Giáo Lý 5 / 6 (Tiếp-Pháp Trương Văn Tràng)


Nếu người ta gom thần về một điểm và lấy nó làm căn cứ thì nó nổi lên những luồng sóng tư tưởng thuộc về một loại đặc biệt. Những tư tưởng nầy không bị những luồng khác cuốn đi, mà lần lần nó chiếm một địa vị ưu thế. Những luồng khác rút đi lần lần tiêu mất. Kế đó bao nhiêu luồng sóng tư tưởng cùng một loại gom về, trong tinh thần chỉ có một luồng sóng tư tưởng.

Ví dụ : Người ta dùng mảnh kiến thâu ánh sáng mặt Trời lên trên tờ giấy, trong chừng giây lát thì tờ giấy phát hỏa cháy.

Ấy lại tại hơi nóng mặt Trời gom thành lửa. Thì sự tập trung tinh thần cũng vậy, nếu kẻ học thâu thập những tư tưởng lại thành một khối tinh thần của mình sẽ đủ sức mạnh đưa chúng ta đến mức thành công.

Tinh thần là sức mạnh Tâm linh, nếu chẳng có nó thì chúng ta chẳng làm được việc cao xa hiển hách. Chúng ta có thể kết luận rằng cái biết của chúng ta đến bậc nào là do công phu tập trung tinh thần mà nên vậy.

Nhờ công phu chuyển mê khải ngộ chúng ta hiểu được thế nào Thiên lý, thế nào là Nhơn dục, khám phá được nguồn gốc năng sanh diệt, và bất sanh diệt, lẽ nào là chơn, lẽ nào là Vọng. Đây cũng tạm gọi là bước đầu vào pháp môn Minh tâm kiến tánh.

Nhưng còn phải tiến nữa, còn phải thực hành phép Định huệ để thâm nhập vào nội giới tâm linh, bứng gốc, bứng rễ những tật hư, nết xấu, ác căn, tà kiến còn ẩn núp trong chỗ sâu kín.

2 . ĐỊNH

Có người không giữ được Chơn tâm thanh tịnh, để cho Vọng tâm phóng túng theo cơ duyên bên ngoài, sanh vật dục thấp hèn; tư tưởng lãng mạn lại đổ tội cho Tâm là một năng lực bất chánh ? Đó là một việc lầm lộn. Sự thiệt, Tâm thì huyền diệu lắm. Nếu dùng phàm trí mà phán xét thì chúng ta cảm biết Tâm dường như có, dường như không, thoạt ẩn, thoạt hiện không biết đâu mà lường.
Đức Khổng Phu Tử nói rằng :
" Tháo tắc tồn
Xả tắc vong
Xuất nhập vô thời
Mạc tri kỳ hướng ".
Nghĩa là giữ thì còn, bỏ thì mất; ra vào không giờ khắc và cũng chẳng biết ở chỗ nào.

Lục Tượng Sơn, sau khi quan sát nhận xét rồi ngậm ngùi than rằng:
" Các thể khác thì mỗi mỗi đều có hình tướng, duy có Tâm thì không hình; thế mà tại sao Tâm nhiếp được người rất mực ? ( Kỳ tha thể tận hữu hình, duy Tâm vô bình, nhiên hà cố năng nhiếp chế nhơn như thử chi thậm) ".

Bởi Tâm năng biến, năng-hóa như vậy, cho nên việc gì cũng biết, việc gì cũng chứa; thành ra Tâm bị thân Ngũ uẩn lôi cuốn khuynh hướng về phàm trần phóng túng theo vật chất, mà biến sanh tình dục như đã nói trước kia và chính đó là khởi điểm mà người ta nhận lầm Tâm là năng lực bất chánh. Nay muốn đem Tâm trở về chỗ tự nhiên của nó thì phải dùng phép Thiền định.

THIỀN ĐỊNH là gì?
THIỀN : Ngoài xa lìa các tướng tâm duyên, các tướng ngôn thuyết, các tướng danh tự (Ly tâm duyên tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng) và đối với ngoại cảnh chẳng khởi vọng niệm, chẳng vướng mắc vật chất. Ấy gọi là THIỀN.

ĐỊNH : Trong thì làm cho Tâm hư không, hư không và hư không nữa cho đến trong Tâm chỉ có một Linh giác là cái Minh đức Trời phú cho người ta mà thôi. Ấy gọi là ĐỊNH.

Tóm lại THIỀN ĐỊNH là một pháp môn làm cho tâm tánh yên lặng, nhưng trong cảnh bất sanh, bất diệt, bất điên, bất đảo ấy lại có một ánh sáng thiên nhiên cảm thông với Trời Đất vạn vật mà quán triệt thế giới vạn hữu.

Hoặc nói : Thiền định là một pháp môn ép buộc Thân tâm chăm giữ giáo điều nghiêm khắc, làm cho tánh mạng thanh thuần và tiến đến một trạng thái minh thanh sáng suốt, cần cho được một sự thông công với Đấng Toàn tri, Toàn năng Tận thiện Tận mỹ, hoặc nói rằng làm cho Tiểu Linh hồn của mình đồng hóa với Đại Linh hồn của Vũ trụ là Thái Cực Thánh Hoàng là nguồn hóa dục vạn vật.

Hoặc nói: Thiền định là phương pháp giải thoát con người ra ngoài sự bó buộc của cái áp lực Nhơn quả Luân hồi, tức đặt đời sống tinh thần ra ngoài ảnh hưởng của giác quan và trở về với tánh bản nhiên của mình là Mạng Trời hằng ngự nơi chúng ta.

Thiền định nhắm vào mục đích biến hóa tinh thần từ căn bản đến giá trị của chúng ta bằng cách bỏ Nhơn dục theo Thiên lý. Nó không dùng tư tưởng để suy luận, mà chỉ dùng cái "Tịnh" trừ cái "Động" và thâm nhập cho đến chỗ huyền nhiệm, sâu xa thâm trầm, linh động, cho nên người ta thường nói : Đạo học là một khoa Tâm lý học uyên thâm. Mã Minh Bồ Tát nói rằng : "Ngọc Ma Ni tuy trong sáng, nhưng nó đã bị bụi dơ che lấp; nếu người ta không biết dùng phương tiện để trau giồi thì ngọc không bao giờ trong sáng". Đó là ám chỉ vào Tâm, tuy Tâm tự nhiên thông sáng, nhưng nó đã bị tình dục che lấp, nó đã bị tư tưởng lãng mạn làm mờ, cho nên chúng ta phải dùng Chánh pháp để lau chùi tắm tưới thì nó mới thông sáng viên dung. Chính Thiền Định là một pháp môn phá vọng, tồn chơn cầu cho Tâm trở lại trạng thái tự nhiên của nó.

Sau đây là phương pháp thực hành :
            1. - Chuẩn bị.
            2. - Nhập định.
            3. - Xuất thiền.

1 . Chuẩn bị :
a) - ĐỀ PHÒNG LỤC GIÁC QUAN :

1 . Xa lánh tất cả Sắc trần thường làm chóa mắt.
2 . Xa lánh tất cả Thinh trần thường làm điếc tai;
3 . Xa lánh tất cả hương trần thường làm say mê khứu quan.
4 . Xa lánh tất cả Vị trần thường làm tê tái lưỡi;
5 . Xa lánh tất cả Xúc trần thường cám dỗ thân phàm; Thân thể tứ chi, xa lánh tất cả những vật quý báu đắc giá và sự săn bắn điền lạp, vì nó hay làm Nhơn tâm pháp cuồng.
6. Xa lánh tất cả ý niệm vu vơ, tư tưởng lãng mạn, dục tình phức tạp, cầu cho ý được lặng lẽ hoàn toàn.
Chính sáu giác quan nầy tiếp xúc vật trần, Nhục thân theo đó mà sanh lòng ghét bỏ những vật không vừa ý, và ham muốn những vật thích ý. Ấy vậy nên trước khi vào Thiền người ta phải đề phòng Lục giác quan nầy cho lắm.

Người đời sở dĩ siêu thăng, hay đọa lạc chỉ vì giác quan ấy.

Nhập định : Bốn việc phải học tập
a) - Tư thể
b) - Điều hòa Thân thể
c) - Điều hòa hô hấp
d) - Điều hòa Tâm lý.

a) TƯ-THỂ. - Tư thể là cách ngồi Thiền. Từ xưa đến nay, người ta đã chấp nhận phép ngồi Kiết già, Kiết tường, nhưng nếu, vì một lẽ chi mà chúng ta không áp dụng hai phép ngồi nầy được thì cũng nên tạm ngồi xếp bằng hay nằm cũng được; miễn là phải giữ xương sống, đầu cổ được ngay thẳng như vách tường, để cho khí huyết lưu hành và tư tưởng không ngưng trệ.
Nên nhớ rằng : Cách ngồi Thiền phải được tự nhiên nhi nhiên là hơn hết.

b) ĐIỀU HÒA THÂN THỂ. - Mặc dầu ngồi cách nào, hay nằm, kẻ hành giả cũng phải giữ thân thể an tịnh; để cho khí huyết điều hòa. Tay áo phải rộng, lưng quần nới lỏng, buông lỏng thân thể tứ chi, gân cốt, làm cho mọi vật điều quí căn.

c) ĐIỀU HÒA HƠI THỞ. - Hít vô phải nhẹ nhàng mà dài hơi, thở ra chậm chậm và cứ thế ra hết hơi. Vấn đề hô hấp rất quan trọng, chúng tôi sẽ bàn trong khoản "Dưỡng Khí".

d) ĐIỀU HÒA TÂM LÝ. - Khắc phục tư tưởng, dục vọng, thâu phóng tâm về chỗ vô vi thanh tịnh. Tâm phải yên lặng như nước hồ thu rồi giữ lấy cái Linh giác của Tâm, để làm chủ tể thân phàm.

Tóm lại: Thân thể, Hô hấp và Tâm hồn tuy chia ba như trên, nhưng sự tác động của ba vật như một. Nói tỉ chạy mệt là việc thuộc về thân thể, nhưng, dao động đến Hô hấp và Tâm hồn vì thế mà chúng ta phải điều hòa cả ba vật một lượt.

Phương pháp thực hành. - Thể theo kinh sách Thiền Tông, Thiền định gồm có sáu phép kể đại lược sau :
1. - Sổ tức
2. - Tùy tức
3. - Chỉ
4. - Quán
5. - Hoàn
6. - Tịnh

1. - SỔ TỨC: Sổ tức nghĩa là đếm hơi thở. Khi nhập thiền thân tạm an tịnh rồi kẻ học bắt đầu đếm hơi thở của mình. Làm như vậy là thâu phóng tâm, vì Tâm mắc đếm hơi thở thì không chạy rong ra ngoài.
2. - TÙY TỨC: Tùy tức nghĩa là tập trung cả tinh thần và ý chí và cứ theo sau hơi thở, đó cũng là thâu phóng tâm vậy.
3. - CHỈ : Chỉ nghĩa là ngừng tư tưởng cầu cho Tâm an tịnh. Phép "Chỉ" đây cũng như phép Tọa vong của nhà Nho, tức là ngồi quên tất cả mọi sự mọi vật. Nhưng phải ngừa sự hôn trầm, vì thực hành phép "Chỉ" thường hay đưa đến sự buồn ngủ.
4. - QUÁN : Quán nghĩa là xét nét, tức suy gẫm tìm hiểu những lẽ huyền nhiệm của Tâm linh và Vũ Trụ vạn vật. Phép Quán đây cũng như phép tỉnh sát, tức xem xét trong nội giới, trừ bỏ phần vọng, tồn dưỡng phần chơn cầu được phản bổn hườn nguyên tánh bản nhiên. Đây phải ngừa sự tán loạn.
5. - HOÀN : Hoàn nghĩa là về, tức làm cho mọi vật qui căn, như Lục căn trở về căn của nó thì không giao tiếp với Lục trần, Lục thức chẳng có chỗ nương để sanh.
6. - TỊNH : Tịnh nghĩa là lặng lẽ, tức tâm trở về thanh tịnh vô vi thì chúng ta giữ nó.

Đạo Đức Kinh chương 16 nói rằng :
Thực hành đến chỗ cùng tột hư không là đã đạt được "Tịnh". Hễ vạn vật (Thân khí trí ý) trở về cảnh tịnh, chúng ta cần giữ nó trong căn cội của nó thì đó là Tịnh.
" Trí hư cực
Thủ tịch đốc
Vạn vật tịnh tác
Ngô dĩ quan kỳ phục
Phù vật vàn vàn
Các phục qui kỳ căn
Qui căn viết tịnh "

Đại ý nói rằng: Tâm hư không là tịnh: Tịnh thì tạng phủ, Thân, Khí, Tri, Ý đều trở về nơi căn cội của nó, gọi là phục mạng, tức vạn vật trở về với sự sanh hoạt tự nhiên của nó, được như vậy thì tâm thần tiêu diêu tự tại, không điên đảo, không xao lảng. Công phu tu học cốt làm cho sáng tâm, học giả chỉ sợ Tâm không sáng, chớ chẳng lo sự biến đổi của sự vật. Biết dùng Tâm làm cốt chỉ cho sự học tập thì dù học bao nhiêu cũng chẳng rối mà lúc nào cũng hiệp với cái lý Nhứt quân; cổ nhơn nói : Đức có nguồn gốc, học có cốt yếu.

Học qui ở tâm, tâm qui ở tịnh.
Ngừa thái quá và bất cập : Công phu Thiền định phải ngừa sự thái quá và bất cập.

Tịnh tâm nghĩa là làm cho tâm không, không rồi không nữa cho đến không không. Tuy nói không, nhưng chẳng phải không như cây khô, như đá cục, vì " không như thế là hư nguy, tức thái quá ".

Trái lại, nếu tâm còn có tư lự thì lại thuộc về sắc tướng, tức bất cập. Nên tránh thái quá và bất cập mà phải tìm cho được trạng thái chơn không. Nghĩa là có mà không, không mà có.

Tóm lại, trong khi tọa thiền giữ hơi thở điều hòa, thân thể thung dung, tâm sáng suốt. Lúc nào cũng được thảnh thơi, nội tâm thường an trụ trong cảnh định : Đi cũng định, đứng cũng định, ngồi cũng định. Thường giữ tiết độ điều hòa, điềm đạm, trầm tỉnh. Ấy là kẻ tu hành.

3 . HUỆ
Huệ là năng lực trí giác, trí thì biệt việc hữu vi, từ ngoài vào trong, nhờ học thức, kiến văn để mở mang: Còn Huệ thì tự nhiên cảm thông mà biết, trí thì biết từ ngoài vào trong Huệ thì cảm thông từ trong ra ngoài. Cả hai Trí và Huệ dung hợp thành một cái biết quán triệt tinh thần, vật chất. Đức Lão Tử nói rằng:
" Thử lưỡng giả đồng
Xuất nhi vị danh
Đồng vị chi huyền
Huyền nhi hựu huyền
Chúng diệu chi môn".

Nghĩa là hai năng lực nầy đồng do một góc "tâm" mà ra, nhưng khác tên : Trí và Huệ, cả hai đều huyền nhiệm, Nhưng cái huyền nhiệm trên, tức Huệ là cửa xuất phát mọi lẽ vi diệu.

Chữ Huệ có nhiều danh từ khác nhau như : Thần Lương tri, Minh đức, Trực giác, hay Trí bát nhã, cái biết nầy cao diệu lắm, nhưng lúc nào cũng nhờ cái biết của Trí làm nấc thang cho nó. Kẻ học phải khai hóa cả Trí và Huệ thì cái biết của mình mới đầy đủ. Kinh Dịch nói rằng:
"Thần dĩ chi lại
Trí dĩ tàng vãng".

Nghĩa là Thần (Huệ) vân vân biết cái chưa học; Trí tích lũy cái kinh nghiệm.

Chỗ biết khác nhau thì phương pháp mở mang cũng không giống, Đạo Đức kinh chương 48 nói rằng:
" Vi học nhựt ích
Vi Đạo nhựt tồn
Tồn chi hựu tồn
Dĩ chi ư vô vi ".

Nghĩa là về sự học vấn (tức khai hóa Trí phận) thì càng ngày càng mở mang cho thật rộng, để cầu sự ích lợi, còn theo Đạo thì càng ngày càng giảm bớt sự học, sự nghĩ. Giảm bớt và giảm bớt nữa cho đến không hành động về mặt hữu vi, nhưng về mặt vô vi thì Huệ cảm thông mọi việc.
Chúng tôi thể theo Vương Dương Minh mà luận chữ Lương tri như sau?
Nguyên Lương tri (Huệ) là cái linh lực Trời phú cho người, ai ai cũng có: Nơi Thánh nó không tăng; Nơi phàm nó không bớt, nhưng Thánh phàm sở dĩ bất đồng là tại Thánh biết tồn dưỡng; còn phàm làm nó mất đi, Vương Dương Minh nói:
" Tuy vọng niệm chi pháp
Nhi Lương tri vị thường bất tại
Đản nhơn bất tri tồn
Tắc hữu thời nhi phóng nhĩ
Tuy hôn tắc chí cực
Nhi Lương Tri vị thường bất minh.
Đản nhơn bất tri sát
Tắc hữu thời nhi hoặc tế nhĩ ".

Nghĩa là : Mặc dầu lòng có vọng niệm, nhưng Lương tri chưa hề chẳng có ở trong tâm, chỉ vì người ta không biết tồn dưỡng, cho nên có lúc buông lung; mặc dầu tâm có hôn-mê đến đâu nữa. Lương tri cũng chưa hề chẳng sáng, chỉ vì người ta không nghĩ lại, cho nên có lúc nó mất.

Sở dĩ nói như thế là vì Lương tri (Huệ) ở tận trong cõi lòng chưa phát động, thành thử, người ta có vọng niệm, hay có hôn mê đến đâu đi nữa thì cũng chỉ là tối tăm bên ngoài giác quan mà thôi, chỉ như Lương tri thì chẳng hề xa người ta, nhưng nó không biểu dương ra ngoài là vì người ta không tin tưởng và không tồn dưỡng nó. Đạo Đức kinh chương 1 nói rằng :
"Thường vô dục dĩ quan kỳ diệu
Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiến".

Nghĩa là tâm thường chẳng vọng động thì mới cảm biết được cái diệu tức Thần, còn tâm có suy nghĩ, có lo lường thì chỉ biết được kiến chi li, rời rạc mà thôi.

Theo Trang Tử thì kẻ học cứ quên đi (Tọa vong), quên tất cả sự vật bên ngoài; quên tất cả tình cảm, lý tri bên trong quên tất cả cao thấp, quên tất cả cái hơn kém, quên cho đến cái thực tại của mình, quên tất cả những thành kiến, mê lầm. Quên được như thế thì Huệ sẽ xuất hiện làm chủ Tâm gian. Kinh Dịch bảo rằng: " Vô tư giả, vô vi giả, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố ". Nghĩa là không nghĩ, không làm, yên lặng, không động, cảm thông mà biết mọi lẽ trong thiên hạ.

Đức LÃO TỬ nói rằng :
" Bất xuất hộ, tri thiên hạ
Bất khuy dũ, tri Thiên Đạo"

Nghĩa là không ra khỏi ngõ mà biết việc thiên hạ, không trông ra cửa sổ mà biết Đạo Trời.

Cái biết nầy là cái biết Trực giác toàn diện, không phân biệt năng tri và sở tri, không phân biệt chủ quan và khách quan, không phân biệt vật bị biết và người được biết, và trong lẫn ngoài hiệp thành một cái biết viên dung.

Tóm lại:
Ba Pháp môn : Giới, Định, Huệ tuy chia ra làm ba, nhưng áp dụng thì một lượt; bởi tu thân, trừng tâm, khai trí đều phải thực hành như nhau, chẳng phải làm việc nầy trước rồi làm việc nọ sau. Nhứt là Định và Huệ phải song song theo nhau. Trái lại, nếu Định nhiều mà Huệ ít thì sanh hôn trầm, còn Huệ nhiều mà Định ít thì sanh tán loạn. Định và Huệ viên mãn công phu thì đạt được phép sáng lòng thấy tánh (Minh tâm kiến tánh).

Thế nào là Kiến tánh? Kiến tánh nghĩa là thấy tánh, đây không phải dùng mắt phàm trông thấy mà thật là chứng nghiệm chơn như diệu tánh, hoặc nói cách khác là giác ngộ điểm tánh Trời phú cho người: Tức là thông đạt nguyên lý vũ trụ ở trong nội giới và ngoại giới của mình.

Vương Dương Minh nói: "Chủ nhứt" tức chuyên chú gìn giữ Thiên lý. Vạn sự vạn vật đều ở trong lý ấy, nó quán thông tất cả trong ngoài. Lý ấy là mạng Trời, là Đạo; cho nên có câu nói rằng: "Giác nhứt tức Thiên tùng, mê nhứt tức vạn hoặc": Biết được cái Một ấy thì hiểu được muôn ngàn việc khác; mê cái Một ấy thì dốt muôn ngàn việc khác.

Sở dĩ kiến tánh được là khi nào sáng lòng rồi, tức là trong lòng chẳng còn một ý niệm, chẳng còn một tác động tinh thần làm ngăn cách Đạo thể. Cái thái độ thuần túy kinh nghiệm bản thân ấy là cái kết quả quá trình của công phu tự giác.

Kim Cang kinh nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhứt thiết kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai": Phàm chỗ nào có sắc tướng đều là hư vọng, cả thảy thấy mà chẳng phải tướng đó là chứng nghiệm tánh Như Lai.

Sách Tiêu Diêu giải rằng: "Người kiến-tánh, trong 12 giờ gặp cảnh thuận nghịch đều an vui tự nhiên, không dời đổi theo hoàn cảnh, tự ý người ngạo báng, ta vẫn như không".

- Hư không bốn bể khắp bao la
- Lý đạo lại càng quá thẳm xa,
- Trăng gió năm hồ thường tự toại
- Chào xuân đua nở lập lòe hoa.
(Trích trong sách Phật)

Chu Hối Am lấy chữ Kính làm gốc. Ông nói: "Thu thập tinh thần vào một chữ Kính, trước sau chuyên nhứt thì mới hiểu được Đạo lý".

Kính để giữ tâm tánh, tức có cái chủ tể nghiêm trang ở trong thì công phu hàm dưỡng mới có hiệu quả. Người ta sở dĩ phải giữ sự Kính là vì trong lúc tính thỉnh thoảng nó tư ý đâm ngang ra. Đó là cái thông bịnh của học giả. Vậy phải lấy Kính làm chủ để xét cho kỹ cái mầm của tư ý thường bởi đâu mà sanh, rồi cứ chỗ hệ trọng mà răn giữ lâu ngày thành ra thuần thục thì tự khắc kiến hiệu.

Ông còn sợ người ta chưa hiểu cho nên nói rằng:
Kính không phải là nghĩ hết mọi sự tư lự, mà chỉ nên tùy sự mà chuyên nhứt, cẩn thận lo sợ, không phóng dật, chớ không phải ngồi yên: Tai không nghe, mắt không thấy, không ứng tiếp sự vật gì.

Kính là chỉnh tề thu liễm thân tâm không dám phóng túng. Theo ý ấy nên ông thường dùng hai chữ TĨNH TỌA để tồn dưỡng.

Lấy Thiên lý mà xem: Có động thì không thể chẳng tịnh; cũng như có tịnh thì không động. Tịnh thì hàm dưỡng, động thì trinh sát. Chỉ có một động một tịnh làm căn bản lẫn nhau. Kính và nghĩa dìu dắt nhau để khỏi cái gì gián đoạn.

Tuy dùng chữ tịnh nhưng không phải như một vật chết. Trong lúc tịnh vẫn có mối động. Cho nên không phải bỏ xa mọi việc, tuyệt giao với mọi vật, nhắm mắt ngồi yên mà chỉ thiên về một mặt tịnh.

Tịnh là khi chưa có vật đã có Kính làm chủ ở trong. Đến lúc sự vật thì cái Thiên lý đặng sáng tỏ ra xem xét càng tinh tường minh bạch. (Nho giáo Trần trọng kim)

Kết luận : Sách Trung Dung chương 22 nói rằng: Trong thiên hạ duy có bậc chí Thánh mới có thể biết hết tánh của mình, biết hết bổn tánh mình thì có thể biết hết tánh của người ta. Biết hết tánh của người thì có thể biết hết tánh của vật, như vậy thì có thể giúp vào cuộc hóa-dục của Trời Đất. Mà giúp vào việc hóa dục của Trời Đất được thì có thể cùng Trời Đất đứng vào hàng Tam Tài (Thiên, Địa, Nhơn).

THIÊN THỨ HAI

ĐỘ THA

Đến đây chúng ta đã hoàn thành pháp môn Minh Tâm Kiến tánh, tức tự độ, bây giờ còn phải Độ tha nữa thì mới tròn bổn phận kẻ tu hành.
Công phu "Minh tâm, Kiến tánh" giúp chúng ta mở rộng Đức Từ bi Hỉ xả, Bác ái, Công bình, bây giờ chúng ta đem cái sở đắc của mình để phụng sự Chúng sanh, tức thực hành "Độ tha" (Giác tha).

Lòng Bác ái dạy chúng ta thương người, mến vật cũng như thương mến thân thể chúng ta, lẽ Công bình bảo chúng ta đối xử với muôn loài vạn vật đồng đẳng với nhau, bởi vạn vật dữ ngã đồng thể. Vậy việc phụng sự cho Chúng sanh, chúng ta khích lệ trên nền tảng từ bi Hỉ xả, Bác ái, Công bình, chớ không phải vì ích kỷ, tư lợi. Chư Phật đời quá khứ có Đại nguyện "Độ tận Chúng sanh", chúng ta không được như thế thì ít ra cũng cố gắng, tận lực mình, phổ độ Chúng sanh được bao nhiêu thì nên bấy nhiêu.

Làm lành, lánh dữ thì rộng rãi mênh mông, không biết đâu mà định trước, chúng ta nên lập Tâm theo Phật ngôn rằng :
" Chư ác mạc tác
Chúng Thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo"
Nghĩa là những việc dữ chẳng nên làm, mọi điều lành vui lòng nhận làm. Tự mình trừng ý được thanh tịnh. Đó là lời dạy của Chư Phật.

Riêng về người Tín đồ Đại Đạo, Đức CHÍ TÔN đã mở sẵn một con đường "Phổ Độ" tức độ mình và độ người. Hai chữ Phổ Độ ấy đã nói lên trong danh hiệu "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ".

Sự PHỔ ĐỘ có hai lối: Công truyền và Tâm truyền.

CÔNG TRUYỀN: Về phương diện nầy chúng ta nên dùng tất cả thinh âm, sắc tướng để thức tỉnh lòng người khuynh hướng về Đạo đức. Đại loại như : Phô trương nghi tiết, phượng thờ tế tự, dùng văn chương ngôn ngữ giảng Đạo đức, thuyết nhân nghĩa để cảm hóa người nghe khuynh hướng về Chí thiện. Phật dạy rằng kẻ hành giả nên bố thí, hoặc thí tài, hoặc thí pháp, tùy thời Phổ Độ Chúng sanh.

TÂM TRUYỀN : Ở đây, không dùng thinh âm, sắc tướng mà kẻ truyền giáo phải thể hiện Đạo đức nơi mình rồi Đạo Đức sẽ phát biểu ra tư tưởng, lời nói và việc làm để cho người khác trông gương mà làm theo. Đó gọi là "Bất ngôn chi giáo". Người truyền giáo mà không được Tâm đắc Đạo đức thì chỉ nói được cái bóng dáng của Chơn lý mà thôi, chớ không bàn được cái thực thể Chơn lý toàn diện.
Độ tha cũng gọi là phổ độ.

Như chúng ta thấy tại Toà Thánh, Hội Thánh cất lập TÒA THÁNH, ở địa phương, bổn Đạo chung hiệp tạo tác Thánh Thất để sùng bái Trời Phật. Về mặt khác, Hội Thánh lo Phổ biến Giáo lý, lại còn thuyên bổ Chức Săéc đi khắp các nơi, để giúp cho Đạo Hữu thông hiểu Giáo Lý và thể hiện Đạo đức. Việc làm tuy phô diễn hình thức, nhưng tựu trung đều nhắm vào hai chữ Phổ Độ.

Tại sao chúùng ta phải phục vụ Nhơn sanh?
Đã biết rằng cả Chúng sanh đồng học một THẦY là Đấng CHÍ LINH, cả Chúng sanh đều ở chung một Đại Gia đình là Vũ trụ và cả Chúng sanh đồng đi với nhau một đường về với Cội sanh mình là Đức CHÍ TÔN. Vì sự ăn chung, ở lộn với nhau như thế mà cả Chúng sanh phải nương nhờ lẫn nhau, thành ra một cuộc vay trả, trả vay vô cùng tận.

Đại lược như : Từ buổi cấu tạo hình hài trong thai bào, mỗi Chơn hồn đều đã có mang một mối nợ tiền khiên (nợ các kiếp trước.) Đến lúc chào đời, lại còn nặng nợ Xã hội Nhơn quần, như cung cấp cho thức ăn áo mặc, nhà ở vân vân… Đó là sanh nghiệp mà Nhơn loại nhờ vã lẫn nhau. Lại còn Kinh điển lưu truyền từ đời kia, sang kiếp nọ, chỉ rõ con đường giải khổ đặng trở về nẻo Cực Lạc, đó là chưa kể những nghiệp quả riêng của mỗi người. Bởi nợ vay trả, trả vay ấy, cho nên mỗi người trong chúng ta chẳng có quyền sống riêng cho mình, mà ngược lại, phải đem mảnh thân nầy phụng sự cho Chúng sanh, hoặc bằng cách nầy, hay phương khác. Rảnh nợ nhơn quả thì mới mong giải thoát kiếp Luân hồi.

Vậy phụng sự cho Chúng sanh là phận sự của mỗi người, chớ chẳng phải làm ơn, làm nghĩa cho ai. Ấy vậy nên công làm của chúng ta không cần đáp ơn; không cầu tiếng khen. Vui làm nghĩa vụ, còn kết quả thì hiến dâng lên Đức CHÍ TÔN, sung vào cái kho vô tận Tự nhiên là nơi muôn loài vạn vật bám lấy, để sanh tồn và Tấn hóa.

Theo tài liệu khảo cứu thì chúng ta hiểu rằng : Chẳng có việc gì ở Thế gian mà Đức CHÍ-TÔN không hay biết, như Kinh Thi có câu:
" Hoàng hỉ Thượng-Đế
Lâm hạ hữu hách
Giám quan tứ phương ".

Nghĩa là Đức Thượng Đế rất rộng, rất lớn, soi sáng khắp cõi Hạ Giới, xem xét cả bốn phương.

Ấy vậy chúng ta đừng lầm tưởng việc làm lành của chúng ta Trời không biết. Thế thì công làm lành của chúnng ta có uổng đâu?

Còn một điều nữa, kẻ học cũng nên lưu tâm cẩn mật là " thử thách ". Theo lý đương nhiên, mỗi học sinh đều phải chịu khảo thi để minh chứng học lực. Thì Tu sĩ cũng vậy, nghĩa là kẻ học đạo cũng phải chịu Thử thách để minh chứng tài đức của mình.

Cổ nhơn còn lưu truyền sự thử thách ấy trong Kinh điển rằng: "Vô ma khảo bất thành Đại Đạo" Nghĩa là không ma khảo thì Đại Đạo không thành. Hoặc nói rằng: "Đạo cao nhứt xích, Ma cao nhứt trượng. Đạo cao nhứt trượng, Ma thượng đầu nhơn" Nghĩa là Đạo cao một thước thì Ma cao một trượng, đạo cao một trượng thì Ma lên khỏi đầu người.

Có người than rằng: Làm lành mà chăúng thấy phước, trái lại còn bị tai ương. Biết đâu, đó là những việc thử thách, chúng ta chớ nên ngã lòng thối chí. Bền lòng tu tập thì có ngày sẽ thấy quả lành.

TỔNG KẾT

Đức Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Chưởng Giáo nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Thánh danh ấy nói rằng học lý của Đại Đạo là qui nguyên Tam Giáùo, còn thực hành thì căn cứ theo Ngũ chi Hiệp Nhứt, nghĩa là khi mới nhập môn thì thể-hiện Nhơn đạo, rồi tiến lên Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo.
Nguyên giáo lý của Tam Giáo và Ngũ Chi Đại Đạo đã phổ truyền khắp Năm châu tự ngàn xưa. Dân tộc nào cũng nương đó làm nấc-thang tiến-hoá của mình. Nay thế giới thông đồng khách Năm châu tới lui, lui tới với nhau như người một nhà. Đức Chí Tôn Qui nguyên Phục nhứt Tam Giáo Ngũ Chi thành một nền Nhơn sanh triết lý học đại đồng, ai ai cũng có thể theo học được. Nhà khoa học nên chỉnh đốn lại lòng tín ngưỡng; nhà Đạo học nên gạt bỏ những điều mê tín dị đoan, rồi mỗi người cố gắng thực thi cái thuyết Nhơn sanh triết lý học nói đây thì có ngày cả loài người đồng có một tâm lý là điều kiện rất cần để thông cảm ở giữa người nầy với kẻ nọ trên đường giao tế. Thiên hạ thái bình là lời cầu nguyện hằng ngày của người Tín đồ Đại Đạo.

Đức CHÍ-TÔN là Đấng Thiêng Liêng, đại diện cho nền Tân Tôn Giáo nầy, Đức Ngài lập ra một Hội Thánh gồm có ba đài là:
- Bát Quái Đài,
- Hiệp Thiên Đài,
- Cửu Trùng Đài.

Mỗi Đài có nhiệm vụ riêng như đã nói trong chương III, phần thứ nhứt. Còn toàn thể Hội Thánh thì có phận sự phổ độ chúng sanh.

Người theo học chia ra hai bậc là Hạ thừa và Thượng thừa, Hạ thừa học hành Nhơn đạo để hoàn thành bổn phận làm người. Thượng thừa học hành Thiên đạo để tự độ và độ tha. Phương pháp tu hành Hạ thừa khác với Thượng thừa về phần hình thức, nhưng tôn chỉ thì cả nhị thừa đều lấy Đạo Trời làm khuôn thước để sửa Đạo người, hoặc nói cách khác là hiện thể Chơn lý thành những bổn phận làm người tại thế gian.

Mục đích Đại Đạo là làm cho nhơn thế biết đâu là Thiên lý đâu là Nhơn dục và lần hồi bỏ Nhơn dục để sống với Thiên lý là Đạo tự nhiên đưa người đến chỗ thanh cao giải thoát.

Kẻ Tín đồ phải xa lánh nhứt là sự ham muốn phàm trần cầu thỏa mãn Nhục thân mà cũng không nên ham muốn thần thông biến hóa để lòe người phàm tục nữa. Ngược lại phải tạo cho mình một đời sống siêu việt, vượt ngoài sự ô trược của nhục thân, vượït ra ngoài sự ích kỷ hẹp hòi và nhứt thiết phải thật thà khiêm cung và phải có sự hoài bão xuất thế của Lão Trang và giải thoát như Phật Giáo.
Viết xong tại TÒA THÁNH TÂY NINH.
Tháng giêng năm Giáp Thìn (1964)
Soạn giả: Tiếp pháp TRƯƠNG VĂN TRÀNG

PHỤ LỤC I & 2
HƯỜN NGUYÊN TAM BỬU
Nho-Giáo, Đạo-Giáo, Thích-Giáo Lược-Khảo
Lời giới thiệu
Của Đạo Trưởng Huệ Lương TRẦN VĂN QUẾ
Trong việc tu hành xưa nay phần cốt yếu là đức tin và công quả. Nhưng trong thời gian ma tâm trác tánh, tu công bối đức nếu gặp đặng những sách vở, kinh sám thích ứng để tu học, để mở rộng kiến văn thì người tu sẽ tự mình rút ngắn con đường của mình đi vậy. Nói một cách khác nhờ kinh sách để học hỏi người tu tự mình biến lối tu tiệm giáo là lối tu dần dần, lối tu đi vòng của người thường thất học ra lối tu đốn giáo là lối tu tắt, lối tu đi theo đường ngắn của một thức giả. Điều ấy rất cần vì lẽ sanh tử bất thường người tu lúc nào cũng phải tìm cách tranh thủ thời gian.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một tân Tôn Giáo ra đời đến nay chưa qua nửa thếá kỷ. Trong thời gian ấy, Đạo Trời phải trải qua hai giai đoạn : Giai đoạn thứ nhứt gồm mấy chục năm đầu là thời kỳ tu phước mà trong tâm là sự phổ độ chúng sanh, tạo dựng cơ sở, xây dựng nền móng về mọi mặt. Giai đoạn thứ hai gồm mười năm trở lại đây là thời kỳ tu huệ mà trọng tâm là sự tu tâm luyện tánh, tham thiền nhập định, luyện đơn nấu thuốc.

Vì lẽ nói trên mà kinh sách nói về Đạo Trời rất ít oi tuy rằng từ buổi sơ khai đến nay những Thánh Ngôn, Thánh Huấn được Ơn Trên ban ra không phải là ít. Nhưng vì thiếu sự thống nhứt tinh thần, cho nên các lời châu, tiếng ngọc ấy đều bị tản mát đi tứ phương và một phần đã bị mai một sau các cơn binh lửa.

Nay, may thay trong cảnh bối rối ấy, giới tu hành theo Đạo Trời đã tiếp nhận được quyển Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Giáo Lý do Ngài Tiếp Pháp Trương Văn Tràng đã dày công soạn ra thì đó hẳn là ngọn đèn rọi đường cho khách lữ hành trong đêm tối : Là cái địa bàn (la bàn) cho ngư phủ giữa cơn dông tố mịt mù ngoài biển khơi.

Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng hẳn đã thực hiện được việc "Tiên giác hậu giác" đối với các thế hệ người tu trong Đạo Trời. Lời ấy không phải là quá đáng, là vì với tư cách là một trong số Thập Nhị Thời Quân còn lại, Ngài Tiếp Pháp trong quyển sách nói trên đã cống hiến cho độc giả rất nhiều tài liệu quý giá mà người thường không sao tìm thấy được. Các tài liệu ấy sẽ chứng minh một cách xác thực những phần căn bản trong Giáo lý của Tam Giáo nói riêng và của Vạn Giáo nói chung. Vì lẽ ấy mà tôi xin trân trọng có bài giới thiệu nầy.
Làm tại SAI GON, ngày 28-6-1964
HUỆ LƯƠNG

TÂM NIỆM
Chúng tôi thành tâm đội ơn các Đấng Trọn lành lưu truyền Giáo lý Tam Giáo và các vị Tiền bối dày công chú thích, phiên dịch Giáo lý thành Kinh điển, chúng tôi nhờ đó để nghiên cứu, học tập và biến thành ba bài " Tam Giáo lược khảo " nầy.
NAM MÔ TAM GIÁO ĐẠO TỔ
Soạn giả - Tiếp Pháp TRƯƠNG VĂN TRÀNG
Kính dâng


PHỤ LỤC 1
HƯỜN NGUYÊN TAM BỬU

Tam Bửu là Tinh, Khí, Thần, ba món báu này nếu kẻ học có đầy đủ phước đức, gặp Chơn Sư truyền dạy và cứ theo Chơn truyền ấy thực hành đúng mức thì sẽ Hườn nguyên Tam bửu thành một "Đệ nhị xác thân" mang danh là Chơn thần. Trước khi nói đến phương pháp tu học, chúng tôi xin lược bàn sự cấu tạo Nhơn hình để minh xác Tam bửu.
Chu Hối Am là một danh Nho đời nhà Tống (Trung Hoa) sanh vào khoảng 1130-1200 nói rằng :
" Trong khoảng Trời Đất có Lý, (Phần lý của Trời đất ở nơi người gọi là Tánh, chỗ nầy Đức Chí Tôn nói rằng "Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật". Danh từ tuy khác nhưng lựu trung vốn một.) có Khí. Lý là Đạo thuộc Hình Nhi Thượng, là gốc sanh vạn vật. Khí là Khí cụ thuộc Hình Nhi Hạ, là đồ để sanh vật. Bởi thế nên người với vật sanh ra ắt có bẩm cái Lý ấy, rồi sao mới có Tánh; có bẩm Khí ấy rồi sau mới có hình". (Thiên địa chi gian: Hữu lý, hữu khí. Lý giả dã Hình Nhi Thượng chi đạo dã, sanh vật chi bản dã. Khí giả dã Hình Nhi Hạ chi Khí dã, sanh vật chi cụ dã. Thị dĩ nhơn vật chi sanh tất bẩm thử Lý, nhiên hậu hữu Tánh, tất bẩm thử Khí, nhiên hậu hữu hình. (Nho giáo Trần trọng Kim)

Theo lẽ nầy mà suy: Tánh người là Lý của Trời Đất. Lý ấy ở trên cõi Vô cực thì không tên (Vô danh) nhưng khi tác động đến Vũ trụ thì gọi Lý thiên nhiên, hay Lý THÁI CỰC: còn khi tác động đến người thì gọi là Mạng Trời, Thiên Lý, Tánh bản nhiên, hay Đạo. Sách Trung Dung nói rằng: "Thiên mạng chi vị Tánh : Suất Tánh chi vị Đạo". Nghĩa là Mạng Trời gọi là Tánh. Tuân theo Tánh gọi là Đạo. Vậy chúng ta nên nhớ rằng: Mạng Trời, Thiên Lý, Tánh, hay Đạo, tuy nhiều danh từ, nhưng tựu trung có một mà thôi. Thân thể người ta ngoài sự do hình hóa của Cha mẹ, còn một phần tinh anh nữa gọi là Khí chất của Vũ trụ cấu thành. Ấy vậy nên châu thân gồm có ba phần chánh là: Nhục thân, Khí phách và Thần hồn. Đạo giáo gọi đó là Tam bửu kể như vầy:
1) - Tinh là phần tinh hoa của Nhục thân (Đệ nhứt xác thân).
2) - Khí là một thứ Hơi (Phách) lưu hành trong Nhục thân, ( Đệ nhị xác thân ).
3) - Thần là giác tánh của Nhục thân (Đệ tam xác thân).

Tóm lại: Thân thể người ta gồm đủ mọi lẽ Huyền diệu của Trời Đất và mọi Khí chất của Vũ trụ (Thái Cực, Âm Dương, Ngũ hành Khí) cấu thành cho nên sách Nho nói rằng :
"Nhơn giả kỳ Thiên địa chi đức, Âm Dương chi giao, Quỉ thần chi hội, Ngũ hành chi tú Khí dã". Nghĩa là người ta là cái đức của Trời Đất, chỗ giao hợp của âm dương, tụ hợp của Quỉ thần và Khí tinh anh của Ngũ hành.

Vậy đủ rõ trong số vạn vật, duy Nhơn loại là đứng đầu, vì lẽ ấy nên người ta có thể thành Đạo trong một đời tu, nếu người ta thành tâm, thiện chí học tập.

Về phương pháp Hườn nguyên Tam bửu là "Tâm học". Pháp môn nầy phái do Đức CHÍ TÔN, hoặc mội vị Tiên Phật truyền dạy mới nên được: Vì thế nên trước khi thực hành Tâm pháp, kẻ học phải tu Tâm, dưỡng Tánh, đến Công viên Quả màn, nghĩa là công quả nội, công quả ngoại đầy đủ và Tánh bản nhiên có thể cảm ứng với Thái Cực Thánh Hoàng, hay Tiên Phật, để lãnh hội Tâm pháp ấy thì mới được. Lẽ như vậy nên lớp học nầy dành cho một số ít người Đại chí và có đầy đủ phước đức mà thôi.
Vậy trước khi bàn đến phép tu học chúng tôi xin nhắc lại Đức tin, vì lòng tín ngưỡng là một ngọn đèn dắt đường cho kẻ học.

I . ĐỨC TIN

Ở đây, kẻ học nhứt thiết phải xa lánh những điều dị đoan, mê tín.
Có người vì muốn mau Đắc Đạo, hay ham huyền diệu, rồi mơ màng những việc viễn vong, lại ngộ nhận là Thần Tiên truyền giáo. Đó là điều mê tín phải xa lánh.

Có kẻ nghe những lời phỉnh phờ, gạ gẫm, rồi tin liều, về sau, cái lầm lạc ấy sanh tư tưởng, lời nói và hành động bất chánh. Đó là điều mê tín phải xa lánh.

Kinh Phật dạy rằng: Dùng sắc tướng, mà tìm Như Lai là Tà đạo.
Trái lại: "Nhược kiến chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai". Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, đó là thấy Như Lai Tánh.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật dạy rằng: "Các ngươi phải tự mình đốt đuốc lấy mà đi, chớ đừng tin ai cả".

Lại nói rằng: Ngươi chẳng nên tin điều gì mà ngươi chưa nhận chắc là Chơn lý. Mặc đầu lời ấy do ông nào nói, hay biên trong Kinh Sách nào cũng vậy.

Nên hiểu rằng tinh thần Đạo Đức là cái tối quan trọng cho kiếp người. Ấy vậy chúng ta phải học và phải hành thế nào cho đến kinh nghiệm rồi sau sẽ tinh tưởng. Và cũng nên hiểu rằng : Dạy đánh đờn thì phải do một vị Nhạc Sư thiện nghệ mới được, cũng như truyền dạy pháp môn "siêu phàm nhập Thánh", tất nhiên phải do Chơn Sư là Tiên Phật, hoặc Đức CHÍ TÔN truyền dạy mà thôi.
II . DƯỠNG TINH

Dưỡng tinh nghĩa là hàm dưỡng tinh ba được đầy đủ trong châu thân.
Tinh là phần tinh hoa của Nhục thân, là nhựa sống của vật thể. (Ở nơi Thảo mộc, Tinh là một sức mạnh hay đâm chồi, mọc nhánh, trổ lá, đơm hoa. Ở nơi súc vật, Tinh là một sức mạnh năng sanh sản. Ở nơi người, ngoài cái công năng sanh sản, Tinh còn là một chất nước năng hóa khí (Sperme) để bồi dưỡngsức khoẻ và sáng láng tinh thần.

Muốn dưỡng Tinh phải làm sao?
Đạo thơ có câu : "Vô lao nhữ hình, vô giao nhữ tinh" Không nên làm hao tổn thân thể ngươi, không nên giao động Tinh ngươi. Hoặc nói rằng : Muốn dưỡng tinh phải tuyệt dục, những phép tuyệt dục cốt yếu là phải ngăn ngừa dâm niệm ở trong tư tưởng giới, bởi vì dâm căn không phải ở ngoại vật bên ngoài mà thôi đâu.

Như trên đã nói: "Tinh là một chất nước, có thể hóa khí" Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có giáng cơ dạy như vầy :
1. - Cho hay đạo cả chẳng nhiều lời.
2. - Một trận thần thông thấu Đất Trời
3. - Liếc mắt xem qua Cơ Tạo Hóa
4. - Một câu thuận nghịch để muôn đời.

CHÚ GIẢI :
1. - Kẻ hành giả phải tịnh khẩu, tịnh thân, tịnh ý, tức Đạo Cả chẳng nhiều lời mà phải đại định.
2. - Hễ đại định được thì Tâm thần tương giao, hoặc nói cách khác là Thủy Hỏa Ký Tế, mà chấn động cả Âm Dương khí (tức Đất Trời).
3. - Lúc bấy giờ phải xem chừng cơ Tạo Hóa, để tìm hiểu thời trung, vì Tinh có phát triển đúng mức thì Tinh mới hóa Khí được.
4. - Tinh sanh thì phải điều-hành cho nó nghịch chuyển về Nê hườn cung để bổ não. Trái lại, nếu để Tinh thuận hành ra ngoại thân thì Tinh biến thành một chất nước, có thể hườn đặng Nhơn hình, cho nên nói rằng : Một câu thuận nghịch để muôn đời.

III. NUÔI KHÍ

Khí ở trong người có thanh, có trược, có thuần, có bất thuần, cho nên kẻ học phải hàm dưỡng lọc lược nó. Ở đây chúng tôi theo Mạnh Tử mà nghị luận hai chữ Chí và Khí Hạo Nhiên. Nên nhớ rằng Chí và tánh vốn một, nhưng tùy sở dụng mà có tên riêng như tánh dùng về mặt tiêu cực để hàm dưỡng, còn chí dùng về mặt tích cực để điều Khí. Ấy vậy nên Tánh và Chí chẳng phải hai vật.
Khí là gì? Vả chăng, Khí là cái vận dụng của nguyên lý tạo lập Trời Đất, hóa sanh muôn loài, Khí lưu hành khắp Vũ trụ và hễ Khí ngưng tụ thì sanh hình vật. Vạn vật, đến lược nó, trót sanh trưởng rồi, mỗi vật đều có súc tích Khí nơi mình và Khí ấy cũng luôn luôn lưu hành trong cơ thể vạn vật. Muôn loài nhờ đó mà được sanh tồn. Nay như hỏi Khí là gì ? Thì Mạnh Tử nói rằng: "nan ngôn" (khó nói). Tuy vậy, nhưng ông cũng miễn cưỡng giải rằng :

"Kỳ vi Khí giả chí đại, chí cường, dĩ trực dưỡng nhi vô hại, tắc tắc Thiên Địa chi gian". Nghĩa là cái mà gọi là Khí đó rất lớn; rất mạnh, nếu người ta khéo di dưỡng mà đừng làm tổn hại thì Khí có thể đầy khoảng không gian Trời Đất.

Chúng tôi xin trích trong sách "ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO" một bài sau đây cầu được rõ thêm ý nghĩa Khí "Hạo nhiên" (Diệu hữu).
"Diệu hữu bắt từ trong Vũ trụ vào trong thân thể con người, lúc mới vừa lọt lòng mẹ, đã buông tiếng khóc. Lúc thai vừa tượng thì đã có một phần Thái Cực, trí nơi Mạng môn. Đến khi con người bước chân vào Trần thế, tuy chưa đủ cảm giác, chớ Ngũ tạng, Lục phủ đã có sẵn rồi. Hạo nhiên Khí do Nê hườn cung chuyển lần xuống tại Tâm. Tử khiếu Huyền quan rồi từ nơi óc não phân phát ra mấy đàng Thần kinh mà chuyển vận trong cơ thể. Từ nơi quả tim theo mạch lạc day trở trong Ngũ tạng, vì từ nơi gốc Huyền quan để giữ tồn sanh mạng của tạng phủ."

" Bắt đầu nơi khiếu Huyền quan vận động ra ngoài biến thành Thần lực của người."
" Khí ấy, nó rút điễn lực mặt Nhựt vào tì và đem ra ban hành châu lưu khắp phách vía. Ấy là Diệu hữu của Trời xuyên qua vận chuyển lên người mà thành ra Hậu thiên."

" Hạo nhiên Khí của Trời, theo kim đơn, là pháp thân của Chơn tánh. Khí thuộc Dương, còn điễn sanh lực của người chưa tu đều là Khí Hậu thiên thuộc Âm."

"Diệu hữu là một thứ điện quang tinh khiết sự rung động (vibration) vô cùng tận. Muốn thông đồng và thâu nhập được Diệu hữu của các Đấng Thiêng Liêng Thì Đồng tử phải có một thứ máy tinh anh và phải thuần điễn như Thần Tiên."

"Bổn tánh Diệu hữu thường là thanh tịnh, ấy là của Thần, Thánh, Tiên, Phật: Người nếu được thuần khiết thanh tịnh thì hiệp với Trời, thông công với Thần Tiên".

Chí và Khí cũng như Hồn và Phách, Hồn là Dương, Phách là Âm, ở giữa làm môi-giới cho hồn và xác liên kết thành một thể, cũng như Khí kết liên Thân và Tâm thành một thân thể, có mạng sống. Mạnh Tử nói rằng:

"Phù Chí Khí chi suy dã, khí thể chi sung dã. Phù chí chí yên. Khí thứ yên, Cố viết, tri kỳ chí nhi vô bạo kỳ khí". Nghĩa là Chí là Tướng soái của Khí. Khí thể thì tràn ngập cả thân người Chí đến rồi Khí sẽ theo đó. Bởi cớ nên bảo rằng nên giữ gìn chí mà cũng đừng làm tổn hại Khí.

Đại ý nói rằng Chí cũng như Tướng soái, khí như ba quân, Tướng soái ở đâu thì ba quân theo đó. Phép dưỡng Khí cũng vậy, nghĩa là giữ gìn Chí kiên cố thì khí sẽ theo về. Khí thể tràn ngập cả cơ thể, còn chí thì phải ngừng một chỗ. Lẽ ấy nên kẻ học chẳng những phải lập chí vững vàng cũng không nên tổn hại khí.

Tại sao? Bởi vì Chí và Khí liên đới quan hệ nhau, bằng cớ là, Chí chuyên nhứt thì động đến Khí, Khí chuyên nhứt thì cũng động đến Chí. Xem như khi người đi vấp té, chạy mau đó thuộc về Khí, nhưng nó làm chấn động đến Tâm (Chí nhứt tắc động Khí. Khí nhứt tắc động chí dã, Kim phù huệ giả, xu giả, thị Khí dã, nhi phản động kỳ Tâm).
Người Quân Tử sở dĩ hơn người là vì khéo nuôi Khí Hạo nhiên ấy.

Nuôi Khí Hạo nhiên phải thế nào?
Trình Hạo nói rằng:
"Chủ nhứt vô thích, kính dĩ trực nội, tiện hữu Hạo nhiên chi khí" (Giữ lấy một mà không hai tức Tâm tịnh, Kính để làm thẳng bên trong thì sẽ có khí Hạo nhiên vậy).

Đại ý nói rằng: Kẻ học cứ giữ đại định thủ nhứt đến đúng mức thì Khí sẽ đến, còn Mạnh Tử thì nói rằng: " Thi tập nghĩa sở sanh, phi nghĩa tập nhi thủ chi ". Nghĩa là cứ thong thả làm theo Đạo Pháp rồi Khí sanh, chớ chẳng phải dùng sức mạnh để chụp lấy.
Khí có thanh, có trược lại có thuần hay không thuần.

Thí dụ : Có người thông minh, việc gì cũng hiểu, ấy là khí thanh, nhưng đến việc làm thì vị tất việc gì cũng đúng lý, ấy là bởi Khí không thuần. Có người cẩn hậu, trung tín, ấy là bởi khí thuần, nhưng đến sự biết thì vị tất việc gì cũng đạt được lý, ấy là bởi khí không thanh. Thanh trược, thuần và bất thuần là bởi Thiên mạng định như vậy. Nhưng chúng ta có thể lấy nhơn lực mà biến hóa Tánh khí chất, làm cho Tánh trở nên thuần túy, Thiên lý, ấy là công phu của sự tồn dưỡng. (Nho giáo Trần Trọng Kim)

Xem đó thì đủ hiểu Tánh Khí luôn luôn theo nhau, cho nên dưỡng tánh, tồn tâm cũng thuộc về công phu nuôi khí.

Kẻ học cứ ung dung thực hành phép Chánh định đến viên mãn công phu thì đó là nuôi khí vậy. Công phu nầy lâu lâu thì cảm thấy ấn chứng khí sanh.

Mạnh Tử nói "Tất hữu sự yên, nhi vật chánh, Tâm vật động vật tư trưởng dã". Ắt có sự đến, tức triệu chứng khí sanh nhưng chẳng khá dùng sức mạnh mà điều lý nó, Tâm chẳng khá động, mà cũng chẳng lưu ý trợ trưởng nữa. Rồi Mạnh Tử còn nêu gương người nước Tống trồng lúa để cho kẻ học hiểu rõ thêm, Ông nói; "Người nước Tống trồng lúa, anh ta muốn cho lúa mau lớn, rồi ra đồng nhóm gốc lúa. Làm như vậy là muốn cho lúa mau lên cao, nhưng sự thật thì anh ta hại lúa chết". Phép dưỡng khí cũng như thuật trồng lúa. Trồng lúa thì phảûi bón phân, nhổ cỏ, rồi lúa theo thời tiết mà cao lớn, chớ chẳng phải nhóm gốc lúa như người nước Tống. Phép dưỡng khí cũng vậy. Kẻ học cứ lánh dữ làm lành, ung dung tịnh dưỡng Tâm tánh rồi Khí theo đó mà sanh, chớ chẳng khá giục cho Khi chóng mạnh.

Nói rút lại công phu "Nuôi khí" đến dây thì nó đem lại cho kẻ học Khí thể tràn ngập cả thân tâm, cũng như Nhơn điễn và nhờ đó mà Khí Hậu thiên của người đồng hóa với Khí Tiên thiên của Trời Đất mà người có một Tinh thần đồng nhứt với Vũ trụ, Mạnh Tử nói rằng : Người đạt được như vậy gọi là có Khí phách; "Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di"; Giàu sang không dâm, nghèo hèn không đổi.

Duy có tinh thần ấy mới tự chủ mà thắng vật dục cám dỗ trong khi hòa quang hỗn tục để làm phận sự mình.
IV. HIỆP THẦN

Thần là nặng lực trí giác ở trong nhơn thân, khi người ta nhập Thế cuộc. Nhục thân lôi-cuốn Thần khuynh hướng về phàm trần, phóng túng theo vật-chất, rồi năng lực tri-giác biết phân biệt tốt xấu, hơn kém, thiện ác, nhơn đó mà người ta sanh lòng ham muốn vật chất, cầu thỏa mãn Nhục thân. Đó là mối đại loạn phá hại Chơn Tâm, Chơn khí. Nay Tâm đã tịnh định, Khí đã thanh thuần và đồng hóa với đạo tự nhiên thì Tinh Khí Thần có thể hiệp một mà thành đệ nhị xác thân, mang danh là Chơn thần, Đức CHÍ TÔN dạy rằng: "Tính Khí Thần hườn nguyên là cơ siêu phàm nhập Thánh".

THÁNH-NGÔN: Từ ngày Đạo bế, luật tu hãy còn nguyên, luyện pháp không dời đổi, song Thiên đình, mỗi phen, đánh tản Thần, không cho hiệp với Tinh Khí. Nay Thầy đã hườn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo. Con đã hiểu Thần cư tại nhãn, con nên bố hóa cho như Đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm ấy". (Thánh giáo)
THÁNH-NGÔN : Năm Mậu-Thìn (1928)

CHƠN-THẦN là gì ? Thầy nói; Chơn thần thuộc về Khí chất (sperme évaporé) bao bọc thân thể các con, trung tim của nó là óc, cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, chữ gọi Vi Hộ. Hộ Pháp hằng đứng gìn giữ các con khi luyện Đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí, và đưa Khí đến Thần, Tinh Khí Thần hiệp một mới siêu phàm nhập Thánh".

THẦY CẮT NGHĨA: Mỗi kẻ phàm dưới Thế nầy đều có hai Xác thân : Một phàm gọi là Corpore1 (Nhục thân) còn một Thiêng liêng gọi là Spirituel (Thần hồn). Cái Thiêng liêng do cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy được mà cũng có thể không. Cái xác-thân vô-hình huyền-diệu ấy do Tinh Khí Thần luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn Không khí.

"Khí ở nơi xác phàm xuất ra thì nó lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập, còn khi Đắc Đạo, nếu có Tinh Khí mà không có Thần thì không thể nhập mà hằng sống được, còn như cò Thần mà không có Tinh Khí thì khó hườn được "Đệ nhị xác thân". Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.

Nó vốn là chất hiệp với Khí Tiên thiên mà trong khí Tiên Thiên vốn có Điễn Quang, cái Chơn thần ấy buộc phải tinh khiết, trong sạch, nhẹ nhàng hơn Không Khí thì mới vượt ra khỏi vòng Càn Khôn đặng.

Nó phải có bổn nguyên Chí Thánh, Chí Tiên, Chí Phật mới xuất Thánh, Tiên, Phật. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn Thần tinh khiết.

"Nếu các con còn ăn mặn mà luyện đạo, rủi có ấn chứng thì làm sao giải tán cho đặng? Như rủi bị hườn thì đến khi đắc đạo cái trược khí vẫn còn mà trược khí là vật chất tiếp điễn (bon conducteur d 'electricité) thì chưa ra khỏi làn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn ẩn núp tại Thế mà làm một bực Nhơn Tiên thì kiếp đọa trần hãy còn chưa mãn". (Thánh Ngôn ngày 17-7-1926. /8-6 Bính Dần).

Xem Thánh Ngôn trên đây thì chúng ta có thể hiểu rằng phép tu tập nầy chẳng những phải hoàn thành phép Minh Tâm kiến Tánh mà còn phải trường trai tuyệt dục nữa. Trái lại nếu ăn mặn mà luyện đạo rủi xuất Thần mà Thần còn trược khí lẫn lộn thì nguy hiểm đến tánh mạng. Kẻ học nên nhớ điều nầy. THÁNH-NGÔN ngày 2-1-1928

"Cái xác thân thiêng liêng nầy khi còn ở nơi xác phàm thì khó xuất ra lắm, vì nó bị xác-phàm kéo níu, cái chơn thần ấy của Thánh, Tiên, Phật thì huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc Chơn tu, khi còn xác phàm nếu Đắc Đạo thì có thể xuất ngoại trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Duy Chơn thần ấy mới đặng đến trước mặt Thầy".

Nói rút lại:
Theo lẽ trên đây mà suy ra: Phép tu học nầy phải có Đức CHÍ TÔN, hay Tiên Phật truyền dạy mới được. Phép Siêu phàm nhập Thánh là Tâm pháp, người phàm khó thông đạt để truyền thọ cho nhau.

Giả tỉ như : dạy đánh đờn thì người dạy phải là một vị Nhạc Sư thiện nghệ; hoặc giả như dạy lái xe hơi thì phải là một người tài xế kinh nghiệm mới đảm đương được sự truyền thọ.

Vậy đủ hiểu rằng phép tu hành nầy phải có Đức CHÍ TÔN dạy; mà muốn được Đức CHÍ TÔN truyền Tâm pháp thì kẻ Đệ tử phải chí chơn, chí thiện, chí mỹ, nghĩa là Đạo đức hoàn toàn và phục vụ cho Chúng sanh viên mãn với một tấm lòng vô tư, thì mới có thể cảm động lòng Trời; cũng như Cổ Nhơn nói rằng: "Lòng chí hiếu cảm động lòng Trời mà Trời ban phước cho". (Hiếu cảm động Thiên). Mà muốn đạt mục đích nầy kẻ học phải có lòng Trí ngưỡng bất thối chuyển, tức tin nơi đức THƯỢNG-ĐẾ sẽ giáo hóa mình và tự tin nữa, như chúng tôi đã nghị luận trong khoản Đức tin thì mới thắng được sự thối chí, ngã lòng. THÁNH-GIÁO đề ngày 21-4-1926 dạy rằng :
"Trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo, làm ra cuộc phàm giáo, Thầy lấy làm đau đớn mà trông thấy Nhơn loại phải sa vào tội lỗi, mạt kiếp chốn A tỳ. Thầy nhứt định đến chính mình Thầy mà độ rổi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa". Thể theo Thánh giáo nầy, chúng ta có thể yên tâm học tập cho đến công phu viên mãn và đủ kiên nhẫn mà chờ lịnh Đức Đại Từ Phụ ban cho phước lành.

Đây là một điểm bất đồng ở giữa văn chương học và Đạo đức học. Văn chương học cần trí thông minh để học cho biết mà thôi. Trái lại đạo đức học, ngoài trí thông minh, còn phải có Đức tin vững chắc. Vì Đức tin vừa là một ngọn Nhiên đăng soi sáng, vừa là một sức mạnh tinh thần đôn đốc kẻ hành giả phải học, phải làm cho đến cùng lý tận tánh và phải đem cái Tâm đắc của mình mà giúp đời làm cho người được thông sáng như mình.

Có điều chúng tôi xin thưa là phần "Hườn nguyên Tam bửu" nầy, chúng tôi khảo cứu biên ra để làm tiêu chuẩn cho sự tu tập mà thôi; chớ chúng tôi cũng chưa đạt được kinh nghiệm. Xin độc giả biết cho.
*  *  *

PHỤ LỤC II
THÍCH GIÁO, ĐẠO GIÁO, NHO GIÁO
LƯỢC KHẢO

TAM GIÁO THÍCH - ĐẠO - NHO
Lược khảo.

Nguyên Giáo Lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là qui nguyên Tam Giáo (Thích, Đạo, Nho) Phần phụ lục "Tam Giáo Lược Khảo" nầy để bổ khuyết những cái mà quyển Đại Đạo Giáo Lý còn thiếu sót và cũng giúp cho độc giả hiểu sơ lược Giáo Lý của Thích, Đạo, Nho.

1.- Nho giáo Lược Khảo.
2.- Đạo Giáo Lược Khảo.
3.- Thích Giáo Lược Khảo.

NGUỒN GỐC NHO GIÁO
Người Trung Hoa, sau khi quần tụ đông đảo, lập thành gia thất thì cái quyền trị gia do người cha. Lần hồi người ta theo nguyên tắc gia đình mà lập ra xã hội. Nghĩa là gia đình thì do người cha quản trị, nước thì có ông Vua, còn khắp thiên hạ tức là nước Trung Hoa thời ấy thì có vị Hoàng Đế thống trị. Nguyên trong thời đại tối cổ, ở xứ Trung Hoa có năm ông Vua ra đời tiếp nhau mà dạy dân là: Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, sách gọi đó là Ngũ Đế là năm vị Thánh Vương đắc Đạo, có thần thông trông thấy những hiện tượng trong cõi Hư Linh. Một hôm, Vua Phục Hi dạo chơi trên sông Hà (Huỳnh Hà) ông trông thấy một con vật : Mình ngựa đầu rồng, trên lưng có dấu chấm, Ngài theo đó mà lập ra Bát Quái Đồ, cắt nghĩa Đạo biến hóa của Trời Đất, để làm nguyên tắc dạy người. Thì đây Nho Giáo thành lập một phần thì do thực tế, một phần thì do Huyền lý của Trời Đất, nghĩa là Nho Giáo lấy Đạo Trời làm khuôn mẫu dạy người. Làm theo Đạo trời là lành, trái với Đạo Trời là dữ. Cổ nhơn theo học Nho Giáo để giúp đời, cho nên trong quyển Nho Giáo, cụ Trần trọng Kim cắt nghĩa chữ Nho như vầy :
Chữ Nho do hai chữ Nhơn và Nhu ghép thành. Chữ Nhơn là người, chữ Nhu là cần dùng. Hai chữ ghép thành chữ Nho, có nghĩa là người học hành thông suốt lẽ Trời Đất và tự họ sẵn sàng giúp ích cho Nhơn quần Xã hội, cầu cho Xã hội biết cách cư xử thích hợp với lẽ Trời. Lấy Đạo Trời làm căn bản cho Đạo người. Nho Giáo giúp người Tàu được trên thuận, dưới hòa và tạo nên một nền luân lý có căn bản vững chắc.

Đến đời nhà Châu, trào Vua Linh Vương, ước chừng 551 năm trước Tây lịch kỷ nguyên, có một vị Thánh-Nhơn, tên Khâu tự Trọng Ni, tức là Đức Khổng Phu Tử ra đời, Ngài chỉnh đốn Nho Giáo thành một Giáo Thuyết có mạch lạc. Nhơn đó mà người đời bấy giờ gọi Nho Giáo là Khổng Giáo. Thiết tưởng, chúng ta nên nhắc sơ lược cái Tiểu sử của Đức Khổng Phu Tử, âu cũng giúp sự học vấn của mình một phần nào.

Tiểu sử Đức KHỔNG PHU TỬ.

Đức Khổng Phu Tử là người nước Lỗ bên Tàu, sanh năm 551 trước Tây lịch kỷ nguyên. Cha Ngài tên Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Thị. Ngài tên KHÂU, tự Trọng Ni, lúc lên ba tuổi, thì mồ côi cha, nhờ mẹ dưỡng dục, lên 19 tuổi, Ngài thành gia thất.
Về đường học vấn Ngài rất chú ý đến Lễ Nhạc. Năm 20 tuổi, Ngài vào học nơi nhà Minh Đường. Nguyên ở Lạc Ấp, ông Châu văn Công có cất một nhà Minh Đường, tích trữ Kinh Điển, Luật lệ, Hình tượng và báu vật đời xưa, để làm tài liệu khảo cổ, Đức Khổng Phu Tử nhờ đó mà mở rộng học lý của Ngài, sau khi ở Minh Đường về, sức học của Ngài rộng hơn trước nhiều. Từ đó học trò theo học càng ngày càng đông.

Ngài vốn người Nho học muốn đem Đạo của mình mà phổ biến trong dân gian để giúp đời, thành thử, Ngài châu du từ nước nầy sang nước nọ, có ý muốn mượn việc làm quan để thực hành Đạo lý, nhưng rốt cuộc rồi thất vọng. Đến 68 tuổi, Ngài về ở nhà dạy học và lo việc Kinh sách để lưu truyền cho hậu thế.

Tánh tình Ngài ôn hòa nghiêm trang, kính cẩn, những cử chỉ thường thức như: đi, đứng, nằm, ngồi mỗi mỗi đều ung dung ngay chính và lúc nào cũng có vẻ vui tươi. Đối với Vua, Quan, Ngài giữ Lễ trọn vẹn. Khi tế tự vào Miếu Đường, Ngài thành kính, để thông cảm với Thần Minh. Nếu có việc quan hệ đến tánh mạng người ta thì Ngài lại dè dặt hơn nữa.

Ngài rất ham học, hay suy gẫm việc xưa nay, để tìm chơn lý, Ngài nói "Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm hối nhơn bất quyện" Nghĩa là thầm lặng nghĩ ngợi để biết, học khôâng chán, dạy người không mỏi. Ta chỉ có ba điều ấy thôi. Đời Ngài, duy có sự học hành Đạo lý là trên hết. Ngài nói:
"Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tùy, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu dã". Nghĩa là đức của mình không sửa cho tốt, học-hành của mình không giảng cho rõ, nghe điều nghĩa mà không theo được, nghe điều dở mà không đổi được. Đó là cái lo của ta vậy.

ĐỨC KHỔNG PHU TỬ MẤT

Một bữa nọ, Ngài dậy sớm, đi đạo trước sân, tay cầm gậy miệng hát rằng :
            Núi Thái Sơn phải đổ chăng.
            Cây Lương Mộc phải nát chẳng.
            Người triết nhơn phải nguy chăng.

Thầy Tử Cống nghe bài hát ấy vào hỏi thăm. Ngài thuật điềm chiêm bao và Ngài cho biết rằng: Ngài sắp lìa trần. Đoạn rồi Ngài thọ bịnh bảy ngày mà mất. Năm ấy Ngài được 72 tuổi. Mộ Ngài ở Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ hai dặm, thuộc tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Ngài mất, học trò thương khóc thảm thiết, ai cũng thọ tâm tang ba năm.

Tóm lại, Đức Khổng Phu Tử là một bậc Chí Thánh, chẳng những các dân tộc Á Đông sùng thượng Ngài là một vị Thánh Sư, mà người Phương-Tây cũng khâm phục nữa. Chúng tôi thể theo đoạn văn của Bác Sĩ Chavanne phê-bình Đức Khổng Phu Tử như sau, để làm bài kết luận :

Nước Tàu sở dĩ nước Tàu, là nhờ có một Cổ Điển rất tinh vi, rất kỹ càng, làm luật pháp cho cả moị người trong nước phải theo. Phàm chế độ chánh thể, lễ giáo, phong tục, trong nước mỗi mỗi đều do đó mà ra cả. Cổ Điển ấy không phải nhờ Thần Quyền thưởng phạt mà từ Thượng cổ thời đại đến bấy giờ không hề thay đổi gì cả. Hiện nay vẫn còn là nền gốc vững chắc. Đời nọ qua đời kia, cái nghĩa lớn vẫn y nhiên; duy cách giải thích, cách ứng dụng, có khác nhau đôi chút mà thôi. Chính Đức Khổng Phu Tử là người đại biểu rõ rệt cho cái Cổ điển ấy, tự mình cũng không đổi mới gì cả.

Gốc Đạo của Ngài là Tồn Cổ, Ngài tin rằng những lễ phép của Thánh Nhơn đặt ra là rất mực khôn ngoan, rất mực tốt đẹp, người đời sau chỉ nên theo đúng như thế mà ăn ở là hay vậy. Đạo học của Ngài, cả thân thể của Ngài, chẳng qua là một bài chú thích, một bài chứng minh phép tắc, luân lý của người trước đặt ra tự bao giờ.

ĐẠO CỦA ĐỨC KHỔNG PHU TỬ

Đức Khổng Phu Tử tin có Trời, có quỉ thần, nên người ta theo giáo pháp mà học-hành đến bậc Chí thiện thì khi thác sẽ được chầu bên tả, bên hữu Đức Thượng Đế. Ngài quan niệm rằng trong cõi Thái Hư có Thái Cực và Âm Dương vận hành không nghỉ mà định vị trời đất và hóa sanh muôn loài, vạn vật, đến lượt chúng nó, khi đã trót sanh trưởng rồi thì giống đực, giống cái giao cấu mà sản xuất thêm ra mãi. Người là một loài trong số vạn vật, thành thử người cũng theo Đạo mà sanh và cũng phải theo Đạo mà sống. Người nào càng gần Đạo thì càng được vui tươi. Ấy vậy nên Nhơn sanh phải lấy Đạo (Thiên Lý) làm nền tảng, làm khuôn thước cho sự ở đời của mình; tức là sống theo Đạo tự nhiên và giúp công hóa dục với Trời Đất.
Về sự tổ chức gia đình, xã hội thì căn cứ theo cái Đại hóa điệu của Vũ Trụ mà lập thành, khiến cho đức lớn chở che đức nhỏ, đứùc nhỏ phục tùng đức lớn. Lớn nhỏ chung sống với nhau dưới bầu trời an tịnh.

Đó là phần uyên nguyên của Khổng Giáo. Còn sự học hành thì Đức Khổng Phu Tử theo phương thức của các vì Thánh Vương đời xưa mà chăm chước cho thích nghi với Nhơn tâm thế sự, cho nên sách Trung Dung nói : Đức Trọng Ni thuật lại Đạo Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước vua Văn, vua Võ, trên theo thời Trời mà quyền biến, dưới theo thủy thổ mà an vui.

Nói tóm lại, Khổng Giáo cho rằng Đạo Trời chỉ có sự sanh hóa. Người muốn theo Đạo Trời thì cũng chỉ làm lợi sanh cho người và vật; mà muốn đạt mục đích ấy, người phải học hành bốn điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.

NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ.

Tượng trưng Đạo Trời là Càn, mà Đạo Càn có bốn Đức là: Ngươn, Hanh, Lợi, Trinh. Đức Khổng Phu Tử theo đó mà thuyết minh bốn đức lớn của người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Có chỗ nói Đạo Trời có Âm Dương, Đạo đất có Cương Nhu, Đạo người có Nhân Nghĩa. Thế nên người muốn thuận Đạo Trời thì phải thực hành Đạo Nhân Nghĩa.
NHÂN là gì ? Đã biết rằng người ta, ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm Linh quang, để làm tự tánh của mình. Tánh người ra sao. Tánh ấy vốn lành. Khi nó phát động thì sáng suốt và cái biết của nó rất tự nhiên nhi nhiên. Cái phát động của tánh ấy Nho giáo gọi là Nhân. Vậy chúng ta có thể nói Nhân Đại diện có tánh Thiên nhiên để thực hành Nhơn đạo.

Lẽ như vậy nên nói rằng: "Nhơn giả nhơn dã". Nghĩa là Nhân ấy là Đạo người vậy. Nay phân tách chữ Nhân thì chúng ta thấy nó có hai phương diện là :

Đối nội tức là đối với nội tâm và bổn thân.
Đối ngoại, tức là đối với người và vật ở chung quanh chúng ta.

Đối nội : Muốn thực hành Đạo Nhân thì kẻ học luôn luôn phải giữ gìn bổn tâm của mình trong sạch, đừng để tư dục xen vào, cầu cho Bổn Tánh được tự do phát triển sở năng Thiên nhiên của nó, rồi cứ theo Luân lý ấy mà làm cho tận lực, thế là làm Đạo Nhân vậy. Hoặc noái cách khác là áp dụng Thiên lý vào đời sống thực tế của người gọi làm Nhân.

Đối ngoại : Vả chăng Nhân là cái tác động của Bổn Tánh Thiên nhiên cho nên Nhân vốn lành, cái lành ấy đối với người và vật ở chung quanh mình thì biết thương xót, ấy vậy nên chữ Nhân luôn luôn có chữ Ái kèm theo, nên gọi là lòng Nhân Ái. Mạnh Tử nói đại khái như vầy : Thoạt nhiên người ta trông thấy đứa bé rơi xuống giếng thì ai ai cũng động lòng thương xót. Sự thương xót ấy là cái tự nhiên của lòng Nhân Ái vậy. Lý thuyết thì đại khái như thế, nhưng về sự làm Nhân thì rộng lắm, vì Đạo Nhân là Đạo người. Đây chúng tôâi nói đại lược thôi.

NGHĨA là gì ? Nghĩa là hành động theo lẽ phải, theo Đạo lý. Đối với bổn thân thì Nghĩa là phương pháp bảo vệ lòng nhân, tức là gìn giữ tâm linh được chánh trực và giúp cho lòng nhân, được tự do phát triển cái lành tự nhiên của nó. Còn đối ngoại thì Nghĩa là cử chỉ hành vi giúp cho lòng nhân ái phát biểu ra ngoài. Tỉ như người ta trông thấy đứa trẻ rơi xuống giếng thì ai ai cũng thương xót và lo cứu vớt. Sự cứu vớt đứa trẻ nạn kia là do lòng thương xót mà làm, chớ chẳng phải cứu vớt đứa trẻ để cầu thân với cha mẹ nó. Vậäy nên nói rằng Nghĩa do lòng nhân mà dấy và cũng vì thế hai chữ Nhân Nghĩa phải đi đôi với nhau thì mới phát biểu được Đạo Đức từ trong ra ngoài.

LỄ là gì ? Chữ Lễ đây đồng với chữ Lý; nếu áp dụng vào sự thực hành đạo Nhân thì Lễ dùng để phân biệt điều thái quá, lẽ bất cập và làm khuôn thước đo lường cử chỉ hành vi. Vả lại, lòng người ta lúc nào cũng muốn sự ăn uống, trai gái và sợ sự tử vong bần khổ, lễ dùng để hạn chế những tình cảm xấu xa làm cho người ta theo được thiên lý.

Lễ còn có một tinh thần nữa là kính. Ban đầu Lễ dùng để tế tự, nghĩa là trong khi tế tự người ta phải giữ lòng kính, để cảm thông với Thần Minh. Về sau, lễ lan rộng ra xã hội thành một khuôn phép trong sựï giao thiệp. Sự tới lui qua lại ở giữa người nầy với kẻ nọ cần phải có Lễ, để phân biệt tôn ti, thượng hạ, hầu giữ vững niềm hòa ái trong gia đình và xã hội. Ở đây Lễ phải có nghi để làm hình thức. Giả tỉ như khi chúng ta gặp người trưởng thượng thì có lòng kính : Ấy là Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, ấy là nghi dùng để phát biểu lòng kính ra bên ngoài cho nên nóùi rằng " Nghi tùy Lễ mà chế ".

TRÍ là gì ? Trí là tâm lực sáng láng, dùng để biết điều lành dữ, lẽ phải quấy. Đức Khổng Phu Tử cho Trí đứng đầu trong việc làm Nhân, vì có biết điều nào lành, điều nào dữ, nhiên hậu sẽ theo đó mà làm, hay tránh, cho nên có câu nói rằng: Trí Nhân Dũng. Tức là Trí đứng đầu trong hai đức Nhân Dũng Mà muốn khai Trí phải làm sao?
     Home                 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét