
Đức Chí Tôn đã
dạy:
" Những sự
phàm tục đều là mưu kế của Tà Mị Yêu Quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Ðạo
của các con. Những mưu quỉ quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con. Thầy đã
nói: Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé
các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề
thấy
đặng là đạo đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp
cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Ðạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích
cho thân các con, nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ; còn bỏ Ðạo
thì các con ở dưới phép Tà Thần."
Nhờ đạo đức, chúng ta chế phục thất tình, lục dục, chế
phục được tình dục, tức khỏi lo vướng phải lưới rập tà mị bủa giăng, tức là
tránh khỏi những điều cám dỗ.
Đạo đức là nguồn cội của sự sáng. Nhờ có đạo đức thần
trí được quang minh, thông tuệ. Thần trí được minh huệ, thì biết phán đoán giả
chơn và thấu đáo một phần nào lẽ huyền vi của Tạo hóa.
Lòng đạo đức vốn làm nòng cốt cho Thần Thánh, vì một
tư tưởng hay hành vi đạo đức luôn luôn vẫn được Thần Thánh chứng giám và hộ trì
cho. Lòng vô đạo đức tức có nét vạy tà, mà tâm tánh vạy tà là chỗ cho tà thần
xâm nhập để giục quấy thêm lên.
Đạo đức lại là chiếc thang tấn hóa đưa lần chúng ta
lên tột phẩm vị Thiêng Liêng. Bước đặng một nấc tức đặng một phẩm cao. Bước đến
một nấc thang tức là đến cõi hoàn toàn chí thiện tức đến cõi Thượng Đế vậy.
MỤC ĐÍCH ĐỜI
NGƯỜI
Nếu con người sanh trên thế này chỉ để hưởng những
khoái lạc về vật chất, để bận rộn cho kiếp sống còn, rồi giàu cũng như nghèo, sang
cũng như hèn, đều mai một dưới vuông huỳnh thổ, như thế thì kiếp người có chi
mà đáng kể.
Không! Kiếp sống con người đâu phải giới hạn từ lúc sơ
sanh đến khi nhắm mắt mà thôi đâu. Đó chỉ là một giai đoạn của kiếp sống hoàn
toàn. Kiếp sống hoàn toàn của con người là nguồn hằng sống, là kiếp sống muôn đời
vĩnh viễn, trải qua nhiều giai đoạn mà tôn giáo gọi là kiếp tái sanh, hay luân
hồi chuyển kiếp.
Thác sanh xuống cõi trần, ta được Thượng Đế ban cho
nhiều tiềm lực quý hóa, nhiều hoài bão vô biên. Bổn phận ta là lo phát triển những
tiềm lực và thỏa mãn những hoài bão ấy. Từng kiếp tái sanh, tức từng giai đoạn
của kiếp sống vô biên, ta học hỏi, nghiên cứu, rút kinh nghiệm, ta đào luyện
tâm hồn trong đau khổ, trong thử thách cho nó tỏ ngộ thêm lên, ta tự tạo những
đức tánh cao siêu nhờ đó ta lần đến cõi chí thiện chí mỹ.
Thượng Đế ban cho ta đủ phương tiện phụng sự Ngài
trong cuộc đại hóa. Thế là ta hân hạnh được dự phần sử dụng luật Tấn Hóa không
ngừng. Ta vạch cho nhơn loại một vòng chân trời trong sáng; ta an ủi những tâm
hồn đau khổ, ta cảnh giác những tâm hồn tội lỗi, để đưa lần những tâm hồn ấy
lên chỗ thanh cao là nơi chói lọi ánh huy hoàng của sự Thật, sự Lành và sự Đẹp
(Chân Thiện Mỹ) là một công trình vĩ đại, là một sự cải tạo tinh thần.
Trong việc phụng sự nhơn sinh, tức phụng sự Thượng Đế ấy
ta tự thấy nhiều thỏa thích hơn là sống một cuộc đời ích kỷ, khô khan, vô vị,
còn gì quý hóa bằng gieo rắc trong tâm hồn người những hạt giống từ thiện, công
bình, bác ái, để rồi gặt hái những hoa thơm trái đẹp giúp cho nhu cầu của một đời
sống tinh thần đạo đức?
Ta hãy ngước lên nhìn bao quát cái viễn ảnh tốt đẹp của
tương lai ta, để giữ vững đức tin, để đủ can đảm cùng nghị lực chống lại những
mưa gió bão bùng bất trắc của cỏi đời vật chất. Ta hãy thận trọng từng bước một
để đi lần đến những đỉnh cao vót mà đời gọi là Đạo Đức, Nghĩa Vụ và Hi Sinh.
Ta chẳng nên hẫng hờ dừng bước ngắm xem những hoa đồng
cỏ nội, không một hương vị gì đáng kể.
Ta nên biết rằng từ cái gì đẹp đẽ và quyến rủ, cho đến
những tinh cầu vĩ đại trong Càn khôn Vũ trụ sẽ đều tiêu tan, nhường chỗ cho cái
gì khác mới và quí hơn. Duy có linh hồn ta là hằng sống, Nó tiến và tiến mãi,
qua cả thời gian và không gian, như một khách lữ hành trên con đường muôn dặm,
để rồi sẽ đến đích cuối cùng là hoàn toàn giải thoát.
Mục đích đời người là thế.
GIỚI
Giới là những điều răn cấm phải giữ, những điều luật
phải tuân, để tu dưỡng cho trúng đích. Cho nên trong Đạo có ngũ giới cho thiện
nam, tín nữ giữ phận tu hành.
Ngũ giới là cấm sát sanh (không giết hại), cấm du dạo
(không trộm cắp), cấm tà dâm (không dâm dục bậy bạ), cấm vọng ngữ (không nói dối
nói bịa), cấm tửu nhục (không rượu thịt).
Bực tu hành mà giữ trọn giới cấm thì lòng được trong sạch
và trống không, chẳng còn vọng tưởng đến việc phàm trần khoái lạc. Lòng được sạch
trống không thì ý tưởng mới hết tham sân, ý tưởng hết tham sân thì hết phát khởi
nơi tâm những vọng niệm sát sanh, đạo tặc, tà dâm, nơi cửa miệng không còn thốt
ra những lời giả dối, gạt gẫm hoặc vu khống người khác.
Tóm lại, giữ được giới cấm là tránh được "tam nghiệp là: ý nghiệp, thân nghiệp
và khẩu nghiệp", tức là dứt bỏ được ba mối chướng ngại, làm cho con
người phải chịu luân trầm trong biển khổ, sông mê.
Từ xưa đến nay, lịch sử thường ghi chép biết bao tội
ác của loài người mà nguyên nhân chung là bởi không biết giữ được những điều
răn cấm ấy mà ra vậy.
Phàm, tâm tánh con người vốn của Trời phú cho nhưng
tình dục lại do chỗ cảm xúc ngoại vật mà phát sanh. Tình dục là mối dây oan
nghiệt trói con người trong vòng Nhơn dục mà xa Thiên lý. Vậy muốn trở lại con
đường Thiên lý, trước phải khép chặt lục căn, không cho lục trần dấy động. Phải
giữ cho được mắt chay, tai chay, mũi chay, lưỡi chay, thân chay, ý chay, tức là
"Lục trai" đó.
Lục căn chay tịnh rồi thì lục trần hết chỗ dựa, tự
nhiên tiêu diệt. Đó là phép "chánh bổn
thanh nguyên" nghĩa là: sửa gốc cho thẳng thì ngọn tất thẳng, làm nguồn
trong thì nước tất trong.
Song lẽ đó chỉ là dẹp giặc bên ngoài, còn Tâm thì giặc
bên trong cần phải chay mới được.
Tâm chay có nghĩa là tâm phải phủi sạch trần duyên,
Tâm mà tham muốn lợi danh, tức bị lợi danh ràng buộc. Sự ham muốn vốn thiên
hình vạn trạng, nhưng tóm lại là ở lòng tham sống, lòng tham sống thúc đẩy con
người quyến luyến hồng trần quay cuồng trong vòng sa mê vật chất, tự tạo khổ
cho mình mà không tự biết.
Nếu biết thâu cái vọng tâm lại đừng cho nó phóng túng
ra thiên hình vạn trạng thì có gì là khổ nữa đâu?
Cái tâm mà không ham muốn, không tưởng, không lo thì
ngoại vật hết thâm nhập, mà nội niệm cũng không sanh được.
Tâm có mà như không, ấy là sắc tức thị không, mà tâm
trần chết thì tâm đạo phát sanh, ấy là không tức thị sắc.
Việc tu hành cốt yếu là trau cái tâm cho trong sạch, hầu
ngày sau được tiêu diêu tự tại nơi Niết Bàn Cực Lạc. Nay ta còn chen lấn trong
trần tục, mà giữ được Tâm chay tức là gặp Niết Bàn tại thế vậy.
ĐỊNH
Định: Giặc bên ngoài đã dẹp, giặc bên trong hết dậy đó
là đến thời kỳ “xây dựng”, tức Thiền định.
Thiền định đại khái là ngồi yên lặng, chú tâm vào một
chỗ mà suy ngẫm đạo lý nhiệm màu.
Thiền định có nhiều cách, nhiều bực, khởi đầu là tập
trung tư tưởng, nghĩa là luôn luôn chú tâm tư tưởng vào một vật, không giây
phút nào xao lãng. Cách tập ấy rất khó khăn, vì trí người thường bông lông bất
định, đương tưởng việc nầy chưa xong lại bắt tưởng qua việc khác.
Vì ý và tâm khó câu thúc như ngựa và vượn chạy nhảy
phóng túng và leo trèo lăng xăng nên nhà Phật gọi là "ý mã tâm viên".
Tập trung tư tưởng không khác nào cầm cương ngựa chứng,
càng kềm thúc, nó càng hung hăng nhảy đá. Nhưng nếu bền công tập luyện đúng giờ
đúng khắc lâu ngày chầy tháng viên mãn công phu, thì thần trí mình được yên tịnh
vững vàng hết lau chau phóng túng.
Lúc bấy giờ mới nên bắt đầu nhập định. Trước nhứt phải
tập theo phương pháp hữu hình, nghĩa là lựa một vật hữu hình làm đối tượng rồi
suy cứu cho cùng tận đặng biết rõ vật ấy hình tượng thế nào, làm bằng chất gì,
công dụng ra sao, v.v...
Lần lần bắt qua tưởng gẫm một vật vô hình hoặc một vấn
đề triết lý cao thâm, siêu việt.
Về triết lý người ta nên tưởng gẫm những vấn đề về bác
ái, từ bi, sự chơn khoái lạc ở đời, cái nguồn cội và chỗ trược thanh của muôn vật
Được công phu đầy đủ về phép thiền định vô hình rồi,
người ta mới tập qua phép "vô vi đại
định".
Đại định thời không tưởng điều chi nữa hết mà cứ để thần
trí yên lặng hư không, không còn chấp trước, mà hễ hết chấp trước cảnh vui tức
là hết sanh mừng, cũng như hết chấp trước cảnh khổ thì hết sanh buồn bực v.v...
HUỆ
Huệ: Giữ được "tịnh tự" như vậy rồi "định lực" mới phát triển sanh Huệ.
Huệ là gì? Là cái trí huệ, cái tinh mẫn khôn ngoan nhờ
đó mà diệt được "vô minh"
thấy rõ cái chơn tướng, cái hiện tượng quá khứ, hiện tại và vị lai của muôn vật.
Cái Huệ nhà Phật gọi là "bát nhã".
Nhờ cái Huệ người tu mới đưa mình qua bên kia bờ Đạo (giác ngạn) nên cũng gọi
là "Bát nhã ba la mật đa"
(prajnaparamita).
Trí Huệ vốn khác Trí Thức: Phàm việc chi có học hỏi mới
biết là nhờ Trí Thức nên gọi là Thế Trí, không học mà biết tự nhiên là nhờ Trí
Huệ nên gọi là Xuất Thế Trí.
Chúng ta từng thấy trong giới tu hành, có người tuy học
lực tầm thường hoặc dốt nát, nhưng đạo lý cao thâm, luận thuyết siêu thường,
khiến người có trí thức phải đem lòng thán phục, đó là nhờ phát Huệ vậy.
NGHĨA VỤ
Nghĩa vụ là bổn phận phải làm theo những nghĩa lý ở đời.
Bất cứ người nào cũng phải có nghĩa vụ. Mặc dù, đối với việc thiện hay việc ác,
ta tự do muốn làm hay không làm tùy ý, nhưng nghĩa vụ buộc ta phải làm việc nọ,
tránh việc kia.
Ví dụ đi đường ta thấy một đứa bé vấp ngã không ngồi dậy
được, ta có thể làm lơ bỏ đi vì có ai buộc ta đỡ nó dậy đâu, nhưng ta không nỡ
bỏ đi, rồi ta lại đỡ nó dậy, và xem nó có bị thương hay không, hầu tìm phương cứu
cấp. Hành động ấy chính do nghĩa vụ thúc đẩy ta làm.
Một ví dụ khác: Hai người đi dọc bờ sông thấy một kẻ
té xuống đó. Hai người ấy trong lúc bất cập, họ không cần suy nghĩ, và cũng
không ai bảo ai, đồng nhảy xuống sông vớt người lâm nạn lên. Đó là họ biết trọng
tinh thần nghĩa vụ. Hơn nữa cái tinh thần nghĩa vụ ấy tiến đến chỗ hi sinh tánh
mạng mình để cứu tánh mạng của kẻ khác.
Nếu mọi người biết làm tròn nghĩa vụ, mặc dầu không ai
buộc ai làm, thì ngoài xã hội sẽ không thấy cảnh trái tai gai mắt và bất công,
các ngành hoạt động xã hội sẽ không một giây phút nào ngưng trệ, và đời sống
con người cũng sẽ được dễ dàng.
Trong Đạo mà biết trọng tinh thần nghĩa vụ, thì mọi
công việc của Đạo sẽ được điều hòa và tiến mạnh trên đường phục vụ chúng sanh.
Chúng ta sẽ không còn đau lòng xem thấy những cảnh thờ ơ, lười biếng, những tâm
hồn uể oải, những việc làm cho lấy có nữa. Chừng đó thì đối nội chúng ta sẽ
không còn điều chi thắc mắc, vì guồng máy hành Đạo sẽ hoạt động điều hòa cùng một
nhịp. Đối ngoại chúng ta sẽ thâm nhập cảm tình của công chúng.
Đành rằng đối với tất cả người trong Đạo, nghĩa vụ có
chỗ khác nhau; nó phải tùy theo khả năng của mọi người. Nhưng nghĩa vụ nào cũng
cao cả, mà người làm tròn nghĩa vụ, bao giờ cũng thấy tâm hồn khoan khoái, và
lương tâm an tịnh. Đó là một phần thưởng vô hình, mà tất cả những phần thưởng hữu
hình trên thế gian nầy không bao giờ sánh bằng, nhứt là khi chúng ta làm tròn
nghĩa vụ giữa cơn sóng gió bão bùng, xuyên qua mọi thử thách gay go, và giữa cảnh
thăng trầm của Đạo.
Vốn có nhiều thứ nghĩa vụ: Nghĩa vụ đối với chính
mình, nghĩa vụ nầy buộc chúng ta phải biết tự trọng, biết kiềm chế lấy mình, để
thực thi những cái gì chánh đáng, cái gì tốt đẹp, cái gì hữu ích.
Nghĩa vụ đối với chức vụ buộc chúng ta phải làm tròn
cái trọng trách, cái Thiên mạng mà Ơn Trên giao phó cho chúng ta. Nghĩa vụ đối
với xã hội buộc chúng ta phải thương người mến vật và tận tâm phục vụ xứ sở và
nhơn sanh.
Còn nghĩa vụ đối với Thượng Đế thì vô bờ vô bến. Chúng
ta phải phục vụ Ngài với một tinh thần cao cả, đưa chúng ta đến chỗ xả thân. Vì
Thiên luật vạn vật trên thế gian này phải xả thân để giúp đời mà tấn hóa.
Khoáng vật xả thân cho thảo mộc tấn hóa, thảo mộc xả thân để giúp thú cầm tấn
hóa, rồi thú cầm cũng phải xả thân để giúp cho loài người mà tấn hóa thêm lên,
đến loài người cũng phải xả thân giúp đời để tấn hóa lên ngôi vị Tiên Phật.
Tóm lại, tinh thần nghĩa vụ là một định luật Thiêng
Liêng ngấm ngầm thúc đẩy con người vào những công tác lợi tha và hi sinh cho một
lý tưởng cao cả, để góp phần xây dựng đời sống tinh thần lẫn vật chất của con
người ngoài Đời cũng như trong Đạo.
KIẾP LUÂN HỒI
Điểm Linh Quang (Hồn) thác sanh xuống cõi phàm mục
đích để học hỏi kinh nghiệm và tấn hóa. Chuyển sanh xuống cõi sắc giới tất phải
mượn xác thân mà hành động. Càng hành động càng tạo nhơn. Tạo nhơn, linh hồn
tái sanh phải trả quả.
Theo Thánh giáo, kiếp luân hồi là sự tiến chuyển của
điểm Linh Quang, bắt đầu từ vật chất này chuyển qua vật chất khác; luân chuyển
trong muôn ngàn kiếp như vậy. Rồi bỏ vật chất tiến hóa lên thảo mộc, đoạn bắt đầu
từ thảo mộc mà chuyển lên bực thú cầm; thoát kiếp thú cầm mới đến kiếp nhơn loại.
Ấy vậy, vật chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại là loài hữu sanh nên gọi chung
là chúng sanh. Nhơn loại là bậc cao nhất trong loài chúng sanh, nên gọi là Thượng
Sanh. Đến kiếp người rồi linh hồn còn phải luân chuyển ngàn ngàn muôn muôn lần
nữa mới đến tột bực nhơn phẩm (Thượng Phẩm).
Nhơn phẩm trên mỗi địa cầu chia ra thành nhiều hạng.
Theo Thánh giáo địa cầu chúng ta ở là địa cầu 68. Thượng đẳng nhơn sanh nơi địa
cầu này, kể luôn về tinh thần vật chất, vốn không bằng bực chót nhơn phẩm ở địa
cầu 67. Đệ nhứt nhơn phẩm ở địa cầu 67 lại cũng chưa bằng bực chót của địa cầu
66 v.v...
Cái giá trị của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài cho tới
đệ nhứt cầu và Tam Thiên thế giới. Đó là phần thế giới hữu hình. Thoát khỏi thế
giới hữu hình, linh hồn bỏ xác phàm tiến hóa lên cõi vô hình. Một cách siêu việt
hơn, cao thượng hơn, rồi còn phải chuyển kiếp tu hành nữa cho đến khi đặng trọn
lành (toàn giác) mới có thể lên đến Bạch Ngọc Kinh là nơi Đạo Phật gọi là Niết
Bàn vậy.
Xem thế đủ biết nhơn phẩm chia ra thành nhiều đẳng cấp
là dường nào. Linh hồn phải trải qua biết mấy ngàn muôn kiếp mới đặng trọn lành
mà về căn bổn.
Nếu kẻ không tu hành làm đủ phận người, công bình
chánh trực, khi hồn xuất khỏi xác rồi thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà chuyển
kiếp lại nữa, thì linh hồn biết đời nào thoát nạn luân hồi?
Vì lòng đại từ, đại bi, không nỡ để sanh linh chịu mãi
cái nạn luân hồi, nên Đức Chí Tôn mới lập “Tam Kỳ Phổ Độ” cứu cánh là mở cho
nhơn loại một con đường giải thoát, lại ban ân huệ rất lớn lao đặc biệt cho cả
Càn khôn, Thế giới, ai ngộ được một đời tu cũng trở về cựu vị. Xem đó đủ biết Đạo
quý trọng là dường bao, và khai Đạo kỳ ba này lớn lao cao thượng là thế nào.
Một lần Đạo Trời khai là mỗi lần đại ân xá cho cả chơn
linh chìm đắm giữa sông mê biển khổ. Muôn năm ngàn kiếp mới gặp một lần. Cơ hội
này mà không tu, sau ăn năn rất muộn.
Đức Chí Tôn có dạy:
Biển khổ chơi
vơi lằn sóng đập,
Mau chơn kẻo
trễ bước con đò.
LUẬT NHƠN QUẢ
Tạo hóa vốn chí công, không vì thương mà thưởng, không
vì ghét mà phạt. Ngài chỉ lập ra luật “Nhơn Quả”, cũng gọi là luật “Báo Ứng”, là
cái quy tắc định rằng hễ nguyên nhân như thế nào, thì nhứt định có kết quả như
thế ấy, không một mảy sai chạy. Vậy, ai tạo nhơn lành sẽ hưởng quả lành, ai tạo
nhơn dữ ắt rước quả dữ.
Cái quả vốn là kết quả cái nhơn của chúng ta tạo ra
trong kiếp trước, hoặc kiếp này. Rồi cái quả ấy lại làm nhơn cho cái quả khác sẽ
báo ứng về sau. Nhơn và quả tiếp tục báo ứng như ảnh tùy hình, mà buộc trói con
người trong vòng nghiệp báo.
Có hai thứ nghiệp báo: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp
I. - Biệt nghiệp: Là quả báo riêng từng người ai tạo
nhơn là nấy thọ quả.
II. - Cộng nghiệp: Là quả báo chung cho nhiều người.
Như nhiều kẻ đồng phạm một việc ác, khi đền tội, phải chịu hậu quả một lượt với
nhau.
Lại có nhiều kẻ, tuy tạo nhơn khác nhau, song tội đồng
nhứt thể nên đến khi trả quả, cũng chung chịu với nhau một lượt.
Lại có khi một người làm ác mà nhiều người đều hưởng lợi,
thì cũng chịu chung một cộng nghiệp.
Tất cả nạn nhơn của một tai họa lớn như động đất, bão
lụt, chìm tàu, hỏa hoạn, bệnh khí, chiến tranh, v.v... đều là những người chịu
một quả báo chung vì họ đã đồng tạo một ác nghiệp.
Mặc dầu xa lạ nhau, mặc dầu kẻ nam người bắc, Thiên cơ
xui khiến thế nào cho họ hiệp nhau một chỗ đặng đền tội chung một lượt.
THỜI GIAN BÁO ỨNG
Bất câu một nguyên nhân nào cũng có cái tánh cách tự
nhiên là đem lại cái kết quả cấp kỳ. Nhưng thường lại có một nguyên nhân khác
xen vào phản ứng làm cho cái kết quả ấy phải hoãn lại một thời gian.
Tỷ như chúng ta để ngón tay vào lửa (nguyên nhơn),
chúng ta ắt bị phỏng liền (kết quả cấp kỳ). Nhưng nếu chúng ta dè dặt bao bọc
ngón tay bằng một chất thuốc gì có cái công hiệu che chở, thì là chưa bị phỏng
liền. Lửa cần phải đốt hết chất thuốc ấy rồi mới bắt qua ngón tay.
Lớp thuốc ấy vốn là (nguyên nhơn phản ứng).
Như ở các nước thuộc miền ôn đới như nước Việt Nam,
phàm giống lúa hễ gieo xuống (nguyên nhơn) là nứt mộng lên mau (kết quả).
Nhưng ở các xứ lạnh, lúa lại chậm lên là tại tuyết giá
cản ngăn. Tuyết giá vốn là nguyên nhân phản ứng.
Một đứa bé chơi nghịch (nguyên nhơn), Cha nó bắt nó nằm
xuống mà răn phạt (kết quả). Trong lúc người đưa roi lên sắp đánh, bỗng có một
người bạn đến thăm. Người cha phải hoãn sự răn dạy lại đặng tiếp khách.
Sự khách đến vốn là nguyên nhơn phản ứng.
Cũng vì luật “phản ứng” mà cái quả của một thiện nhơn
hay một ác nhơn có khi không báo ứng ngay trong kiếp tạo nhơn. Chúng ta vẫn thấy
có nhiều kẻ bạo tàn ác đức mà lại giàu sang sung sướng, nghinh ngang hống hách
với đời, là bởi họ đương hưởng cái quả của thiện nhơn họ đã tạo trong kiếp trước.
Nhưng một khi đã tận hưởng quả lành, thì ngay trong kiếp đương sanh, hoặc trong
kiếp tái sanh, họ sẽ chịu khổ của cái ác nhơn mà họ đương tạo.
Đối với thời gian, sự ứng quả có ba cách:
1. - Nghiệp báo ứng ngay trong đời tạo nhơn gọi là
Đương Kiếp Nhơn Quả hay Thuận Hiện Nghiệp.
2. - Nghiệp báo ứng theo cái nhơn tạo trong kiếp trước,
gọi là Tiền Kiếp Nhơn Quả hay Thuận Sanh Nghiệp.
3. - Nghiệp báo ứng ở kiếp sau do cái nhơn hiện tại, gọi
là Hậu Kiếp Nhơn Quả hay Thuận Hậu Nghiệp.
ĐỜI VÀ ĐẠO
Đạo chúng ta đã hiểu là gì rồi, đây xin định nghĩa chữ
Đời.
Đời là cõi thế gian, hiểu rộng ra là tất cả những người
sống trong cõi thế gian, tức quần chúng vậy.
Đạo vốn Thiêng Liêng vĩnh cửu.
Đời thì hữu sanh hữu diệt.
Đời và Đạo tuy tương phản nhưng vẫn liên quan như bóng
với hình. Đức Chí Tôn đã dạy:
"Buổi lập
Chánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi đâu đến nhọc
công Thầy".
Vậy Đạo sở dĩ lập ra là để cứu giúp đời. Nếu không có
đời, Đạo lập ra có ích gì?
Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng lại dạy rằng:
"Đời lấn
Đạo, Đời xa cội phước,
Đạo dìu Đời, vận
nước mới an.
Đức lập quyền,
dân được châu toàn,
Quyền xua Đức,
nhơn gian thống khổ..."
Đời sanh hoạt thì Đạo giúp đời, sanh hoạt theo lẽ Bảo
Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng. Người tu hành mà không thiết đến nhơn quần xã hội
là hoài bão một quan niệm sai lầm, cũng như người xã hội không đồng hành theo lẽ
Đạo chẳng khác nào con thuyền không lái.
Đạo
là vô vi, Đời là hữu hình. Vô vi và hữu hình phải liên đới nhau như hồn với
xác.
Như
cây đèn: Luôn về ngọn lửa là vật hữu hình, tỷ là Đời. Còn cái ánh sáng dọi ra
là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cây đèn chớ không làm ánh sáng (vô vi) mà hễ
thắp đèn tự nhiên có ánh sáng.
Như cái chén: Làn gốm ngoài là vật hữu hình,
tỷ là Đời. Còn cái lòng trống ở trong là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cái
chén chứ không làm cái lòng ở giữa (vô vi): mà hễ làm cái chén, cái lòng trống ở
giữa tự nhiên phải có.
Như cái cửa: Luôn vừa khuôn, vừa cánh cửa là vật hữu
hình, tỷ là Đời, còn cái khoảng trống để vô ra là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta
làm cái cửa chớ không làm cái khoảng trống ấy (vô vi) mà hễ làm cái cửa, cái
khoảng trống ấy tự nhiên phải có.
Như một cái bánh xe: luôn về vành tròn
và cái hoa cửi là vật hữu hình, tỷ là Đời. Còn cái lỗ để tra cốt vào cho bánh
xe quây là vô vi, tỷ là Đạo. Người ta làm cái bánh xe chớ không làm cái lỗ cốt
(vô vi) mà hễ làm cái bánh xe cái lỗ cốt ấy tự nhiên phải có.
Cây
đèn, cái chén, bánh xe, cái cửa là vật hữu vi. Người ta sở dĩ chỉ tạo mấy vật ấy là để ứng dụng cái chỗ
vô vi của nó mà thôi.
Vậy người đời phải có Đạo, nghĩa là phải theo một tôn
giáo nào tùy sở thích, vì tôn giáo (gác ra ngoài những lẽ huyền vi mầu nhiệm) vốn
là kim chỉ nam cho mọi hành động của con người trong khuôn viên đạo đức, tinh
thần.
PHẦN LUÂN LÝ
SỰ LÀM VIỆC LÀ
MỘT ĐỊNH LUẬT
Sự làm việc là luật thiên nhiên phải tuân theo đặng tự
tạo đời sống, tùy khả năng và sở thích của mỗi người. Chẳng phân giàu nghèo, chẳng
luận nam phụ lão ấu, ai cũng phải làm việc, để trở nên người hữu dụng vừa cho
mình, vừa cho gia đình mình, và cho xã hội.
1. - Hữu dụng cho mình.
a/ - Con người thuở còn ấu thơ đã phải lo làm việc rồi,
bằng cách vào trường học tập đặng mở mang trí hóa vì bởi "học nhi tri chi" (học mà biết) chớ chẳng phải "sinh nhi tri chi" (sinh ra mà
đã biết).
b/ - Đến tuổi thành nhơn, một mình bương chải với đời,
phải tiếp tục làm việc, còn cực nhọc hơn ở trường, đặng tự sống, chớ không
trông ai vùa giúp cho được. Như thế mới khỏi chiều lòng ai, khỏi bị ai nặng nhẹ
hà khắc. Như hữu học, thì làm việc bằng trí óc, còn ít học, thì làm bằng tay
chơn, không có nghề nào hèn hạ, chỉ có người lười biếng mới hèn.
c/ - Tuổi già cũng còn làm việc, không nặng thì nhẹ, đặng
giữ gìn sức khoẻ hầu tránh làm khổ nhọc cho con cháu.
d/ - Phận nữ lưu, cũng cần làm việc như hạng nam nhi,
chẳng nên cho mình là liễu yếu đào thơ, rồi ỷ lại nơi chồng con, mà ngồi không
luống sức. Đành rằng lo tề gia nội trợ, là một bổn phận trọng yếu trong tư thất,
nhưng ngoài ra còn bổn phận đối với đời, thế nào cho ra người có phẩm vị.
Làm việc có ích cho mình là vậy.
2. - Hữu dụng cho gia đình cho xã hội.
a/ - Làm chủ gia đình, phải ân cần trong nghề
nghiệp, mới có phương nâng đỡ gia đình, sống vui trong cảnh cơm no, áo ấm. Chẳng những như vậy thôi, mà nhờ có làm
mới dư tiền để xây trở phòng khi hữu sự, như quan hôn tang tế, hay lúc phong võ
bất kỳ.
b/ - Làm chủ gia đình được giàu, thì nên thi ân bố thí
bồi lộ tu kiều, cất học đường, tạo cấp cô viện, v.v…
Còn dư giả nữa thì kinh doanh sự nghiệp mở mang kinh tế
giúp cho xã hội thêm giàu, cho quốc gia thêm mạnh.
c/ - Nếu nghèo thì tùy phận mà xử sự, chớ chẳng vì
nghèo mà vị kỷ vong tha hay không giữ gìn nhân vị.
Tổng kết:
Sự làm việc là điều cần thiết của sự sống. Đó là một định
luật bất di bất dịch, không ai qua luật ấy mà được toại kỳ chí yên kỳ thân cho
lâu dài được.
Cho hay mỗi người đều có phẩm giá cá nhân rất nên quí
trọng, thì không vì lẽ nhu cầu đời sống mà không lo hoạt động thế nào cho việc
cân xứng với bản năng thuần túy của mình. Vả lại, giữa thời đại văn minh này, sự
làm việc của người ta có ảnh hưởng nặng nề vào phẩm chất, và càng đi sâu xa thời
ảnh hưởng càng công hiệu. Lẽ dĩ nhiên, để hành động cho được việc, điều có lợi
là phải ngó tới việc phải làm, và hình dung trước cái có thể làm, nhiên hậu sẽ
làm, hoặc cái không thể làm, nhiên hậu sẽ chừa bỏ.
Đó là điểm để phân biệt người ra khỏi giống thú, là giống
không có trí khôn, chỉ hành động theo cảm giác, nhứt thời tha hồ, thì cứu cánh
sẽ dẫn đâu hay đó.
Vậy thì cần yếu là trong khi làm việc phải để ý tứ và
lương tâm vào đấy, sẽ thấy cái thú vị của đời sống, hầu theo đuổi nhiệm vụ cho
đến kỳ cùng mà không biết chán.
Đã nhận định rằng sự làm việc là hữu ích, thì nó không
riêng cho người đời mà là chung cho cả người đạo nữa.
Nếu cho rằng đã phủi hết thế sự, đặng vào cửa từ bi
cho an nhàn trí não mới yên ổn thân sanh, rồi hằng ngày trầm tư mặc tưởng,
không làm gì hết, ấy là lầm. Vì bởi cuộc vay trả nghiệp xưa chướng cũ chưa
xong, mong gì giải thoát.
Tuy vẫn trong cửa Đại Đạo không còn những sự tranh
danh đoạt lợi, những điều hơn kém, mạnh được yếu thua, nhưng sự làm việc vẫn
còn là bổn phận Thiêng Liêng của mỗi người, để lập công bồi đức, và dọn mình
cho ra người xứng đáng, để độ đời cứu thế.
ÁP DỤNG SỰ LÀM
VIỆC TRONG ĐẠO ĐỜI
(Phổ độ lập công quả)
Sanh trên cõi trần này, bá nhơn, bá tánh, mỗi người được
tự do riêng tạo đời sống theo chí hướng, hoặc sống chung lộn theo người thế
gian, hoặc sống tổ hợp với người tôn giáo. Tuy khác quan niệm, giới nào cũng lấy
sự làm việc làm căn bản để đạt thành sở nguyện của giới mình. Đây nói về nhà
tôn giáo thì chẳng phải phế hết thế sự, tùng cửa Đạo rồi sớm kệ chiều kinh là rồi
bổn phận. Người Đạo còn có sứ mạng Thiêng Liêng cao thượng hơn mà người đời
không có, là sự hi sinh để làm công quả và lo phổ độ.
Công quả:
Đức Chí Tôn đã dạy:
" Người
dưới thế gian này muốn giàu có phải kiếm phương thế làm ra tiền. Ấy là về phần
xác thịt, còn muốn đắc Đạo phải có công quả ".
Hai chữ công quả có nghĩa thiển cận là hễ ra công trồng
cây thì hằng bữa cố gắng chăm nom săn sóc cho đến ngày đơm bông kết trái, tức
là ngày hưởng lộc thì công trồng mới không phải uổng.
Còn suy diễn ra, thì công quả có nghĩa là một mặt để hết
tâm tánh giúp ích cho nền Đạo và một mặt dụng công lao làm phương tương công
chiếc tội, lấy khổ hạnh làm cứu cánh thoát luân hồi, mới mong có ngày đắc Đạo.
Vả chăng những phẩm tước và quyền hành chỉ là những
hình thức bề ngoài, quan hệ về sự đặt ngôi phân thứ, để giữ gìn trật tự nghi tiết,
giữa chốn đông người, chớ kỳ trung điều trọng yếu của nó là ở bên trong của từng
cá nhân, khuôn luật chuẩn thằng buộc Chức Sắc Thiên phong không được bán đồ nhi
phế, mà phải thất đạo tâm. Chừng ấy dầu Chức Sắc lớn bậc cũng chưa ắt giữ còn
áo mão.
Trái lại, Đạo hữu tu cam phận nhỏ nhen mà đầy đủ thiện
chí, phụng sự không màng cực nhọc khó khăn, quyết lòng tự lập, không cầu nài
phong thưởng, nhưng rồi sự phong thưởng tự nhiên, vô triệu nhi lai, nêu gương
sáng cho người khác noi theo để bước.
Thiết tưởng cửa Đạo là nơi để cho cả sanh linh được
thư thả làm nhà chung, hầu tìm nét yêu thương, hưởng nguồn hạnh phúc, mà được
cùng chăng là do công quả nhiều hay ít, và sự thật tâm cùng không của mỗi người
nơi đó.
Phổ độ:
Sanh nhầm đương kiêm thời đại, thiên hạ đảo huyền,
luân thường suy bại, con người vì nhu cầu vật chất mà không diệt tánh bạo tàn,
nên sự yêu thương và nét công bằng đã khuất dạng theo thời gian, đời sống hiện
giờ chỉ là đời sống khổ.
Cho hay mối Đạo là mối dây kết chặt tình thương, thì
người nhập Đạo là người có bổn phận phổ truyền giáo lý, độ dẫn quần linh, tương
trợ tương thân, tránh đường tội lỗi.
Phổ độ chúng sanh bằng cách nầy hay cách khác tức là
phương mầu nhiệm để lập vị Thiêng Liêng. Vì vậy nên Đức Chí Tôn buộc mỗi người
trong Đạo, từ Chức Sắc đến Đạo hữu lưỡng phái phải độ cho được ít nhứt là 12
người nhập môn (Thánh ngôn ngày 27 tháng 8 năm 1926)
Ví bằng chẳng ra công độ rỗi, thì ngày về Bạch Ngọc
Kinh chỉ với hai tay không, bao nhiêu công phu tu luyện ở cõi trần sẽ là công
dã tràng.
Tổng luận:
Sự làm việc trong cửa Đạo là cần thiết cho đời sống của
kẻ xuất thế ly gia, để phụng sự thiên hạ mà không mất phần mình, tức là mình được
“tiên tự giác nhi hậu giác tha” đã có phần công quả lại thêm công phổ độ. Nếu
tưởng rằng một khi đã phế nhơn sự lo việc tu hành, rồi cứ mơ tưởng luyện Đạo
cho mau thành Tiên tác Phật ấy là lầm. Vì bao giờ công quả còn kém, nhơn sự
chưa rồi, và chẳng có một tác động gì gọi là đại chí, thì dễ gì mong đứng ngang
hàng với các Đấng Thiêng Liêng cho đặng.
NHIỆM VỤ MỘT
CHỨC SẮC THIÊN PHONG
ĐỐI VỚI ĐỜI, ĐỐI
VỚI ĐẠO
Mang Thiên chức vào thân, vị Chức Sắc Thiên Phong của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không còn là người của mình hay của gia đình mà là người
đã chịu hi sinh làm con tế vật dâng cho Đức Chí Tôn sử dụng để cứu nhơn độ thế.
Vậy thì Chức Sắc Thiên Phong có sứ mạng Thiêng Liêng
thể thiên hành hóa, tức có bổn phận đem Đạo giải khổ cho chư quần linh trong thời
mạt pháp này.
Nhiệm vụ nầy kiêm cả hai mặt Đạo và Đời. Tuy Đời và Đạo
không chung một quan niệm, một chủ nghĩa, Chức Sắc là kẻ ở trung gian sẽ làm
dây nối liền cho đôi bên tương đắc. Bằng chẳng vậy thì hoài công phổ độ.
1. - Đối với Đạo:
Chức Sắc cầm quyền không nên dùng cách hành phạt, mà
nên dạy dỗ khuyên lơn cho Đạo hữu lỗi lầm biết hồi tâm hướng thiện.
Thiết tưởng Đạo hữu là kẻ ít phước không được thường
nghe Thánh giáo, nên cam phận bất thông chơn pháp, thì Chức Sắc bề trên nên tự
mình gần gũi đàn em, đặng mở vòng u ám cho chúng dễ bề tu luyện. Nếu cứ ở trên
nhìn xuống thấy đồng Đạo thấp hèn, rồi đem lòng khinh bạc, là mình thất Đạo mà
không hay đó vậy.
Chẳng giống với quyền Đời dùng nghiêm luật để cai trị,
quyền Đạo chỉ lấy công ái để dỗ dành. Vị Chức Sắc cần giữ gìn đức hạnh cho hoàn
toàn, chỉ biết bố đức hơn ra oai, thi ân hơn lập pháp mà thôi. Càng thân cận kẻ
dưới, người bề trên càng nên rộng lượng khoan dung mà dìu độ.
Đức Chí Tôn đã dạy: “Độ một kẻ hung hăng còn khó hơn độ
một nước”. Trong trường hợp này vị Chức Sắc phải nhọc công lắm sức, chẳng tiếc
lời khuyên, không thẹn hạ mình hầu làm nên cho kẻ khác. Đặng vậy thì Công mới
thành, Ngôn mới chánh, Đức mới rạng.
2. - Đối với Đời:
Người đời vì nhu cầu vật chất, xa hẳn đạo tâm, cứ giữ
chặt tánh phàm đặng chiếm phần đắc lợi dám làm tội mà quên phải đền tội.
Để giúp cho kẻ lầm lạc đang sa đắm trong vòng nghiệt
chướng, được giải thoát tai nàn, vị Chức Sắc có bổn phận giải rõ chơn giáo cho
người đổi tâm hướng thiện. Ấy là bổn phận đối với từng cá nhân ở Thế.
Đối với xã hội, còn cái nhiệm vụ trọng yếu khác là tạo
nên tình yêu ái trong khuôn viên đạo nghĩa luân thường. Nhơn hòa tâm hiệp thì
tình cảm nảy sanh, vị Chức Sắc ngoan khéo sẽ dụng phương điều hòa các tình cảm
cá nhân làm một khối thương yêu của xã hội, thì nơi nầy là nơi người Đời nhờ Đạo
được sống hạnh phúc ngoài lề thống khổ.
Phương chước đầu tiên là lấy lễ đãi người, nhiên hậu sẽ
dĩ đức phục nhơn là thượng sách.
Sau này vị Chức Sắc còn có trách nhiệm đối với nhà cầm
quyền Đời Đạo vì bởi:
" Đạo
không Đời không sức.
Đời không Đạo
không quyền."
Muốn cho dân được giáo hóa trở nên dân lành, biết tuân
luật pháp quốc gia thì phải nhờ có Đạo hướng dẫn, nhưng cần phải có quyền Đời
giúp sức Đạo mới thành công. Trái lại nếu Đạo không đủ phương tiện giáo hóa, để
dân trở nên bạo tàn đạp đổ luân thường đạo lý, khuấy rối an ninh, quyền đời phải
can thiệp trấn áp, ắt sanh loạn.
Song thế thường Đời ít khi cộng tác với Đạo mặc dầu là
việc hữu ích cho Đời hơn là cho Đạo. Vị Chức Sắc phải làm thế nào cho Đạo Đời
tương đắc mới tròn nhiệm vụ.
Tổng kết:
Chức Sắc Thiên phong phải luôn giữ mình cho xứng phận
người cầm đuốc huệ soi sáng, cho đời bớt cạnh tranh về vật chất và hướng về tâm
linh, mới mong xây dựng được đại đồng thiên hạ.
ĐỜI SỐNG ĐƠN
GIẢN VÀ THANH BẠCH
Cuộc sống ở đời có nhiều hình trạng khác nhau, vì nhơn
sự ai nấy sáng, và cách xử sự không ai giống ai, mới xuất hiện những tấn tuồng
ai bi khổ não, mà miệng thế gian cho rằng Đời là khổ không phải là quá đáng. Vả
chăng Đấng Tạo Hóa háo sanh vô lượng không hề tạo khổ cho ai, thoảng như có khổ
là do mình tự triệu. Như có thừa thì xa xí, không đủ thì bỏn sẻn, không ngăn cấm
thì hoang dâm, không tiết độ thì hại thân, buông thả lòng dục thì hư hỏng. Đó
là những nguyên nhân làm cho nền trật tự xã hội phải chinh lịch, và giá trị con
người phải tổn thương, rồi phải bao nhiêu khổ tâm đặng thoát vòng khổ lụy.
1. - Sống đơn giản:
Đơn là đơn sơ, giản là giản tiện, sống đơn giản thì
không có điều gì mà phải bất cập hay thái quá.
Đành rằng đối với đời sống, cái ăn và cái ở là cần thiết,
nhưng ăn đặng sống, chẳng phải sống đặng ăn.
Sách có chữ “tri túc thường lạc, đa tham tắc ưu”.
Nghĩa là biết đủ thường vui, nhiều tham ắt lo. Người tri túc, dầu nghèo hèn
cũng vui, tức là trị được cái khó tánh với cái bản ngã. Không tri túc thì dầu
giàu sang cũng còn lo, tức là làm tôi cho cái dục vọng mà cái dục vọng thường
hay khiến hư, và hư là khổ.
Người sống đơn giản chẳng những tránh được cái khổ nầy
là một điều lợi lớn còn thâu thập được nhiều cái lợi khác là khỏi mất thì giờ,
khỏi hao tiền của không bận rộn tâm trí.
Một diệu kế để yên vui trong cảnh sống đơn giản là cứ
nhìn kẻ dưới sẽ thấy mình đủ. Và đó cũng là phương mầu cho người Đạo áp dụng để
răn lòng đừng ham muốn theo thường tình thế sự mà gây oan nghiệt.
2. - Sống thanh bạch:
Thanh là trong, bạch là trắng. Sống thanh bạch
là sống trong sạch với sức lực và tài năng của mình mà thôi.
Như đã có của còn làm điều phi nghĩa đặng giàu thêm,
hay đã nghèo lại làm chuyện bất minh cho hết nghèo, thì đời sống phải bợn nhơ
nhục nhã. Những cái nhơ cái nhục nầy không
kíp thì chầy sẽ rửa bằng sự đền tội,
hoặc với cách nầy hay cách khác, nhưng không bao giờ tránh khỏi, vì luật công
bình vay trả đã định vậy.
Nghĩ vì kẻ tiểu nhân thì vụ lợi, mà người quân tử thì vụ nghĩa, thành thử hai lý tưởng tương khắc và hai hành vi bất đồng, nhưng bao giờ
lẽ phải cũng về với cái nghĩa. Bởi trong cái nghĩa đã sẵn chứa lòng nhơn, nên
người quân tử ưu đạo bất ưu bần và vẫn sống trong vòng thanh bạch.
Người nhập Đạo rồi không còn ham luyến lợi trần nên
thi hành triệt để Tứ Đại Điều Quy khoản 3, về tiền bạc thâu xuất phân minh và
mượn vay lo trả, đặng giữ gìn đời sống thanh bạch.
Còn về đời sống đơn giản, thì tùy tiện không xa xí,
theo điều thứ 15 Tân Luật là gương xả phú cầu bần xả thân cầu Đạo.
Tổng kết:
Thế sự hay biến đổi, đời người có lúc bỉ cực, có hồi
thới lai và để đề phòng bất trắc nên tập trước cho quen sống đơn giản và thanh
bạch thì bước đường vẫn được ung dung tự tại, dầu cho hoàn cảnh nào cũng vậy.
TINH THẦN KỶ
LUẬT
Kỷ luật là những phép tắc do những tổ chức xã hội đặt
ra để giữ gìn trật tự xã hội và điều hành trách vụ của các phần tử trong tổ chức.
Vả chăng ai cũng có ý thức rằng mình tự do. Ấy là một
điều hiển nhiên. Vì bởi có tự do mới có nghĩa vụ ai cũng có nghĩa vụ, bắt buộc
lương tâm làm cái này cái kia và chỉ có nghĩa là khi nào lương tâm đó tự do. Có
tự do mới có trách nhiệm, mà ta có thể tránh trách nhiệm hay thi hành nếu ta muốn.
Điều cần yếu là chẳng nên có quan niệm rằng hễ tự do
là được tự ý hành động lợi mình mà hại kẻ khác, thì sự hành động ấy chẳng những
ra ngoài giới hạn tự do của mình mà còn vi phạm quyền tự do của kẻ khác.
Vì vậy mới có kỷ luật để bảo thủ sự tự do trong giới hạn
của nó và ngăn ngừa sự tự do thái quá là nguồn sanh loạn trong quần chúng.
Có hai thứ kỷ luật: Kỷ luật khách quan và kỷ luật chủ
quan.
1. - Kỷ luật khách quan:
Là kỷ luật do những tổ chức chánh trị bên ngoài cá
nhân buộc cá nhân tuân theo. Ấy là luật pháp trong nước bất khả xâm phạm để giữ
gìn trật tự cho toàn dân được an cư lạc nghiệp.
Trong các tổ chức xã hội khác như Thương mãi, Nghiệp
đoàn, Giáo huấn, Tương tế, v.v... nơi nơi đều có kỷ luật để cho mọi người yên
trí làm việc có hệ thống và theo phương pháp khoa học (không mất thì giờ, đỡ tốn
phí) đặng tiến triển mạnh mẽ trong nghề và trong vòng trật tự.
Như Quân đội là một cơ quan để giữ gìn trị an trong nước
và trật tự xã hội, tức là có phận sự bảo vệ tự do của nước và của dân cũng, phải
có kỷ luật đặng trên dễ điều khiển, dưới phải trọn tuân mới đi đến kết quả
thành công.
Nếu thiếu kỷ luật trong tổ chức thì người điều khiển dầu
có tài năng cách mấy cũng không sao giữ vững nền tảng của tổ chức được.
Còn đã có kỷ luật mà vi phạm, là tự ý phá hoại quyền lợi
của tổ chức.
2. - Kỷ luật chủ quan:
Là phép tắc tự cá nhân đặt ra cho mình tuân theo. Nếu
vì sự sống, vì quyền lợi cá nhân, mà biết cư xử trong giới hạn tự do của mình,
không xâm phạm giới hạn tự do của người khác, ắt tránh được sự tranh giành, đụng
chạm thì sự sống và quyền lợi cá nhân không hề bị tổn thương bao giờ.
Kỷ luật trong Đạo:
Trong cửa Đạo là nơi trau dồi tánh dữ hóa hiền, sửa
đương lòng ta trở thành tâm chánh, thì Tứ Đại Điều Qui và cách sắp đặt chỗ ăn,
chỗ ở nam nữ phân biệt là kỷ luật khách quan.
Những chuẩn thẳng mực thước để tự buộc mình phải thi
hành cho nên người xứng đáng hướng dẫn nhơn sanh trên con đường đạo đức là Ngũ
Giái Cấm nói chung và nghiêm luật trong Tịnh Thất nói riêng, là kỷ luật chủ
quan.
Tổng kết:
Tự do chơn chính phải ở trong kỷ luật, mà phục tùng kỷ
luật là không phạm tự do chơn chính. Không phạm ấy là giữ được chữ hòa trong
gia đình, trong xã hội luôn cả trong nước. Tinh thần kỷ luật giúp cho mỗi người
tạo cái đời sống luân lý và luật pháp, tránh được những điều phiền phức trong
xã hội.
NHƠN PHẨM
Nhơn phẩm là giá trị con người, tức danh giá cá nhân.
Giá trị này cao hay thấp, nặng hay nhẹ, vinh hay nhục là tùy hành vi và tánh đức
của mỗi người mà nhận định. Những kẻ nhơn từ, nghĩa khí, có bụng yêu đời, sẵn
lòng giúp thế, là những người biết tôn trọng nhiệm vụ và nâng cao nhơn phẩm
mình. Trái lại làm điều phi nghĩa, vị kỷ vong tha, là tự mình làm mất phẩm giá
mình. Vậy thì nhơn phẩm không phải tạo bằng tiền bạc hay bằng chức vị xã hội mà
bằng đạo đức luân lý vậy.
Vì bởi có sự trọng khinh nhơn phẩm, nên trong xã hội
có hai hạng người: một hạng được người ta tôn sùng và thân cận là hạng quân tử,
còn một hạng bị người ta chê bai và xa lánh là hạng tiểu nhơn.
1. - Quân tử:
Cố giữ danh giá cá nhân trong mọi hành tàng không để
nhơn phẩm bị tổn hại bởi những cạm bẫy của bả lợi mồi danh. Chẳng những vậy
thôi, người quân tử còn tôn trọng nhơn phẩm của kẻ khác trong mọi nơi và mọi dịp,
bằng cách tránh cho họ những cạm bẫy ấy.
Thậm chí đến lúc khốn cùng, người quân tử không đổi
chí hướng.
2. - Tiểu nhơn:
Vụ ở điều lợi riêng, bất kể phải quấy nhục vinh, kẻ tiểu
nhơn không có tánh tình cao quý gì cả. Làm điều phi nghĩa, thất đức tức là tự
mình coi rẻ nhơn phẩm mình, hồ dễ bảo ai tôn trọng mình cho đặng?
Nhơn phẩm trong cửa Đạo:
Vào Đạo đặng trước sửa mình sau làm gương cho kẻ khác; việc tu kỷ là bổn phận đầu tiên
và càng chuyên cần chừng nào, nhơn phẩm của mỗi người càng thanh cao chừng ấy,
và đã là người sống trong vòng mực thước chánh
nhơn, hiền hòa, thì không thể
phân hạng quân tử và tiểu nhơn trong đại
gia đình Đạo được.
Về sự tu kỷ có ba phương pháp để tập rèn nhơn cách là:
Thứ nhứt: Trong khi im lặng, vắng vẻ một mình, nên tập
trung những tư tưởng tốt lành, loại trừ những ý nghĩ xấu xa, hầu chế ngự cái
tánh buông lung hay xúi giục những hành vi có thể làm tổn thương nhơn phẩm. Vì
vậy Thầy Mạnh Tử nói rằng: " Học vấn
chi Đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỉ ". Cái Đạo học vấn không có
điều gì khác, chỉ có tìm cái tâm đã sổ ra mà thôi.
Thứ nhì: Giữa bạn đồng Đạo cùng chung một nơi ăn, một
chỗ ở, như ở giữa một tiểu gia đình, nên dầu muốn dầu không, luôn luôn phải tỏ
bày trên gương mặt một nụ cười, một nét vui đặng kết tình thân hữu. Biết đâu chừng
cơn vui của một người chia xẻ cho kẻ khác, sẽ lấp được một phần nào cơn sầu của
chúng bạn.
Thứ ba: Trong cuộc giao tiếp bất luận với ai, phải thủ
tín là điều cần thiết để bảo vệ danh giá, vì một khi mất chữ tín thì nhơn phẩm
liền mất theo.
Lại nữa trong lúc đàm thoại chẳng nên nói những điều
ta suy ngẫm mà phải suy ngẫm những lời ta nói.
Kết luận:
Người biết quí trọng nhơn phẩm, vốn có một tinh thần
thanh khiết và cường kiện, phú quý không mê hoặc được, bần tiện chẳng thay đổi
được và oai võ chẳng khuất phục được.
CÔNG BÌNH VÀ
BÁC ÁI
Giữa thế kỷ XX này, tiền tài vi chủ, mạnh được yếu
thua, thân con người nếu bị giam hãm trong vòng thống khổ, bởi sự bất công và
vô nhơn đạo, thì kiếp sống chỉ là kiếp đoạ đầy không có gì là lạc thú.
Đời sống hạnh phúc con người phải nhờ một chánh sách
Công Bình và Bác Ái, làm nền tảng cho nền luân lý thuần túy đã mất từ lâu.
1. - Công bình:
Điều gì mình không muốn người ta làm thì mình đừng làm
cho người ta, ấy là lẽ công bình nữa.
Theo thế tình, hễ có vay tất phải có trả, có thọ ơn tất
phải có đền ơn, ăn cho đồng chia cho đều, không so hơn tính thiệt, nói tóm là
tránh những điều bất công thì không xảy ra những sự bất hòa trong gia đình cùng
xã hội. Chừng ấy chốn công đường sẽ hết kẻ kiện thưa, nơi tư thất người người
yên sống.
Có công bình lý tưởng và công bình sự kiện.
Lương tâm không cho ta hà khắc kẻ yếu hay xâm phạm quyền
lợi của ai, mặc dầu ta là kẻ mạnh, nếu ta xử sự do lương tâm hướng dẫn, ấy là
công bình lý tưởng.
Luật pháp của xã hội lập ra đặng giữ gìn tài sản và
sanh mạng của mọi người và bảo vệ công lý, luật pháp ấy là công bình sự kiện.
Chẳng những về mặt Đời, có luật pháp để sửa trị những
điều bất công, mà về mặt Đạo cũng có chuẩn thằng để bảo vệ công chánh và giữ niềm
hòa khí giữa người đồng Đạo. Như Đạo giải thoát của nhà Phật là Đạo Bát Chánh
có ấn định luật công bình căn cứ nơi Chánh Ngữ là phải nói những điều đúng chơn
lý không nói những điều giả dối xảo quyệt. Chánh nghiệp là chỉ làm những việc
ngay chánh công bình không làm những việc tàn bạo gian ác, và Chánh Mạng là cứ
sống theo con đường công chánh, không vì lợi lộc mà bỏ nghĩa thân.
Còn luật công bình của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Tứ Đại
Điều Quy, để giúp cho mỗi người được thung dung hành Đạo mà không phạm đến
thanh danh quyền lợi của kẻ khác.
2. - Bác ái:
Nếu vì công bình rồi quyền lợi ai nấy giữ, cơm ai nấy
ăn, nhà ai nấy ở, việc ai nấy lo, ắt hóa ra một đoàn thể tuy gần gũi nhau, mà
thật sự thì cách xa nhau, bởi không ai ngó ngàng đến ai, tức là vong tha ích kỷ,
là điều tối kỵ trong gia đình tôn giáo.
Vậy thì công bình phải rút trong nguồn bác ái, mới tạo
hạnh phúc cho loài người được. Bác ái là tình thương yêu sâu rộng, và tình
thương ấy thực hiện bằng cách bố thí và cứu trợ.
Vả chăng bố thí có nhiều cách: Hoặc chơn thật và quyết
lòng trợ khốn phò nguy, hoặc kiêu hãnh muốn làm việc thiện đặng lấy tiếng; nên
sự bố thí có giá trị cùng chăng là do cách bố thí. Nó có giá trị cao thượng là
khi nào làm ơn không vụ lợi, và hoàn toàn giúp đỡ như anh em một nhà. Em ngã chị
nâng, bậu bạn giúp đỡ nhau, người mạnh giúp kẻ yếu, cứu trợ kẻ tật nguyền,
v.v... Đó là bác ái tương trợ thật sự.
Làm ơn mà đừng làm giảm giá trị người thọ ơn mới thật
là bác ái.
Nên lưu tâm về chánh sách giáo hóa chúng sanh của các
tôn giáo, bằng cách cấm sát sanh, chủ ý là khuyên kẻ hung hăng nên chừa tánh dữ.
Bỏ dữ theo hiền, tức là gần sự thương yêu. Thương được mới hiệp được. Hiệp được
mới lập thành đại đồng thiên hạ, chừng ấy mới cộng hưởng thái bình vĩnh cửu.
Kết luận:
Có công bình mà thiếu bác ái thì trật tự xã hội không
bền vững, có bác ái mà thiếu công bình thì hạnh phúc toàn thể không hoàn toàn.
Vì vậy công bình và bác ái là hai đức tánh cần thiết
và bổ túc nhau, để cưỡng chế tương tranh và gầy hạnh phúc.
LỄ PHÉP
Lễ phép là những quy điều đặt ra để giữ gìn hạnh đức
trong sự giao tiếp với người trên và kẻ dưới, thế nào cho có vẻ hòa kính nhau.
Lễ phép cũng còn cái sở dụng để bảo tồn trật tự trong
gia đình và xã hội, luôn tới cả một dân tộc một quốc gia nữa.
Nhờ có lễ mới gây thành tình cảm tốt, mới chế tài hành
vi con người ta và phòng ngừa những điều rối loạn hồ đồ.
1. - Lễ:
Muốn người ta trọng mình và yêu mình, trước phải trọng
người và yêu người. Người trên không có lễ, thì không lấy chi đặng khiến kẻ dưới,
kẻ dưới không có lễ, thì không lấy chi đặng đãi người trên.
Người ta ai cũng có lòng muốn, mà lòng muốn người ta
không có giới hạn, thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn
cùng. Cho nên chế lễ để chia phận nghĩa cho rõ ràng, chế ngự cái muốn, không để
cùng kiệt các vật sở dụng, và cái vật sở dụng không làm kiệt cái muốn, tức là
các vật sở dụng với cái lòng ham muốn phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng.
Vả lại cái muốn thì nhiều, mà vật sở dụng thì ít nên
tránh sao khỏi tranh giành, nên chế lễ để tiết chế cái muốn và bảo tồn các vật
mới còn sanh hóa được, cho nên nói Lễ là nuôi là ý đó.
Hễ giữ thì chẳng luận lúc nào hay nơi nào, đều phải cẩn
thận từng hành vi từng ngôn ngữ. Như làm một việc gì mà thất lễ thì không làm,
nói một lời gì thất lễ thì không nói, xem những sự gì mà thấy vô lễ thì không
nghe. Ấy là phép trau dồi đạo hạnh, giữ vững đạo tâm không nhiễm việc xấu,
tránh xa tai họa. Vì vậy nên Ông Thái Công bảo: “Siêng cần là của báu vô giá, cẩn
thận là lá bùa hộ thân” (Cần vi vô giá bửu, thận thị hộ thân phù) là vậy.
2. - Pháp:
Có lễ tức là có pháp. Pháp là khuôn viên mực thước để
răn lòng sửa tánh hầu tránh điều tội lỗi. Trong nhà có lễ pháp thì lớn nhỏ phân
minh, ở ngoài có lễ phép thì thượng hòa hạ mục.
Phép nước cũng căn cứ theo lễ, chế ra hình để trị loạn.
Bổn phận công dân hễ biết sợ phép nước, thì hằng ngày được vui vẻ (tức là được
bình an) còn dể duôi phép công (hay là khi dể quan quyền) thì hằng ngày lo lắng
(sợ nay mai bị tội không chừng). Nên cổ ngữ rằng: “Cụ pháp triêu triêu lạc, khi
công nhựt nhựt ưu”.
Người có pháp độ không hay nói nhiều, nên được thanh
nhàn. Hay tha thứ khoan dung, thì không có kẻ oán. Tránh ganh hiền ghét ngỏ,
thì không ai thù. Không tham danh chuốc lợi, thì không mất tự do.
Lễ Pháp trong cửa Đạo là Tứ Đại Điều Quy để cho Thiện
Nam Tín Nữ hằng ngày gìn giữ đặng trau dồi đức hạnh.
a. - Về Lễ thì phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ
chịu cho bậc thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu
thiệt. (khoản 1, điều 22, chương V Tân Luật).
Đối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ,
dưới gián trên đừng thất khiêm cung. (khoản 3).
Trước mặt sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước
rồi khi sau. (khoản 4).
b. - Về Pháp chớ khoe tài đừng cao ngạo quên mình mà
làm nên cho người. Giúp người nên Đạo. Đừng nhớ cừu riêng. Chớ che lấp người hiền.
(khoản 2).
Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả.
(khoản 3).
Đừng thấy đồng Đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời
hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật
phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.
(khoản 4).
Kết luận:
Lễ Pháp có cái công hiệu phòng ngừa nguồn loạn. Nó có
cái vi diệu ngăn cấm không cho phát hiện những điều quấy khiến người cứ gần điều
lành, tránh điều tội mà tự mình không hay.
LÒNG THA THỨ
Lòng tha thứ là lòng khoan dung hỉ xả tội lỗi của kẻ
khác. Muốn được vậy thì phải có đức lớn, độ lượng cao, thành thật, thương yêu
không coi ai là thù nghịch cả. Thoảng như gặp kẻ thất giáo vô lễ, hoặc bị đứa
võ phu thị nhục, đại trượng phu không vì đó mà phẫn nộ chinh lòng.
Trái lại, còn tha thứ cho kẻ kia, thì được lợi vừa cho
mình, vừa cho kẻ ấy.
1. - Lợi cho mình:
Muốn có lòng tha thứ trước hết phải sẵn có dạ yêu
thương. Có biết thương yêu mới gạt bỏ được những điều tội lỗi của kẻ phạm, tất
nhiên không còn toan mưu rửa hận, tránh được sự kết oán gây thù, khỏi phải trả
vay nghiệp báo về mai hậu.
Nghĩ vì kẻ hạ sĩ có bụng dạ đàn em ưa sanh sự, thì người
thượng sĩ có khí tượng đàn anh không đáng tranh giành hơn thiệt, hầu lưu lại
mãi mối nhơn tình, đặng ngày sau còn thấy mặt nhau mới tốt. Đó là cái lợi, vừa
nhịn người, vừa được an thân, lại không mất niềm giao hảo.
Chẳng những vậy thôi, hễ càng rộng tình tha thứ để bố
đức thi ân, thì cái phúc của mình tự nó càng tài bồi. Nên cổ ngữ rằng: “Vạn sự
tùng khoan, kỳ phúc tự hậu” thì không mất phần ai cả.
Còn cái lợi khác, nếu gặp những trường hợp chướng ngại
nầy kia, người có trí nên tự xét và tìm hiểu những cái khuyết điểm trong cách xử
sự của mình hầu bổ khuyết ngay, tức là có dịp để mình liệu bề chánh kỷ. Nuôi
lòng lành, điều dữ tự nó tiêu tan, tha thứ lỗi người, không tha thứ lỗi mình, ấy
là thượng sách.
2. - Lợi cho kẻ khác:
Kẻ làm điều tội lỗi, hoặc vì dốt nát, hoặc vì mê si,
hay bởi tánh hung hăng không ai kiềm chế, hay bởi nhẹ dạ non lòng, dễ nghe lời
xúi dục hành động vô ý thức, một khi kẻ ấy được tha thứ, ắt sẽ hồi tâm không
tái phạm, nếu được nhiều lần tha thứ nhiều lúc ăn năn, kẻ nghịch kia sẽ trở nên
người bạn tốt. Ấy là chuyển họa vi phước, cho kẻ kia nhờ và cũng là bổn phận kẻ
sáng suốt, phải hạ mình chiều chuộng khoan dung, đặng dẫn lối người ám muội
trên đường chánh kỷ.
Vả chăng Đức Chí Tôn đã ban hành cho mỗi người một điểm
linh quang hằng sáng suốt, nhưng vì ngoại cảm xấu xa che lấp nên phải lu mờ, nếu
được ngoại cảm tốt lành xâm nhập phá tan màn hắc ám, chuyển hư thành nên, thì dầu
cho tiểu nhơn cũng trở thành quân tử.
Kết luận:
Ở trong cảnh giới hổn tạp phong ba nầy, mà muốn lập
thân không phải dễ. Vậy cái khuôn phép xử thế phải rộng rãi khoan dung, dầu cho
bị đau khổ tâm hồn, cũng xem như đi trên con đường bằng phẳng mới yên ổn được.
Không đau khổ làm sao biết thương yêu và tìm ra bản ngã? Bởi vậy cho nên phải hằng
nhớ rằng, chi chi cũng phải sẵn có niềm hòa khí, nét yêu thương mới có lòng tha
thứ. Thiếu tình thương yêu, ắt mất dạ khoan hồng, rồi thế nào "Dĩ đức phục nhơn" cho được?.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét