Đại Đạo Học Đường (大 道 學 堂) 5 / 5 - Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu & Bảo Thế Lê Thiện Phước.


THI HÀNH TÂN LUẬT
Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là quy Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, hầu làm cho nhơn sanh hiệp đồng, tứ hải nội giai chi huynh đệ. Sở dĩ sự quy hiệp nhứt này là điều cần thiết là bởi nhơn sanh hiện giờ bị nhiều tôn giáo làm cho quan niệm bất đồng, tư tưởng bất hợp, nên sanh nghịch lẫn nhau. Càng nghịch lẫn nhau, càng lôi cuốn nhau vào vòng tự diệt.
Nhưng cuộc tuần huờn xây chuyển không để vậy, mới có Đại Đạo hoằng khai, đặng cứu vớt cho kịp những kẻ hữu phần ra khỏi chốn mơ hồ lầm lạc. Lẽ dĩ nhiên cần chấm dứt từ nguồn xuất hiện cái nạn bất hòa giữa người khác tôn giáo như trên kia vừa phân giải, song le, chẳng vì sự thống hợp các tôn giáo mà phải trọn tùng cả Cựu Luật. Tất phải lập nền móng mới với quy điều mới cho phù hợp với dân trí, dân sanh hiện đang mạnh tiến trên đường duy vật, cùng đang mạnh trên đường khoa học. Nền móng mới là Pháp Chánh Truyền và qui điều mới là Tân Luật, cả hai bổ túc cho nhau để mở rộng cửa Đạo, độ dẫn kẻ hữu duyên gần Tiên Phật.

Tân Luật là kim chỉ nam, để cho Chức Sắc cầm quyền Hành Chánh Đạo noi theo đặng phổ thông Chơn Giáo.

Trong đó có ba thiên lớn như sau này:
I. - Đạo Pháp
II. - Thế Luật
III. - Tịnh Thất

I. - ĐẠO PHÁP:
Đạo Pháp có 8 chương và 32 điều.

1. - Chương I: Về Chức Sắc cai trị trong Đạo.
Chương này chú trọng về đường giáo dân quy thiện, và bảo hộ đời sống của nhân sanh trong khuôn viên đạo đức, không để cho chúng sanh phải bị hà khắc bởi luật Đời hay luật Đạo.

Hai chữ cai trị ở đây có nghĩa là trong phận sự hóa dân, Chức Sắc phải giữ gìn trách vụ mình thế nào cho trên đừng phạm quyền dưới, dưới chẳng lấn quyền trên và vùa giúp nhau cho nên phận.

Chức Sắc từ phẩm Giáo Tông trở xuống tới Giáo Hữu đều là người thay mặt cho Đức Chí Tôn tại thế, thì một như mười, mười như một, cả thảy hiệp làm một khối duy nhứt và giữ gìn khối ấy cho tinh anh mới xứng danh là Thánh Thể của Đức Chí Tôn tại thế. (Điều 1 tới Điều 6).

Lễ Sanh chưa phải là Chức Sắc vì là người đang dọn mình đặng bước vào hàng Chức Sắc. Sự không nhứt định số Lễ Sanh nhiều ít là bao nhiêu. Còn số Chức Sắc lại nhứt định có chừng, không hơn không thua trong mỗi bậc là điều rất hay để nâng cao phẩm giá của Chức Sắc.

Nên buộc trước phải vào hàng Lễ Sanh sau mới vào hàng Chức Sắc (điều thứ 7).

Ngoại trừ khi nào Đức Chí Tôn giáng cơ phong thưởng cho ai thì người ấy mới khỏi luật lệ này, kỳ dư muốn thăng phẩm phải tuân theo luật công cử (điều thứ 8).

Công cử là phép lựa chọn người xứng đáng hành quyền mà không mất sự công bình trong khi chọn lựa.

2. - Chương II: Về người giữ Đạo.
Chương này là chương mở rộng cửa Đạo đón tiếp nhơn sanh bằng cách để cho mọi người tùy phương tiện lập công bồi đức.

Đạo không bỏ ai, duy người không theo Đạo hay bỏ Đạo là tự mình liệu lượng.

Nếu người còn ở thế và giữ Đạo mà thôi, thì vào phẩm Hạ thừa. Phẩm Thượng thừa là phẩm dành cho những người đã xuất thế, trọn hiến thân cho Đạo. (điều 9 tới điều 15).

3. - Chương III: Về việc lập Họ.
Lập Họ là qui tụ các người trong bổn Đạo về một nhà chung trong địa phương mình, tức là Thánh Thất sở tại. Những người ấy đặt dưới sự ủng hộ của vị Chức Sắc làm đầu trong Họ. Vị này có nhiệm vụ hằng ngày khuyên nhủ chư Đạo hữu hồi đầu hướng thiện. Người còn có bổn phận binh vực kẻ dưới quyền mình không để cho ai hà hiếp được. (điều 16 tới điều 20)

Có vậy người cùng Họ mới biết nhau, và trợ giúp cho nhau khi hữu sự, ấy là mục đích của Đại Đạo.
4. - Chương IV: Về Ngũ giới cấm.
5. - Chương V: Về Tứ đại điều quy.

Hai chương này góp nhặt những điều trọng yếu, phải tuân hành đặng răn lòng sửa tánh cho nên người hiền lương nhân đức. Ấy là phương diệt trừ tâm phàm và thế vào bằng tâm đạo (điều 20 và điều 22).

6. - Chương VI: Về giáo huấn.
Chức Sắc truyền giáo phải là những người có học thức, mới có khả năng giao thiệp rộng rãi với Đời và Đạo. Vì đó trong Đạo có trường dạy chữ và huấn luyện Chức Sắc (điều 23 đến 25)

7. - Chương VII: Về hình phạt.
Lẽ dĩ nhiên tùng Đạo tức là tránh đường tội lỗi, để theo đường ngay chánh. Nhưng nên nhìn nhận rằng chẳng phải đầu hôm sớm mai rồi rửa sạch bợn trần, phủi hết tà tâm, mà phải lắm công rèn luyện mới được, dầu cho trong các tổ chức của Đời hay các cơ quan của Đạo, hễ có đông người ắt không khỏi xảy ra những việc bất bình, những điều xích mích. Đành rằng trong cửa Đạo chỉ dùng cam ngôn mỹ từ để xử sự cho ổn thỏa, điều hòa, song le khi gặp nghịch cảnh nan phân, thì phải nhờ quy điều răn sửa và ngăn ngừa tái phạm. Ấy là hình phạt vậy.

Hình phạt lập ra để tượng trưng sự nghiêm huấn đặng giữ gìn cộng ái hòa yêu hơn là để thực hành, mà nếu phải áp dụng đến nó là sự bất đắc dĩ đó thôi. Chừng ấy sẽ có Hội Công Đồng và Tòa Tam Giáo phân xử (điều 26 đến 31).

8. - Chương VIII: Về việc ban hành luật pháp.
Luật pháp của Đạo vốn có thực lực cứu nhơn độ thế, tái tạo hòa bình, nên Hội Thánh cần phổ biến cho đến chỗ đại đồng, mới thâu thập kết quả tốt đẹp (điều 32).

II. - THẾ LUẬT:
Thế luật gồm 24 điều, chuyên dạy về phương xử thế tiếp vật. Căn cứ trên nét yêu đương, trên niềm hòa hảo, người cùng chung một Đạo, phải nuôi nấng cái tình thù tạc vãng lai cho ra thiệt tướng và nồng hậu trong mọi dịp và mọi nơi. Chẳng luận trong dịp quan, hôn, tang, tế hay trong khi hoạn họa, tai ương thì cả thảy phải xúm nhau lo lắng như việc của một người. Vui buồn, nặng nhọc, mặn đắng, chua cay đều có nhau và trợ giúp cho nhau, thậm chí sự bảo trợ cho nhau phải phát khởi từ kẻ sơ sanh mới trọn Đạo giữa người cùng một chí hướng. Đấy là áp dụng Nho Tông để làm phương chuyển thế, tạo đời tệ ra đời nên. Làm người dữ thành người hiền, ấy là phục hưng thánh đức.

III. - TỊNH THẤT
Thiên này là thiên đưa người Đạo vào con đường đoạt Đạo. Đường này là đường thi hành những phần tinh ba của Cựu Luật Tam Giáo về mặt siêu hình. (điều 1 đến 8).

Trải qua ba thiên lớn trong Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chúng ta nhận thấy được trước hết Luật Pháp của Đạo Pháp trọn vẹn tuân y, sau đó là luật lệ xử thế, phải hoàn toàn áp dụng rồi sau rốt mới lo phần tịnh luyện, là phần cao siêu huyền bí của Đại Đạo.

Vậy thì người thật tâm hành Đạo phải làm thế nào cho được đắc Thế rồi đắc Pháp xong mới mong đắc Đạo.
Tịnh thất là nơi cuối cùng để đi đến mức thành công giải thoát.

THI HÀNH PHÁP CHÁNH TRUYỀN
VÀ BÁT ĐẠO NGHỊ ĐỊNH CỦA ĐỨC LÝ ĐẠI TIÊN

Pháp Chánh Truyền trong thời kỳ hoằng khai Đại Đạo là một chánh thể về mặt tôn giáo, do Đức Chí Tôn dùng huyền diệu cơ bút lập thành. Có Pháp Chánh Truyền mới dựng nên một Hội Thánh hữu hình để cai trị trong Đạo.

Hội Thánh này gồm có Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Trong hàng Chức Sắc Cửu Trùng Đài có ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tượng trưng Tam Giáo quy nguyên (Phật giáo, Tiên giáo và Thánh giáo).

Đài này cầm quyền thi hành luật lệ đặng chỉ bảo phương tu cho chư thiện tín.

Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự của 3 chi: “Pháp, Đạo và Thế” lo bảo thủ luật lệ và chơn truyền và vùa giúp cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài làm tròn nhiệm vụ.

Pháp Chánh Truyền còn là một nền tảng để tạo lập một đại nghiệp cho toàn sanh chúng cộng hưởng hạnh phúc, vật chất lẫn tinh thần, dưới sự chăm nom và bảo hộ của Hội Thánh. Cái siêu việt của Chánh Pháp là tạo phúc cho mọi người, mà không để phạm quyền lợi hay danh thể của một ai, cũng chẳng làm thất thứ loạn hàng, hay mất niềm hòa khí giữa số đông người mà thế thường không tránh khỏi.

Điểm trọng yếu để đi đến sự siêu việt, ấy là từ Chức Sắc Đại Thiên Phong dĩ chí tín đồ, mỗi vị đều có phận sự riêng biệt, nhưng cả thảy phận sự đều có tánh cách liên quan đến nhau, vì ảnh hưởng với toàn thể. Vì trọng trách như thế nên Chức Sắc Lưỡng Đài, Cửu Trùng và Hiệp Thiên cần tương liên mật thiết với nhau trên mọi hành tàng, mới không sơ sót trong sứ mạng. Như vậy, ngọn đèn Đạo mới chiếu khắp nơi, dầu ở nơi hẻo lánh, ở chốn xa xuôi đến đâu đi nữa, không một em út nào phải bị áp bức hay bỏ rơi mà Hội Thánh không hay biết.
Đó là kết giải đồng tâm để dìu độ nhau trên con đường giải khổ.

CỬU TRÙNG ĐÀI
(Nam Phái)
I. - Giáo Tông:
Trong Hội Thánh Cửu Trùng Đài có một phẩm tột bậc là phẩm Giáo Tông (1) là anh cả toàn Đạo. Người có quyền thay mặt Đức Chí Tôn, mà dìu dắt chư thiện tín trong đường Đạo và đường Đời, duy chỉ có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nói rõ hơn là người có quyền về phần hữu hình là phần Đời, còn về phần hồn là phần Thiêng Liêng hay phần Đạo thì được phép cầu rỗi chớ không có quyền siêu rỗi là quyền tối thượng của Bát Quái Đài. Vả lại sự phân quyền Thiêng Liêng và hữu hình trong thời kỳ khai Đạo lần ba nầy, là một cách độ đời, với phương pháp chí công và linh hiệu.

Chí công vì đời văn minh tiến hóa thường không nhìn nhận những gì bất hợp lý đương nhiên, thì không gì hay hơn là giao cho tay phàm độ dẫn người phàm, và chỉ có quyền về mặt phàm trần.

Linh diệu vì tùy theo công quả trong đời tu ở hạ giới mà Thiêng Liêng định vị ở cõi thượng thiên, không sai một mảy may nào cả. Và cũng tùy theo hành tàng ở thế gian mà định cho linh hồn được siêu thăng hay giáng đọa.

(1) Pháp Chánh Truyền chánh văn: Giáo Tông là anh cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong trường Đạo và đường đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung đặng cầu rỗi cho các con.

II . - Chưởng Pháp:
Như trên đã giải từ phẩm Chưởng Pháp sắp xuống Lễ Sanh trong mỗi phẩm đều có ba phái: “Thái, Thượng, Ngọc, tượng trưng Tam Giáo. Đã quy nguyên Tam Giáo thì pháp luật của Tam Giáo tuy phân biệt nhau song trước mặt Đức Chí Tôn vẫn coi như một. Vậy thì một thành ba, mà ba cũng như một. (P.C.T)

Vì lẽ đó ba vị Chưởng Pháp tuy thay mặt ba Phái khác nhau mà phận sự như nhau và trách nhiệm như nhau.

Chúng có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc nơi Giáo Tông truyền xuống, hoặc nơi Đầu Sư dâng lên. (P.C.T) Như hai đàng không thuận thì Chưởng Pháp dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Đài cầu Thầy giáng xuống sửa lại hay là tùy ý lập luật lại. (P.C.T)

Chẳng những về mặt luật lệ mà luôn cả kinh điển cũng phải dâng cho Chưởng Pháp xem xét trước lúc phổ thông, đặng người loại trừ những kinh luật nào làm hại phong hóa. Thoảng như gặp luật Đời quá nghiêm khắc, người cũng phải can thiệp xin chế giảm cho nhân sinh bớt khổ.

Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng và ba ấn phải có trên mặt luật mới đặng thi hành. (P.C.T)

Buộc cả tín đồ phải vùa sức với Chưởng Pháp mà hành sự trước mặt luật Đời. Thầy khuyên các con phải xúm nhau vùa giúp chúng nó. (P.C.T)

III. - Đầu Sư:
Về phần Đầu Sư thì có ba vị, mỗi vị thay mặt một Phái trong Nho, Thích, Đạo.

Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ Thầy (P.C.T). Nó đặng quyền lập luật song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn (P.C.T). Luật lệ ấy lại phải xem xét một cách nghiêm nhặc, coi phải hữu ích cho nhơn sanh chăng. Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xem xét trước khi phê chuẩn (P.C.T).

Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy (P.C.T). Như thảng Luật lệ nào nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng cầu xin hủy bỏ. (P.C.T)

Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy, mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xem xét lại nữa. (P.C.T)

Ba chi tuy khác chớ quyền lực như nhau. Chúng nó có ba ấn riêng. Mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à! (P.C.T)

Thầy khuyên các con phải thương yêu nó, giúp đỡ nó. Thầy dặn các con như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó. (P.C.T)

IV . - Chánh Phối Sư và Phối Sư:
Phối Sư mỗi phái là 12 người, cộng là 36. Trong 36 vị ấy có 3 vị Chánh Phối Sư. (P.C T)

Ba vị Chánh Phối Sư đặng phép thế quyền cho Đầu Sư, song không đặng quyền cầu phá luật lệ. (P.C.T)

Chiếu Nghị Định thứ hai của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930), Chánh Phối Sư thay mặt cho Đầu Sư để cầm quyền Hành chánh mà thôi .

Chiếu Nghị Định thứ ba của Ngài, thì Chánh Phối Sư và Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh .

Chiếu Đạo Nghị Định thứ tư thì :
1 - Phận sự của Thượng Chánh Phối Sư là xem xét các nơi và chăm nom Đạo hữu, thay mặt cho toàn Đạo mà giao thông cùng Chánh phủ và cả tín đồ. Giáo dục nhơn sanh, Chủ toạ Hội Nhơn Sanh.

2 - Phận sự của Ngọc Chánh Phối Sư là sửa trị cả Chức Sắc và cả tín đồ. Buộc Chức Sắc hành sự y theo chân truyền Hội Thánh. Cầm quyền tạp tụng.

3 - Phận sự của Thái Chánh Phối Sư là lo về tài chánh. Định lương hướng cho Chức Sắc Thiên Phong và điều độ Chức Sắc hành Đạo tha phương. Chủ toạ Hội Thánh.

V. - Giáo Sư:
Giáo Sư có 72 người, mỗi Phái có 24 người. Giáo Sư là người dạy dỗ chư môn đệ trong đường Đạo và đường Đời. (PCT)
Chúng nó cầm sổ bộ của cả tín đồ. (P.C.T.)
Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em. (P.C.T.)
Chúng nó phải chăm nom về sự tang hôn của mỗi đứa. (P.C.T.)

Chúng nó phải thân cận với mọi môn đệ, như anh em ruột một nhà cần lo giúp đỡ, nghe à! (P.C.T.)
Như tại Châu Thành lớn thì mỗi đứa đặng quyền cai quản, cúng tế Thầy như Đầu Sư và Phối Sư. (P.C.T.)

VI. - Giáo Hữu:
Giáo Hữu là người để phổ thông chơn đạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ. (P.C.T.)
Ba ngàn Giáo Hữu, chia ra đều mỗi phái là một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. (P.C.T.)
Chúng nó đặng phép hành lễ khi làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. (P.C.T.)
Điều chi của chúng nó xin, thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn hơn hết. (P.C.T.)
Như điều chi mơ hồ, thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm dượt. (P.C.T.)

Chiếu Đạo Nghị Định thứ ba của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930). Giáo Hữu làm Đầu một Họ.

VII. - Lễ Sanh:
Lễ Sanh là đứa có hạnh, lựa chọn trong chư môn đệ để hành lễ. (P.C.T.)
Chúng nó đặng đi khai đàn cho mọi tín đồ (P.C.T.) Thầy dặn các con rằng Lễ Sanh người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. (P.C.T.)

Như đặng hàng Lễ Sanh mới mong được bước qua hàng Chức Sắc, kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à! (P.C.T.)

Chiếu Đạo Nghị định thứ ba của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. Lễ Sanh làm Đầu một Quận.

VIII.- Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự:
Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự là những chức việc do Đức Lý Giáo Tông lập thành.

Thông Sự là chức việc do Đức Hộ Pháp lập thành.
Chức việc là người phụ tiếp công việc của Đầu Tộc trong phần địa phận của Đầu Tộc giao phó cho, và phải tùng lịnh vị nầy mà hành sự.

Bổn phận của Chánh và Phó Trị Sự đã được Đức Lý Giáo Tông chỉ giáo như sau đây:

“Chánh Trị Sự là người thay mặt cho Lão, làm anh cả của chư tín đồ trong địa phận của nó. Lão muốn thế nào cho Lão có mặt "khắp nơi tận ven trời cùng góc bể".

"Trong nhơn sanh hàng trí thức thì ít, hạng ngu muội thì nhiều, nếu chúng ta không có đủ sức điều đình thì khó mà rải chơn lý Đạo khắp nơi cho đặng".

"Càng thân cận với nhơn sanh, lại càng chịu nhiều sự khó khăn rắc rối. Chúng ta phải liệu phương nào mà trừ diệt những sự khó khăn ấy, khi mới nảy sanh ra, thì nền Đạo mới khỏi loạn lạc".

"Vậy Lão xin Hiền Hữu (Hộ Pháp) ban quyền cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ sửa răn, thay quyền cho chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã".

Bổn phận của Thông Sự là chăm nom hành vi của Chánh và Phó Trị Sự về luật lệ mà thôi. Người không được để cho nhơn sanh bị áp bức bởi lòng vô nhơn đạo hay lẽ bất công của Chánh và Phó Trị Sự trong phần địa phận của mình.

Chiếu Đạo nghị định thứ ba của Đức Lý Giáo Tông ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22/11/1930) Chánh Trị Sự làm Đầu một làng, Phó Trị Sự và Thông Sự làm đầu một xóm.

Đạo Phục:
Đạo phục của Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam phái, xin xem chú giải Pháp Chánh Truyền.

LUẬT CÔNG CỬ

Hồi tiền khởi trong thời kỳ khai Đạo, Đức Chí Tôn lập Hội Thánh bằng cách ân phong phẩm vị cho những người có phận sự phổ thông chơn đạo và giáo hóa nhơn sanh cải ác tùng lương, hồi đầu hướng thiện.

Ngày nay luật pháp của Đạo được ban hành khắp nơi thì sự thăng phẩm phải do luật công cử để tuyển tài chọn đức.

Luật công cử định rằng:
Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ ba vị công cử nhau. (P.C.T.)
Phối Sư muốn lên Đầu Sư thì 36 vị công cử. (P.C.T.)
Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì 72 vị kia xúm nhau công cử. (P.C.T.)
Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư thì nhờ 3.000 vị kia xúm nhau công cử. (P.C.T.)
Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử. (P.C.T.)

Môn Đệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Đệ xúm nhau công cử. Kỳ dư Thầy giáng cơ cho người nào thì mới khỏi luật ấy mà thôi. (P.C.T.)

Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư tranh đặng. Song phải chịu cho toàn Môn Đệ công cử mới đặng. Kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật ấy. (P.C.T.)

Về chức việc thì Phó Trị Sự và Thông Sự được tranh chức Chánh Trị Sự còn Đạo hữu trong mỗi ấp thì được tranh chức Phó Trị Sự và Thông Sự.

Luật công cử phải thi hành cho toàn cả Chức Sắc và Chức việc Cửu Trùng Đài Nam phái và Nữ phái.
NỮ PHÁI

Nữ phái do Đức Lý Giáo Tông lập thành. Trước hết Ngài ban sắc phục cho Nữ phái như vầy!
" Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái, nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp ".

Xin xem chú giải Pháp Chánh Truyền.
Kế đó Ngài định quyền hành của Chức Sắc Nữ phái như dưới đây:

Đầu Sư:
" Nữ phái phải tùng Đầu Sư Nữ phái. Song Đầu Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp ".

"Đầu Sư Nữ phái chịu công cử theo Luật Hội Thánh ban hành. Theo Luật lệ Hội Thánh phân xử về đường Đời và đường Đạo".

Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư, Giáo Hữu, Lễ Sanh và Chức việc nữ phái:
Tuy Đức Lý Giáo Tông không dạy về quyền hành của chư vị Chức Sắc và Chức việc Nữ phái từ Chánh Phối Sư dĩ hạ, nhưng nên hiểu rằng quyền hành và phận sự của Nam phái thế nào thì Nữ phái cũng y một thể. Song hành sự dưới quyền Nữ Đầu Sư và chi chi cũng phải tùng lịnh Người mà làm tròn nhiệm vụ.

Cũng như Nam phái, Chức Sắc và chức việc Nữ phái, muốn thăng phẩm phải do luật công cử của Hội Thánh đã định. Duy hai phẩm Giáo Tông và Chưởng Pháp dành riêng cho Nam phái mà thôi.

HIỆP THIÊN ĐÀI

Hiệp Thiên Đài là nơi làm trung gian giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng Đài, hoặc nói một cách khác, là nơi làm trung gian để hiệp Trời và Người. Vì lẽ rất dễ hiểu là Thiêng Liêng (Trời) phải nhờ cơ bút đặng phổ hóa chúng sanh (Người) mà cơ bút xuất hiện nơi Hiệp Thiên Đài.

Nếu không có Hiệp Thiên Đài thì cơ hữu hình là nhơn sanh nhờ đâu mà thọ giáo pháp của cơ vô vi là Trời, nên Đức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền có chỉ dạy phận sự Thiêng Liêng và phận sự phàm trần của Hiệp Thiên Đài như sau nầy:

A. - Phận sự Thiêng Liêng:
" Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn còn." (P.C.T.)

" Thầy đã nói: Ngũ chi Đại Đạo bị quy phàm là vì khi trước Thầy giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo, mà lập ra phàm giáo. Nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa." (P.C.T.)

Vì lẽ trên đây chính Đức Chí Tôn cầm quyền Giáo Chủ, dùng huyền diệu cơ bút để mở Đạo kỳ ba, và Chức Sắc Hiệp Thiên Đài là người thủ cơ thọ giáo, rồi truyền xuống cho Chức Sắc Cửu Trùng Đài phổ biến và thi hành.

" Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới, Lục thập thất Địa cầu và Thập điện Diêm cung để cầu siêu cho nhân loại." (P.C.T.)

Giáo Tông là người thay mặt cho nhơn sanh muốn cầu siêu cho nhân loại phải nhờ cửa Hiệp Thiên Đài làm mối thông công, chớ chẳng đi nơi nào khác được.

B. - Phận sự phàm trần:
"Thầy đã nói phận sự Thiêng Liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa." (P.C.T.)

" Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Phần của Hộ Pháp chưởng quản phần Pháp." (P.C.T.)
" Thầy lại chọn Thập nhị Thời quân, chia ra làm ba:
" Phần của Hộ Pháp chưởng quản về Pháp thì:
Bảo Pháp.
Hiến Pháp.
Khai Pháp.
Tiếp Pháp. " (P.C.T.)

Lo bảo hộ luật Đời và luật Đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết. " (P.C.T.)
" Thượng Phẩm thì quyền về phần Đạo, dưới quyền:
Bảo Đạo.
Hiến Đạo.
Khai Đạo.
Tiếp Đạo." (P.C.T.)

Lo về phần Đạo nơi Tịnh thất, mấy Thánh thất, đều xem sóc chư Môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc khổ cho đặng. (P.C.T.)

" Thượng Sanh thì lo về phần Đời. dưới quyền có:
Bảo Thế.
Hiến Thế.
Khai Thế.
Tiếp Thế "  (P.C.T.)

"Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Đạo. Thầy cho các con biết trước rằng: hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt." (P.C.T.)

Chiếu Đạo Nghị Định thứ nhất của Đức Lý Giáo Tông, ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (22-11-1930), điều thứ nhứt:
" Cả Chức Sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải tuân y Pháp Chánh Truyền và Tân Luật mà hành Đạo theo trách nhiệm của mỗi người. Lớn chẳng đặng giành quyền nhỏ, nhỏ chẳng đặng lấn quyền lớn ".

Do theo Đạo Nghị định nầy Chức Sắc Hiệp Thiên Đài tuy không cầm quyền cai trị Đạo, nhưng phải tuân y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền là Thiên điều tại thế, có hiệu lực về toàn thể Đạo, chớ không riêng về một ai cả. Nếu chẳng vậy thì Chức Sắc Hiệp Thiên Đài không phải là người đảm đương trọng trách bảo thủ Chơn Truyền và Luật Pháp.

Đạo phục:
(Xin xem Chú giải Pháp Chánh Truyền).

THI HÀNH ĐẠO LUẬT NĂM MẬU DẦN
(1938)

Bộ Đạo Luật ngày Rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (14/2/1938) do Hội Thánh lập thành, là kết quả của một công trạng đầy dẫy sự hiệp trí hòa tâm, của toàn Chức Sắc hữu trách thời ấy, để xướng xuất những phương pháp thực hành các điều trong Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.

Điều trọng yếu của bộ Luật nầy, là dựng nên một Đại Nghiệp Đạo cho thế hệ hiện kim làm nguồn cội di truyền nền Chánh Giáo, và cho thế hệ tương lai quay về định hướng ấy đặng thấu triệt lẽ Đạo.

Trong Đạo Luật năm Mậu Dần (1938 dl) có cả thảy 4 chương như dưới đây:
A. - Chỉnh đốn nền Hành Chánh Đạo cho tận mỹ hơn.
B. - Tạo lập cơ quan Phước Thiện
C. - Tạo lập cơ quan Phổ Tế
D. - Lập Tòa Đạo

A. - HÀNH CHÁNH ĐẠO

Khoản 1. - Cầu phong.
Khoản 2. - Thăng Thưởng

Cầu phong và cầu thăng phải đủ 5 năm công nghiệp và Quyền Vạn Linh công nhận.

Chiếu Thánh giáo Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm ngày 21 tháng 2 năm Mậu Tuất (9-4-1958), điều kiện 5 năm công nghiệp chưa phải đủ để cầu phong hay thăng thưởng mà còn phải cập thêm 4 điều kiện sau nầy:

a. - Phương diện hạnh đức.
b. - Trình độ học thức.
c. - Tinh thần phục vụ.
d. - Khả năng giáo hóa nhơn sanh.

Chẳng phải riêng cho Nam Phái, mà sự cầu thăng của Nữ Phái cũng do nguyên tắc trên đây, cho tới ngày Cửu Trùng Đài hoàn toàn thực hiện luật lệ công cử của Đạo.

Khoản 3. - Hàm phong: phải quá lục tuần
Khoản 4. - Truy phong: phải có Quyền Vạn Linh công nhận.
Khoản 5. - Quyền Vạn Linh

Hễ gọi rằng Quyền Vạn Linh sanh chúng, tất thị phải toàn cả Chức Sắc, Chức việc và Đạo hữu Nam Nữ hiệp một mới có quyền ấy.

Vì vậy Đạo Luật buộc phải tổng hợp cả ba Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mới đủ điều kiện lập thành Quyền Vạn Linh. Những biểu quyết nào của Quyền Vạn Linh đã định đều có tánh cách chung thẩm, và đầy đủ hiệu lực như một bổn Luật thì toàn Đạo phải tuân hành.

Điều thứ IV đến Điều thứ VIII và nối tiếp Điều thứ XII, XIII, XVI và XVII là những điều ấn định sự tạo tác Tòa Thánh, các Dinh Thự, Hạnh Đường… và chỉ vẽ phương châm hành Đạo cho đắc sách.

B. - PHƯỚC THIỆN
Điều thứ 10 và thứ 11: Nghĩ vì mục đích cao cả của Đại Đạo là tạo mối thương yêu, gây tình thân thiện từ trong tiểu gia đình ra ngoài xã hội, và lan ra cùng vạn chủng, nên Hội Thánh đặt ra cơ quan Phước Thiện có phận sự mở lối đón đường cho kẻ cô đơn yếu đuối, tật nguyền được dễ dàng dựa cửa từ bi làm nơi giải khổ.

Đặc điểm của cơ quan Phước Thiện là chẳng vụ về sự kêu gọi lòng hảo nghĩa của bá gia, để có của nuôi lại bá tánh, mà tự mình phải dụng trí bồi công, làm cho ra của để cứu khổ phò nguy. Vì lẽ đó Hội Thánh dành cho cơ quan này những cơ mưu kinh tế như lương điền, thương mãi, công nghệ, để sanh lợi, hầu làm việc hữu ích cho xã hội trong cơn hoạn nạn.

THẬP NHỊ ĐẲNG CẤP THIÊNG LIÊNG

Không cầm quyền Hành Chánh Đạo, nhưng vì đại công tạo âm chất cứu đời, Chức Sắc trong Cơ Quan Phước Thiện được thăng thưởng theo Thập nhị đẳng cấp Thiêng Liêng và mỗi cấp tương đương với đức tánh của mỗi người. Ai vẹn giữ đức tánh cho tới trọn lành sẽ đoạt Phật vị.

Về thể lệ Hội Thánh và Bàn Cai Quản xin xem bộ Đạo Luật.

C. - PHỔ TẾ:
Theo Đạo Luật năm Mậu Dần, thì trách vụ của cơ quan Phổ Tế là cứu vớt hoặc độ rỗi những kẻ lạc bước lỗi lầm, cùng an ủi khuyên lơn những người bị luật pháp buộc ràng, mà đành phế vong bổn phận.

Vả chăng Chức Sắc trong cơ quan Phổ Tế không có phận sự hành quyền về Hành Chánh Đạo và trách vụ như trên vừa kể lại trực thuộc cơ quan Hành Chánh Đạo nên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, nhơn khi tái thủ phận sự ngày rằm tháng tư năm Đinh Dậu (14/5/1957), quyết định trong phiên Đại Hội tại Giáo Tông Đường ngày 17 tháng 4 năm Đinh Dậu (16/5/1957) Vi bằng số 1 thay thế Cơ Quan Phổ Tế bởi Cơ Quan Truyền Giáo.

Hiện giờ Hội Thánh đang đào luyện Chức Sắc để bổ dụng vào cơ quan nầy và một ngày gần đây sẽ có người đủ khả năng vén màn hắc ám, độ kẻ trầm luân và dẹp lối mơ hồ của kẻ sưu tầm chơn lý.
Nội quy Cơ Quan Truyền Giáo sẽ định sau.

D. - TÒA ĐẠO
Trách vụ của Tòa Đạo là thay mặt Hiệp Thiên Đài giữ lẽ công bình, không để cho ai được phạm luật pháp của Đạo.

Xét vì danh từ Tòa Đạo không được thích hợp với thiệt nghĩa của nó nên sau này sửa lại là Bộ Pháp Chánh. Nhưng Hội Thánh Hiệp Thiên Đài nhận thấy cái cần chỉnh đốn nền tư pháp của Đạo cho được châu đáo hơn, nên tạm giao trách vụ pháp chánh cho Hòa Viện đảm nhận, từ đây Hòa Viện sẽ chiếu theo điều luật sử đoán mà hành sự. Điều luật này đã được ban hành do Đạo Lịnh số 24/ĐL ngày 11 tháng 4 năm Mậu Tuất (29/5/1958).

TÒA TAM GIÁO
HỘI CÔNG ĐỒNG
THẬP HÌNH ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG

TÒA TAM GIÁO
- Như đã giải trong bài Hành Chánh Đạo số 3 về hình phạt, chư Chức Sắc phạm luật pháp trong Đạo thì đem trước Tòa Tam Giáo phân xử.

Tòa này do Đức Giáo Tông làm đầu, ba vị Chưởng Pháp nghị án, một vị Đầu Sư phái mình về phần dâng biểu buộc tội và một Chức Sắc Hiệp Thiên Đài làm Trạng sư.

Tòa Tam Giáo có quyền xử giáng cấp hay là trục xuất (Tân Luật, chương VII điều 29, 30 và 31).

HỘI CÔNG ĐỒNG
- Trong bổn Đạo, ai phạm tội trọng hay là tái phạm thì đệ lên cho Hội Công Đồng phán đoán. Hội này do một vị Đầu Sư hay Phối Sư phái mình làm đầu và hai vị Chức Sắc hai phái kia nghị án. Hội Cộng Đồng được quyền trục xuất (Tân Luật, chương VII điều 27).

Chiếu theo điều 27 trên đây những kẻ phạm tội từ hàng Lễ Sanh xuống tới Đạo Hữu đều do Hội Công Đồng phân xử.

Quyền xữ đoán của người làm đầu trong Họ: (Khâm Châu, Đầu Tộc).

Trong bổn Đạo, ai có phạm Luật pháp về mấy khoản nhẹ thì về quyền người làm đầu trong Họ phân xử (Khâm Châu, Đầu Tộc) và răn phạt quỳ hương, tụng kinh Sám Hối (Tân Luật, chương VII điều 26).

Về đường đời, bổn đạo có xích mích nhau cũng phải đến cho người làm đầu trong Họ phân giải (Tân Luật, chương VII, điều 28).

THẬP HÌNH ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG
Thập hình của Đức Giáo Tông, là những hình phạt cân xứng với mỗi tội phạm pháp, hay phạm luật của Đạo.
Về Pháp là Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.
Về Luật là Tân Luật và luật lệ Hội Thánh.

A.- Phạm pháp :
Đệ nhứt hình: Trục xuất về các tội:
1. - Không tuân Pháp Chánh Truyền.
2.- Phản loạn chơn truyền.
3. - Chia phe phân phái và lập Tả Đạo Bàn Môn

Đệ nhị hình: Giáng cấp tới Tín đồ hay là buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc về tội,
1. - Thuyên bổ không đi.
2. - Không trọn phế đời hành Đạo.
3. - Bỏ bê phận sự.

Đệ tam hình: Giáng cấp từ 1 đến 2 cấp về các tội:
1. - Làm nhơ danh Đạo..
2. - Mượn danh Đạo tạo danh Đời.
3. - Lợi dụng danh Đạo làm điều bất chánh.

Đệ tứ hình: Ngưng quyền từ 3 đến 5 năm về các tội:
1. - Lấn quyền, giành quyền.
2.- Phạm thượng.
3.- Tự chuyên cải sửa chơn truyền.

Đệ ngũ hình: Ngưng quyền từ 1 đến 3 năm và phạt vào Tịnh Thất về các tội:
1. - Mê hoặc chúng sanh.
2. - Cám dỗ.

B. - Phạm luật:
Đệ nhứt hình: Trục xuất về tội:
1. - Không tuân Tân Luật và các luật lệ Hội Thánh.
2. - Công kích Hội Thánh.
3. - Nghịch mạng.

Đệ nhị hình: Giáng cấp tới Tín đồ hay là buộc hành Đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam quốc về tội:
1. - Tư thông.
2. - Dấy loạn chúng sanh.

Đệ tam hình: Giáng cấp từ 1 đến 2 cấp về các tội.
1. - Tham lam tài chính.
2. - Giả mạo văn tự.

Đệ tứ hình: Ngưng quyền từ 3 đến 5 năm về các tội:
1. - Khi lịnh Hội Thánh.
2. - Lập quyền riêng.

Đệ ngũ hình: Ngưng quyền từ 1 đến 3 năm và phạt vào tịnh Thất về tội: Phạm Ngũ Giới Cấm.
Đệ lục hình: Vào Tịnh Thất từ một tháng đến một năm mà còn hành chánh như thường về tội: Cương ngạnh.
Đệ thất hình: Thuyên bổ đi nơi khác chỗ của kẻ phạm đương hành Đạo về tội: Phạm Tứ Đại Điều Quy.

Đệ bát hình: Triệu hồi về Tòa Thánh học Đạo về các tội:
1. - Bê trễ phận sự.
2. - Biếng nhác.

Đệ cửu hình: Phải ăn năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh, về các tội:
1. - Ganh ghét.
2. - Hung bạo.
3. - Đố kỵ.
4. - Xu phụ.

Đệ thập hình: Hầu người có đức hạnh do Hội Thánh định đặng cầu học Đạo về tội: Phạm Thế Luật.

a. - Gia án: Những vị nào đã bị luật Đời trừng trị tùy theo tội hình nặng nhẹ, Hội Thánh sẽ chiếu theo Thập Hình nầy mà răn phạt thêm nữa.

b. - Ân xá: Những vị nào phạm tội phải mất phẩm vị Thiên phong mà muốn cầu xin phục chức, thì phải nhờ quyền Vạn linh ân xá mới được, sau khi Hội Thánh có đủ bằng chứng kẻ phạm đã biết ăn năn chừa tội và lập được công nghiệp phi thường đáng cho phục chức đoái công chuộc tội.

Nghĩ vì hình phạt đặt ra để ngăn ngừa loạn lạc, nghiêm trị tà tâm, nhưng xét trong Thập Hình Đức Lý Giáo Tông không có hình phạt nào làm phương hại đến hình hài nhục thể của kẻ phạm và chỉ là hình phạt về mặt tinh thần. Song le, chẳng vì đó mà người trong bổn đạo lại khinh thường bổn phận hay bán đồ nhi phế cho đặng.

Điều quan hệ đáng lưu tâm hơn hết là một khi kẻ nào bị trục xuất thì kể như linh hồn kẻ ấy không còn phương siêu rỗi nữa.

CÁCH HÀNH QUYỀN ĐỐI VỚI
ĐẠO & ĐỜI

Bác ái và công bình là yếu tố của Tạo Đoan hằng sử dụng để điều hành sự vận chuyển của Vũ Trụ trong vòng trật tự của bốn mùa mà phò trị cuộc tấn hóa của nhơn sanh trong khuôn viên đạo đức thanh bình.

Nhơn buổi Đại Đạo hoằng khai, Hội Thánh cũng căn cứ trên nền tảng công bình và bác ái mà làm phương cứu khổ về mặt Đời và phổ truyền Chánh giáo về Đạo.

Với sứ mạng Thiêng Liêng trọng yếu như thế, Hội Thánh phải tổ chức nhiều cơ quan cộng đồng hành sự mới có đủ khả năng truyền giáo và giữ vững Đạo quyền như đã thành lập Cửu viện Nội Chánh, Cơ Quan Phước Thiện, Bộ Pháp Chánh, v.v…

Nên hiểu rằng quyền Đạo là quyền của Đức Chí Tôn ân tứ cho Hội Thánh, để có đủ phương tiện cho Chức Sắc kềm chế lẫn nhau trên con đường Đạo và đường Đời, hầu giữ vẹn Thánh Thể của Đức Ngài tại trần thế. Thoảng như hiểu khác là lấy quyền làm lịnh, trợ oai, đặng buộc tha nhơn quy phục, thì quyền ấy sẽ trở thành một món lợi khí lôi cuốn kẻ lạm quyền ấy vào nơi tội lỗi. Quyền Đạo khác với quyền Đời có bấy nhiêu thôi.

CÁCH HÀNH QUYỀN ĐỐI VỚI ĐẠO

I. - Cửu viện Nội Chánh tại Tòa Thánh:
Như trên kia đã giải, Nội Chánh là nơi tập trung tất cả năng lực của Hội Thánh để xây dựng nghiệp Đạo và điều hành sự tấn hóa của nhơn sanh về mặt tinh thần cùng là đào tạo một đời sống mới là đời sống tri túc về mặt vật chất. Vì vậy nên Nội Chánh gồm có Cửu viện như sau:
1. - Hộ viện.
2. - Lương viện.
3. - Công viện.

Dưới quyền điều khiển của vị Chánh Phối Sư Phái Thái.
4. - Học viện.
5. - Y viện.
6. - Nông viện.

Dưới quyền điều khiển của vị Chánh Phối Sư Phái Thượng.
7. - Hòa viện.
8. - Lại viện.
9. - Lễ viện.

Dưới quyền điều khiển của vị Chánh Phối Sư Phái Ngọc.
Ba vị Chánh Phối Sư ba Phái làm đầu Cửu viện nắm trọn quyền điều khiển trong tay, thì trách nhiệm chia đồng và guồng máy Hành Chánh Đạo được mạnh tiến là nhờ tài đức của ba vị ấy, còn được điều hòa cử động là do tận lực tận tâm của chư vị Thượng Thống, Phụ Thống và Nhơn viên toàn Viện.

II. - Tứ vụ Thánh Thất địa phương:
Thánh Thất địa phương là những Đền Thờ ở các Tỉnh lỵ biểu hiện cho Đền Thờ lớn là Tòa Thánh hay là Tổ Đình tại Thánh Địa (Tây Ninh).

Thể theo những tổ chức Trung ương ở Tòa Thánh trong địa hạt Thánh Thất, Hội Thánh có lập một Ban Tứ Vụ để giúp sức cho vị Đầu Tộc có đủ phương tiện giữ gìn nghiệp Đạo sở tại.

Ban Tứ vụ gồm có:
1. - Lễ vụ lo về lễ nghi cúng kiến.
2. - Công vụ chuyên về tạo tác tu bổ.
3. - Hộ vụ giữ tài chánh.
4. - Lương vụ lo việc ăn cho Chức Sắc và nhơn viên trong Thất.

Ban Tứ vụ đặt dưới sự chăm nom của vị Đầu Tộc. Vị này lựa chọn nhơn viên phụ trách hoặc trong hàng chức việc đã mãn nhiệm kỳ hoặc trong hàng Đạo hữu có đủ hạnh kiểm và tinh thần phục vụ.

III. - Chức Sắc hữu trách tại vùng Thánh Địa:
Châu vi Thánh Địa ngày nay được mở mang trên một diện tích khá rộng, đạt thành 2354 mẫu về phần ngoại ô và 90 mẫu về phần nội ô.

Với một số dân cư toàn là Đạo hữu hơn hai trăm ngàn người và nhiều kiều lộ lưu thông tứ hướng thêm 4 cái chợ trong đó Long Hoa Thị là trọng đại hơn hết, vùng ngoại ô Thánh Địa tự nhiên trở thành một đô thị tôn giáo mà người người đều qui về một lối tu thân hành thiện.

Ngoại ô Thánh Địa đặt dưới quyền vị Khâm Thành làm Đầu và 13 vị Đầu Phận Đạo chăm nom các Bàn Trị Sự của 107 Hương Đạo. Phải đứng vào hàng Giáo Sư mới được đảm nhiệm chức vụ Khâm Thành. Để phụ tiếp Vị nầy về giấy tờ văn kiện có một vị do Khâm Thành lựa chọn trong hàng Giáo Hữu.

Ngoài ra, Hội Thánh còn đặt một Ban Huấn Đạo tới lui thăm viếng chư Đạo hữu và dìu dắt họ vào đường ngay lẽ chánh.

IV. - Chức Sắc hữu trách ở các địa phương:
Cho hay Tôn chỉ của Đại Đạo là độ rỗi nhơn sanh khắp cả hoàn cầu, chớ chẳng riêng về một xứ hay một dân tộc nào, duy Việt Nam là xứ đầu tiên được hạnh ngộ Chơn giáo thì lấy làm may mắn cho Quốc dân cùng Quốc thể. Kế đó Đại Đạo đã được truyền bá ra ngoại quốc và được nhiều nước hoan nghênh tin tưởng như Nhựt Bổn, Trung Hoa Dân Quốc, Miên, Lào, Thái Lan, Pháp Quốc, Bỉ và Thụy Điển. Rồi đây lần lượt cờ Đạo sẽ phấp phới khắp cùng vạn quốc và Tòa Thánh Tây Ninh sẽ là một danh cảnh tôn nghiêm tiếp đón các sắc du khách mộ Đạo hành hương hiến lễ.

Ngộ nghĩnh thay là khi xưa người ta phải khó khăn đi tìm Đạo, còn khi nay Đạo lại phải nặng nhọc đi tìm người, thật là một điều hi hữu. Song le, kẻ nào chê bỏ hay rẻ khinh thì rất rủi cho kẻ ấy, Hội Thánh đã phái Chức Sắc thân hành đến mọi nơi trong bổn xứ hầu gieo mối Đạo Trời. Mang Đạo đi cảnh tỉnh nhơn sanh cải ác tùng lương, chư vị nầy không được để sót một thửa đất nào, dầu xa xăm hẻo lánh đến đâu, mà còn thấp thoáng bóng người chưa biết Đạo. Như vậy cho trọn câu tận độ chúng sanh, trong thời kỳ Đức Chí Tôn phát hạ hồng ân đại xá cho nhơn loại.

Ở các địa phương, vị Khâm Châu là người thay mặt Hội Thánh làm đầu một Tỉnh Đạo. Đầu Tộc là người làm đầu một Quận Đạo và Bàn Trị Sự làm đầu Hương Đạo. Phận sự của ban nầy là phụ tiếp nhị vị Khâm Châu Đạo và Đầu Tộc Đạo về phương diện thường xuyên thân cận với chư Đạo hữu. Thế thì nói riêng về tín đồ không ai mất phần giáo hóa và bảo hộ của Hội Thánh, và nói chung về nhơn sanh, thì không ai còn để lời rằng không biết Đạo. (Nhơn năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhơn).

Bộ máy Hành Chánh Đạo từ gốc là Tòa Thánh đến làng mạc là ngành được hoàn thiện cơ cấu như trên là một việc, còn đào luyện Chức Sắc đủ tài đức vận chuyển bộ máy là một việc khác.

V. - Đào luyện Chức Sắc hành quyền:
a. - Bổn phận đối với cá nhân mình.

1. - Trình độ học thức:
Dầu nam hay nữ muốn vào hàng Chức Sắc phải có văn bằng khoa mục từ khi còn giữ chức Lễ Sanh. Tuy đã được đứng vào hàng Thánh thể Đức Chí Tôn tại thế và có văn bằng chứng minh trình độ học thức, vị Chức Sắc còn phải tiếp tục học hỏi thêm hoài. Vì bởi càng theo đuổi sự học, càng thấy mình kém sức thua tài, nên hàng ngày cần xem sách, đọc kinh, sưu tầm chơn lý, đặng trau giồi năng khiếu giác ngộ quần linh trên trường đời phức tạp. Lãnh sứ mạng. Truyền giáo, Chức Sắc sẽ có cơ hội gặp nhiều giới trí thức trong xã hội. Giới này lại tự làm Giám khảo, để cân tài kinh học của kẻ độ đời. Nếu kẻ này bị khuất phục vì kém học thức thì còn gì danh Đạo. Hoặc giả, khi gặp những hạng người thất giáo, hạng này cũng tự làm Giám khảo để cân hạnh đức của người Truyền Đạo. Nếu bị khuất phục vì kém đức hạnh thì còn gì nhơn phẩm.

2. - Tập rèn hạnh đức:
Có tài học thì hay về trí thức, còn có hạnh đức thì hay về tình cảm. Cả hai tài và đức phải đi đôi mới đủ phương dìu độ chúng sanh cải tà qui chánh.
Hạnh đức là hạnh kiểm và đạo đức.

Hạnh kiểm:
Hạnh kiểm rút trong nguồn lễ giáo, tu chỉnh từng nét đi đứng, nằm ngồi, từng cách ăn mặc, nói năng, làm lụng, không để sót một cử chỉ hay một hành vi nào thất nét khiêm cung, mất niềm hòa khí.

Đi đứng: Đi thì tề chỉnh, đứng cho đoan trang.
Nằm ngồi: Nằm có nơi, ngồi lựa chỗ, và giữ bộ tịch cho đừng mất vẽ thanh lịch của người hiểu lễ.
Ăn mặc: Gìn nết na cho thanh nhã khi ăn, giữ y-phục cho trang hoàng sạch sẽ khi mặc. Cấm mặc quần cụt hay quần đùi, dầu trong phòng ngủ cũng vậy.

Trong lúc tiếp tân không nên hút thuốc hay ăn trầu làm mất vẽ từ nhượng của nhà tu hành.
Về ăn uống có vài điểm nên lưu ý như sau này :

Tuy vân, Lễ Sanh được ăn thập trai nhưng một khi đã lãnh trách vụ làm đầu chư thiện tín trong một Quận Đạo, vị Đầu Tộc cần thận trọng thể thống của người thay mặt Hội Thánh ở địa phương bằng cách dùng trai (ăn cơm) luôn tại Thánh Thất hay văn phòng hơn, là vì một vài món đồ mặn rồi chịu lắm tiếng thị phi, dị nghị. Thiết tưởng người đời thường lấy sự trường trai giới sát làm đòn cân để đánh giá người tu, nếu vị Đầu Tộc kia không dè chừng, ắt sẽ bị đời bất phục, luôn cả người đồng Đạo bất tùng. Thoảng như có tùng đi chăng nữa thì chỉ về bề ngoài chứ bề trong vẫn “thầm khi trộm ố”. Còn nói về ngồi quán, ngồi lều lăng xăng, xạo xự giữa các hạng người, rồi nói nói cười cười chung quanh mâm thịt cá, thì đó là những tệ đoan, nếu có, không nên lưu tồn.

Nói năng: Trong khi luận đàm hãy dùng lời dịu ngọt tránh tiếng sỗ sàng. Những lời: Bẫm, dạ, thưa, trình là những ngôn từ để tỏ lòng cung kính, không nên quên trước khi mở lời. Thêm nữa cách chấp tay xá là lễ kĩnh chào nhau của nhà Đạo nói riêng và nhà Nho nói chung, thì nên dùng lễ ấy hơn là dùng cách bắt tay chào hỏi. Tuy không phải khiếm lễ, nhưng theo phong tục phương Tây, người nhỏ phải chờ người lớn đưa tay trước rồi mới bắt tay sau, nếu trái lại là vô phép.
Làm lụng: Đừng nóng nảy vụt chạc và khua động làm rầy.

Đạo đức:
Đạo đức là những tính tốt của con người vẹn giữ để xử sự cho phù hợp với thiên lý.

Đức tốt rút trong nguồn nhân nghĩa của Nho tông và trong bác ái của Phật giáo. Nên nhận thức rằng có tánh thương yêu mới có lòng nhơn. Có lòng nhơn thì hay làm nghĩa và làm nghĩa thì gầy được cảm tình. Có cảm tình mới nghe lời giáo hóa rồi mới tu. Có tu mới nên hiền, được hiền mới có sư có hữu, có hữu mới ra huynh đệ và huynh đệ mới lập đại đồng.

Đấy là mục đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và Chức Sắc là người tự mình quyết sách vận trù tu nhơn tích đức thế nào hầu đạt thành mục đích ấy.

b.- Bổn phận đối với người đồng Đạo:

1.- Công trình phục vụ :
Nguyên tắc vào cửa Đạo là hiến thân phụng-sự cho nhơn sanh về cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Dựa theo nguyên tắc ấy Chức Sắc hằng tình nguyện sống về Đạo và chết về Đời, thì một khi đã xả thân hành Đạo, phải đem hết năng lực làm tròn nhiệm vụ, luôn luôn lấy độ lượng quân tử mà dìu dắt đoàn em, thường thường gieo mỹ cảm với mọi người hơn là gieo ác cảm. Không nên quở trách giận hờn trong một lúc, mà làm hư hỏng cả công trình phục vụ bấy lâu gầy dựng. Nếu chất một đống củi đã phí công đốn cả ba năm, rồi để lọt vào một đớm lửa thiêu rụi trong một giờ thì công kia vô ích. Vậy thì trên đường phụng sự cho chúng sanh nên giữ một mực trước sau như nhứt, còn phục vụ Hội Thánh thì tận lực tận tâm chớ khá khi bồi khi lỡ. Như thấy hư phải sửa thấy ngã phải nâng, vị tha chớ chẳng nên vị kỷ.

Cái ngoan khéo của Chức Sắc hành quyền, là cố giữ đừng để mất số Đạo hữu đương có, còn độ thêm người mới là tùy khả năng lập thêm công bồi thêm đức.

2. - Phép dìu độ trên đường Đạo và đường Đời:
Chiếu Tân Luật, chương II, điều thứ 14, Chức Sắc cai trị trong Đạo từ bậc Giáo Hữu sấp lên phải chọn trong phẩm thượng thừa mà thôi. Phẩm này là phẩm nêu gương sáng cho đoàn em bắt chước để sửa mình. Từ lời nói chí việc làm, mỗi mỗi đều căn cứ nơi đức tánh cao độ mà phô bày thiện chí hầu dìu độ chúng nó tránh xa tội lỗi, khỏi phạm chơn truyền, không qua luật pháp. Với sứ mạng trọng yếu dường ấy, vị Chức Sắc hành quyền tự nhiên phải có đủ năng lực đi đến thành công và năng lực ấy tự mình đào tạo.

Vả chăng số người giữ Đạo ở bậc hạ thừa là số thậm đa, không quen khép mình vào cảnh khổ hạnh, thêm chưa dứt hẳn tâm phàm tánh tục, thì hồ dễ đầu hôm sớm mai họ theo chìu nắn uốn trong khuôn viên đạo đức cho đặng. Thành thử họ cố giữ tự do, không muốn bị ràng buộc trong pháp giới. Chỗ nầy là cái khởi điểm khó khăn cho vị Chức Sắc trong nhiệm vụ dìu dắt con cái Đức Chí Tôn trên đường Đạo và đường Đời.

Trên đường đời thì nhiều chông gai khó đi, lắm gập ghềnh khó bước, và cho đặng trang bằng hầm hố, dọn sạch gai chông, nhà hướng Đạo phải sẵn có phương hay chước khéo để ứng dụng khi cần. Nếu gặp những điều nghịch lý, hay đứng trước những cử chỉ bất nhã của kẻ dưới tay, người bề trên phải bình tĩnh lấy trí mẫn đạt chuyển nghịch vi thuận. Nhược bằng ỷ lại nơi quyền hành đương có để hiếp bức kẻ lầm lỡ phạm tội, hoặc dẹp cả độ lượng quân tử một bên, rồi tuyệt giao với kẻ ấy cho bỏ ghét, thì không phải là diệu kế khải mê giác ngộ. Trí không sáng thì hành vi không khỏi trái với lý công của nhà tu hành. Để đối phó với những nghịch cảnh như trên, nhứt diện không nên quên mình là người đương làm phận sự giáo dân quy thiện, nhứt diện quyết thắng cơ mưu của tà quái bằng cách áp dụng phương pháp trị khí dưỡng tâm của ông Hàng Dũ có hiệu nghiệm như sau này:

1. - Nếu gặp kẻ trí huyết cang cường thì lấy điều hòa mà cư xử.
2. - Còn gặp kẻ mưu trí thâm sâu thì lấy điều dễ dàng mà đối phó.
3. - Như gặp kẻ hăng hái kịch liệt thì lấy đạo đức mà đối lại.
4. - Còn gặp kẻ hấp tấp vội vàng thì lấy yên tịnh mà lui nó.
5. - Như gặp kẻ tham lam đê hèn thì lấy chí cao thượng mà kháng cự.
6. - Nếu gặp kẻ không hết lòng phục vụ lại có tánh hay dung túng thì lấy thầy hay bạn tốt mà dạy.
7. - Còn gặp kẻ biếng nhác bầy hầy, thì lấy điều tai họa mà khuyên cáo.

Dụng phép trị khí dưỡng tâm thì được nhứt cử lưỡng tiện: một là giúp sức cho người chỉ giáo thành công, hai là mở trí cho người thọ giáo sửa mình.
Đó là phương dìu độ trên đường đời hầu quay về thuần phong mỹ tục.

8. - Rất may trong giới hạ thừa còn có người vừa thành tâm giữ Đạo vừa được hạnh nết nhu mì tánh tình chơn thật.
Đối với hạng người này thì lấy Lễ Nhạc mà hiệp đó.

Vả chăng Nho giáo thường trọng Lễ Nhạc là điều quan hệ về tâm lý học. Từ trong gia đình ra bên ngoài xã hội nếu không có lễ thì lấy gì mà tài chế những hành vi hồ đồ rối loạn, và dựa nơi đâu mà sắp đặt trật tự cho phân minh.

Còn Nhạc thì nó có cái sở dụng diệu huyền của nó là phát động từ trong tâm hồn khiến kẻ trên người dưới cùng một nhịp hành động thích hạp với Đạo thái hòa của Trời Đất.

Lễ và Nhạc bổ túc cho nhau thì được cái lợi lớn là vừa sửa đổi tâm tánh cho ngay chính ở trong vừa không làm mất sự cung kính ở ngoài bồi dưỡng tình cảm cho thật hậu mà không mất vẻ thanh tao.

Lấy lễ mà đãi người tức là thuận về nghĩa lý, lấy Nhạc mà hiệp với người tức là hòa về tánh tình. Trên hòa dưới thuận, thì đường Đạo sáng rõ không còn chỗ nào cho vọng niệm tà tâm xen vào làm cho lòng người điên đảo được.

CÁCH HÀNH QUYỀN ĐỐI VỚI ĐỜI
1. - Đối với chánh quyền:
Ngày 17 tháng giêng năm Bính Thân (tức là ngày 28/2/1956), Hội Thánh có ký kết với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một bản thỏa ước gọi là thỏa ước Bính Thân. Do thỏa ước này chánh phủ nhìn nhận Đạo Cao Đài Tây Ninh được tự do truyền bá và tự do hội họp cúng kiến theo phép Đạo và Hội Thánh nhìn nhận không làm chánh trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Vậy kể từ năm Bính thân (1956) Đại Đạo đã được hợp pháp hóa.

Nhắc đến sự kiện lịch sử này tôi xin chư thiện tín lưu tâm về mấy đoạn trích lục dưới đây trong bài diễn văn của Ngô Tổng Thống đọc tại Tòa Thánh Tây Ninh trong dịp lễ kỷ niệm thỏa ước Bính Thân (7/2/ âl – 18/3/56 dl).
" Tôn giáo và Chánh trị là hai vấn đề khác nhau, nhưng Đạo phải có Đời, Đời phải có Đạo.…"

Không có trật tự an ninh thì làm sao cho có tự do truyền giáo, tự do hành Đạo. Nhiệm vụ của Chánh quyền phải giữ trật tự, khuyến thiện trị ác, tôn giáo mới đảm bảo, tự do mới cụ thể.

Tôn giáo chánh đáng chủ trương tôn trọng giá trị phi phàm của nhơn vị, bồi dưỡng thuần phong mỹ tục. Hóa dân thành tục. Như thế là giúp đời một cách hữu hiệu.

Trên đây là những lời vàng tiếng ngọc khuyên nhủ Đạo và Đời cần tương đắc trên lãnh vực duy trì bảo hộ an ninh, trật tự và tự do. Về phương diện này Chức Sắc hành Đạo ở các địa phương có trách nhiệm giữ mối tương liên với nhà cầm quyền sở tại và vùa giúp cho được dễ dàng trong công cuộc cộng đồng kiến quốc. Về phần Đạo thì mọi hành vi phải chánh đại quang minh, tránh mối hoài nghi, lấy chơn thật mà làm đường giao thiệp.

Vậy thì đắc lịnh hành sự nơi một địa điểm nào, vị Chức Sắc nên ân cần sự viếng thăm nhà chức trách. Khâm Châu Đạo thì viếng thăm Tỉnh trưởng, Đầu Tộc thì viếng Quận trưởng, Bàn Trị Sự viếng Hội đồng xã. Phép lịch sự trong cách xã giao buộc như thế, và đó cũng là chánh sách gây thiện cảm.

2. - Đối với nhơn quần xã hội:
Giữa thế kỷ XX này, bức tranh xã hội hoàn cầu không ngớt đượm màu vui tươi xen sắc buồn tủi, mãi phô bày hết sống còn của nhơn loại trong tiếng khóc pha lẫn giọng cười, cho đến ngày hôm nay bao nhiêu tang thương nơi nầy nơi nọ chưa hồi tỉnh lòng người trần tục.

Nguyên do vì xã hội đang lâm vào tình trạng khốn đốn không đấu tranh lấy gì bảo đảm sự sống còn lại thêm có nhiều lý tưởng tương phản nhau làm cho thiên hạ đảo huyền khiến ra nhơn tình thế thái, đạo lý bỏ rơi, luân thường không giá trị. Vì vậy Đại Đạo ra đời hầu cứu độ sanh linh bớt đồ thán và cho đặng cứu vãn tình thế nguy nan, chúng ta hãy đoái lại số phận từng cá nhân trong xã hội. Xét về phương diện tinh thần thì cá nhân là một vật yếu ớt trong toàn thể, vì bởi đã hấp thụ tập quán, hay tánh tình chung, thì cá nhân rất dễ để cho xã hội hướng dẫn. Như xã hội dung nạp một tín ngưỡng nào thì cá nhân đồ theo một lối đó, không kịp lấy lý trí suy nghĩ trước sau, hoặc bị lôi cuốn mà không đủ sức kháng cự. Một khi tín ngưỡng căn cứ vào tình cảm rồi, thì không ai lấy lý luận mà làm cho lay chuyển nổi, mặc dầu tín ngưỡng ấy không chánh đáng.

Gặp những trường hợp bất khả dụng tài biện thuyết đặng chinh phục nhơn tâm, thì vị Chức Sắc truyền giáo phải khôn khéo thay đổi chánh sách lý luận bằng chánh sách gây tình cảm. Có tình cảm rồi thì phần tử xã hội kia không còn do dự mà không quy về Chánh giáo.

Đấy là cơ hội phải dùng thuật tâm lý, biết người biết ta mới mong thành công trên con đường phụng sự nhơn quần xã hội.

CHUNG
   Home                                 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét