàn trong
xã hội.
Vả chăng ai cũng có sẵn trí thức và tình cảm nơi mình.
Trí thức nếu không được rèn luyện có thể đưa đến chỗ
ngụy biện sai lầm cũng như nó có thể đưa đến chỗ chánh chơn ngay thẳng.
Tình cảm nếu không được rèn luyện, có thể đưa đến chỗ
tàn sát lẫn nhau, phá hoại cả nền trật tự giữa nhơn quần xã hội cũng như nó có
thể đưa đến chỗ vạn vật đồng nhứt thể cùng Trời Đất hiệp một để tiến hóa trong
cuộc sinh thành của toàn thể.
Vậy thì trong phép học tập làm người, cần yếu là phát
triển cái năng lực của tinh thần trí thức và tinh tiến cái tình vào nơi lẽ ngay
đường chính, vào chỗ phải, chỗ nên và giữ gìn không cho biến nghịch. Nếu trí thức
không đạt được tới chỗ thông suốt cả vạn vật và tình cảm không phổ biến tới chỗ
đại đồng thì công trình học tập làm người chưa rồi.
Muốn cho hai cái năng khiếu, trí và tình được phát triển
và không phá hoại lẫn nhau thì phải tập rèn luyện cho cả hai đều được quân bình
đồng điệu.
Cho hay tâm với trí ở về phần tinh thần nhưng cả hai đều
bắt nguồn từ sanh lực. Nếu cơ thể con người được đầy đủ sức khoẻ thì nguồn sinh
lực được dồi dào. Như sinh lực suy nhược thì trí thức và tình cảm thấp kém còn
sinh lực khương kiện thanh tao, thì trí và tình được sáng suốt và thâm thiết.
Ở giữa cõi trần đầy cạm bẫy nào là tiền tài danh lợi
nào là sắc tướng thinh âm, thân thể người ta là một trường thể lực hay chuyển
biến theo vật dục mà trí thức hay tình cảm là động tác. Nếu biết chế ngự cho những
thế lực kia không mâu thuẫn và phản trắc nhau thì tập trung nó vào tình cảm thì
tình cảm được phong hậu.
Vả lại trí thức do trình độ tiến hóa của mỗi người là
cao hay thấp, sáng suốt hay ám mờ. Nếu quan niệm được chánh đáng, ý tưởng được
phân minh thì trí tuệ đi sâu vào sự hiểu biết đến chỗ bí ẩn hay chỗ chánh chơn
của vạn vật. Thảm nỗi, ý tưởng do ngoại vật cảm xúc nên thường hay nghiêng đổ
thiên mê. Đạo học dạy rằng phải có đủ cương quyết đừng để cho vật dục lôi cuốn
tâm trí vào nơi vọng động và giữ gìn cho tâm hồn làm chủ động. Đành rằng có khi
tâm linh phải chịu theo thân thể vì điều kiện sinh lý, nhưng làm thế nào cho
tinh thần chỉ huy xác thịt mới gần được Đạo.
HÒA VÀ ĐỒNG
Hòa là thuận tình thỏa ý, hội hiệp cùng nhau mà không
tranh giành hơn thua, cao thấp, giỏi dở, mạnh yếu.
Đồng là kết bầy rập bạn, lập đoàn thể này, tổ chức
kia, rồi dắt nhau đi vào một lối đường.
Vả chăng ai ai cũng nhận thức rằng người ta ở đời
không thể một mình sống riêng mà dựng nên cơ đồ sự nghiệp cho được. Giá như muốn
làm một điều gì mà một mình trơ trọi ắt không rồi, hoặc có rồi cũng không hay.
Lẽ dĩ nhiên cần có đông người trợ giúp lẫn nhau, cộng lao, cộng hưởng, thì việc
gì cũng đắc thành. Nhơn Đạo cùng chung cộng sự đó, người ta mới có cơ hội phân
biệt ai là quân tử, ai là tiểu nhơn. Và phân biệt được hai hạng người đó thì nhờ
hai chữ Hòa và Đồng
Rút kinh nghiệm trong phương thiệp thế, người ta thấy
rằng người quân tử hòa mà bất đồng, còn kẻ tiểu nhơn đồng mà bất hòa.
Quân tử ví như nấu một thức ăn cần có ngũ vị: Chua, cay,
mặn, ngọt, đắng, ngũ vị vẫn không đồng chất lại khác mùi, nhưng cả thảy được điều
hòa và bổ khuyết cho nhau làm ra thức ăn ngon lành. Nhờ tương tế cho nhau nên
hòa thì hết sức hòa, và không vì lẽ bất đồng chất, hay bất đồng vị mà làm cho
nhau tương khắc, tương phản với nhau. Cách cộng sự của người quân tử là thế.
Không phân tách hạng người cao kẻ hạ, người giàu kẻ nghèo, người khôn kẻ dại, bậc
quân tử tự hạ mình ngang hàng với kẻ khác, và giữ tánh như trước không để làm mất
niềm hòa khí giữa mình và thiên hạ. Làm như vậy là vì ích lợi chung, tạo được
cái hòa, tức là tạo cái yên cho quốc gia, cho xã hội.
Tiểu nhơn, ví như làm một giống để ăn cũng có ngũ vị
nhưng mà mặn không hòa với cay, chua không hòa với đắng, hễ mặn thì dắt nhau
thiệt mặn, cay thì hiệp với nhau rất cay. Đồng thì có đồng thiệt mà không hòa
được. Cách cộng sự của tiểu nhơn là thế. Chỉ trọng về tư lợi, kẻ tiểu nhơn mượn
cái lượng làm thế lực, chớ không san bằng giá trị tuyệt đối của sự vật; cho nên
trong cách xử sự hoặc thái quá hoặc bất cập, có thể đi tới bạo phát, nhưng rồi
lại bạo tàn vì chỗ bất hòa mà ra.
Xưa nay trong xã hội, sở dĩ bất hòa là nguyên nhân vì
bất quân (không cân bằng), và hễ bất quân thì bất yên. Nếu không biết xử sự tiếp
vật cho công bằng, thì trong xã hội đó người giàu hiếp người nghèo, kẻ mạnh lấn
kẻ yếu, đứa khôn lừa đứa dại, tức giận người giàu, kẻ mạnh, đứa khôn, tất nhiên
sinh ra bất hòa. Bất hòa rồi thù oán nhau, mới tìm phương sát hại nhau, thì xã
hội hay quốc gia làm thế nào ở yên cho được.
Quân tử sợ loạn nên chuyên chữ hòa, còn tiểu nhân sợ
hòa rồi thất lợi. Hai tư tưởng, hai cử chỉ khác nhau mà chung quy phần thắng về
quân tử.
Trong cửa Đạo là cửa hằng ngày Hội Thánh quyết sách vận
trù để tìm chơn pháp trừ mị diệt tà, hầu dìu dẫn nhơn sanh và quy cả thiện
lương vào nơi đại đồng, thì không thể áp dụng cái thuyết "Đồng nhi bất hòa" của "tiểu nhơn" hay "hòa
nhi bất đồng" của "quân tử".
Trái lại phải kiêm cả chữ Hòa và Đồng đặng đôi bên phò trì cho nhau mới đi đến
đích.
Khác với đời là như thế, và được như thế mới đạt đạo
lý làm người trong cửa Đạo. Vậy thì phải thi hành chánh sách gì? Ắt phải cư xử
mọi việc cho công bằng ấy là hòa và thương yêu dung chế nhau ấy là đồng.
Hòa thời thật hòa, vì không còn so hơn tính thiệt,
ganh hiền ghét ngỏ mưu hại lẫn nhau. Đồng thời thật đồng, coi người như ta, coi
ta như người. Không phân giai cấp, không riêng sắc tóc màu da, và chẳng hề rời
bỏ nhau cho đặng. Đại Đạo hoằng khai giữa thời đại nhơn sanh tác loạn, chỉ có bấy
nhiêu đó thôi.
TRI VÀ HÀNH
Tri là biết - Hành là làm!
Trên con đường học vấn, chẳng phải đọc sách cho thuộc
học chữ cho làu, gọi là học được. Tất phải phát minh ý tứ của sách ở ngoài mặt
chữ mới gọi rằng biết đọc sách.
Học cho rộng hiểu, rèn luyện cho đa kiến, đa văn là về
phần Tri, còn cẩn thận từng lời nói, từng việc làm, là về phần Hành. Nói mà
không bị người ta chỉ trích chê cười, làm mà không có một điều gì phải ăn năn hối
tiếc, ấy là kết quả công trình học vấn.
Muốn thâu thập kết quả ấy, tất cần trau chuốt về phần
Tri cũng như phần Hành cho cực hay, cực mỹ mới thôi.
Kinh Thi rằng: "Như
thiết như tha, như trác như ma".
Cứ theo mặt chữ mà thích nghĩa thì Thiết là cắt, Tha
là giũa, Trác là xẻ, Ma là mài.
Đã cắt thành miếng rồi còn phải giữ cho trơn cho láng,
như thợ làm đồ xương chẳng hạn.
Đã xẻ đá đặng lấy ngọc rồi còn mài ngọc cho sáng cho
tinh, như thợ làm đồ trang sức châu ngọc. Cái vật đã tốt còn cầu cho tinh mới
nên của quý.
Tuy có 8 chữ trong kinh Thi mà hàm súc ý nghĩa rất cao
xa: hễ biết rồi còn tìm cho đến cùng cái sức lực trong việc làm mới thiệt làm.
Bởi vậy cho nên càng hiếu học thì càng thêm hiểu rộng, càng dò càng thấy sâu và
cứ tiến mãi mới đạt hết lý.
Lấy cái khiếu biết (Tri) mà xem xét sự vật rồi lấy con
mắt tinh thần mà xem xét cho đến chỗ tinh thần của sự việc chừng ấy mới thấy rõ
chơn hình chơn tướng của sự vật. Quán triệt rồi liền xoay qua phần làm (Hành).
Trong sự làm cần yếu là dẹp cái tư tâm, bỏ cái tư dục, thì không bao giờ sai lầm.
Ví dụ bàn về sự giàu nghèo của thiên hạ, Thầy Tử Cống
cho rằng: Nghèo mà không nịnh hót, giàu mà không kiêu hãnh (bần nhi vô siểm,
phú nhi vô kiêu) là hay rồi. Đến lúc gặp Đức Phu Tử, Ngài vấn về bần phú, Đức
Thánh đáp rằng: Nghèo mà vui, giàu mà giữ lễ (Bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ).
Thầy Tử Cống nghe rồi thốt nhiên tỉnh ngộ và phát minh
ra được đạo lý dường ấy còn hay hơn nhiều.
Nghèo mà không nịnh hót, đó là Thiết mà thôi, nhưng
còn phải vui nghèo nữa kìa, đấy mới là Tha.
Giàu mà không kiêu hãnh, đó là Trác mà thôi, nhưng còn
phải thủ lễ nữa kìa, đấy mới là Ma.
Thiết với Trác, chỉ là một tầng công phu, còn phải
thêm nhiều công phu nữa là Tha với Ma mới đến chỗ tinh mỹ.
Tổng luận:
Tri cái nghèo cái giàu mà Hành, cái nghèo cái giàu cho
đến chỗ tinh thần tuyệt diệu của nó mới thiệt Tri và Hành. Chừng ấy người học Đạo
mới tịnh tiến con đường tự lập.
BỔN PHẬN ĐỐI VỚI
GIA ĐÌNH
-----ooo-----
Bổn phận làm
cha và làm con
Làm cha phải
lành (Từ)
Làm con phải
thảo (Hiếu)
Vi “nhơn phụ chỉ ư từ”. Chữ Từ (lành) chỉ về nghĩa vụ
người làm cha mẹ phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy dỗ cho nên người hữu dụng.
Người cha mẹ lành cũng khuyên con răn con tức là làm thế nào để cho con biết bỏ
cái dở, để theo cái hay chớ chẳng phải lành là để cho con tự do hành động. Tại
sao người cha không để cho con tự do hành động? Bởi vì con còn thơ ấu, trẻ lòng
non dạ, nói tóm là con chưa đủ sáng suốt để phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh
thần cứng rắn để vượt qua những trận thử thách những gì vật dục cám dỗ, vậy nên
người cha phải dìu dắt con trên đường đạo đức quang minh.
Đối với con, cha mẹ cũng có quyền lợi như nhờ con nuôi
dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đỡ việc nặng nề. Cổ nhơn nói: Dưỡng nhi đãi lão
(Nuôi con nhờ lúc về già). Nhưng cha mẹ muốn dùng quyền lợi ấy trước phải làm
xong nghĩa vụ của mình. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tròn bổn phận mình mà cứ
sai con, mắng con, như thế là thất phận làm cha mẹ.
Vì “nhơn tử chỉ ư hiếu” hiếu thảo là Đạo làm con, chẳng
những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó là bổn phận chánh của mình
nữa. Cổ nhơn nói: “Nhơn sanh bách hạnh, hiếu vi tiên”. Người ta có trăm nết,
song hiếu đứng đầu.
Tại sao người ta phải hiếu với cha mẹ.
Ôi! Công sanh thành dưỡng dục kể bao nhiêu cho hết,
nào là mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, ẩm bồng, nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra. Còn cha lại phải dày công dạy dỗ và cực nhọc làm lụng cho có tiền để
nuôi con dầu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha không hề thối
bước, công cha như núi Thái Sơn. Công cha nghĩa mẹ như thế, hỏi vậy ở đời có
người nào mà chẳng thương mến chăng? Ắt không. Nhưng thương mến chưa đủ, nghĩa
vụ bắt buộc người con phải làm cho tròn đạo hiếu.
Thực hành đạo hiếu, trước nhứt phải nuôi cha mẹ, sự
nuôi ấy cốt ở lòng thành kính, nghĩa là giàu nuôi theo giàu, nghèo nuôi theo
nghèo, ngoài miếng ăn uống, manh quần tấm áo, con phải hết lòng vui vẻ trong phận
sự, để cho cha mẹ vừa lòng.
Một hôm Thầy Tử Du hỏi chữ Hiếu, Đức Khổng Phu Tử đáp:
“Ngày nay, người ta báo hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng đến như giống chó ngựa
kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không thành kính thì lấy gì để phân
biệt”.
Xem đó thì đủ biết nuôi cha mẹ quý tại lòng thành
kính. Chẳng nên bắt chước câu “Giàu thì đặng thảo ngay, nghèo thì mất trung hiếu”.
Lời ấy chẳng qua là nói để che lỗi của mình mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu “Nhà
nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết trung thần”. Từ xưa những gương
trung hiếu tiết liệt phần nhiều do ở trong những nhà nghèo sanh ra vậy.
Khi ở chung với cha mẹ, chẳng nên làm buồn cha mẹ, nếu
mình có việc buồn riêng, và cũng chẳng nên tỏ giận hờn cho cha mẹ thấy nữa. Nếu
cha mẹ có quở trách, thì giữ sắc thái điềm nhiên lo xét mình mà chữa lỗi.
Cha mẹ già phải coi chừng sức khoẻ, nghĩa là nuôi cha
mẹ phải xem đến chỗ chưa nói kia. Tại sao? Bởi vì có nhiều khi cha mẹ sợ con lo
buồn mà chẳng tỏ ra việc người cần đến.
Cha mẹ sanh tiền chẳng đi xa, nếu cần phải vắng mặt
thì phải cho biết chỗ, cha mẹ khỏi lo lắng cho mình, và để người ta tìm cho dễ.
Khi cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy Thầy, chính mình phải
lo liệu mọi phương. Biết đâu người khác, vì sơ sót, họ làm thêm bệnh cho cha mẹ
mình. Bình nhựt cũng xem chừng nếu cha mẹ khoẻ thì mình vui mừng, mệt thì lo lắng.
Lòng hiếu thảo với cha mẹ, ai cũng có nhưng có một ít
người ham mê sắc dục, hoặc cậy có tiền của rồi sanh ngỗ nghịch. Vậy ai là người
làm con nên thận trọng bổn phận của mình.
Nhưng đạo hiếu không phải nhắm mắt phục tùng cha mẹ,
mà trái lại phải xem xét cái gì của cha mẹ đã làm, nếu hay thì theo, còn lầm lỗi
thì ôn tồn mà khuyên can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe, thì lại kính mà không
trái lễ, nghĩa là lẳng lặng lựa cách nói cha mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi, có
khi cha mẹ giận mà đánh đập cũng không oán giận.
Khi cha mẹ qua đời thì phải tang chế, Tân Luật Đại Đạo
định rằng việc tang chế không nên xa xỉ, không nên để lâu ngày, không nên dùng
đồ âm công loè loẹt, không nên đãi đằng rần rộ, mà mất sự nghiêm tịnh và dấu bi
ai.
Đức Khổng Phu Tử cho sự thờ cha mẹ rất hiếu “Kính kỳ sở
tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã”
(Kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ
cha mẹ lúc chết rồi cũng như khi còn sống, lúc mất rồi cũng như lúc còn ấy là
hiếu rất mực vậy). Theo đó mà suy ra thì khi cha mẹ chết rồi, kẻ làm con phải
chuyên tâm tri ý làm tròn bổn phận cũng như cha mẹ sống tại tiền.
Bổn phận làm anh chị và làm em Huynh tắc để, đệ tắc
cung.
Anh em, chị em đồng thọ sanh nơi một cha mẹ, tục ngữ
nói: "Một cục máu xắn ra làm năm ba".
Đồng cốt nhục, đồng bào thai cho nên tình thân mật không ai bằng anh em, chị
em. Từ lúc nhỏ dại ở chung một nhà, ăn một mâm, nằm một chiếu, vui có nhau, buồn
có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau như một. Vậy cái tình thương yêu khắng
khít ở giữa anh chị và em không tình nào hơn được.
Muốn giữ gìn cái tình máu mủ ấy mãi mãi thì người anh
chị phải biết bổn phận mình là thuận yêu, kẻ làm em phải biết bổn phận mình là
cung kính.
Khi cha mẹ vắng mặt, người anh chị có quyền thay thế
cha mẹ, nghĩa là người anh chị phải làm tròn nghĩa vụ của mình là thế phụ, tức
là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em, cổ nhơn thường khuyên nhau rằng trước
phải làm nghĩa vụ rồi sau mới dùng quyền lợi.
Lúc thành nhơn, mỗi người đều có gia đình anh em, chị
em cũng phải giữ cái tình cốt nhục duy nhứt ấy, mãi từ khi tóc xanh đến lúc đầu
bạc, nghĩa là phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau việc nhỏ cũng như việc lớn. Phải
tránh những tiếng to tiếng nhỏ của vợ con hay chồng con. Theo thường tình những
anh em chồng chị dâu, hay em rể anh ruột, hay chinh nghiêng lẫn nhau trong những
việc nhỏ mọn. Bổn phận anh chị hay em phải sáng suốt mà phân định, để tránh cái
vạ chia ly. Anh chị em là di hài của cha mẹ, bất hòa là phá hoại cái di hài ấy.
Anh chị em như chân tay bất hòa là chia lìa thủ túc.
Người nào xử được đạo hiếu để nghiêm trọng thì người ấy
có tinh thần hòa kỉnh. Hiếu thuận là gốc đạo xử thế, ấy vậy nên người trọn thảo
thuận thì có lòng trung quân ái chúng.
Bổn phận con cháu đối với ông bà.
Ông bà là Đấng sinh thành dưỡng dục cha mẹ, lại là Đấng
cha mẹ thương mến quý trọng. Đạo hiếu buộc người làm con phải kính trọng những
người mà cha mẹ thâm giao. Ấy đó là những người bàng quan mà còn xử trí như thế
huống chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ chúng ta mà chúng ta lại dể duôi sao?
Vậy khi ông bà sanh tiền chúng ta phải thay mặt cho
cha mẹ chăm nom ông bà, những việc nào mà chúng ta có thể làm được. Còn khi ông
bà qua đời thì lại thay mặt cho cha mẹ mà thờ phượng cúng tế ông bà.
Thờ phượng cúng tế ông bà, là lễ tỏ lòng tôn kính nguồn
gốc sinh thành dưỡng dục. Lòng tôn kính ấy nơi người Việt Nam theo Nho giáo thường
phát biểu với một phương thức trang nghiêm.
Ngày tế tự cả gia tộc về nhà thờ để lo việc tế lễ. Hai
ngày tiên thường và chánh giỗ những người họ hàng vui vầy, có khi nhắc lại sự
tích Tổ Tiên, có lúc hỏi việc hàn huyên gia tộc. Giờ cúng tế mỗi người đều có
lòng thành kính rất mực. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ họ cúi đầu tỏ vẻ
sợ sệt, dường như ông bà đang ngự trên chỗ sở tôn. Giờ tế lễ ấy, hoàn cảnh yên
lặng, người Trưởng Tộc hành lễ, rồi đến con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang
nghiêm.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giữ nguyên vẹn các lễ thờ cúng
ông bà đó. Vả chăng, Đạo hữu đã sẵn có đạo tâm, nay đem lòng thành kính ấy mà
thờ cúng ông bà, thì có lẽ cái phong tục cổ truyền sẽ được tăng thêm phần thuần
mỹ nữa.
Bổn phận làm chồng và làm vợ Chồng hòa vợ thuận.
Trai lớn thì có vợ, gái lớn thì có chồng. Người ở đời
phải có đôi có bạn rồi sau mới lập được gia đình. Cái định luật ấy từ xưa đến
nay vẫn không thay đổi. Trong đạo vợ chồng, có điều tốt nhứt là hai người ấy được
thuận hòa, ăn ở với nhau từ tóc xanh đến khi đầu bạc. Mà muốn được vậy, thì mỗi
người phải biết bổn phận của mình và phải hành vi trong phạm vi ấy.
Chồng là rường cột của gia đình, phải đảm đương mọi việc
bên ngoài, để tạo hạnh phúc gia đình, nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền
nuôi dưỡng gia đình no ấm, kế đó sẽ nói đến việc lễ nghi đạo đức, tức là bàn đến
việc dạy dỗ. Cổ nhân nói: “Giáo phụ sơ khai, giáo tử anh hài”. Nghĩa là: Phải dạy
vợ lúc ban sơ, phải dạy con lúc thơ ấu. Mà muốn dạy người trước phải sửa mình,
để làm gương. Giả tỷ như chồng biếng nhác, không lo làm ăn, quanh năm cứ lêu lổng,
chơi bời, cờ bạc. Chồng như thế mà bảo vợ nên người, thì không thể được, cha
như thế, mà bảo con đừng đánh bài thì cũng không sao được. Người chồng chẳng những
phải lo làm lụng để tạo hạnh phúc cho gia đình, mà còn phải có tinh thần hòa ái
nữa.
Về tâm lý, nên biết rằng vợ là bạn trăm năm, được cha
mẹ lựa chọn, họ là người yếu đuối, nương dựa nơi mình, gởi thân cho mình để
cùng nhau chung lo việc trăm năm gia thất. Hơn nữa, vợ chồng lại là người đầu ấp
tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung buồn, nghèo chung chịu, giàu chung
hưởng. Lòng có nghĩ như thế, thì mới có dạ yêu thương mà đùm bọc nhau.
Người chồng có quyền khuyên lơn dứt bẩn người vợ,
nhưng trước phải làm xong nghĩa vụ của mình như đã nói trên, rồi sau mới dụng đến
quyền. Tuy nói rằng có quyền nhưng người chồng lúc nào cũng lấy tinh thần hòa
ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dứt bẩn người vợ, thì cũng chỉ trong vòng lễ
nghi hòa ái, chớ không phải đang tay đánh đập vũ phu.
Người vợ phải có tinh thần thuận tùng, nghĩa là phải
biết dung hòa với chồng, để tạo nên hạnh phúc gia đình. Bát trong sóng còn động,
huống chi vợ chồng ăn ở nhau cả đời, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng
ý kiến. Giả tỷ như có xảy ra việc như thế, thì vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau,
chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, để phân trần điều hơn lẽ thiệt. Nên tương
ý, tương ý mà sanh sống trong vòng lễ nghi đạo đức. Chẳng nên bắt chước phường
hỗn ẩu chồng một lời đi thì vợ dăm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất hòa. Chồng
vợ bất hòa thì gia đình tan nát.
Phận gái trọng nhất là trinh tiết, bởi vậy người phụ nữ
có thân phải giữ lấy thân, càng ngày phải càng làm tăng giá trị của mình thêm nữa
lên cao mãi. Tiên Nho có câu: “Đi ngang đám dưa không nên sửa dép, đi dưới cây
lý không nên gãi đầu”. Đại ý câu này khuyên người ta những hành vi ăn nói đứng
đi trang hoàng, nhứt là phải tránh cử chỉ nào làm người khác ngờ vực, cũng như
đi qua đám dưa không nên sửa dép, hoặc đi dưới cây lý không nên gãi đầu, vì làm
như thế người ta ngờ rằng mình bẻ trộm dưa hay hái trộm lý.
Tề gia là bổn phận của đàn bà, cho nên người vợ phải
chăm lo việc nhà, thiếu đủ phải biết, còn hết thì phải hay, sắp đặt đâu đó an
bài, ăn cần ở kiệm, phải biết trọng tiền của chồng làm ra là cực nhọc, Tục ngữ
có câu: "ăn nhịn qua ngày ăn vay mắc
nợ". Của chồng công vợ, chồng vợ cộng tác để tạo hạnh phúc cho gia
đình.
Tóm lại, đạo vợ chồng cốt nhứt là phải thuận hòa, chồng
chẳng nên ỷ quyền mà hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế mà hỗn ẩu với chồng. Đồng
vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn.
Tân Luật Đại Đạo nói: "Hôn nhơn là việc rất quan trọng trong đời người, phải chọn hôn
trong người đồng Đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn, thì mới kết
làm giai ngẫu". Đó là có ý ngừa sự bất trắc về sau.
Tân Luật lại cấm người đàn ông không được cưới hầu thiếp,
rủi có chích lẻ giữa đường mới được chắp nối. Thoảng như vợ lớn không con nối hậu,
thì được phép cưới thiếp, song chính mình chánh thê mới đặng. Người Đạo chẳng
được để bỏ nhau, trừ ra tội ngoại tình hay thất hiếu với công cô.
Bổn phận đối với cậu cô chú bác.
Cậu cô, chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ, kẻ làm
cháu chẳng những phải yêu mến, mà còn quí trọng như cha mẹ vậy. Nếu vô phước mồ
côi, thì chính cậu, cô chú bác là người thay mặt cho cha mẹ nuôi mình. Đó đủ thấy
rằng con cháu phải thương mến quý trọng cậu cô chú bác như cha mẹ.
Khi thành gia thất rồi, tự nhiên ai cũng có cậu cô chú
bác bên chồng cũng như bên vợ. Kẻ làm con cháu cũng không vì lẽ gì mà không
thân ái với những người ấy.
NGŨ THƯỜNG
Ngũ thường là năm đức thường của người ta là Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, kế đây sẽ giảng rộng ra.
Nhân: Người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm
lành, để làm tự tánh của mình, người đời gọi đó là nguồn Thiên lý ở trong người.
Nhân là cái phát động của Thiên lý ấy, cho nên cổ nhơn nói: “Nhân” là hột giống
hóa sanh cái đức tính tốt.
Chữ Nhân đem ứng dụng vào đời sống thì nó gồm tất cả
nghĩa vụ làm người, thành thử có câu nói: "Nhân
là Đạo người" (Nhân giả nhơn dã). Vậy thi hành chữ "Nhân" là áp dụng Thiên lý vào
đời sống thực tế. Thế nên muốn làm Nhân thì phải giữ lòng cho sạch, nghĩa là chẳng
cho tư dục xen vào Tâm, để cho nguồn Thiên lý ở trong tâm ung dung phát triển
theo lẽ tự nhiên của nó, rồi người ta cứ theo đó mà làm cho hết bổn phận của
mình, đó là làm "Nhân" vậy.
Còn như muốn biết rộng ra nữa thì chúng ta nên xem cổ nhơn dạy phương pháp làm "Nhân" như sau:
- Có người hỏi phương thức làm Nhân là thế nào thì Đức
Khổng Tử nói: "Kỷ dục lập nhi lập
nhơn, kỷ dục đạt nhi đạt nhơn. Năng cận thủ tỷ khả vị nhân chi phương". (nghĩa là mình muốn lập thân thế nào thì giúp người
cùng lập thân như mình, mình muốn thông đạt đến đâu thì cũng giúp người cùng
thông đạt như mình. Ai hay làm những điều đó là Nhân vậy).
Chữ Nhân có gồm cái nghĩa thương người, mến vật, cho
nên chỗ tác dụng của nó là "Ái"
về sau người ta thường dùng hai chữ "Nhân
Ái" lẫn nhau.
Vậy thực hành đạo "Nhân"
là người và ta thương yêu, giúp đỡ nhau trên đường Đời cũng như trên đường Đạo.
hoặc nói: đó là chánh kỷ hóa nhơn cũng được.
Thầy Tử Trương hỏi Nhân, Đức Khổng Tử nói: "Hãy làm năm điều trong thiên hạ là
Nhân, rằng: Cung, Khoan, Tín, Mẫn và Huệ"
Cung thì không khinh lờn, Khoan thì được lòng người,
Tín thì được người tin cậy, Mẫn thì có công, Huệ thì đủ khiến được người.
Người có nhân lúc nào cũng bình tĩnh, yên lặng tự
nhiên như nhiên mà lòng sẵn có một năng lực trực giác mẫn tiệp. Phàm có việc gì
đến thì họ biết ngay và họ làm sự gì cũng thích hợp với đạo lý.
Họ thật thà chất phác và giàu tình cảm tốt. Họ hay
thương người, hay mến vật, đối với gia đình thì hiếu đễ, đối với xã hội thì thuận
hòa. Họ thường thực hành câu: "Việc
gì mình không muốn thì chẳng làm với người". Chữ Nhân đây lại gồm cái
ý nghĩa sáng suốt, cho nên cái thương, cái ghét của người có Nhân đều hạp với
Thiên lý.
Tóm lại, chữ Nhân bao hàm cả đạo làm người mà rút lại
thì thể theo đức lớn của Trời là sự sanh hóa mà làm. Ấy vậy kẻ làm Nhân trên
thuận lẽ Trời, dưới an vui cùng chúng vật và sự hành vi lại khích lệ theo nền tảng
"Thiên địa vạn vật nhứt thể".
Còn việc giàu nghèo, sang hèn, thì phú cho thiên mạng, chớ không vọng cầu mà thất
đạo lý.
PHẦN HÀNH
CHÁNH ĐẠO
HÀNH CHÁNH ĐẠO
Thích nghĩa Hành Chánh Đạo:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ căn cứ trên Pháp Chánh Truyền và
Tân Luật làm nền tảng vững chắc để tận độ chúng sanh thoát vòng thống khổ trong
đời mạc kiếp này.
Điều trọng yếu của Chánh Pháp hay Pháp Chánh Truyền
cũng gọi là Chơn Truyền, là do Đức Chí Tôn giảng dạy thì không một ai dưới thế
này được phép sửa cải.
Điều quan hệ của Tân Luật là do nhơn sanh lập thành và
Đức Chí Tôn phê chuẩn vốn có hiệu lực ở hạ giới, ngang hàng với Thiên điều ở
Thượng giới.
Tự mình lập luật làm mực thước để kềm chế lấy mình
trong đường tu luyện, thì nhơn sanh không còn lòng than rằng luật ấy quá nghiêm
khắc, rồi chán nản hoặc viện lý do quá rẻ nên dể duôi, song le, vào buổi tương
lai nếu cần vì nhu cầu và tiến hóa của nhơn sanh, luật lệ hiện hành có thể gia
giảm hay canh tân, nhưng phải có nhơn sanh cầu xin mới được.
Hiện giờ luật pháp càng được quý trọng bao nhiêu, thì
Đạo càng thêm trọng bấy nhiêu, và người hành Đạo càng thêm trọng là dường nào.
Vậy thì phải giữ gìn và bảo hộ Luật pháp cho khỏi thất kỳ truyền, và đó là
trách nhiệm của chư Chức Sắc đảm đương sứ mạng thể Thiên hành hóa, tức là chư vị
có chơn trong Hội Thánh đương kiêm cầm quyền Hành Chánh Đạo.
Hành Chánh Đạo phân tích từng chữ có nghĩa là:
Hành: làm (thi hành, tuân hành, phụng hành).
Chánh: góp các việc sắp đặt để sửa trị cho khỏi chênh
lệch.
Đạo: các việc sắp đặt trên đây phải thuận theo chơn lý
của Đại Đạo.
Hợp nghĩa lại thì Hành Chánh Đạo thì thi hành cho đúng
những qui điều đã ấn định trong Chơn Pháp, hầu điều độ chúng sanh quy về cửa Đạo
tránh bớt tội tình mà theo đường ngay chánh.
Cầm quyền Hành Chánh Đạo là thi hành cho đúng những
quy điều đã ấn định trong Chơn Pháp, hầu điều độ chúng sanh quy về cửa Đạo,
tránh bớt tội tình, mà theo đường ngay chánh.
Bảo thủ Chơn Pháp chẳng để cho Chánh Giáo trở nên Phàm
Giáo, thuộc về nhiệm vụ của Chức Sắc Hiệp Thiên Đài can hệ về phần tinh thần là
phần Đạo.
Thiết nghĩ, Chức Sắc Cửu Trùng Đài được quyền sử dụng
những Luật Lệ do nhơn sanh lập thành đặng buộc nhơn sanh phải tuân hành, e có
khi hành quyền quá phận mà làm cho nhơn sanh thêm khổ hoặc thất Đạo. Vả lại Hội
Thánh Cửu Trùng Đài không nên quên rằng chính mình cũng phải dưới thực lực của
Luật lệ ấy, vì nó đã thành Thiên điều tại thế rồi.
Vì chữ quyền, mà có người trong bổn Đạo còn nặng phàm
tâm, tưởng rằng quyền ấy cho phép hà khắc là diệu kế để giáo nhơn quy thiện, rồi
một khi bất cẩn vụng về, quyền hà khắc phản khắc lại mình, thì trở tay không kịp.
Ở đây chữ quyền ở trong phạm vi đạo đức đễ giữ nét công bình, để gieo niềm hòa
ái, chớ chẳng làm điều gì khác. Bởi vậy Hội Thánh Hiệp Thiên Đài có trọng trách
nhắc nhở và chăm nom hành vi của Hội Thánh Cửu Trùng Đài chẳng để vi phạm chơn
truyền mà sanh loạn. Hội Thánh Cửu Trùng Đài nên tương liên mật thiết với Hội
Thánh Hiệp Thiên Đài đặng đôi bên tương đắc trên mọi hành tàng trong cơ phổ độ.
Được như thế thì vật chất là Đời phù hạp với tinh thần là Đạo, hay nói rõ hơn Cửu
Trùng Đài đồng tâm nhất trí với Hiệp Thiên Đài, tức là Đời nương Đạo và Đạo dìu
Đời, chừng ấy toàn Hội Thánh Lưỡng Đài dưới sự hộ trì của các Đấng Thiêng Liêng
sẽ có đủ năng lực tái tạo đời Thánh Đức.
Phương châm Hành Chánh Đạo gồm có 6 tiết chánh yếu như
sau:
1. - Thi hành Tân Luật.
2. - Thi hành Pháp Chánh Truyền và Bát Đạo Nghị Định.
3. - Thi hành Đạo Luật năm Mậu Dần (1938).
4. - Tòa Tam Giáo.
5. - Hội Công Đồng và Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông.
6. - Cách hành quyền đối với Đạo và Đời.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét