
1 .
CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI :
Giáo Tông : " Là
anh cả của các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu dắt các con, trong đường Đạo
và đường Đời. Có quyền về phần xác mà chẳng có quyền về phần hồn. Giáo Tông
đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Địa, cầu rỗi cho
các con."
Chưởng Pháp : " Ba vị Chưởng Pháp của Tam Giáo,
tuy phân biệt, song trước mặt
Thầy coi như một, có quyền xem xét luật lệ, trước khi ban hành, hoặc nơi Giáo
Tông truyền xuống hoặc dưới Đầu Sư dâng lên. Nếu cả hai chẳng thuận, Chưởng
Pháp phải dâng lên Hộ Pháp, đến Hiệp Thiên Đài cầu Thầy sửa chữa, hay tùy ý lập
luật khác. Chưởng Pháp có quyền xem xét kinh điển trước khi phổ thông. Nếu có
kinh điển nào làm tồi bại phong hóa, Chưởng Pháp có quyền trừ bỏ. Buộc cả tín
đồ phải giúp Chưởng Pháp hành sự trước luật đời. Thầy khuyên các con rán giúp
đỡ lẫn nhau. Chưởng Pháp, mỗi vị có ấn riêng. Ba ấn phải đủ trên mặt luật, mới
đặng thi hành ".
Đầu Sư - Ba vị Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và Phần
Đời của chư môn đệ. Đầu Sư có quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông
phê chuẩn. Muốn phê chuẩn luật lệ Giáo Tông phải giao cho Chưởng Pháp xem xét
trước, coi luật lệ ấy qủa có ích cho nhơn sanh chăng ? Ba vị Đầu Sư phải tuân
lịnh Giáo Tông truyền dạy. Thảng có luật lệ nào quá hà khắc tín đồ, Đầu Sư có
quyền xin ủy bỏ. Thầy khuyên các con rán giúp Đầu Sư trong khi hành sự. Thầy
lại dặn các con, nếu có đều gì cần, nên nài xin nơi Đầu Sư.
Ba chi tuy khác, song
quyền hành như một. Luật lệ nào của Giáo Tông truyền dạy mà cả ba đồng bất tuân
thì luật lệ ấy phải trả lại Giáo Tông, truyền lịnh cho Chưởng Pháp xem xét. Ba
vị Đầu Sư có ba ấn khác khau. Mỗi tờ giấy phải có đủ ba ấn mới thi hành.
Phối sư - Mỗi phái có 12 người, ba pháicộng lại thành 36
vị. Trong số 36, tuyển ra ba vị Chánh Phối Sư để thế quyền Đầu Sư mà hành sự,
ssong chẳng có quyền phá luật lệ.
Giáo Sư - Giáo Sư có 72 người, mỗi phái có 24 vị. Giáo Sư
là người dạy dỗ tín đồ trong đường Đạo và đường Đời. Buộc Giáo Sư phải lo lắng
cho tín đồ, cũng như anh lo cho em. Giáo Sư cầm sổ bộ Tín Đồ, chăm nom việc
tang hôn. Tại châu thành lớn, Giáo Sư có quyền cai quản Thánh Thất, cúng tế
Thầy, như Đầu Sư và Phối Sư. Giáo Sư có quyền dâng sớ kêu này sửa đổi, hoặc chế
giảm luật lệ nào quá hà khắc nhơn sanh. Giáo Sư thân mật với mỗi đứa môn đệ,
như anh em một nhà, cần phải giúp đỡ.
Giáo Hữu - Giáo Hữu là người phổ thông Chơn Đạo, có quyền
cầu xin chế giảm luật lệ. Ba ngàn Giáo Hữu chia đều mỗi hái một ngàn, chẳng
đặng tăng thêm, hay giảm bớt. Giáo Hữu đặng phép hành lễ khi làm chủ một ngôi
Chùa trong mấy tỉnh nhỏ.
Lễ Sanh - Lễ Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong hàng
Chư Môn Đệ để hành lễ, có quyền khai đàn cho tín đồ. Thầy dặn các con : Lễ Sanh
là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp. Vào hàng Lễ Sanh mới mong bước qua
hàng Chức Sắc, trừ ra, Thầy phong thưởng riêng mới qua khỏi luật lệ ấy.
Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự - Pháp Chánh
Truyền trên đây, thoạt tiên, dự định đến phẩm Lễ Sanh thôi. Nhưng về sau, Đại
Đạo một ngày phổ thông, người nhập môn ngày một nhiều, Hội Thánh thiếu người
chăm nom phổ hóa, Đức Lý Giáo Tông bèn đặt thêm hai phẩm chức việc nữa, là
Chánh Phó Trị Sự và Đức Hộ Pháp đặt thêm phẩm Thông Sự. Ba phẩm chức việc nầy
có phận sự săn sóc Đạo Hữu ở rãi rác khắp nơi, từ thôn quê đến thành thị và hòa
giải những tư tưởng bất đồng giữa tín đồ.
ĐẠO PHỤC CỦA CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI
NAM PHÁI
Đạo Phục Giáo Tông
ĐẠO PHỤC GIÁO TÔNG có hai
bộ :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 60
Đại Phục : Đại Phục nay bằng hàng trắng, thêu bông sen vàng
từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi bên có ba Cổ Pháp là Long Tu Phiến, Thư
Hùng Kiếm và Phất Chủ (Ấy là cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh). Đầu đội
mão vàng 5 từng, hình Bát Quái (Ấy là thể Ngũ Chi Đại Đạo), ráp tròn lại bịt
chính giữa, trên chót mão có chữ "
Vạn ", giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn, bao quanh một vòng " Minh Khí ", nơi ngạch mão
chạm ba Cổ Pháp rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên. Tay mặt cầm cây gậy
0m90, trên đầu cây gậy có chữ " Vạn
" bằng vàng, giữa chữ " Vạn
" có Thiên Nhãn, bao quanh một vòng " Minh khí".
Tiểu Phục : Tiểu Phục cũng hàng bằng trắng có thêu " Bát Quái " ( Thánh Ngôn ngày
22-4-1926 )
Chơn dung Đức
Quyền Giáo Tông THƯỢNG TRUNG NHỰT
Đầu đội mão Hiệp Chưởng
(Mitre) cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao ba tấc, ba phân, ba ly (0m333) may
giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp
(Ấy là Âm Dương tương hiệp) cột giây xếp hai lại, bên tay trái, có để hai dải
thòng xuống, một mí dài, một mí vắn [mí dài bề ngang ba phân (0m 03), bề dài 3
tấc (0m3) ].
Trên mão ngay trước trán
có thêu cung "Càn " Cung
CÀN không có dưới áo, mà lại nằm trên mão, chơn đi giày Vô Ưu toàn bằng hàng
trắng, trước mũi có thêu Tịch Đạo Nam Nữ ( Thanh Hương ). [ Xem bài tịch Đạo
rồi tùy mỗi trào Giáo Tông mà sửa đổi ]
Đạo Phục Chưởng Pháp
ĐẠO PHỤC THÁI CHƯỞNG PHÁP
THÁI CHƯỞNG PHÁP có hai bộ
ĐẠO PHỤC là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC
Đại Phục: Đại phục may bằng hàng màu vàng, có thêu Bát Quái
giống như Tiểu Phục Giáo Tông, ngoài choàng "
Bá Nạp Quang " màu đỏ, tục gọi là "
Khậu ", đầu đội Mão Hiệp Chưởng của Hòa Thượng, tay cầm Bình Bát Du,
chơn đi giày Vô ưu màu vàng, trước mũi có thêu chữ " Thích ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may màu vàng, y như áo Đại phục,
ngoài không đắp khậu, đầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP
THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP có hai
bộ ĐẠO PHỤC là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 60 .
Đại Phục: Đại Phục bằng
hàng trắng, trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn, bao quanh vòng " Minh Khí ", đầu có đội mão
Hiệp Chưởng ( Mitre ) màu trắng y như kiểu mão Tiểu Phục của Giáo Tông, tay cầm
Phất Chủ, chơn đi giày Vô ưu cũng màu trắng; trước mũi có thêu chữ " Đạo ".
Tiểu Phục: Tiểu phục màu
trắng, y như Đại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu trắng chín lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC NHO CHƯỞNG PHÁP
NHO CHƯỞNG PHÁP có hai bộ
ĐẠO PHỤC là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền, trang 61
Đại Phục : Đại Phục toàn
màu hồng, trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn, bao quanh vòng " Minh Khí ", đầu đội mão
" Văn Đằng " màu hồng, trên
ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn, bao quanh một vòng " Minh Khí " và bên trên có ngôi sao " Bắc Đẩu Tinh Quân " , tay cầm Xuân Thu Kinh, chơn đi
giày Vô ưu màu hồng; trước mũi có thêu chữ "
Nho ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng
bằng hàng màu hồng, y như Đại Phục, đầu không đội mão mà bịt khăn màu hồng chín
lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC THÁI ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC THÁI ĐẦU SƯ có
hai bộ là : ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem quyển Pháp Chánh Truyền , trang 61
Đại Phục: Đại Phục may bằng hàng màu vàng, trước ngực và
sau lưng có thêu sáu chữ " Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ " bao quanh ba vòng vô vi, ngay giữa có một chữ " Thái " áo có 9 dải, ngoài
choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, y như Thái Chưởng Pháp, đầu đội Bát Quái Mạo màu
vàng, có thêu Bát Quái ( Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ). Chơn đi
giày Vô ưu màu đen trước mũi có thêu chữ "
Thái ".
Tiểu Phục: Tiểu phục cũng may bằng hàng màu vàng, y như áo
Đại Phục. Đầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ " Nhứt "
ĐẠO PHỤC THƯỢNG
ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC THƯỢNG ĐẦU SƯ có
hai bộ là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 61 .
Đại Phục : Đại Phục toàn màu xanh da trời ( azur ) , trước
ngực và sau lưng có thêu chữ " Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ " bao chung quanh ba vòng vô vi cũng như áo của Thái
Đầu Sư; song ở giữa có chữ " Thượng
" áo có chín dải. Đầu đội Bát Quái Mạo y như mão Thái Đầu Sư, màu xanh
da trời chơn đi giày Vô ưu màu đen trước mũi có thêu chữ "Thượng".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may bằng hàng màu xanh da trời (
azur ), y như Đại Phục. Đầu không đội mão mà bịt khăn màu xanh da trời, chín
lớp chữ " Nhứt ".
ĐẠO PHỤC NGỌC ĐẦU SƯ
ĐẠO PHỤC NGỌC ĐẦU SƯ có
hai bộ là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 62, 63 .
Đại Phục : Đại Phục toàn bằng màu hồng, trước ngực và sau
lưng có thêu 6 chữ "Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ" bao quanh ba vòng vô vi như áo của Thái Đầu Sư và Thượng Đầu
Sư, song ngay giữa có thêu chữ "Ngọc"
áo 9 dải, đầu đội Bát Quái Mạo y mhư Thái và Thượng Đầu Sư, nhưng màu hồng,
chơn đi giày Vô ưu màu đen, trước mũi có thêu chữ " Ngọc ".
Tiểu Phục : Tiểu phục cũng may bằng hàng màu hồng, y như áo
Đại Phục. Đầu không đội mão mà bịt khăn màu vàng hồng 9 lớp chữ " Nhứt " .
ĐẠO PHỤC CHÁNH PHỐI SƯ VÀ PHỐI SƯ
ĐẠO PHỤC có hai bộ là :
ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem
quyển Pháp Chánh Truyền , trang 62, 63 . Đại Phục - Như của Đầu Sư, song trước
ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn, bao quanh một vòng vô vi.
Chánh Phối Sư thì áo chín
dải, Phối Sư thì áo ba dải.
Chánh Phối Sư phái Thái
choàng ngoài "Bá Nạp Quang"
màu đỏ, Phối Sư phái Thái thì Tiểu "
Bá Nạp Quang " đầu đội Bát Quái Mạo, y như ba vị Đầu Đư, song tùy sắc
phái mình. Chơn đi giài Vô ưu màu đen, trước mũi không có thêu chi hết.
Tiểu phục: Tiểu phục cũng
như Đại phục, đầu không đội mão, mà bịt khăn tùy theo sắc phái mình, chín lớp
chữ nhứt.
Bát Quái Mạo của
Phối Sư
ĐẠO PHỤC GIÁO SƯ
GIÁO SƯ có hai bộ ĐẠO PHỤC
là ĐẠI PHỤC và TIỂU PHỤC Xem quyển Pháp Chánh Truyền, trang 631 .
Đại Phục: Đại Phục bằng hàng màu tùy sắc phái mình; trước
ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn bao chung quanh một vòng Vô Vi, áo ba vải.
Đầu đội Thiên Ngươn Mạo Bát Quái. tùy sắc phái của mình mà thêu chữ Bát Quái,
chung quanh trên chót mão có: " Minh
Châu Lý " Giáo Sư không đặng đi giày.
Riêng Giáo Sư Phái Thái
phải choàng ngoài một Tiểu Bá Nạp Quang gọi là " Khậu ". Đầu đội mão Hiệp Chưởng như của nhà Thiền. Hai
bên có thêu Thiên Nhãn.
Tiểu phục: Tiểu phục cũng như Đại Phục, đầu không đội mão,
phải bịt khăn, tùy sắc phái mình, bảy lớp chữ " Nhơn ".
ĐẠO PHỤC GIÁO HỮU
Đạo phục Giáo Hữu chỉ có
một bộ mà thôi, toàn bằng hàng tùy theo sắc phái của mình, không có thêu thùa
chi hết, áo có ba dải, đầu đội Ngưỡng Thiên Mạo, cũng tùy sắc phái.
Mão ấy bề cao phải có đủ
phân tấc là 0 m 150, ngay trước
trán có thêu Thiên Nhãn bao quanh bavòng Vô vi, Giáo Hữu không đặng bịt khăn.
ĐẠO PHỤC LỄ SANH
Đạo phục Lễ Sanh y như của
Giáo Hữu, toàn bằng hàng tùy theo sắc phái. Đầu đội " Khôi Khoa Mạo " toàn bằng hàng trắng ( Phái nào cũng
vậy ). Ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn, bao quanh một vòng Minh Khí. Lễ sanh
không đặng đi giày.
Khôi Khoa Mạo
của Lễ Sanh
4 .
CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI NỮ PHÁI
Đầu Sư Nữ Phái: Nữ Phái có một vị Đầu Sư
dìu dắt Đầu Sư Nữ Phái đồng quyền với Nam Phái, tuân lịnh một Giáo Tông và ba
Chưởng Pháp. Đầu Sư nữ Phái cũng tùng chung một luật phân xử, trong đường Đạo
và đường Đời là luật công cử của Hội Thánh ban hành.
Đầu Sư Nữ Phái dùng Đạo
Phục như Đầu Sư Nam Phái, song đội mão Phương Thiên và Ni Kim Cô, như các vãi ở
chùa, trên chót có Thiên Nhãn, bào quanh một vòng " Minh Khí ", choàng một đoạn lụa màu trắng từ Ni Kim Cô
thả xuống tới gót chơn. Áo may bằng hàng trắng, chín dãi, có thêu bông sen,
chơn đi giày Vô Ưu, trên mũi có thêu chữ "
Hương ".
Chánh Phối Sư và Phối Sư: Chánh Phối Sư mặc Đạo
phục y như Đầu Sư, áo chín dải, toàn bằng hàng trắng, nơi trước ngực có thêu
Thiên Nhãn bao quanh một vòng Minh Khí, áo có thêu bông sen y như của Đầu Sư và
đầu đội Ni Kim Cô cũng như Đầu Sư, chơn đi giày Vô Ưu, có Tịch Đạo trước mũi,
song không phép đội mão Phương Thiên.
Phối Sư cũng mặc Đạo Phục
như Chánh Phối Sư, song áo có ba dải mà thôi. Chơn cũng đi giày Vô Ưu, có Chữ
Tịch Đạo trước mũi.
Giáo Sư: Giáo Sư mặc áo ba dải, đội Kim Cô bằng hàng
trắng, chơn chẳng đi giày.
Giáo Hữu: Giáo Hữu mặc Đạo Phục như Giáo Sư, đầu không đội
mão, nhưng có giắt bông sen, có thêu Thiên Nhãn.
Lễ sanh: Lễ sanh mặc áo như Giáo Hữu, choàng ngang trên
đầu một đoạn vải mỏng, cột ra sau ót, thả một mí dày, một mí vắn, trên đầu tóc
giắt bông sen.
Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự: Hội Thánh Nữ
Phái cũng có ba phẩm Chức Việc và ba phẩm nầy có phận sự cũng như Nam Phái.
LUẬT CÔNG CỬ
CHỨC SẮC CỬU TRÙNG
ĐÀI VÀ NỮ PHÁI
Thánh ngôn : " Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp, nhờ 3 vị
Đầu Sư công cử, Phối Sư muốn lên Đầu Sư, nhờ 36 vị Phối Sư công cử; Giáo Sư
muốn lên Phối Sư, nhờ 72 vị công cử; Giáo hữu muốn lên Giáo Sư, nhờ 3000 Giáo
Hữu công cử. Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu, nhờ cả Lễ Sanh công cử. Trừ raThầy
giáng cơ phong thưởng riêng người nào thì người ấy mới ra khỏi luật lệ ấy.
Giáo Tông có hai phẩm đặng
phép dự cử là : "Chưởng Pháp và Đầu
Sư, song phải chịu toàn Đạo công cử. Trừ ra Thầy giáng cơ phong thưởng riêng,
thì mới ra ngoài luật lệ ấy. "
Hiện nay, Chức sắc chưa đủ
số đã định. thành thử, luật công cử nầy chưa thi hành được. Hôm ngày 9 tháng 4
năm 1958 ( Nhằm ngày 21 tháng 2 năm Mậu Tuất ), Đức Lý Đại Tiên Nhứt Trấn Oai
Nghiêm cho một điều lệ, để thi hành tạm như sau :
Thánh Ngôn: " Về việc ban thưởng chức sắc, không phải
có đủ 5 năm thâm niên sắp lên là đủ điều kiện cầu thăng và được thăng, mà cần
phải có những điều kiện cần yếu khác nữa là :
Thứ nhứt: Phương diện Hạnh
Đức.
Thứ nhì: Trình độ học
thức.
Thứ ba: Tinh
thần phục vụ.
Thứ tư: Khả
năng giáo hóa nhơn sanh.
Là vì, hễ
đến bực Giáo Hữu là thay mặt Chí Tôn phổ thông chơn đạo, thành thử, chẳng
phải người thường tình đặng, mà phải đáng mặc phi thường mới xứng. Kỳ nầy
Lão châm chế, chớ những kỳ cầu thăng sau, chức sắc mỗi cấp bực đủ 5 năm thâm
niên, hay hơn nữa, chỉ đem vào sổ cầu thăng với tỷ lệ bốn phần năm mà thôi.
Hội Thánh Cửu Trùng Đài
phải cân phân phận sự xứng đáng của Chức Sắc do theo điều kiện của Lão vừa chỉ
và sau khi chọn lọc kỹ lưỡng số tỷ lệ qui định, giao qua cho Hiệp Thiên Đài
kiểm soát lại rồi mới dâng lên cho Lão. Hiền Hữu Thượng Sanh và chư vị Thời
Quân nên lưu tâm nghe. " Sự cầu
thăng của Nữ Phái cũng do theo nguyên tắc đó, và Thánh Giáo nầy có hiệu lực cho
đến ngày Cửu Trùng Đài thực hiện luật công cử của Đạo ".
Tóm lại Cửu Trùng Đài gồm
cả Chức Sắc Nam và Nữ phái, có phận sự chung là ngoài sự tự tu, tự giác, còn
phải truyền bá chơn Đạo, phổ hóa chúng sanh và bảo tồn luật pháp chơn truyền,
hầu cho Giáo Lý khỏi bị qui phàm.
Đức Chí Tôn giáng cơ :
" Để biểu dương hình thức Đại Đạo, nêu gương lành
cho người đời soi sáng, Đức Ngài chọn:
Nhứt Phật tức Giáo Tông.
Tam Tiên tức Chưởng Pháp
và Đầu Sư
Tam Thập Lục Thánh tức 36
vị Phối Sư
Thất Thập Nhị Hiền tức 72
vị Giáo Sư
Tam Thiên Đồ Đệ tức 3000
Giáo Hữu.
Theo Đạo học, hễ muốn độ
người, trước phải độ mình, như nhà Phật thường nói : " Tiên tự giác nhi hậu giác tha ". Đây là một điểm khác
nhau giữa nhà đạo đức và văn sĩ. Nhà đạo đức chẳng những phải học Đạo lý mà
phải thi hành thế nào cho Đạo lý biến thành Tâm đức của mình, để rồi áp dụng
vào đời sống thực tế. Người bàng quan xem vào cử chỉ của người Đạo đức mà bắt
chước. Trái lại, người văn sĩ chỉ học cho biết văn chương và nghĩa lý mà thôi.
Ấy vậy, chức sắc Cửu Trùng
Đài phải học hành, tu luyện thế nào, hầu đặng mình có đủ đức tài, nêu gương
lành cho đời soi sáng. Đó là một lẽ, còn như thể theo danh từ mà luận, Chức Sắc
Hội Thánh tức là một vị Thánh Nhơn ở trong nhiều vị Thánh Nhơn khác. Theo hai
lẽ ấy mà suy rộng ra : Một vị chức sắc, nếu chưa phải hoàn toàn là vị Thánh
Nhơn, thì ít ra cũng phải có đủ tài đức dìu dắt nhơn sanh trên đường Đạo đức.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ sau nầy : Hoặc thành, hoặc bại đều tùy cử chỉ và hành vi
của chức sắc Cửu Trùng Đài mà ra cả; vì Đài nầy là hình thề của Đại Đạo, ở đây,
người có trách nhiệm nên nghĩ kỹ, đễ rồi tự sửa mình trở nên xứng đáng nêu
gương lành cho đời soi sáng.
* * *
CHƯƠNG THỨ TƯ
LỄ NGHI VÀ LUẬT ĐẠO
Cũng như các Tôn giáo
khác, Đại Đạo có lễ nghi phượng thờ, tế tự và qui điều, giới luật. Một bên soi
sáng lòng tín ngưỡng, một bên đôn đốc, kềm giữ sự tu hành theo Chơn pháp. Chi
tiết giảng giải như sau:
1 . LỄ
NGHI
Lễ nghi ban đầu dùng để
phượng thờ, tế tự làm cho đàn tế được tôn nghiêm và tạo nên một bầu không khí " Kính thành " để cảm hóa lòng
người khuynh hướng về đạo đức. Về sau, lễ nghi biến thành phép tắc xử kỷ, tiếp
vật, lan rộng trong nhơn quần, xã hội, mà người đời đã thừa nhận.
Ở đây, chúng tôi chỉ nói
Lễ nghi phượng thờ, tế tự mà thôi. Chúng tôi căn cứ theo Lễ nghi trong Bát Quái
Đài, tại Tòa Thánh Trung ương mà bàn luận; bởi vì, ở đây gồm đủ cả chi tiết.
a ) THỜ THƯỢNG ĐẾ
Chính giữa Bát Quái Đài,
trên chỗ cao nhất, có một quả Càn Khôn hình tròn như Trái đất. Trên có vẽ đủ ba
ngàn bảy mươi hai ngôi sao và Thiên Nhãn để thờ. Trong quả Càn Khôn thường đốt
một ngọn đèn sáng, mạng danh là Thái Cực đặng. Đó là tượng trưng thờ Đức Thượng
Đế ngự trên ngôi Thái Cực, mà điều khiển mối Đạo tự nhiên.
Khi tế lễ, đốt hai ngọn
đèn hai bên : Tượng trưng Âm Dương ( Thái Cực sanh Âm Dương ) và đốt năm cây
nhang, cấm trong lư hương để giữa Thiên bàn tượng trưng Ngũ Hành ( Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ ).
Lễ nghi nầy đủ cắt nghĩa
cho chúng ta hiểu rằng đạo tự nhiên vốn có Thái Cực sanh Âm Dương, Ngũ Hành và
Âm Dương . Ngũ hành thuận hành nghịch chuyển mà định vị Trời Đất, hóa sanh vạn
vật; mà Thái Cực Thánh Hoàng là chủ tể quyền năng vô đối ấy. Kẻ học, nếu biết
quan sát thì có thể học được dịch lý của Võ trụ chia ra làm hai trạng thái :
TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO
HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO
Tiên Thiên Đại Đạo là Đạo
có trước Trời, vua Phục Hy theo đómà phát họa Hà Đồ Tiên Thiên Bát Quái. Hậu
Thiên Đại Đạo là Đạo có sau Trời. Vua Võ nhà Hạ theo đó mà phát họa Lạc Thơ Hậu
Thiên Bát Quái. Tiên Thiên Bát Quái vẽ hai yếu tố Âm Dương. Hậu Thiên Bát Quái
định số Ngũ Hành, hai trạng thái nầy làm biểu lý nhau, tác thành cơ tạo lập Càn
Khôn, hóa sanh Vạn Vật ( Xin xem bài Võ Trụ Quan rõ hơn )
Thật Đức Chí Tôn không nói
một lời mà dạy được dịch lý của Võ Trụ, Đức Lão Tử gọi đó là " Bất Ngôn Chi Giáo ".
b ) THỜ TAM GIÁO VÀ NGŨ CHI
Tam Giáo:
Đức Thích Ca ở giữa
Tả có Đức Khổng Phu Tử
Hữu có Đức Lão Tử
Tam Trấn Oan Nghiêm :
Đức Lý Thái Bạch ở giữa
Tả có Đức Quan Thánh Đế
Quân
Hữu có Đức Quan Thế Âm Bồ
Tát
Tam Trấn đại diện ba vị
Giáo Chủ trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngũ Chi :
Phật Đạo
Tiên Đạo
Thánh Đạo
Thần Đạo
Nhơn Đạo
HIẾN LỄ TAM BỬU
Mỗi lần tế lễ, đều có hiến
Hoa, Rượu, và Trà gọi là Tam Bửu, đại khái như :
Hoa tượng trưng cho Tinh
Rượu tượng trưng cho Khí
Trà tượng trưng cho Thần
Hiến lễ Tam Bữu đại ý nhắc
chúng ta nhớ rằng trong con người chúng ta có ba món báu. Kẻ Tín đồ phải tu tập
thế nào cho Tinh Khí Thần huờn nguyên hiệp nhứt, thành một thể khí vô vi thì
mới đủ điều kiện giái thoát ra ngoài vòng sanh tử, hoặc bói cách khác là luyện
Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần huờn Hư. Đến đó là chứng quả vậy.
LỄ NHẠC
Trong đàn tế lễ có dùng lễ
nhạc, sở dụng của lễ nhạc là thế nào?
Lễ: Anh Lễ sĩ áo mão chỉnh
tề, hai tay nâng cúng vật lên ngang mày, theo nhịp nhàng của âm nhạc, từ từ
điện lễ đi lên. Cái vẻ tề chỉnh, bộ đi trang nghiêm ấy khiến người bàng quan
sanh lòng kính. Cho nên nói: Tinh Thần Lễ là Kính
Nhạc : Tiếng trống,
chuông, đờn, kèn, tiêu thiều, nhiều thứ âm thinh khác nhau, đồng thời dấy lên
một lượt, đáng lẽ thì nghe hỗn loạn, nhưng sự thiệt lại khác. Tiếng lớn nhỏ,
giọng phù trầm, dường như nhường nhịn lẫn nhau, để cho mỗi nhạc khí thung dung
pho diễn sở năng của nó. Thế nên nói : Tinh thần nhạc là hòa.
Lễ nhạc, nguyên ngày xưa,
Thánh Nhơn quan sát cảnh tượng Võ Trụ, nhận thức được luật trật tự và điều hòa
của Trời Đất rồi theo đó mà chế ra lễ nhạc, cho nên nói rằng :
" Lễ giả Thiên Địa chi Tự,
Nhạc giả Thiên Địa chi hòa ".
Thánh Nhơn dụng ý chế ra
Lễ nhạc rất hay và cái sức mạnh tinh thần ấy có thể kích động lòng người đến
chỗ sâu xa. Xem khi vào chùa miểu, chúng ta trông thấy cốt tượng, trông thấy
nghi tiết thì lòng Tín ngưỡng xúc động mà hoài bảo đến sự siêu thoát tinh thần.
Hoặc khi chứng kiến đám tang hay mồ hoang mã lạnh thì lòng chúng ta bùi ngùi
thương xót.
Cũng nhờ sức mạnh tinh
thần ấy, Lễ Nhạc có thể cảm hóa lòng người về Đạo Đức, như " Kính " và "
Hòa " chẳng hạn. Nhưng có điều nên lưu ý là Lễ Nhạc phải đi đôi thì
mới có kết quả mỹ mãn. Trong đàn tế nếu có Lễ mà không có Nhạc, hoặc có Nhạc mà
không Lễ thì đàn tế mật vẽ tôn nghiêm. Thì cái ảnh hưởng của lễ nhạc là kính và
hòa trong Nhơn tâm thế sự cũng vậy, nghĩa là " Kính " và "
Hòa " cũng phải theo nhau, như bóng với hình thì mới có kết quả tốt.
Ví dụ: Kính mà không hòa:
Kẻ nhỏ sợ người lớn mà
chẳng dám gần, người lớn khinh kẻ nhỏ mà lánh xa. Thế rồi nhà ai nấy ở, ngôi
tôn giữ tôn, ngôi ti giữ ti. Tôn ti cách biệt hẵn thì làm sao mà hòa nhau được
cho nên nói rằng: Kính mà không hòa thì ly tán.
Ví dụ : Hòa mà không kính.
Khi hội hợp nhiều người mà không kính nhau. Người lớn ỷ ở ngôi tôn cứ sỗ sàng
nói năng, sỗ sàng hành động, người lớn khinh thường kẻ nhỏ. Kẻ nhỏ thì hổn ẩu,
không kiêng nễ người lớn. Trật tự đảo lộn thì chung qui phải tự giải tán. Thế
thì hòa mà không kính thì loạn lạc.
Than ôi ! Gia đình ly tán,
xã hội loạn lạc thì làm thế nào mà quần tụ, để giúp đở nhau trong đời sống còn.
Xem đó đủ hiểu lễ nhạc, ngoài sự tế tự nó còn là một pháp môn hàm dưỡng tâm
tánh. Ấy vậy, nên kẻ dùng Lễ Nhạc mà không biết kính hòa thì chẳng khác nào ăn
mía mà bỏ nước ngọt.
LẠY
Khi đứng trước Thiên Bàn
hầu lễ thì chúng ta quì gối, hai tay chấp lại, bắt Ấn Tý, mặc niệm Nam Mô Phật,
Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng là ý nghĩa làm sao ?
Bắt Ấn Tý : Hai bàn tay chấp lại, ngón cái của bàn tay trái
chỉ vào ngón áp út, đó gọi là " Bắt
Ấn Tý ", tức chỉ sự chủ tâm về kính Trời. Có câu: " Thiên sanh ư Tý ". Tay chỉ vào ngôi Tý, tức nhắc chúng
ta kỉnh Trời. Nam Mô Phật: Hai bàn
tay chấp lại, đưa ngay lên giữa trán và mặc niệm " Nam Mô Phật ". Ấy là nhắc lòng tôn kính Chí Tôn và nhớ
lại Đức Toàn Tri Năng, tận thiện mỹ và Đức Háo sanh của Ngài vô biên bao la,
hằng hóa dục vạn vật. Bổn phận chúng ta cứ giữ một lòng sùng bái Đức Ngài và
thể theo Đức Chí Thiện hoàn toàn của Ngài để học tập.
Nam Mô Pháp: Chữ " Pháp " nói đây chỉ vào chữ (Dharma) là pháp luật tự
nhiên của Đức Chí Tôn truyền dạy mà chúng ta phải tuân theo để tu tâm, sửa tánh
của mình, hầu trở nên thuần nhiên thanh khiết. Đại để như: Tam Cang, Ngũ
Thường, Tam Tùng Tứ Đức là khuôn thước đào luyện nên hiền lương quân tử ! Giới,
Định, Huệ là phương pháp giác ngộ Tâm linh siêu nhiên và Pháp luật tự nhiên mà
chúng ta phải tuân theo để đạt Đạo.
Nam Mô Pháp nghĩa là tôn
kính những Pháp ấy và một lòng làm theo đặng thể hiện nhơn cách người tu hành
và giải kiếp trầm luân.
Nam Mô Tăng : Đồng thời
với chúng ta biết bao nhiêu người Đạo cao Đức dầy, chúng ta nên thân cận với
họ, để nghe lời luận Đạo, thuyết Pháp và bắt chước những hành vi cử chỉ của họ.
Tóm lại : " Thầy khai Bát Quái Đài mà tác thành
Càn Khôn Thế Giái, nên gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật rồi
mới có người nên gọi là Tăng .
Thầy là Phật chủ tể cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo
mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy ". (Thánh Ngôn ngày
21-10-1926 Bính Dần)
Ba câu mặc niệm trên đây
có ý nghĩa cũng như câu " Qui y Tam
Bảo " nhà Phật.
LẠY LÀ GÌ ?
Lạy là để tỏ ra bề ngoài,
lễ kính trong lòng.
Chấp tay lạy là tại sao ?
Tả là nhựt, hữu là nguyệt,
vi chí Âm Dương, Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi Càn Khôn, sanh sanh, hóa hóa tức
là Đạo.
Lạy kẻ sống hai lạy là tại
sao ?
Là nguồn gốc của Nhơn sanh
lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy là Đạo.
Vong Phàm lạy bốn lạy là
tại sao ?
Hai lạy phần người, một
lạy Trời, một lạy Đất.
Lạy Thần, Thánh ba lạy là
tại sao ?
Là lạy Đấng ở vào hàng thứ
ba của Trời và cũng chỉ về Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt ấy là Đạo.
Lạy Tiên Phật chín lạy là
tại sao ?
Là lạy chín Đấng Cửu Thiên
Khai Hóa.
Còn lạy Thầy 12 lạy là tại
sao ?
Các con không hiểu đâu :
Thập Nhị Khai Thiên là Thầy. Chúa Tể Càn Khôn Thế Giái, nắm trọn Thập Nhị Thời
Thần trong tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
(THÁNH NGÔN)
CÚNG TỨ THỜI
Mỗi ngày, người tín đồ
phải hầu lễ bốn lần, gọi là cúng Tứ Thời ( Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu). Mới trông qua,
người bàng quan lầm tưởng cúng tế là do tánh ỷ lại Thần quyền; nhưng sự thật
không phải như thế mà là một phương pháp hàm dưỡng tâm tánh rất huyền nhiệm.
Theo Đạo tự nhiên, Ngươn
Khí của Trời Đất, mỗi ngày vượng bốn thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Trong thời nầy,
kẻ hầu lễ giữ tinh thần, vật thể an tịnh thì Thần Khí hàm dưỡng khí thiêng Trời
Đất mà được thanh thoát. Tinh thần an nhiên tiếp xúc với Đấng Chí Linh, để lãnh
hội lời truyền thọ. Vật thể thì khí chất được thanh thuần để hòa đồng với cái
Động Lực của Vũ Trụ mà tiến bước trên đường Tấn hóa.
Lẽ thứ hai là trước khi
vào Đền Thánh chầu lễ, chúng ta đã gạt bỏ những sự ưu tư trần tục. Đến khi nhập
đàn, Lễ Nhạc phát khởi, đồng nhi đọc kinh, hoàn cảnh an tịnh nầy khiến cho lòng
chúng ta được cực tịnh và chỉ có một mặc niệm " Kính thành ". Giá như chúng ta giữ được tâm trạng " Thành Kính " mãi mãi thì
chúng ta giữ nguyên vẹn nguồn Thiên Lý ở trong người tức thực hiện được câu " Nhơn dục tận tịnh thiên lý lưu hành
".
Còn một lẽ nữa là tu tâm,
dưỡng tánh, Đức Chí Tôn dạy rằng :
" Trước khi vào lạy Thầy buổi tối, phải tự hỏi
mình coi phận sự ngày ấy xong hay chưa, và lương tâm có cắn rứt điều chi chăng
? Nếu phận sự chưa rồi, lương tâm chưa an tịnh thì phải biết cải quá, rán chuộc
lấy tội lỗi của mình. Đặng vậy thì các con lo chi không bì bực Chí Thánh. Thầy
mong cho mỗi đứa điều lưu ý đến sự sửa mình ấy. Đặng vậy thì may mắn cho Đạo và
các con cũng sẽ đặng thung dung nêu gương cho kẻ khác ".
" Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi ".
THỜ PHƯỢNG TỔ TIÊN
Ngoài việc thờ Trời, kính
Phật, nơi chùa chiền Tín đồ còn thờ phượng tổ tiên trong tư gia nữa.
Chúng ta đã tin tưởng rằng:
Linh hồn người ta bất diệt. Người chết là chết phần thể xác, còn phần Linh hồn
thì siêu thăng. Trước thuyền Bát Nhã chở quan tài đi an táng có hai câu liễn
như vầy :
" Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh huờn tại thổ,
Thiên niên tự hữu, Linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên
".
Muôn việc gọi không, Nhục
thân do đất sanh thì trả về cho đất. Muôn năm tự có, Linh Hồn Trời ban cho thì
trở về với Trời.
Câu đối nầy tả được cảnh
người chết, hồn xác chia ly, đâu về đó.
Lòng tín ngưỡng nầy khiến
cho dự thờ phượng Tổ tiên không kém phần quan trọng. Tưởng niệm Tổ tiên, một là
tỏ lòng tôn kính nguồn gốc sanh thành, dưỡng dục; hai là cầu nguyện Tổ Tiên hộ
trì, giúp đỡ con cháu. Chúng ta thấy những người đó đức tin nầy, giàu cũng như
nghèo, khi cất lập xong một ngôi nhà rồi họ chọn một chỗ trang nghiêm hơn hết,
để lập bàn thờ, hằng ngày hương khói.
Ngày tế lễ, mạng danh là
húy nhựt, cả gia tộc đều hội hợp về nhà thờ, lo việc cúng tế. Trong hai ngày :
Tiên thường và chánh giỗ, có khi họ nhắc lại sự tích Tổ tiên, có lúc bàn việc
gia đình, sanh kế.
Giờ cúng tế, người người
có lòng thành kính, khi ra vào, lúc qua lại, trước bàn thờ họ khép nép sợ sệt,
dường như Ông Bà đang ngự trên chỗ sở tôn. Họ tự chủ rằng : Tổ tiên chết thì
Linh hồn thuộc về Thần Linh, người phàm mắt thịt, trông không thấy, rờ không
đụng, nhưng Thần Linh thể hết mọi vật, đầy dẫy khắp nơi, như ở trên đầu, ở bên tả
bên hữu, khiến cho người trong thiên hạ đều trai minh thạnh phục để tế lễ.
Giờ cúng tế yên lặng tôn
nghiêm, người Trưởng Tộc hành lễ, rồi con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang
nghiêm.
Vả lại, Đạo hữu đã biết
Đạo, đã sẵn lòng tín ngưỡng, nay đem cái Đạo Tâm ấy mà thờ cúng Ông Bà thì cái
phong hóa truyền thống sẽ được thuần mỹ thêm hơn.
Tóm lại, Lễ nghi giản dị,
nhưng đem lại cho chúng ta nhiều kết quả về tinh thần đạo đức. Về cá nhân, lễ
nghi là môt pháp môn tu luyện tâm tánh, còn đối với gia đình xã hội. Lễ Nghi
tạo nên một không khí mỹ tục thuần phong.
2 .
LUẬT ĐẠO
Nhắc lại, khi lập Hội
Thánh rồi, Đức Chí Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật Đạo, mạng danh là " Tân Luật " gồm có ba khoản
kể như sau :
1. ĐẠO PHÁP
2. THẾ LUẬT
3. TỊNH THẤT.
1. ĐẠO PHÁP
Đạo Pháp có 8 điều ấn định
quyền hành của mỗi chức sắc cai trị Đạo và điều kiện thăng thưởng. Đây chúng
tôi không chép lại, nghĩ Chức Sắc thì tất nhiên đã thông hiểu luật đạo, không
cần nhắc lại nữa.
NGƯỜI GIỮ ĐẠO
Chương nầy gồm 7 điều ấn
định thủ tục phải làm, hầu trở nên người Tín Đồ Đại Đạo.
Khi Đức Chí Tôn còn dùng
cơ bút phổ độ, ai muốn được nhìn nhận là Tín đồ thì phải hầu đàn. Đức Chí Tôn
hoặc Tam Trấn Oan Nghiêm ( Đức Lý Thái Bạch, Quan Thế Âm Bồ Tát, Quan Thánh Đế
Quân ) cho một bài thi và có để lời thâu nhận. Còn nay cơ bút phổ độ đã ngưng,
hai muốn nhập môn thì phải có hai người Đạo đức tiến dẫn đến ra mắt người Đầu
Họ Đạo. Vị Chức Sắc làm thủ tục cầu Đạo và cấp cho Vị Tân Đạo Hữu một tờ chứng
chỉ " Nhập Môn ".
Hai vị Đạo Đức tiến dẫn có
phận sự dìu dắt người mới nhập môn biết phép tu hành : Thông hiểu lẽ Đạo, Luật
pháp tu hành, thuộc kinh, cách cúng lạy, bổn phận đối với Hội Thánh và người
đồng đạo.
Đầu-Tộc-Đạo phải đến tận
nhà vị Đạo hữu nầy làm lễ Thượng tượng Đức Chí Tôn để thờ, chỉ dạy phương pháp
tu hành, học Đạo và cách cúng Tứ Thời.
Tín đồ chia ra làm 2 bực :
HẠ THỪA & THƯỢNG THỪA
Hạ Thừa là bậc mới cầu
đạo, còn ở thê, có gia đình, phải làm tròn bổnphận làm người đối với gia đình,
xã hội, phải tập ăn chay kỳ, mỗi tháng 6 hoặc 10 ngày. Ngoài phép nước, luật
quan, họ còn phải tuân hành Thế luật của Đạo, giữ ngũ giới cấm vân vân ....
Thượng thừa là người
trường trai, giới sát, tuân hành tất cả Luật pháp Đạo, nhứt là " Tứ Đại Điều Qui ", phải để
râu, để tóc, mặc toàn bằng vải trắng, không được xa xí. Chức Sắc từ phẩm Giáo
Hữu trở lên phải lựa chọn trong hàng Thượng Thừa.
LẬP HỌ ĐẠO
Địa Phương nào có hơn 500
Tín đồ, đặng phép lập riêng một Họ Đạo, đặt riêng một Thánh Thất. Hội Thánh sẽ
phái Chức Sắc đến cai quản.
Muốn lập họ Đạo phải xin
phép Giáo Tông. Tín đồ trong Họ Đạo phải tùng quyền vị Chức Sắc Cai Quản Thánh
Thất. Chẳng ai có quyền canh cải Luật Đạo.
Mỗi tháng có hai ngày Đại
Lễ là: Sóc và Vọng. Ngày Đại Lễ cả tín đồ phải tựu về Thánh Thất hầu lễ và nghe
lời giảng đạo thuyết pháp; trừ ra, người vắng mặt có lý do chánh đáng mới được
châm chế.
Chức Sắc cai quản Thánh
Thất, mỗi ngày, phải cúng bốn thời ( Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu ). Mỗi vị Đạo Hữu ở gần
Thánh Thất nếu tiện thì nên đến Thánh Thất sở tại mà chầu lễ.
ĂN CHAY
Ăn chay nghĩa là dùng lê hoát,
ngũ cốc, chớ không ăn thịt thú vật. tại sao kẻ học Đạo phải ăn chay ?
Xin xem câu giải đáp sau
đây :
Lẽ thứ nhứt : Khoa học
dùng trí thức làm căn bản nghĩ suy, khảo cứu vật chất bên ngoài. Chung cuộc,
khoa học thâu hoạch kết quả vật chất, bồi bổ cho đời sống thực tế. Còn Đạo học
thâm viễn hơn, cầu giải thoát kiếp luân hồi. Muốn đạt mục đích nầy, học giả
phải thâu thập cả Tánh mạng, luyện thành một khối tinh thần khương cường, sáng
suốt, mạng dang là Chơn thần. Nó phải nhẹ nhàng hơn không khí thì mới vượt khỏi
vòng Càn khôn. Vả lại, trong không khí vốn có điện lực, nếu kẻ ăn mặc mà luyện
đạo, khi xuất Thần thì Chơn thần vẫn còn trược khí lẫn lộn, mà trược khí là vật
năng tiếp điện (bon conducteur d'électricite ). Khi ấy Chơn thần chưa ra khỏi
lằn không khí mà đã bị xét đánh tiêu diệt rồi.
Lẽ thứ hai: Theo luật hấp
dẫn, nếu chơn thần còn trọng trược, khi xuất ngoại, phải bị hấp lực vật chất
giam hãm trong vòng Trần tục. Ấy vậy nên kẻ cầu sự giải thoát phải ăn chay.
Lẽ thứ ba: Phép vệ sinh
dạy chúng ta phải ăn ở sạch sẽ. Nên hiểu rằng sạch sẽ nói đây là ám chỉ vào
sạch sẽ bên ngoài, cũng như bên trong. Ăn chay dễ tiêu hóa, dễ bài tiết tức giữ
gìn sạch sẽ trong tạng phủ.
Lẽ thứ tư : Cả muôn loài,
vạn vật đều do một Đấng Thái Cực Thánh Hoàng sanh hạ ra thế gian, cho nên có
câu nói rằng : " Vạn vật nhứt thể
". Quan niệm ấy không cho phép chúng ta giết hại sanh vật để ăn thịt.
Vả lại, người ta có hai
thức ăn, để bồi dưỡng thân thể là :
Vật chất thực và huyền vi
thực.
Vật chất thực là lê hoát,
ngũ cốc do miệng vào tỳ vị và tiêu hóa thành khí huyết. Huyền vi thực là thanh
khí trong Trời Đất. Người ta nhờ hô hấp đem thanh khí vào thân thể, đễ tươi
nhuận khí huyết, bồi dưỡng sức khỏe.
Nói tỉ : Mỗi ngày chúng ta
phải dùng 6 cân vật thực, để bồi bổ sức khỏe : Sáu cân đồ ăn nầy chia làm hai :
Vật chất thực ba cân, Huyền vi thực ba cân. Ấy vậy nếu chúng ta cứ tăng thêm
Huyền vi thực mà bớt bên Vật chất thực. Giảm bên nầy, tăng bên nọ, chung qui
chúng ta cũng có đủ 6 cân thức ăn để bồi dưỡng thân thể. Công phu nầy tiến nữa
người ta có thể hớp Khí Thanh Không mà sống.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét