Đại Đạo Học Đường (大 道 學 堂) 2 / 5 - Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu & Bảo Thế Lê Thiện Phước.


CỨU CÁNH CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đức Chí Tôn lập Đạo cứu cánh là mở cho nhân loại con đường giải thoát luân hồi, tức là con đường công quả, mà tất cả người Đạo, từ tín đồ đến Chức Sắc phải noi theo đặng lập công bồi đức bằng cách quên mình phổ độ chúng sanh.
Đức Chí Tôn đã dạy:
" Thầy đến độ rỗi các con là
thành lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng, tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn.... Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ."

Đức Chí Tôn còn buộc mỗi Tín Đồ phải độ ít nhất là 12 người vào Đạo.

Nếu có ai cắc cớ hỏi: "Người đi phổ độ lập công quả, rủi nửa chừng chết đi, thì cơ đắc Đạo lấy đâu mà chứng chắc?".

Xin đáp: “Phẩm vị Thiêng Liêng vốn có nhiều đẳng cấp là: Thần, Thánh, Tiên, Phật. Chúng ta do công tu mà tiến lên đẳng cấp ấy. Công tu nhiều, tức đắc quả cao, công tu ít tức đắc quả thấp, không một mảy nào sai chạy. Nếu công tu của mình vì chết nửa chừng mà mất, thì cơ mầu nhiệm tấn hóa không nghĩa lý gì, mà cán cân công bình Thiên Đạo cũng hóa ra chinh lệch. Phương chi Đức Chí Tôn đã chỉ rõ điều kiện đắc quả cho chúng ta biết, thì chúng ta cứ vững lòng hành Đạo theo Thiên mạng và Thiên chức của mình, lo chi không đắc kỳ sở nguyện.

Các bực cao minh trí thức có thể chuyên chú về đường tự giác, lo khảo cứu và học hỏi để tìm hiểu chơn lý nhưng bao giờ cũng lấy công quả làm nền tảng cho việc tu hành, nhất là phải trừ bản ngã, là cái vô cùng trở ngại cho bước đường tiến hóa.

ĐẠI ÂN XÁ

Nơi Tòa phán xét (Nam Tào) từ những tư tưởng, những lời nói cho đến hành vi của con người, nhất thiết đều ghi chép hẳn hòi, cho nên một mảy không bỏ qua, dữ lành đều báo ứng. Luật nhơn quả rất mực công bình, mà cơ hành luật lại càng chặt chẽ.

Thế thì con người ở cõi phàm gian, với những hành động hằng ngày, tránh sao khỏi tội tình nghiệp báo? Tạo nhơn tất phải thọ quả, con người cứ trả hết rồi vay, thì thế nào thoát nạn luân hồi.

Nhưng mỗi lần khai Đạo là mỗi lần Đức Chí Tôn đại ân xá, nghĩa là ban cho con người biết hồi đầu hướng thiện và lo việc tu hành, một ân huệ lớn lao nghĩa là những tội lỗi của họ đã chồng chất từ mấy kiếp trước được Ơn Trên bôi xóa và cho họ làm một Tân Dân trong cửa Đạo, với một "tư pháp lý lịch" còn trinh bạch. Nhờ vậy người nhập môn hành Đạo mới rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau dồi đạo hạnh và lập công bồi đức là đắc Đạo trong một kiếp tu.

Hạ nguơn này, Đức Chí Tôn lập Đạo kỳ ba nên mới có Đại Ân Xá kỳ ba.

Phép "giải oan", phép "cắt dây oan nghiệt" phép "độ thăng" và các phép bí tích khác của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, được đem áp dụng trong sự thi hành luật Đại Ân Xá đó vậy.

CÚNG TỨ THỜI CÓ ÍCH CHO CHÚNG TA NHỮNG ĐIỀU GÌ?

Người không biết Đạo cho rằng cúng kiến là dấu hiệu ỷ lại Thần quyền.

Là người trong cửa Đạo ta đủ kinh nghiệm để tin chắc rằng cúng kiến có một tác dụng rất hay về mặt tinh thần đạo đức. Vì thế mà tôn giáo nào cũng trọng sự cúng kiến.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có định lệ cúng Tứ Thời, Tý Ngọ cúng rượu, vì rượu tượng trưng nguơn khí, mà Tý Ngọ là nguơn khí của Trời Đất hưng thịnh, Mẹo Dậu cúng trà, vì trà tượng trưng nguơn thần, mà Mẹo Dậu là giờ nguơn thần của Trời Đất hưng vượng.

Ở thế kỷ văn minh vật chất này, nhiều sự ồn ào náo nhiệt làm cho đạo tâm xao lảng. Nào là nỗi sớm lo chiều liệu trong đời sống vật chất, nào là cuộc bi thương, hoan lạc, mỗi mỗi đều làm cho người yếu đức tin dễ xa lần mối Đạo. Vậy cần phải có phương pháp nào để nhắc nhở và nâng đỡ con người khỏi thất Đạo. Cái phương pháp thần diệu ấy là cúng Tứ Thời đó vậy.

Cúng Tứ Thời là để khép mình vào khuôn lễ giáo và thanh tịnh kiềm chế con tâm không cho phóng túng để giữ được trạng thái hư không mà chẳng sanh vọng niệm. Càng cúng Tứ Thời, đạo tâm càng phấn khởi.

Thất Nương, một vị Nữ Phật tại Diêu Trì Cung đã dạy:
"Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi".

Câu "Nam mô Phật" nhắc chừng chúng ta phải thành kính tưởng niệm Đấng Toàn Giác mà học tập theo trong muôn một.

Câu "Nam mô Pháp" gợi cho chúng ta cái niệm tưởng về Đạo Pháp hằng phải tuân theo để tu cho đúng cách.

Câu "Nam mô Tăng" nhắc nhở chúng ta phải trọn lòng thành kính với Giáo Hội Tăng Già, tức Hội Thánh, mà những lời chỉ giáo đáng làm khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta noi theo để mỗi ngày tăng cao đạo đức và học vấn của mình.

Bài "Khai Kinh" nhắc cho chúng ta nhớ hằng ngày cái tôn chỉ cao siêu của Tam Giáo "Gốc bởi lòng làm phải làm lành" và câu "Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh" dạy chúng ta trước khi vào chầu Đức Chí Tôn, phải giữ mình hoàn toàn trong sạch, chẳng những trong sạch về thể xác, lại còn trong sạch về tâm hồn. Mà mỗi ngày giữ được bốn lần như thế, không phải là quý hóa lắm sao?

Đức Chí Tôn đã dạy:
" Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh, thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh. Thầy mong rằng mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy, thì lấy làm may mắn cho nền Ðạo; rồi các con sẽ đặng thong dong mà treo gương cho kẻ khác.."

Vậy cúng Tứ Thời cũng là phương pháp kiểm soát việc làm hằng bữa để răn lòng sửa tính.

Lại mỗi lần cúng Tứ Thời, chúng ta gom tất cả năng lực của đức tin để tưởng Trời, tưởng Phật, tức là dùng tư tưởng mà cảm thông với Trời Phật và tiếp điễn lành từ trên ban xuống, cho tâm hồn thắm tươi, trong sạch nhẹ nhàng mà ứng hiệp với cơ mầu Tạo Hóa.
Cúng Tứ Thời có ích cho chúng ta sở dĩ là thế.

MƯỜI HAI ĐIỀU TÍN NGƯỠNG CĂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO

1. - Thượng Đế là Đấng tạo ra Càn Khôn, Vũ Trụ và hóa sanh vạn vật. Nhân loại phải tín ngưỡng kính trọng Thượng Đế và trong các hành động nhất nhất phải tùng Thiên Luật.
2. - Là Đại Từ Phụ, Thượng Đế không bao giờ hành phạt chúng sanh toàn là con cái yêu thương của Người. Nhưng vì phép công bình, Thượng Đế lập luật “Nhơn Quả” làm cân thưởng phạt Thiêng Liêng. Chúng sanh do chỗ hành động mình mà rước lấy hoạ phước.
3. - Lòng từ bi của Thượng Đế không nỡ để chúng sanh không rõ Thiên Điều mà phạm tội nên từ thượng cổ Người đã phân tánh giáng trần lập Đạo đặng dạy dỗ chúng sanh biết điều thiện mà làm, điều ác mà tránh, và dìu dắt bát phẩm chơn hồn tiến hóa lên đến chỗ cực điểm. Nhưng nếu lòng người mê muội, không hồi đầu giác ngộ thì hình phạt phải cam.
4. - Thượng Đế chưởng quản Càn Khôn võ trụ.
5. - Luân hồi là cơ tấn hóa của bát phẩm chơn hồn. Trong mỗi kiếp tái sanh các chơn linh gây ra nghiệp duyên, nên tái sanh buộc phải thọ quả. Vì vậy mà luân hồi và quả báo đi đôi.
6. - Thần, Thánh, Tiên, Phật, trước vốn là người phàm nhờ tu mà đắc quả. Vậy thì tất cả phàm nhơn ai cũng có thể làm Tiên, Phật nếu biết tu, Nhất là gặp "Tam Kỳ Phổ Độ" ban hành luật Đại Ân Xá, chúng sanh được may mắn “tu nhất kiếp, ngộ nhất thời".
7. - Phàm nhơn là Hồn tại thế. Âm nhơn là Hồn giải thể cho nên Phàm nhơn và Âm nhơn có thể thông công bằng cơ bút, đồng cốt, hoặc phương thế nào khác.
Người tu luyện đến bực cao siêu có thể xuất chơn thần thông công với các Đấng Thiêng Liêng hoặc luyện đắc "Nhãn thông" "Nhĩ thông" mà thấy và nghe được.
8. - Vật chất tan rã rồi hợp thành một thể khác, duy chơn hồn là trường tồn và tuần tự tấn hóa đến mực cuối cùng là chỗ chí thiện.
9. - Âm nhơn là hồn mới giải thể còn quyến luyến hồng trần, chưa thoát được buồn vui đau khổ, bởi còn mang cái chơn thần là chan chứa tình cảm. Âm nhơn cần có thân nhơn tụng kinh cầu nguyện cho họ được an ủi mà bớt đau khổ.

Kinh Cầu Siêu rất linh nghiệm, vì mỗi tiếng tụng lên vốn có sức rung động huyền diệu vô cùng. Sức rung động đó hiệp với sức tư tưởng mạnh mẽ và thành kính của người tụng kinh gây thành một mãnh lực phi thường, đánh tan chơn thần của Âm nhơn giúp họ mau giải thoát đau khổ và hình phạt Thiêng Liêng.
10. - Con người thọ sanh tại thế đều có số mạng định đoạt, do nghiệp duyên của mình đã tạo ra trong kiếp trước. Cho nên người biết Đạo bao giờ cũng an phận tùy duyên, chẳng vì nghèo túng mà trễ nải việc Đạo.

Nếu con người biết chuyên làm lành lánh dữ cùng tu âm chất trong kiếp dương sanh, thì có thể chuyển hoạ ra phước. Định mạng là Trời, mà lập mạng là ta vậy.
11. - Tân Luật có ảnh hưởng rất lớn lao về Tiên phong Phật sắc của người tu trong Đại Đạo, chẳng giữ "Tân Luật" là trái phép Đạo mà trái phép Đạo không bao giờ vào được Bạch Ngọc Kinh.
12. - Muốn đắc quả, phải dự thi ở trường thi “công quả” nghĩa là phải phổ độ chúng sanh không làm đặng thế này phải tìm thế khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt được phẩm vị Thiêng Liêng.

CƠ KHẢO THÍ

Có trường thi "công quả" tất có "khảo thí" theo phép công bình Thiên Đạo. Phàm muốn đoạt thủ ngôi vị phẩm nơi trường thi ấy, người hành Đạo phải có công lao xứng đáng và phẩm hạnh hoàn toàn. Chịu thử thách mà không sa ngã, mới đáng đăng tên vào Tiên tịch.

Vì lẽ công bình, Đức Chí Tôn buộc phải để cho Ma Vương cám dỗ. Kẻ nào kém đạo hạnh phải sa vào cạm bẫy.

Thường thường chánh tà tương khắc. Hễ Đạo khai thì tà khởi, Đạo không ma khảo, Đạo khó thành. Ma không Đạo khai, ma không được dịp mở cơ thạnh vượng.

Ma khảo có nhiều cách, đại khái như:
1. - Mạo danh Tiên Phật, đòi ban huyền diệu, cốt mê hoặc người phải xa chánh Đạo.
2. - Dục người thấy sắc đẹp mê sa, thấy tài vật ham muốn.
3. - Hóa việc lạ lùng quái gở cho người bỏ dở công phu.
4 - Chiều theo sở dục con người mà cám dỗ, tức là đánh ngay chỗ yếu của người.
5. - Bày bố những khó khăn gay cấn cho người thối chí ngã lòng.

Đức Chí Tôn đã cho biết trước:
"... ... ..., chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con.
Ấy vậy rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy.
Nghe và rán tuân theo."

Đường đã trải qua, chúng ta thấy rõ tu hành gặp không biết bao trở lực. Nào là người hữu ý hay vô tình kích bác, cho đến bà con cật ruột cùng bạn thân yêu buổi trước, mà nay thấy chúng ta tu hành, họ cũng đem lòng nhạo báng. Nào là gây điều khó dễ, mong phá hoại việc tu.

Trong khi lập công bồi đức, chúng ta lại gặp nhiều nghịch cảnh tiền tài thốn thiếu, tật bịnh triền miên hoặc những nỗi bất bình những điều thống khổ dễ khiến chúng ta ngã lòng thối bước, nếu không nhẫn nại và vững đức tin.
Những chướng ngại trên đây là sự trạng của Cơ Nghịch Khảo.

Lại cũng có khi chúng ta sa ngã vì sắc đẹp, vì danh vọng, vì lợi quyền là những cạm bẫy để quyến rũ con người vào đường tội lỗi mà thất Đạo.

Đó là Cơ Thuận Khảo.
Tóm lại, Cơ Đạo có nghịch khảo và thuận khảo là hai phương pháp tôi luyện lòng người tu hành cho ra cao thượng. Vàng không trui lửa, ai biết vàng cao? Ngọc chẳng giùi mài ai hay ngọc quý?

Chúng ta tin chắc rằng mỗi lần bị khảo mà không ngã là mỗi lần chúng ta được lên được một nấc thang tấn hóa đó.

Vậy người tu hành phải chịu luật khảo thí và phải kiên tâm trì chí lướt qua mọi thử thách, tự tin và bền chí là bí quyết thành công.

KHÁI QUÁT VỀ TỨ GIÁO
Tổng niệm:
Thiên thơ đã định cho nước Việt Nam chịu ách đô hộ của Trung Hoa ngót một ngàn năm rồi nước Pháp ngót tám chục năm. Phàm phong tục và tín ngưỡng đều do học thuật và tôn giáo mà ra mà nước Việt Nam đã theo học thuật và tôn giáo nước Trung Hoa là Nho, Thích, Đạo và của nước Pháp là Thiên Chúa giáo, tất nhiên đã hấp thụ tư tưởng và tín ngưỡng của bốn giáo ấy.
Vậy ta thử xét qua các trào lưu tư tưởng trên đây mà tính họ đã thấm nhuần quốc hồn và quốc túy của chúng ta.

KHỔNG GIÁO

Đạo của Đức Khổng Tử lập ra gọi là Khổng giáo. Đức Khổng Tử sanh nhằm đời nhà Châu, gặp hồi Ngũ bá tranh hùng, nhơn dân đồ thán, phong tục suy đồi nên chủ trương của Người thiên về thực tế rất nhiều. Người định đem luân thường đạo đức dạy người đời đối xử nhau như thế nào cho hợp lẽ phải, chớ không truyền bá những lẽ huyền vi u ẩn, những điều này Người chỉ truyền riêng cho các bậc cao đồ thôi. Người lập ra lễ nhạc tiêu biểu cho phép trật tự và luật điều hòa của Trời Đất.

Học thuyết của Khổng giáo: Đức Khổng Tử tin có Trời, có Quỷ Thần, có cơ báo ứng.

Theo Ngài, Trời là Đấng vô hình mà Ngài gọi là Lý. Lý ấy rất linh động, rất cường kiện cao minh, chúa tể cả Vũ Trụ. Lấy chỗ cùng tột mà nói thì gọi là Thái cực, lấy nghĩa bao quát thế gian thì gọi là Thiên, lấy nghĩa làm chúa tể vạn vật thì gọi là Đế. Ấy vậy, theo quan niệm của Khổng Tử trời là Đấng Thái Cực hay Thượng Đế.

Người kế vị đắc lực cho Đức Khổng Thánh là ông Mạnh Kha (Mạnh Tử) là bậc Á Thánh.
Những sách làm nền tảng cho tư tưởng học thuyết của Khổng Mạnh là Tứ Thơ và Ngũ Kinh:

Tứ Thơ: Tứ Thơ gồm có Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.

Sách Đại Học chép những lời khuyên của Đức Khổng Tử, mô tả nhiệm vụ của người quân tử, là trau dồi đức tánh của mình để giúp người khác trong việc tu nhân, mà cứu cánh là đến chỗ chí thiện. Ngay ở trương đầu sách có câu: “Đại học chi Đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Nghĩa là “Cái Đạo của người theo Đại học là phát huy cái đức sáng của mình, để cải hóa người dân đi đến chỗ chí thiện”.

Sách Trung Dung dạy người đời ăn ở đúng mực trung, không thái quá mà cũng không bất cập.
Sách Luận Ngữ mô tả tánh tình, cử chỉ của người quân tử trên đời sống thực tế.
Sách Mạnh Tử: (Do Mạnh Tử viết ra) Luận về luân lý, giáo dục, chánh trị và kinh tế.
Ngũ Kinh: Ngũ Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Kinh Thi ghi chép các bài thơ phú, các bài ca dao do Đức Thánh sưu tầm và chọn lọc, góp thành một quyển sách có ảnh hưởng lớn về tinh thần đạo đức.

Kinh Thơ là sách trong đó Đức Thánh sao lục các điển, mô, huấn, cáo, thệ, mạng, của các triều từ Nghiêu Thuấn đến đời Đông Châu.
Kinh Dịch giải thích lẽ biến hóa của Trời Đất và sự hành động của muôn vật.
Kinh Lễ ghi chép các lễ nghi trong gia đình, trong hương đảng và trong triều chánh.
Kinh Xuân Thu là sử ký nước Lỗ do Đức Thánh san định lại.

Tổng luận:
Học thuyết Khổng giáo hay Nho giáo là căn bản nền tảng luân lý cổ truyền của nước Việt Nam. Quan niệm về Đạo làm người của Nho giáo đã ăn sâu vào tâm hồn quần chúng. Cho nên, dù sang trọng hay bần hàn, ai cũng tự thấy cần phải lấy nghĩa nhơn, thành thật mà cư xử lẫn nhau. Ai làm trái lại, tức là vi phạm luật danh dự do Đạo làm người nêu ra, nếu họ lấy làm xấu hổ trước tòa án dư luận.

Đành rằng luân lý cổ truyền có một vài điểm không còn thích hợp với trào lưu tiến hóa của con người hiện tại, nhưng không nên vì thế mà ta bỏ hẳn cái luân lý quí hóa ấy đã lưu lại cho ta biết bao gương anh hùng, liệt nữ và đạo đức thanh cao.

PHẬT GIÁO

Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, Đạo Phật chia làm hai Tông: Bắc Tông hay Đại Thừa xu hướng về duy tâm, được quảng đại quần chúng về theo. Nam Tông hay Tiểu Thừa thiên về duy vật và lập thuyết theo khoa học và lý trí. Tông nầy lại được một số trí thức trong nước hoan nghênh.

Đạo Phật Bắc Tông được bành trướng ở nước Việt Nam dưới hai triều Lý, Trần, tức từ đầu thế kỷ XI (thứ 11) đến cuối thế kỷ XIV (thứ 14), nhưng về sau lại suy kém hơn Nho giáo. Mãi đến ngày nay, Đạo Phật lại phục hưng trong khi Nho giáo gần như lu mờ.

TỨ DIỆU ĐỀ: Phật cho đời là khổ nên Đạo của Ngài là Đạo cứu khổ. Lần thuyết pháp đầu tiên của Ngài gọi là Chuyển Pháp Luân, Ngài đề xướng thuyết Tứ Diệu Đề gồm có: Khổ Đề, Tập Đề (hay Nhơn Đề), Diệt Đề và Đạo Đề.

Về Khổ Đề, Ngài dạy: "Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà hợp là khổ, cái gì ưa mà phải lìa là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ, nói tóm lại, triền miên trong ngũ trược là khổ".

Về Tập Đề, Ngài dạy: "Nguyên nhơn sự khổ là lòng tham sống: Vì tham sống nên cơ luân hồi sanh tử, càng tham càng muốn, càng được càng tham".

Về Diệt Đề, Ngài dạy: "Diệt khổ phải tiêu trừ cho hết lòng tham dục".

Về Đạo Đề, Ngài dạy: "Đạo diệt khổ tức là Đạo Bát Chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định".

Đó là chỗ bí yếu của Đạo diệt khổ mà Đức Thích Ca xưa đã tìm ra. Giữ được tám điều chánh ấy, thì là minh chánh. Chánh thì tịnh, tịnh thì an thì sáng, sáng thì thông, thông thì đắc đạo. Đắc đạo là hết già, hết bịnh, hết phiền não, hết nghiệp báo luân hồi, hết trì trục theo giả tướng, mà trở lại bổn thể Chơn Tâm vào cõi Niết Bàn.

Thập Nhị Nhơn Duyên: Trong đệ nhị đề (nhơn đề) có nói nguyên nhơn sự khổ là lòng tham dục. Vậy tham dục bởi đâu mà ra? Bởi sự vô minh, nghĩa là mê muội không thấu rõ lẽ tử sanh. Có lẽ các bậc cao đồ của Đức Phật dựa theo đó mà đề xướng một thuyết khác dễ tiếp thụ và giải thích cho rõ thuyết Tứ Diệu Đề thuyết ấy là "Thập Nhị Nhơn Duyên".

Nhơn duyên là sao? Là nhơn cái này mà sanh ra cái kia, Tỷ thí hạt giống gieo xuống đất nứt mộng lên cây mà kết quả. Nhưng kết quả được là nhờ có duyên. Duyên là vật giúp cho nhơn dễ kết quả. Vậy hột giống là nhơn, nước, đất, phân, tro là duyên.

Trong thập nhị nhơn duyên, cái này sinh ra cái kia và cứ liên tiếp nhau như một xâu chuỗi.

Mười hai nhơn duyên, cứ theo thứ tự, xin kể ra đây:
1. - Vô minh: nghĩa là tối tăm mê muội.
2. - Hành: nghĩa là hành động.
3. - Thức: nghĩa là nhận thức, biện biệt.
4. - Danh sắc: nghĩa là hình danh, sắc tướng.
5. - Lục nhập: nghĩa là sáu giác quan, gồm có ngũ quan là mắt, mũi, miệng, tai, tay thêm giác quan thứ sáu là trí tuệ.
6. - Xúc: Nghĩa là cảm xúc.
7. - Thọ: nghĩa là cảm giác tiếp thọ của ngoại vật.
8. - Ái: nghĩa là yêu mến, tức là lòng tham dục.
9. - Thủ: nghĩa là ham mê, quyến luyến sự sống
10. - Hữu: nghĩa là có xác thân có sống ở đời.
11. - Sanh: nghĩa là sanh ra ở cõi đời này
12. - Lão tử: nghĩa là già rồi chết.

Những nhơn duyên ấy quan hệ với nhau đại thể như thế này: Vì mê muội (vô minh) mới sanh ra hành động (hành), có hành động sanh ra nhận thức (thức) v.v...

Triết lý Đạo Phật hồi nguyên thỉ đại để có hai thuyết Tứ Diệu Đề và Thập Nhị Nhơn Duyên. Về sau mới có thuyết vô ngã, không sắc, sắc không, v.v...

Tổng luận:
Vì Đạo Phật cho đời là biển khổ, nên có người lầm cho là yếm thế (chán đời). Tuy Đạo Phật cho đời là biển khổ nhưng không khổ vì vậy mà để cho chúng sanh trầm luân mãi mãi. Đạo Phật dạy phải tinh tấn mạnh bạo mà thoát khổ thì đâu phải là yếm thế? Đạo Phật gốc ở sự khổ mà ngọn là phép cứu khổ.
Bốn đức tánh: Đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực là bốn yếu tố của tinh thần Đạo Phật.

ĐẠO GIÁO

Đạo Giáo là do Đức Lão Tử lập ra. Sự tích Ngài nhiều sách ghi chép khác nhau. Theo các nhà khảo cứu Châu Âu, Ngài giáng sanh nhằm đời Nhà Châu (Trung Hoa) lối 551 năm trước Tây lịch kỷ nguyên. Và theo ông Tư Mã Thiên (nhà làm sử nước Trung Hoa) thì Đức Lão Tử tên là Lý Nhĩ tự Bá Dương, thụy là Đam, nên gọi là Lão Đam.
Đức Lão Tử chủ trương về Đạo, nên Đạo của Ngài gọi là Đạo giáo.

Quan niệm về Đạo:
Ta cần phân biệt chữ Đạo của Nho giáo và Đạo trong Đạo giáo.

Chữ Đạo của Nho giáo là Đạo làm người, là Nhơn Đạo, còn chữ Đạo của Đạo giáo là nguyên lý thiên nhiên hóa sanh vạn vật, là lẽ dĩ nhiên hay Thiên Đạo.

Đức Lão Tử chủ trương rằng vạn vật đều do Đạo mà ra, rồi vạn vật cũng trở về với Đạo. Mà Đạo là gì?

Trong Đạo Đức Kinh của Ngài trước tác ngay chương đầu luận về Đạo, Ngài viết:
"... Cái không tên là đầu mối của Trời Đất.
Cái có tên là mẹ của vạn vật nên thường vô dục mới thấy phần ảo diệu. Còn tâm mà hữu dục chỉ thấy sắc tướng. Cả hai tướng ấy đồng một gốc mà không tên. Đều là mờ mịt, đã là mờ mịt lại càng mờ mịt thêm. Nhưng những điều khéo lại do đó mà ra ".

"... Vô danh thiên địa chi thỉ
Hữu danh vạn vật chi mẫu
Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ khiếu (kiếu)
Thử lưỡng dả đồng xuất chi vị danh
Đồng vị chi huyền
Huyền chi hựu huyền
Chúng diệu chi môn."

Quan niệm của Đức Lão Tử về Đạo thật là siêu việt, khó cho bực thường nhơn am hiểu. Cũng trong Đạo Đức Kinh chương 25, Ngài viết:

“Trước khi có Trời Đất, vốn có một Đấng tự nhiên thành ra. Yên lặng thay! Riêng đứng một mình không thay đổi, đi khắp mọi nơi chẳng dứt. Có thể làm mẹ của Trời Đất, Ta vốn không biết tên gì, miễn cưỡng gọi là Đạo, miễn cưỡng gọi là lớn”. (Hữu Nhất vật hổn thành. Tiên thiên địa sanh. Tịch hề! Giao hề! Độc lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên địa chi mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng tự chi viết Đạo, cưỡng danh chi viết Đại).

Đức Lão Tử cho rằng Đạo là nguyên lý huyền diệu, vô hình vô sắc, sanh ra âm dương, Trời Đất và vạn vật. Hành động theo Đạo, tức là giữ Đạo Trời, vì Đạo Trời chẳng tranh mà hay được, chẳng nói mà hay ứng, chẳng vời mà tự lại, lẳng lặng mà hay mưu. Lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt. Do tư tưởng ấy mà Ngài đề xướng thuyết vô vi.

Đạo Vô Vi: Vô vi không phải là không làm gì hết, Người cho Đạo Trời là vô vi mà bất vô vi, nghĩa là không làm mà không phải không làm. Mới nghe dường như mâu thuẫn nhưng đó là một triết lý cao siêu. Hễ thuận với Đạo rồi thì cái mình “làm” không phải “mình làm”, mà là cái Đạo nơi mình làm. Cái làm ấy, là cái làm của Đạo nơi ta, nghĩa là của cái vô ngã gọi là vô vi. Cho nên không phải là làm, mà là làm theo Trời, không làm theo nhơn dục theo bản ngã mà làm theo Thiên Lý.

Đức Lão Tử lại nói: "Ba chục cây gọng cộng làm một bánh xe, dùng cái không ở giữa, bánh xe mới chạy được. Nắn đất sét để làm lu chậu, dùng cái không ở giữa lu chậu mới đựng được. Vách có cửa, nhưng nhờ cái không ở giữa thì mới vào ra được.
Cho nên cái có để làm lợi, cái không để mà dùng".

Nhơn sanh triết học: về nhơn sanh triết học, nghĩa là triết về đời sống của con người, Đức Lão Tử khuyên người đời nên vô tri vô dục mà giữ lấy tánh chất phác của Trời phú cho.

Tổng luận:
Đạo giáo là một nền triết lý cao siêu, dạy con người sống tự nhiên theo lẽ Trời, vứt bỏ những xa hoa phù phiếm tránh cạnh tranh về mọi phương diện để tìm sảng khoái cho tâm hồn.

Triết lý về Đạo giáo thâu gọn trong bộ Đạo Đức Kinh do Đức Lão Tử dọn thành. Bộ Đạo Đức Kinh chia ra hai quyển, quyển thượng và quyển hạ, gồm có 81 chương. Quyển thượng nói về Đạo, quyển hạ nói về Đức nên gọi chung là Đạo Đức Kinh.

THIÊN CHÚA GIÁO

Cơ Đốc giáo (Christianisme) do Chúa Jésus lập ra. Tiếng Jésus phiên âm là Gia-tô. Chúa Jésus cũng gọi là Jésus Christ, phiên âm là Gia Tô Cơ Đốc. Hiện nay, Cơ Đốc giáo chia ra: Thiên Chúa giáo (Catholicisme), Tân giáo hay Đạo Tin Lành (Protestantisme) và Hy Lạp giáo (Eglise Grecque).

Chính Thiên Chúa giáo từ trước được truyền bá qua nước Việt Nam vậy ta nên hiểu khái quát về tôn giáo nầy. Thiên Chúa giáo cũng gọi là Công giáo, nghĩa là tôn giáo được chánh thức công nhận (Religion officielle).

Thánh Kinh: Thiên Chúa giáo có một bộ kinh rất quý gọi Thánh Kinh (Bible) cũng như Đạo giáo có bộ Đạo Đức Kinh vậy. Thánh Kinh chia làm hai phần: Phần thứ nhất gọi Cựu Ước hay Sấm truyền cũ (Ancien Testament), nói về Đạo Do Thái (Judanisme), vì Đạo này là nguồn gốc của Đạo Cơ Đốc. Phần thứ nhì gọi là Tân Ước hay Sấm truyền mới (Nouveau Testament) nói về Đạo Cơ Đốc.

Bản Thập Điều: Luân lý Thiên Chúa giáo gồm trong bản thập điều. Bản thập điều này tóm tắt những lời Đức Chúa Trời đã dạy ông Moïse trên núi Si nai (Sinai).

1. - Thờ phượng và kính mến Đức Chúa Trời trên tất cả.
2. - Không nên gọi tên Đức Chúa Trời vô cớ.
3. - Giữ phép ngày chúa nhựt.
4. - Thảo kính cha mẹ.
5. - Không giết người.
6. - Không làm chuyện dâm dục.
7. - Không lấy của người.
8. - Không làm chứng dối.
9. - Không muốn vợ chồng người.
10. - Không tham của người.

Mười điều răn cấm trên đây cũng gọi là luật Moïse.
Phép Bí Tích: Các phép bí tích như phép Thêm Sức, phép Xức Dầu Thánh, phép Giải Tội, phép Thánh Thế, phép Hôn Phối, v.v…

Là những phép đặc biệt do Chúa Cứu Thế lập ra, mục đích là ban và tăng ơn phước cho người chịu phép.

Tín Điều:
Người Công giáo rất trọng đức tin, cho rằng nhờ có đức tin mới nhận đúng chơn lý của Chúa Giê-su (Jésus) và đức tin đưa đến sự trông cậy ở Đức Chúa Cha, ở ơn phước đời này và hạnh phước Thiêng Liêng. Vậy có những tín điều sau đây:

Đức Chúa Trời là Cha, dựng nên Trời Đất.
Đức Chúa Jésus là con một Đức Chúa Cha và là Chúa của người Công giáo.
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, người chịu thai sanh ra bởi Đức Bà Maria Đồng Trinh.
Người lên Trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, phép tắc vô cùng.
Ngày sau người lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tin hiệu lực của phép tha tội.
Tin xác loài người sau này sống lại.
Tin sự hằng sống.
Giáo Lý: Giáo lý của Đạo Thiên Chúa gồm có mấy yếu mục sau đây: Luật tương báo, luật phân biện, lòng bác ái, phép công bằng, sự bố thí, sự vứt bỏ của cải, tức xả phú cầu bần, sự cầu nguyện, sự đoàn kết.

Về bác ái: Chúa Jésus dạy rằng:
“Hãy thương yêu kẻ nghịch con, hãy làm ơn cho kẻ làm khốn con, hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ, hãm hại con. Đức Chúa Cha ở trên Trời là Đấng làm cho mặt trời soi sáng kẻ dữ cũng như người lành và làm mưa xuống đồng đều cho đứa gian cũng như người ngay”.

Về xả phú cầu bần, Chúa Jésus dạy: "Nếu con muốn hoàn toàn hãy bán hết những đồ gì con có, rồi lấy tiền phân phát cho những người nghèo khổ".
Về luật tương báo, Người dạy: "Ai sử dụng dao kiếm sẽ chết vì dao kiếm".

Tổng luận:
Thiên Chúa giáo là một tôn giáo gồm cả Nhơn Đạo và Thiên Đạo.

Nhơn Đạo được nhận thấy ở mười điều răn cấm. Thiên Đạo nhận thấy ở mấy khoản tín điều căn bản. Một tôn giáo rất thực tế.

LÒNG TIN THƯỢNG ĐẾ
Tổng niệm:
Từ ngàn xưa, con người tuy trình độ tấn hóa còn thấp kém nhưng đã có tin thờ Thượng Đế, trong những giờ phút khó khăn người ta hằng cầu cứu nơi Ngài, người lương thiện đặt tất cả đức tin nơi sự ủng hộ của Ngài, kẻ hung ác thường nấm nấm nớp nớp sợ Ngài hành phạt.

Vì trình độ trí thức khác nhau, mà quan niệm của cổ nhơn về Thượng Đế cũng phải sai biệt: Khởi thỉ người ta thấy vật nào cũng linh thiêng, chỗ nào cũng Thần cả, Thần là Vũ Trụ, đối với họ vẫn là một, nên mới phát sanh cái học thuyết Phiếm thần. (chỗ nào cũng là: Thần là một cùng với Vũ Trụ).

Ở Cổ Ba Tư, người ta đề xướng cái thuyết thờ Thần Lửa, gọi là Hỏa giáo, đến đời Đường tôn giáo này được truyền sang qua Trung Quốc, gọi là Thiên giáo. Lần lần lòng tín ngưỡng của con người theo nhịp tấn hóa mà sáng suốt thêm lên cho đến ngày nay, hầu hết nhân loại trên toàn cầu đều tin có một đơn vị đệ Nhất. Một nguyên lý tuyệt đối, là nguồn gốc của Càn Khôn Vũ Trụ và nhân loại, mà người ta gọi là Đấng Tạo Hóa hay Thượng Đế.

Các nhà triết học và các nhà tôn giáo từ Đông chí Tây, từ cổ chí kim, đều tin tưởng sự tự hữu của Thượng Đế, mặc dù quan niệm của họ có vài điểm dị đồng.

Tuy trí phàm của chúng ta không thể tưởng tượng được Thượng Đế ra sao, mắt phàm của chúng ta không thấy được Thượng Đế nhưng chúng ta có đủ bằng cớ chứng minh sự tự hữu của Ngài.

Những bằng chứng này đại loại có ba thứ: bằng chứng về Võ trụ, bằng chứng về đạo lý, bằng chứng về siêu hình.

Bằng cớ về vũ trụ:
Ông Voltaire, một đại văn hào nước Pháp hồi thế kỷ 18, có làm 2 câu thơ để tỏ lòng tin tưởng Thượng Đế. Hai câu thơ này tạm dịch như sau:

“Cảnh trí Vũ Trụ khiến tôi hoang mang, tôi không thể nghĩ rằng chiếc đồng hồ này (ám chỉ Võ trụ) lại có mà không có người thợ máy đồng hồ”.

Đồng một quan niệm với Voltarie, khi ta thấy một con chim bị bắn rơi, tuy không thấy ai bắn, nhưng ta vẫn biết chắc phải có một tay thiện xạ, mới làm cho con chim bị đạn.

Ta tuy không thấy được điễn khí nhưng ta tin chắc có điễn khí là do sự tác dụng của nó.

Ta tuy không thấy được Thượng Đế, nhưng sự trật tự và điều hòa của Vũ Trụ đủ làm cho ta tin có Thượng Đế.

Trật tự điều hòa của vũ trụ:
Những hiện tượng quanh mình ta, từ loài thảo mộc đến côn trùng và phi cầm tẩu thú cho đến nhân loại, sao ta dám cho ngẫu nhiên mà ra? Nếu là ngẫu nhiên thì muôn vật ấy tất là hỗn độn không vật nào phân biệt với vật nào được. Sự thiệt là loại nào có hình thể của loại ấy, giống nào theo giống ấy, mỗi vật mỗi hình điều hòa chí lý, nó tàng ẩn trong cảnh vô hình mà ta không thấy. Cái điều hòa ấy lại phát hiện trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, cứ liên tiếp mà vận hành trong trật tự, còn vạn vật thì cũng ứng theo thời tiết mà sanh sanh hóa hóa. Vạn vật có sự sống rõ ràng, không ai chối cãi được. Lại sự sống ấy còn hàm dưỡng một giác tánh biểu lộ từ cây cỏ thú cầm cho đến loài người thì chuyển thành cái trí khôn linh hiệu lạ lùng. Cái lý điều hòa tạo hình muôn vật, cái sinh khí, cái cảm giác ấy, cái động lực linh hoạt ở trong muôn vật tất phải do một nguồn cội nào. Cái nguồn cội ấy, khi còn bất động (tịnh thể) gọi là Đạo mà khi đã động (động thể) mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy.

Bằng chứng về đạo lý:
Bằng chứng về đạo lý căn cứ ở tinh thần phục vụ.

Bất cứ người nào cũng tự thấy có tinh thần phục vụ. Mặc dù đối với việc thiện hay việc ác, ta tự do muốn làm hay không làm, nhưng tinh thần phục vụ lại bắt buộc ta phải làm việc nọ, tránh việc kia.

Ví dụ: ta thấy một đứa bé vấp té không chổi dậy được. Ta có thể bỏ đi luôn vì có ai buộc ta phải đỡ nó dậy đâu? Nhưng không nỡ làm lơ, ta chạy lại đỡ nó dậy và xem coi nó có bị thương để lo cứu cấp. Hành động này chính do tinh thần phục vụ thúc đẩy ta làm.

Tinh thần phục vụ không phải do người đời lập ra, nó vốn có sẵn trong lương tâm ta, mà lương tâm đối với lý trí, là một ánh sáng Thiêng Liêng, đối với ý chí, nó lại là một quy tắc chuẩn thằng bất di bất dịch.

Đã nói tinh thần phục vụ không do một luật gia hữu hình nào lập ra, tất nhiên nó phải do một luật gia vô hình mà ta gọi là Thượng Đế.

Bằng chứng về siêu hình:
Siêu hình học chứng minh rằng, tất cả vạn vật trong Vũ Trụ đều chuyển động không ngừng. Từ tinh thần đến vật chất, từ cái bổn thể tế vi thuần túy, đến cái bổn thể thô sơ phức tạp, thấy đều chuyển động luôn.

Một vật mắt phàm ta cho là bất động, chẳng hạn như hòn đá, mỗi nguyên tử trong những thành phần cấu kết thành khối đá vẫn luôn luôn vận chuyển.

Thinh âm, ánh sáng, hơi nóng, điện khí, điện từ, quang tuyến, v.v... toàn là cách thức ba động của tinh lực và vật thể trong Vũ Trụ phát hiện ra, biến thành cái năng lực chuyển động vô cùng vô tận.

Sự chuyển động toàn thể này phải do một động cơ duy nhất điều khiển nó. Cái động cơ duy nhất ấy tức là Thượng Đế.

Ông Descartes nhà triết học kiêm toán học nước Pháp hồi thế kỷ 17, dùng lý trí suy nghiệm để chứng minh sự tự hữu của Thượng Đế, Ông nói:

“Tôi biết tôi là tôi, nhưng tôi đây là gì? Là một giống vật hoài nghi, mà đã hoài nghi tức là tôi chưa toàn thiện. Nhưng tôi nhận thấy tôi không hoàn thiện, tôi không thể không quan niệm một Đấng thật toàn thiện. Ý niệm toàn thiện này do đâu mà tôi có? Vì tôi là bất toàn thiện kia mà? Cũng không phải do ngoại giới mà tôi có được ý niệm toàn thiện đó, vì ngoại giới cũng là bất toàn thiện. Vậy ý niệm toàn thiện ấy nhất định phải là của Đấng Toàn Thiện ban cho tôi. Luôn đến ý niệm tuyệt đối hữu hạn cũng thế. Chúng ta là kẻ hữu hạn mà lại có ý niệm về vô hạn. Ý niệm ấy cũng chỉ có Đấng vô hạn là Thượng Đế ban cho ta được mà thôi.”

VŨ TRỤ QUAN

Định nghĩa Vũ Trụ Quan:
Ông Châu Hi định nghĩa Vũ Trụ như vầy?

Tứ phương thượng hạ, viết: "Võ", cổ vãng kim lai, viết: "Trụ" (Bốn phương, trên, dưới, gọi võ, xưa qua nay lại, gọi trụ).

Giải rộng ra: Không gian vô biên, vô tận là "Võ", thời gian vô thỉ vô chung là: "Trụ".

Vậy Võ Trụ: hiểu rộng ra thêm nữa, gồm tất cả cái gì trong không gian và thời gian.

THUYẾT SÁNG TẠO VÀ THUYẾT LƯU XUẤT

Các triết gia Âu châu có chỗ dị đồng về quan niệm Vũ Trụ. Người thì cho rằng Vũ Trụ sở dĩ có là nhờ Thượng Đế sáng tạo. Kẻ lại cho rằng Thượng Đế lưu xuất bán thể mà tác thành Vũ Trụ.

Theo thuyết sáng tạo (théorie de la création) Thượng Đế lập ra Vũ Trụ ở ngoài Ngài, chớ không phải rút ở bản thể Ngài mà lập ra.

Theo thuyết lưu xuất (théorie de l’ Emanation) Thượng Đế chiết một phần bản thể của Ngài để lập thành một bản thể khác tức là Vũ Trụ.

Căn cứ vào đoạn Thánh giáo sau đây, chúng tôi nhận thấy hai thuyết ấy có thể bổ túc cho nhau.

Thánh giáo:
" Khi chưa có chi trong Càn Khôn, Thế giới thì khí Hư vô sanh có một mình Thầy. Rồi Thầy lập ngôi Thái cực. Thái cực phân Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái lại biến hóa vô cùng mới lập ra Càn khôn, Thế giới.
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, nhơn loại, gọi là chúng sanh ".

Theo Thánh giáo trên đây, Thượng Đế dùng phép vô vi Bát Quái mà lập Vũ Trụ, tức là cơ sáng tạo.
Đoạn Ngài lại phân tánh Ngài mà sanh ra vạn vật (chúng sanh) tức là phép lưu xuất vậy.

VÔ CỰC

Nguyên hồi vô thỉ, nghĩa là khi chưa tạo thiên lập địa, cõi thái hư (không gian) mờ mờ mịt mịt chỉ có một nguyên lý tuyệt đối thiên nhiên hiện hữu, vô thỉ vô chung, cổ nhân mượn phàm ngữ gọi là khí Hư Vô hay Vô Cực, Phật giáo gọi nguyên lý ấy là Chơn Như, Khổng giáo gọi là Thiên Lý, Lão giáo gọi là Đạo.
Khí hư vô lại sanh ra chơn linh của Thượng Đế.

BA NGÔI

Thứ nhất, Thượng Đế lập ngôi một của Ngài là Thái cực. Ngài lại dùng ý chí biến Thái cực làm cơ động tịnh. Thái cực động sanh Chơn Dương làm Hỏa. Hỏa là Thần tức là cái động thể Nguơn Thần của Thượng Đế mà Đạo gọi Mộc Công, vì mộc năng sanh hỏa.

Thái cực lại tịnh mà sanh Chơn Âm làm Thủy. Thủy là Tinh tức cái Tịnh thể Ngươn Thần của Thượng Đế mà Đạo thơ gọi là Kim Mẫu, vì kim năng sanh thủy.

Ấy vậy Thượng Đế làm chủ Chơn Dương, còn Đức Diêu Trì Kim Mẫu làm chủ Chơn Âm, mà Chơn Dương và Chơn Âm vốn đồng một gốc.

Thượng Đế lại vận chuyển ngôi Thái Cực, cứ một động một tịnh mà sanh hai nguyên lý Thái Dương và Thái Âm lập thành ngôi Hai là Lưỡng Nghi (Thái Dương và Thái Âm).

Lưỡng nghi lại vận chuyển theo mạng lịnh Thượng Đế, sanh thêm hai nguyên lý Thiếu Dương và Thiếu Âm lập thành ngôi Ba là Tứ Tượng (Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm).
BIỂU HIỆN BA NGÔI

Thái cực  -  Lưỡng nghi  -  Tứ tượng

CƠ SÁNG TẠO

Thượng Đế dùng quyền Chí Tôn, lập phép vô vi Bát Quái mà tác thành Vũ Trụ. Trước nhất, Ngài lập ba cõi Thanh Thiên.

1. - Thái Thanh Thiên, Phật giáo gọi là Đại Bát Niết Bàn
2. - Thượng Thanh Thiên, Phật giáo gọi là Bát Niết Bàn
3. - Ngọc Thanh Thiên, Phật giáo gọi là Niết Bàn.

Trong bài kinh xưng tụng Đức Thái Thượng Đạo Tổ (Tiên giáo) có câu:
"Đạo cao nhứt Khí, diệu hóa Tam Thanh".

Xong, Thượng Đế lập thêm ba cảnh giới là: Thượng giới, Trung giới, và Hạ Giới.

Thượng giới gồm ba cõi Tiên là:
1. - Cõi Thiên Tiên.
2. - Cõi Địa Tiên.
3. - Cõi Nhơn Tiên.

Mỗi cõi này đều có ba từng, cộng chung thành chín, gọi Cửu Trùng Thiên. Theo Thánh giáo Cửu Trùng Thiên kể từ trên xuống dưới gồm có:

1. - Hổn Nguơn Thiên,
2. - Hư Vô thiên.
3. - Tạo Hóa Thiên.
4. - Phi Tưởng Thiên.
5. - Hạo Nhiên Thiên.
6. - Kim Thiên.
7. - Xích Thiên.
8. - Huỳnh Thiên.
9. - Thanh Thiên.

Hổn Nguơn Thiên có Lôi Âm Tự. Hư Vô Thiên có Ngọc Hư Cung. Tạo Hóa Thiên có Diêu Trì Cung.

Trung giới gồm có cõi Thánh và cõi Thần. Mỗi cõi cũng chia nhiều từng, đây chỉ nói sơ lược thôi.

Hạ giới là cõi phàm trần có tinh tú và thất thập nhị địa cầu, đều có nhơn loại, cùng các thứ sanh vật, nhưng hình thể và cách sinh hoạt vẫn khác nhau.
Địa cầu chúng ta ở đứng vào hạng 68.

Do tám cung Bát Quái, Thượng Đế phân tánh cho xuất hiện Bát Phẩm Chơn Hồn chuyển xuống Càn khôn Thế giới biến thành chơn linh của chúng sanh.

Trong "Phật Mẫu Chơn Kinh" có câu:
"Thiên cung xuất vạn linh tùng Pháp,
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Càn khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh."

Bát hồn là: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

Vạn vật vẫn nhờ phép Âm Dương giao cảm của Thượng Đế mà sanh ra, và thọ của Thượng Đế một điểm linh quang, gọi là hồn.

Bát Quái là nơi sản xuất Bát Phẩm Chơn Hồn giáng trần để thi hành luật tấn hóa.

Khi đắc Đạo, tức tấn hóa đến mức cuối cùng, các chơn hồn cũng do Bát Quái là nơi sản xuất để trở về cựu vị. Cho nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho “Bát Quái Đài” là tượng trưng cơ đắc Đạo tại thế đó vậy.

CHƠN LÝ

Người gởi thân vào cửa Đạo bao giờ cũng phải và hành đúng theo chơn lý.

Chơn lý là gì? Là lý Chơn thật, nói nôm na là lẽ thật, lẽ phải. Có hai thứ chơn lý: Chơn lý tương đối và chơn lý tuyệt đối. Chơn lý tương đối là chơn lý do lý trí con người tìm ra. Chơn lý tuyệt đối là chơn lý của Trời vậy.

Chơn lý tương đối xuất phát do hai yếu tố chánh sau đây:
a / Đối tượng của tư tưởng.
b / Tư tưởng về đối tượng ấy.

Ví dụ ta tư tưởng một điều gì rồi ta cho nó là phải. Cái điều tư tưởng đó là đối tượng. Khi ta cho nó là phải tức là ta đã dùng tư tưởng về đối tượng ấy rồi. Cái phải ấy đối với ta lẽ thật, tức chơn lý vậy. (chơn lý tương đối)

Con người nhờ trí khôn mà học hỏi, tìm tòi kinh nghiệm nên thông nhiều việc. Sự thông hiểu đó là chơn lý, nhưng chỉ là chơn lý tương đối thôi, vì nó tùy trình độ trí thức con người mà được cao thượng hay tầm thường.

Như người đời dùng thịt cá nuôi thân cho là bổ dưỡng. Trái lại người tu hành lại cho rằng rau, hoa quả là chất bổ. Cả hai đều có cái lẽ phải của mình.

Vậy chơn lý tương đối tùy quan niệm con người mà có, và bao nhiêu quan niệm là bao nhiêu chơn lý ấy.

Xin đơn cử một ví dụ cho dễ hiểu: một ngọn đèn chung quanh có thể bốn tấm kiếng khác màu nhau: một tấm vàng, một tấm đỏ, một tấm xanh, một tấm tím.

Người đứng ngay tấm kiếng màu xanh thấy ánh đèn màu xanh, người đứng ngay tấm kiếng màu đỏ thấy ánh đèn màu đỏ, v.v... Kẻ bảo xanh, người cho là đỏ, phân phân bất nhứt không ai chịu tin theo vì chính mỗi người đã thấy kia mà. Cho nên sở dĩ có nhiều người cãi nhau về chơn lý là chỉ vì thế.

Vậy muốn cho mọi người thấy đích xác cái màu của ngọn đèn ra sao ta cứ gở bốn tấm kiếng ấy ra là được ánh ngọn đèn tượng trưng chơn lý tuyệt đối, mà hễ nó xuyên qua bốn tấm kiếng thì là tượng trưng chơn lý tương đối vậy. Thế thì chơn lý tương đối không cố định.

Nó biến đổi theo thời gian và trình độ tấn hóa của con người. Điều mà hôm nay ta cho là chơn lý có thể ngày mai, đối với ta, nó không còn là chơn lý nữa.

Những chơn lý tương đối, tức chơn lý của loài người, sau rồi sẽ tấn hóa lên để gặp nhau ở chỗ duy nhứt là chơn lý tuyệt đối, là lý của Trời (Thiên lý).

Các chơn lý này mới thiệt là bất di bất dịch. Từ xưa đã có tôn giáo thì đã có chơn lý này, vì tôn giáo vốn của Trời lập ra mặc dù có nhiều hình thức. Nó là chơn lý duy nhất, cao thâm huyền bí, trí người tầm thường không thể nào quán thông được.

Chơn truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay, tức là chơn lý ấy vậy. Chơn truyền lại có hai phần.

Công truyền và Tâm truyền.
Phần Công truyền dạy chung cách thức tu hành theo luật pháp của Đạo cho khỏi lạc đường lối thiên định và tránh gây những tội tình nghiệt ác lôi cuốn con người vào vòng sanh tử.

Phần Tâm truyền gồm những yếu lý về hình nhi thượng học dành riêng cho những bậc trí thức tiếp thọ, sau khi công viên quả mãn. Có người quá tin ở tài trí mình, không cùng chơn truyền vẫn có, lại nghĩ theo ý riêng, đề xướng những điều phản chơn truyền, cốt để thỏa mãn cái chơn lý chủ quan của mình. Đó chỉ là chơn lý tương đối, mà chơn lý tương đối không thể nào hoàn toàn được, vì nó do bộ óc không hoàn toàn của người đề xướng nó ra.

Vậy chúng ta tu hành cần phải giữ chơn truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là chơn lý của Đức Chí Tôn ban bố cho chúng ta, nhờ đó thành tâm đắc quả.

BẢN NGÃ

Phàm làm việc gì mà trông mong ở tư kỷ, tư lợi, như làm lành mong gặp phước, làm phải để cầu khen, như vậy là tư về bản ngã, nghĩa là ngã chấp, chấp cái ta. Cái ta là cội rễ các việc tư, cho nên việc gì chẳng lợi cho mình mà nếu buộc phải làm, thì làm lấy có lại tính thiệt so hơn hơn, cân nhắc từng chút. Còn làm việc gì có lợi cho mình thì mệt nhọc không nài. Vậy cái Ta thì thường chứa đầy tư tưởng thiên lịch theo ngã kiến, nói tóm lại nó là nguồn gốc của các tánh xấu xa đê tiện, như vị thân, vị kỷ, tự ái, v.v... Những tánh xấu này làm cho con người tự cao, tự đắc mà không bao giờ phục thiện. Cho nên con người mà tâm hồn còn chứa đầy những tư tưởng thấp hèn thế ấy, thì còn chỗ đâu mà chứa những tư tưởng cao siêu vong ngã. Mà trong người thế ấy thì khó mà tấn hóa, có chăng chỉ tấn hóa một cách chậm chạp đó thôi.

Tượng chấp có Ta thì chẳng biết có Người. Ta và Người mà phân biệt, thì bao nhiêu hành động thiên về vị kỷ mà mất lẽ công, có khi còn phải thất nhơn thất đức.

Diệt được cái Ta là tiết chế được tình dục, đoạn trừ tư tâm ngã kiến, rồi nhứt cử nhứt động đều quay về vị tha, quên cả mình để mưu lợi cho người. Đã quên cả mình thì còn việc gì làm lụy cho mình được?

Thử kiếm trong hình hài ta coi có cái gì thiệt là của ta đâu?

Thân thể con người do bốn nguyên tố lớn hiệp thành, gọi Tứ đại giả hiệp. Tứ đại là: đất, nước, lửa, gió.
Xương thịt trong thân tánh chắc, thuộc Đất,
Huyết dịch trong thân tánh lỏng, thuộc Nước,
Ôn độ trong thân tánh ấm, thuộc Lửa,
Khí chất trong thân tánh động, thuộc Gió.

Khi hồn lìa khỏi xác bốn nguyên tố cấu tạo nên cơ thể thảy đều tan rã, rồi hiệp thành một bổn thể khác để rồi tan nữa, hiệp nữa, thoạt có, thoạt không.

Rõ ràng là một giả tướng. Đã là một giả tướng tội gì bo bo chấp lấy cái ta?

Cho nên, bực tu hành nếu không lo trừ bản ngã thì chẳng thể nào bỏ Vọng về Chơn, bỏ Mê theo Giác mà thoát ra vòng luân hồi quả báo. Là vì hễ còn ôm ấp cái ta, là còn cố chấp ngã kiến, nên không thế nào tìm ra chơn lý.
Chơn lý với bản ngã không bao giờ lưỡng lập.

Tổng luận:
Ta và Người bao giờ cũng mâu thuẫn nhau, nếu trong đời sống của chúng ta mà còn phân biệt Nhĩ Ngã thì không ai là không lo củng cố cái bản ngã của mình. Nhưng nếu diệt được cái bản ngã, ta sẽ thấy đâu đâu cũng là mình cả và cái sống của người thiên hạ cũng là cái sống của mình. Hiểu và tin chắc như thế, tức là chúng ta đã đi đến chỗ Đại Đồng. Trang Tử nói: "Người và Tạo hóa hợp làm một rồi, thì đi đâu lại không phải là mình".

CHƠN NGÃ

Nhơn hồn chuyển sanh từ kiếp này sang kiếp khác. Vì vô minh vọng chấp cái thân tứ đại làm bản ngã, cho nên ích kỷ mà sanh dục vọng, rồi tạo nhơn mà phải trả quả.

Nếu con người biết tu, dùng qui giới mà lọc cho Nhơn hồn trong sạch, dùng thiền định mà làm cho nó yên tịnh và sáng suốt, như nước biển yên lặng không sóng dợn thì Nhơn hồn sẽ đắc giác mà chứng quả Địa Tiên hoặc cao hơn một bực là Nhơn Tiên.

Nhơn Tiên và Địa Tiên là bực sáng suốt, dứt sạch vô minh, biết được quá khứ vị lai, phân biệt được vọng với chơn, nên không còn duyên theo ngoại cảnh. Tuy nhiên, phần thô tưởng đã dứt, nhưng phần tế tưởng chưa đoạn tuyệt. Vì vậy mà sau khi hưởng tận Tiên vị trong một thời gian mấy ngàn, mấy muôn năm ở cõi Tiên rồi, còn phải chuyển kiếp đặng tấn hóa thêm lên và diệt trừ cho tuyệt tế tưởng.

Người có Tiên căn giáng thế là bực đại thông minh, học ít hiểu nhiều, có khi trực giác mà hiểu biết, Người bao giờ cũng hành động phi phàm cao thượng, độ thế cứu đời bằng cách dìu dẫn chúng sanh trên đường đạo đức. Vừa cứu độ, vừa tu luyện cho trí tuệ của mình phát triển hoàn toàn, mà chứng quả Bồ Đề, Phật giáo gọi là Bồ Tát, Đạo giáo gọi là Thiên Tiên, hưởng quả tại cõi Bồ Đề hay cõi Thiên Tiên.

Bồ Tát hay Thiên Tiên đều là bực toàn tự giác, biết rõ quá khứ vị lai, hiểu thấu cơ mầu nhiệm của Trời Đất, không còn gì học hỏi nữa. Song tự giác chỉ là giác ngộ cho mình thôi, nên còn tự kỷ mà chấp trước vẫn còn. Muốn cầu chánh giác, Bồ Tát phải giáng thế một lần nữa để lập Đạo cứu Đời.

Đó là giác tha, nghĩa là đem cái giác ngộ của mình mà giác ngộ chúng sanh, sự giác ngộ của mình đã hoàn toàn, sự giác ngộ chúng sanh đã viên mãn, tức là tự giác và giác tha đầy đủ, nên được chứng quả chánh giác, Phật giáo gọi thành Phật, Đạo giáo gọi là Đại Giác Kim Tiên.

Chứng quả Phật thì được hoàn toàn giải thoát, hết phiền não, chướng ngại, hết nghiệp báo luân hồi, hết trì trục theo giả tưởng mà trở lại bổn thể Chơn tâm, tức là Chơn ngã mà vào cõi Niết Bàn.

ĐẠO ĐỨC

Theo Đức Lão Tử, cái nguyên lý tự nhiên là Đạo, được vào trong lòng người gọi là Đức.
Theo nghĩa thông thường Đạo Đức là lý pháp người ta noi theo để cư xử với đời thế nào cho trên hợp với lẽ Trời, dưới hợp cùng luân lý.

Người có đạo đức bao giờ cùng biết thận trọng:
Đối nội: không làm việc gì tổn thương đến nhơn cách mình, dù là việc âm thầm không ai biết.

Đối ngoại: cũng không bao giờ làm việc phi nghĩa và tổn nhơn hại vật, mặc dù việc ấy có lợi cho mình.

Người không đạo đức, trái lại không cần quấy phải, phàm việc gì có lợi cho mình thì cứ mạnh dạn mà làm, mặc dù việc ấy có hại cho ai. Vì vậy mà họ cứ tính đủ trăm mưu ngàn kế để thỏa mãn bản năng đê tiện của họ.

Người không đạo đức không có tín ngưỡng và không có tư tưởng thanh cao, họ chỉ sống với sự lôi cuốn của thị hiếu và dục vọng, không cần biết nghĩa vụ đối với nhơn quần xã hội là gì.

Người không đạo đức chẳng thể nào bền chịu với cảnh nghèo túng, họ dám làm liều, miễn sao cho có tiền xây dựng no ấm cho họ, cho nên trong xã hội mà đa số người không đạo đức, thường xảy ra những thảm kịch giết người đoạt của, hay lừa đảo của nhau không là việc lạ.

Trái lại, người có đạo đức thì vui chịu với số phận, gặp cảnh nào cũng yên ổn thảnh thơi, thì đâu đến nỗi bị ngoại vật lôi cuốn vào vòng tội lỗi?

Nhưng đạo đức cần phải đi đôi với tài năng. Một người có đạo đức mà thiếu tài năng thì chưa có đủ tư cách hoàn toàn để giúp Đời, giúp Đạo.

Một người có tài năng mà thiếu đạo đức chỉ sống ích kỷ và làm hại cho nhơn quần xã hội thôi.

Một người khả dĩ được hoàn toàn là khi nào kiêm cả tài đức. Có đức để làm tròn nghĩa vụ, có tài để làm tròn nhiệm vụ.

Còn như chịu kém một phần, thà kém tài hơn là kém đức. Câu “Đức thắng tài chi quân tử, Tài thắng đức chi tiểu nhơn” thật chí lý.

Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu đạo đức xã hội sẽ lâm vào cảnh cuồng loạn.

   Home                                 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét