
QUÂN
THẦN CANG (Giềng mối Vua Tôi) :
Quốc Trưởng là người đứng
đầu trong nước, khôn ngoan hơn Thần dân. Chúng ta miễn nghị luận, mà chỉ bàn về
phận sự làm Quan và làm Dân mà thôi, bởi vì trong anh em chúng ta : có người
làm Quan, mà cũng có kẻ làm Dân.
Bổn phận làm Quan : Quan
là người thay mặt Vua,
thay quyền Chánh Phủ, thực thi Pháp luật, cai trị nhơn
dân, bảo an xã hội. Người có phận sự dạy dân, ăn ở hiền lành, giữ gìn sự an cư
lạc nghiệp cho xã hội.
Muốn làm tròn phận sự ấy,
người làm Quan phải giữ lòng ngay đối với chúa, gìn dạ thẳng đối với dân. Vậy
người làm Quan nên lập đức lành như: Thanh Liêm, chánh trực, cần mẫn, để làm
căn bản cho sự hành động của mình.
THANH LIÊM.- Người Thanh liêm không
tham của hối lộ mà hại dân lành. Chánh phủ tin cậy ta, giao vận mạng dân trong
tay ta, nếu chúng ta ham của bất chánh; làm việc bất công chuyện phải làm quấy,
chuyện quấy làm phải. Gian xảo có thể giấu được Vua, chớ Luật Trời đâu dể che
khuất. Ấy vậy nên người làm Quan, lúc nào cũng phải trau giồi đức thanh liêm cho
được rõ ràng minh bạch để nêu gương lành cho dân bắt chước.
CHÁNH TRỰC. - Đức lớn của người cầm
quyền là : Nhân ái và Công bình; thiếu đức ấy thì chẳng hay làm được việc chung
cho nhơn quần xã hội.
CẦN MẪN. - Cần mẫn là siêng năng, phàm làm việc gì cũng cần
có siêng năng và thi thố cho kịp thời. Việc cần làm hôm nay chẳng khá để ngày
mai, bởi vì mỗi sự kiện có thời trung của nó. Làm kịp thời thì hữu dụng, còn
lỗi thời thì vô ích.
VIẾNG NGƯỜI LÀM QUAN Tôn Thúc Ngao làm quan
Lịnh doãn nước Sở. Khi mới đến thì tất cả nhơn dân ăn mặc chỉnh tề nghinh tiếp,
duy có một ông Lão mặc áo vải đội mũ trắng đến chào.
Tôn Thúc Ngao nghiêm trang
tiếp đón và thưa rằng : "Chúng tôi bất tài nhưng được lịnh vua đến đây trị
dân chắc ông Lão có điều dạy bảo? Ông Lão nói "Có".
Thân đã sang mà khinh
người thì dân không chuộng? Chức đã cao mà chuyên quyền thì vua sanh ghét, lộc
đã hậu mà không biết đủ thì phải gặp tai vạ. Tôn thúc Ngao vừa vái vừa nói :
- Xin kính vâng lời và xin ông dạy thêm cho ít câu.
- Chức cao thì ý càng phải khiêm cung.
- Quan to thì tâm càng phải tế nhị.
- Lộc hậu thì việc làm cần phải thận trọng.
Ông giữ được
ba điều ấy thì đủ trị dân.
Bổn phận làm
Dân : Là một phần tử trong nước, người Công dân phải giữ tròn bổn phận
của mình. Yêu nước nhà, mến giống nòi, thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà, chẳng nên vầy đoàn,
hiệp lũ gây việc trộm cướp, phá xóm, phá làng. Ở trong Quốc gia phải tuân hành
luật nước, ở trong Đạo phải giữ qui điều giới luật của Hội Thánh và phải kiêng
sợ luật Trời báo ứng. Rồi cứ một lòng bảo hộ gia đình, tương thân, tương ái với
người xã hội, góp công vào việc thuần phong, mỹ tục, an cư lạc nghiệp của giống
nòi.
Thử nghĩ mỗi người công
dân không phạm luật nước, không trái Mạng Trời thì gia đình xã hội an hòa thảo
thuận biết bao ?
PHỤ TỬ CANG (Giềng mối Cha con) :
Làm Cha phải lành ( Vi
nhơn phụ chỉ ư từ ).
Làm con phải thảo (Vi nhơn
tử chỉ ư hiếu)
Chữ từ (lành) chỉ về nghĩa
vụ làm cha mẹ, phải nuôi con cho nên vai, nên vóc, dạy con cho nên người hữu
dụng.
Người cha mẹ lành cũng có
khuyên con, răn con, cũng có rầy la, đánh mắng, nghĩa là phải làm thế nào cho
con bỏ cái dở, theo cái hay, chớ chẳng phải lành là chiều theo ý con, muốn làm
gì thì làm. Tại sao người cha không để cho con được tự do hành động? Bởi vì con
còn thơ ấu, trẻ lòng, non dạ. Nói tóm là con chưa đủ sáng láng, để phân biệt
phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn, để vượt qua những giờ vật dục cám dỗ.
Ấy vậy nên người cha mẹ phải dìu dắt con trên đường đạo đức quang minh Gia đình
giáo dục là căn bản Đạo Xử Thế.
Đối với con, cha mẹ cũng
có quyền, nhờ con nuôi dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đỡ việc nặng nề
"Dưỡng nhi đãi lão" (Nuôi con để nhờ lúc về già). Nhưng cha mẹ muốn
dùng quyền hành ấy, trước phải làm xong nghĩa vụ của mình, tức là nuôi con, dạy
con cho nên người. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tròn bổn phận mình, mà cứ sai
con, mắng con và bắt nó phục vụ cho mình như thế là bất công và là thất phận
cha mẹ.
Vi nhơn tử chỉ ư hiếu.
Thảo là Đạo làm con, chẳng những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó
là bổn phận chánh của mình nữa. Cổ nhơn nói : "Nhơn sanh bá hạnh, hiếu vi
tiên". (Người đời có trăm nết, song hiếu đứng đầu).
Tại sao người ta phải hiếu
với cha mẹ?
Ôi ! Công sanh thành dưỡng
dục, kể sao cho hết, nào là mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, ẵm bồng, nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Còn cha lại phải dày công dạy dỗ, cực nhọc,
tảo tần, dẫu trăm cay ngàn đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha cũng không
từ, miễn là làm ra cơm tiền để nuôi con, Công cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ
công cha như thế, hỏi vậy, ở đời có người nào mà chẳng thương mến chăng? Ắt
không; như thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm con bắt buộc người ta phải tròn Đạo
hiếu.
Thực hành Đạo hiếu, trước
nhứt là nuôi cha mẹ. Sự nuôi dưỡng ấy phải hết lòng thành kính, giàu nuôi theo
giàu, nghèo nuôi theo nghèo, ngoài miếng ăn, miếng uống, tấm ảo, manh quần, còn
phải hết lòng vui vẻ trong phận sự, làm cho cha mẹ vui lòng. Một hôm Thầy Tử Du
hỏi chữ hiếu, Đức Khổng Phu Tử đáp: "Ngày
nay, người ta bảo chữ hiếu là biết nuôi cha mẹ, nhưng xét kỹ lại thì giống chó
ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà không kính, thì lấy gì để phân
biệt với sự nuôi cầm thú". Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quý tại lòng thành
kính. Chẳng nên bắt chước câu: "Giàu
thì đặng thảo ngay, nghèo thì mất trung hiếu". Lời nói ấy chẳng qua là
nói để chữa lỗi mà thôi. Trái lại nên nhớ cậu: "Nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới rõ trung thần".
Từ xưa những gương trung hiếu, tiết liệt, phần nhiều xuất hiện trong nhà nghèo
khó.
Khi ở chung với cha mẹ,
không nên làm buồn lòng cha mẹ, nếu mình có việc buồn riêng, cũng chẵng nên tỏ
sắc giận hờn cho cha mẹ thấy. Khi cha mẹ quở trách thì phải tự xét mình mà chừa
lỗi, chớ chẳng khá buồn phiền.
Cha mẹ già phải coi chừng
đến chỗ không nói. Tại sao? Bởi vì có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng
tỏ ra hết lời. Sau đây là một gương thờ Mẹ của người xưa.
Một hôm, Bá Du bị mẹ đánh
đòn, ngồi khóc mãi mà không thôi. Mẹ hỏi:
- Mọi khi mẹ đánh con thì
con biết lỗi mà cam chịu, có sao, lần nầy con khóc dai như thế? Thưa mẹ: Mọi
khi, mẹ đánh, con thấy đau; ấy là con biết mẹ còn sức khoẻ. Lần nầy mẹ đánh,
con không thấy đau lắm. Thế là con biết mẹ đã yếu mà con khóc. (Cổ Học Tinh
Hoa).
Lành thay! Bá Du biết lo
cho sức khoẻ của mẹ.
Cha mẹ lúc sanh tiền con
chẳng nên đi xa, nếu cần đi vắng thì phải cho biết chỗ, để người nhà
tìm cho dễ, khi hữu sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận tâm chạy thuốc, chạy
thầy, chính mình nên lo liệu mọi phương; nếu giao cho kẻ khác biết đâu người ấy vì sơ sót, làm thêm
bịnh cho cha mẹ mình. Bình nhựt cũng phải xem chừng : Nếu cha mẹ khoẻ
thì vui mừng, mệt thì lo lắng (xem gương Bá Du thờ mẹ đã nói trên).
Lòng hiếu
thảo sẵn có trong lòng người; nhưng, có một đôi kẻ xao lảng là vì mê sắc
dục, hoặc ham tiền của. Vậy ai là kẻ làm con nên thận trọng bổn phận của mình.
Đạo hiếu
không bắt buộc chúng ta phải nhắm mắt tuân lời, mà trái lại, phải kiểm điểm
việc cha mẹ đã làm : Nếu hay thì hết lòng theo, còn lầm lạc thì nên khuyên can
với một cử chỉ kính mến.
Đức KHỔNG
PHU TỬ dạy rằng :
" Sự phụ mẫu cơ gián
Kiến chi bất tùng
Hựu kỉnh bất đi
Lao nhi bất oán".
Nghĩa là
cách thờ cha mẹ : Nếu thấy cha mẹ lầm lạc thì nên khuyên can (1) với lời lẻ ôn
nhu, lễ phép. Nếu thấy cha mẹ không theo lời khuyên can thì con vẫn giữ lòng
kính mến vàkhông trái nghịch. Như cha mẹ sai làm việc khó nhọc cũng chẳng khá phiền
hà.
(1) LỜI CON CAN CHA : Điền Văn thấy cha là
Điền Anh làm quan mà hay vụ lợi riêng. Một hôm, thừa nhàn hỏi cha rằng :
- Thưa cha : "Con của đứa con gọi là gì?
- Gọi là cháu.
- Con của đứa cháu gọi là gì?
- Gọi là chắt.
- Con của đứa chắt gọi là gì?
- Ai biết gọi là chi.
Thưa cha: Cha làm tướng nước Tề đã ba đời vua, giàu có hằng ức vạn nhưng kẻ Môn hạ
chẳng có một người gọi là Hiền-tài.
Con trộm nghe : Nhà quan
ắt có tướng giỏi, các quan văn ắt có quan văn hay. Cha mặc áo gấm mà người giỏi
trong nước vẫn rách rưới. Tôi tớ thừa ăn mà người giỏi trong nước vẫn đói khát.
Cha quên tất cả việc công ích của dân của nước, chỉ lo súc tích của cải để dành
cho những kẻ sau mà không biết gọi tên là gì. Thế thật lạ quá? Lời khuyên của
Điền Văn không thất lễ, mà người cha theo. (Trích Cổ học Tinh hoa quyển II)
Cha mẹ mất thì phải tận
tâm đoái hiếu. Cổ nhơn bảo: " Tang
tắc trí kỳ ai ": Việc tang chế phải hết lòng thương xót.
Tân Luật Đại Đạo định rằng
: Việc tang chế không nên xa xí; không nên quàng Linh cữu lâu ngày, không nên
dùng Âm công lòe loẹt, không nên đãi đằng rần rộ mà mất vẻ nghiêm tịnh, ai bi.
Đức KHỔNG PHU TỬ cho sự thờ cha mẹ rất
hiếu là :
" Kính kỳ sở tôn
Ái kỳ sở thân
Sự tử như sự sanh
Sự vong như sự tồn
Hiếu chi thủy dã ".
Nghĩa là : Kính người mà
cha mẹ đã trọng, yêu người mà cha mẹ đã mến, thờ cha mẹ khi chết cũng như lúc
sống, mất cũng như còn. Ấy là hiếu ban đầu vậy.
Đại ý nói rằng khi Cha mẹ
sanh tiền thì con tôn kính cử chỉ hành vi, mãi đến khi cha mẹ thác rồi, con
cũng cứ tôn kính như cha mẹ còn sống. Chuyên tâm, trì chí thực thi Đạo hiếu
thủy chung như nhứt.
Bổn phận Làm Anh Chị và Em:
"Huynh tắc Đễ, Đệ tắc cung".
Anh em, chị em đồng thọ sanh nơi một cha mẹ; tục ngữ nói :
"Một cục máu xắn làm năm ba" đồng cốt nhục,
đồng bào thai, từ lúc nhỏ dại, ở chung một nhà, ăn chung một mâm, nằm chung một
chiếu, vui có nhau, buồn có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng. Vậy tình thương yêu
ở giữa anh em, chị em không tình nào khắn khít ruột thịt bằng tình ấy.
Muốn bảo tồn cái tình máu
mủ ấy mãi mãi thì người anh chị phải biết bổn phận mình là thương yêu, đùm bọc,
che chở, kẻ làm em phải biết bổn phận mình là cung kính, thuận tùng.
Khi cha mẹ vắng mặt anh
chị phải quyền huynh thế phụ: dạy dỗ, khuyên răn, gìn giữ em trong mọi cử chỉ,
hành vi. Mà muốn dùng quyền người anh chị phải làm xong nghĩa vụ của mình là
nuôi dưỡng dạy dỗ. Cổ nhơn thường khuyên nhau rằng: Trước làm xong bổn phận rồi
sau sẽ dùng quyền lợi.
Theo lẽ thường, lúc thành
nhơn, mỗi người đều có gia tư. Mặc đầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị em lúc
nào cũng phải gìn giữ cái tình cốt nhục của mình, nghĩa là luôn luôn hoài bảo
tình thương mến, giúp đỡ, việc lớn cũng như việc nhỏ. Mà muốn giữ vẹn sự thân
mật thì không nên cố chấp những tiếng to, tiếng nhỏ của người chung quanh.
Bổn phận của mình phải
sáng suốt phân định lẽ phải quấy ở giữa em chồng, chị dâøu, em rể, anh vợ. Có
lắm khi việc nhỏ mọn mà có thể làm sứt mẻ tình ruột thịt, anh em, chị em là cái
di hài của cha mẹ, bất hòa là phá hại cái di hài ấy. Anh em, chị em như tay
chơn, bất hòa là đoạn ly thủ túc.
Người nào xử Đạo Hiếu đễ
nghiêm trang trong gia đình thì người ấy có tinh thần hòa ái. Hiếu thuận là gốc
Đạo sử thế; người trọn thảo thuận thì có lòng trung quân, ái chủng.
Bổn phận cháu đối với Ông
Bà : Ông Bà là đấng sanh thành dưỡng dục mẹ cha, lại là đấng mà cha mẹ kính
trọng, thương mến. Đạo hiếu bắt buộc kẻ làm con phải kính trọng những người mà
cha mẹ đã thâm giao. Thử nghĩ: Người bàng quan còn phải xử trí như thế, huống
chi ông bà là ruột thịt của cha mẹ mà chúng ta không tôn kính sao?
Ấy vậy, khi ông bà sanh
tiền, chúng ta phải thay mặt cha mẹ mà trông nom, giúp đỡ những việc mà chúng
ta có thể làm được và khi ông bà quá vãng thì phải thay thế cha mẹ mà phượng
thờ cúng tế.
Luân lý cổ truyền của
người Việt Nam dạy rằng: Ngày tế lễ, cả gia tộc hợp về nhà thờ, lo việc tế lễ
hai ngày: Tiên thườûng và Chánh giỗ. Những người họ hàng sum hiệp, vui vầy. Có
khi nhắc lại sự tích Tổ tiên, có lúc thăm hỏi việc hàn huyên gia sự. Giờ cúng
tế, người người có lòng thành kính. Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ, họ
cúi đầu tỏ vẻ kính trọng dường như ông bà đang ngự trên cho sở tôn. Giờ tế lễ,
hoàn cảùnh yên lặng, tôn nghiêm, người trưởng tôïc hành lễ rồi con cháu cứ theo
thứ tự vái lạy trang nghiêm.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giữ
nguyên vẹn lễ thờ cúng Tổ tiên. Vả lại, Đạo hữu đã khai mở Đạo tâm nay đem Đạo
tâm ấy mà sùng bái Tổ tiên thì có lẽ phong tục cổ truyền sẽ được tăng phần
thuần mỹ thêm hơn.
Bổn phận đối vói Cậu, Cô,
Chú, Bác : Cậu, cô, chú, bác là anh em ruột thịt của cha mẹ, kẻ làm con chẳng
những phải thân yêu mà còn phải kính trọng như cha mẹ nữa. Nếu vô phước mà mồ
côi, chính cậu, cô, chú, bác, là người thay mặt mẹ cha mà dưỡng dục con cháu.
Vậy kẻ con cháu không vì lẽ gì mà không thân yêu quý mến.
Khi thành gia thất, tất
nhiên bên chồng cũng như bên vợ, ai ai cũng có cậu cô chú bác. Kẻ làm con cháu
cũng phải quý mến các Đấng ấy.
PHU THÊ CANG (Giềng mối vợ chồng)
chồng hòa, vợ thuận.
Trai lớn lên thì có vợ.
Gái lớn lên thì có chồng. Người ở đời ai ai cũng có đôi bạn, rồi sau mới lập
được gia đình. Cái định luật ấy, từ xưa đến nay, vẫn không thay đổi. Trong Đạo
vợ chồng có điều tốt nhất là hai người ấy được thuận hòa, ăn ở với nhau từ tóc
xanh, đến đầu bạc. Mà muốn được vậy thì mỗi người phải biết bổn phận của mình
và phải hành động trong phạm vi ấy.
Chồng là rường cột của gia
đình, phải đảm đương mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh phúc cho gia đình, nghĩa
là phải làm lụng cho có cơm, tiền để nuôi dưỡng gia đình no-ấm, kế nữa, sẽ nói
đến giáo hóa.
" Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài ": Dạy vợ lúc mới
về nhà chồng, dạy con lúc còn thơ ấu. Mà muốn dạy người, trước phải sửa mình
đoan trang, ngay chánh.
Nói tỉ : Người chồng biếng
nhác, không lo sanh kế, quanh năm lêu lỏng bạc bài. Chồng như thế mà bảo vợ nên
người sao được? Hoặc giả, cha dường ấy mà bảo con hiếu thuận sao được?
Người chồng, người cha,
không phải lo làm lụng nuôi dưỡng gia đình mà còn phải làm gương Đạo đức cho vợ
con nữa. Dục tế kỳ gia, tiên tu kỳ thân, là lẽ như vậy.
Nên biết rằng vợ là bạn
trăm năm của mình. Đàn bà là người yếu đuối, nương dựa nơi mình, gởi thân cho
mình, để cùng nhau lo việc gia thất. Hơn nữa, vợ chồng là người đầu ấp, tay gối
với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu chung hưởng.
Lòng có nghĩ như thế thì mới có dạ yêu đương, dùm học.
Người chồng có quyền
khuyên lơn, dứt bẩn người vợ, nhưng trước phải làm xong nghĩa vụ của mình, như
đã nói trên, rồi sau mới dùng đến quyền. Tuy nói rằng có quyền, nhưng người
chồng lúc nào, cũng lấy tinh thần hòa ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dứt
bẩn người vợ thì cũng chi trong vòng lễ nghi kính mến; chờ chẳng khá đang tay
đánh đập, như kẻ vòng lễ nghi kính mến; chớ chẳng khá đang tay đánh đập, như kẻ
võ phu.
Người vợ phải có tinh thần
thuận tùng, nghĩa là phải biết dung hòa với chồng, để tạo hạnh phúc gia đình.
Bát trong sóng còn động, huống chi vợ chồng ăn ở với nhau cả đời, vậy làm thế
nào tránh khỏi một đôi khi bất đồng ý kiến. Giả tỉ như Có trường hợp ấy xảy ra
thì vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói vợ nghe, vợ nói chồng nghe, phân
trần điều hơn, lẽ thiệt. Tương y, tương ỷ để hòa thuận trong vòng lễ nghi Đạo
đức; điều đó là tốt nhứt; chẳûng nên bắt chước phường hổn ẩu chồng một lời đi,
vợ năm bảy tiếng lại. Thế rồi sanh việc bất hòa; mà chồng vợ bất hòa thì gia
đình tan nát.
Phận gái trọng nhứt là
trinh tiết; bởi vậy người phụ nữ có thân phải giữ lấy thân; mỗi ngày phải làm
tăng giá trị của mình thêm cao lên mãi. Tục ngữ nói : "Đi ngang đám dưa
không nên sửa dép : Đi ngang cây lý không nên sửa mũ". Đại ý câu nầy
khuyên nguời ta phải hành vi, ăn nói, đi đứng trang hoàng nhứt là phải tránh
những cử chỉ nào làm cho người khác ngờ vực, cũng như đi ngang đám dưa thì
không nên sửa dép, hoặc đi ngang cây lý thì không nên sửa mũ, vì làm như thế,
người ta sẽ ngờ rằng mình bẻ trộm dưa, hay hái trộm lý.
Tề gia nội trợ là phận sự
của người phụ nữ; cho nên người vợ phải chăm nom việc nhà: Thiếu đủ phải biết,
còn hết phải hay, sắp đặt an bài mọi sự, ăn cần, ở kiệm phải trọng tiền của
chồng làm ra. Ăn nhịn qua ngày, ăn vay mắc nợ. Của chồng công vợ, chồng vợ
chung lo tạo hạnh phúc gia đình (1).
Tóm lại: Đạo vợ chồng cần
nhứt là thuận hòa, chồng chẳng nên ỷ quyền hiếp đáp vợ, vợ không nên cậy thế
hổn ẩu với chồng. Đồng vợ, đồng chồng tát biển đông cũng cạn.
Tân luật Đại Đạo nói: " Hôn nhơn là việc trọng trong đời
người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo, trừ ra, khi nào người ngoài ưng
thuận nhập môn thì mới được kết làm giai ngẫu ".
Đó là có ý ngừa sự bất
đồng tâm lý về sau.
Tân luật lại cấm người đàn
ông không đặng cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ nửa đường, mới được chấp nối
thảng như vợ lớn không con nối hậu thì được phép cưới hầu thiếp; song chính
mình chánh thê đứng cưới mới đặng. Người Đạo cũng chẳng được để bỏ nhau, trừ ra
ngoại tình, hay thất hiếu với công cô.
(1) NGƯỜI VỢ
HIỀN MINH
Dương Tử, một hôm đi đường
gặp một lọ vàng mừng rở đem về đưa cho vợ. Người vợ nói rằng : Thiếp trộm nghe:
Người chí sĩ không uống nước suối Đạo toàn (suối ăn trộm), người Liêm khiết
không ăn của xin. Chàng nay lượm của rơi ngoài đường, đem về cầu lợi, làm ô uế
phẩm hạnh thì nghĩ có nên chăng? Dương Tử thẹn lắm, liền đem lọ vàng bỏ ngoài
đồng, rồi đi tìm thầy học. Học được một năm, Dương Tử trở về nhà, người vợï quì
xuống trước mặt hỏi:
- Chàng có việc gì mà trở
về?
- Ta đi lâu ngày nhớ nhà
mà về.
- Người vợ cầm dao đến chỗ
Khung Cửi nói rằng :
- Lụa đang dệt đây, phải
làm từ lúc nuôi tầm ươmtơ, cho đến lúc mắc lên Khung Cửi. Nếu đành dứt một sợi
và dứt nữa thì sẽ dứt đến hàng tấc, hàng thước, hàng trượng, hàng cả tấm. Nếu
bây giờ, thiếp chặt đoạn đang dệt đây thì bao nhiêu công từ trước đều mất cả.
Chàng đi học để trở thành người giỏi, nếu đang học mà bỏ về thì khác gì tấm lụa
đang dệt đây mà chặt đi.
Dương Tử cảm động lắm, bèn
đi học luôn-bảy năm, đến tốt nghiệp mới về vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn, vừa nuôi
mẹ chồng vừa nuôi chồng ăn học. Cổ học Tinh hoa quyền II.
b) NGŨ THƯỜNG (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín)
NHÂN :
Người ta ai cũng có bẩm
thọ của Đức CHÍ TÔN một điểm Linh quang, để làm tự tánh của mình. Cổ nhân cho
Tánh ấy là Mạng Trời, hay Thiên lý. Mạng Trời thì lặng lẽ, trầm mặc ở trong cõi
lòng thanh tịnh; nhưng khi phát động trúng tiết thì đó là "NHÂN". Bởi Thiên lý phát động là "NHÂN" cho nên đức "NHÂN"
gồm đủ tất cả tánh tốt, hạnh-lành như trung, hiếu, tiết nghĩa, cung, khoan,
mẫn, huệ, cương, nghị, mộc, nột. Người nào giữ được đức "NHÂN" và thể hiện đức "Nhân" khi xử sự, tiếp vật thì đó là làm xong đạo làm
người (Nhân giả, nhơn dã). Đức KHỔNG PHU TỬ nói rằng: "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân". Nghĩa là ngừơi
Quân tử lấy đức "NHÂN" làm
thể thì đủ làm trưởng thành mình.
Người có "NHÂN" lúc nào cũng an vui,
ung dung, tự tại, bình tỉnh, trầm lặng, mà luôn luôn trong lòng sẵn có một cái
khiếu "Trực giác" mẫn huệ. Việc đến, họ biết với một cách mau chóng
toàn diện. Họ làm việc cũng thích hợp Đạo lý, họ thật thà, chất phác, nhưng
giàu tình cảm tốt lành. Đối với gia đình họ hiếu đễ, đối với xã hội, họ thuận
hòa, đối với vật, họ thương yêu giúp đỡ, làm cho vạn vật tất đắc kỳ sở. Việc lợi
danh ở đời, họ không lánh hẳn, nhưng, chẳng bỏ đạo đức để cầu lợi danh. Đạo đức
với lợi danh, nếu phải bỏ một thì họ vui lòng bỏ lợi danh, cầu Đạo đức.
Trương hoành Cừ là người
Trung Hoa sanh vào khoảng (1020-1076) cho rằng : Lòng Nhân ái phải có thứ bậc;
ông nói :
- Tôn ngươi già cả là sở
dĩ tỏ lòng kính trọng kẻ tôn trưởng, yêu thương trẻ dại là sở dĩ tỏ lòng bênh
vực kẻ yếu hèn, tôn người có đức độ hợp với lẽ Trời đất là bậc Thánh và kẻ có
đức độ hơn người là bậc Hiền. Còn những người tàn tật, quan quả, cô độc, đều là
anh em với ta cả. Như thế, tuy người ta có tôn ti khác nhau, nhưng ai ai cũng
phải đem lòng thương xót để cư xử với nhau, như anh em một nhà. (Nho giáo TRẦN
TRỌNG KIM)
Đại ý câu nầy nói lên được
Đức "Nhân" là tình thương
yêu có thứ bực, nhưng phải trùm cả vạn vật, vì Đức Nhân là phản ảnh đức Hóa
sanh của THƯỢNG-ĐẾ.
Thực hành đạo "Nhân" cũng cần có học hỏi,
bởi vì có Trí sáng mới có thể phân biệt được thiện ác, phải quấy. Tử Hạ nói
rằng :
" Bác học nhi đốc chi;
Thiết vấn nhi cận tư.
Nhân tại kỳ trung".
Nghĩa là : Sự học-hỏi phải
rộng rãi; chí hướng phải dày dặn, sự hỏi han cần thiết; sự suy nghĩ phải có
dính dấp với mình. Trong những việc ấy hẳn có hàm súc đức "Nhân" vậy.
Thế đủ rõ rằng đạo "Nhân" cần có Trí để phân biệt
phải quấy, để thương yêu và giúp đỡ cho phải chỗ và đúng mức. Đó là mối đầu mà
Cổ nhân nương theo để thành lập cái thuyết "Tam Đạt Đức" (Nhân Trí
Dũng).
Đức KHỔNG PHU TỬ nói:
"Nhân giả nhạo sơn;
Nhân giả tịnh."
Nghĩa là người "Nhân" thích núi; người "Nhân" tịnh tâm.
Nhờ an tịnh mà người "Nhân" giữ được Thiên lý lưu
hành trong tâm để chủ tể cho đời sống của phàm thân.
Đức "Nhân" chẳng phải hàm súc đủ mọi hạnh lành, đức tốt, mà
là cái phản ảnh Đức Háo sanh của Thượng Đế nữa. Về phương diện nầy "Nhân" khởi đầu tại lòng
thương xót (Trắc ẩn chi tâm), và người ta thường dùng chữ "Ái" kèm theo chữ "Nhân"
để cắt nghĩa sự thương yêu. Xem câu:
" Đệ tử nhập tắc hiếu
Xuất tắc đễ
Cẩn nhi tín
Phiếm ái chúng
Nhi thân Nhân".
Nghĩa là kẻ đệ tử vào thì
hiếu với cha mẹ, ra thì kính người trên trước, làm việc thì cẩn mật, rộng
thương người và năng lui tới với người Nhân đức.
Chữ "Nhân" người xưa cắt nghĩa rằng : "Nhân" gồm có một chữ "Nhơn"
là người, Một chữ "Nhị" là
hai. Đại ý Nhân là tình cảm ở giữa hai người.
Nói tỉ như tình thương
thiêng liêng ở giữa người mẹ và đứa con.
Hoặc giả tình thương ỡ
giữa hai người chồng và vợ. Người chồng hi sinh tất cả cái gì của mình cho vợ.
Trái lại, người vợ cũng hi sinh như vậy cho chồng.
Nên lưu ý rằng tình thương
ở giữa hai người phải nhắm vào sự "vị tha", nghĩa là vì người mà
thương. Trái lại, nếu thương người để cầu lợi mình thì sự thương ấy không phải
là "Nhân".
" Chim khôn biết kiếm đậu cây lành
Người thiện phải ngừa đức Háo sanh
Tôn trọng người như Trời với Phật
Thương yêu tất cả chúng sanh thành". (THÁNH NGÔN)
Phương pháp thực hành: Có
người hỏi phương thức làm Nhân. Đức KHỔNG PHU TỬ nói: "Kỷ dục lập nhi lập nhơn; kỷ dục đạti đạt nhơn.
Năng cận thủ tỷ khả vị Nhân chi phương". Nghĩa là mình muốn lập thân
thế nào thì cũng giúp người cùng lập thân như mình: Mình muốn thông đạt đến đâu
thì cũng giúp người cùng thông đạt như mình. Ai hay làm những điều đó là làm "Nhân" vậy.
Thầy TỬ TRƯƠNG hỏi "Nhân", Đức KHỔNG PHU TỬ nói: "Hãy là năm điều nầy trong thiên hạ là
"Nhân" rằng : Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung thì không khinh lờn,
Khoan thì được lòng người, Tính thì được người tin cậy, Mẫn thì có công, Huệ ơn
thì đủ khiến được người".
Nhan Hồi hỏi Nhân, Đức
KHỔNG PHU TỬ nói rằng : "Khắc kỷ
phục lễ vi Nhân". Sửa mình theo lễ là "Nhân" tức bỏ hết lòng tư dục để hành động theo Thiên lý.
Phàn Trì hỏi "Nhân" Đức KHỔNG PHU TỬ nói
rằng: "Ái nhơn": Thương
người.
Sách Luận Ngữ chép rằng
Đức KHỔNG PHU TỬ trả lời cho mỗi người một khác; ấy là Ngài tùy chỗ thiếu của
kẻ học để bổ khuyết.
Đức "Nhân" sẳn có ở nơi người tại sao lại có người không làm
được?
Đó là tại sự ghét thắng
đức "Nhân", rồi ghét chiếm
ngôi chủ tể phàm thân mà ra nông nổi. Giả tỉ khi cha con ghét nhau thì mất từ
hiếu, chồng vợ ghét nhau thì mất thuận hòa, anh em ghét nhau thì mất kính
nhường, người trong thiên hạ ghét nhau thì mạnh hiếp yếu.
Vả lại, lòng người không
bao giờ có hai tình cảm một lượt. Hễ có ghét thì không thương; hoặc có thương
thì không ghét. Ấy vậy nên chúng ta cứ mở rộng lòng thương thì tự nhiên lòng
ghét không xen vào được, cũng như có hòa bình thì không chiến tranh vậy.
Đức Khổng Phu Tử lấy đạo "Nhân" làm căn bản cho đạo
người, rồi tùy tình cảm mà ứng và cứ ung dung theo Thiên lý mà hành động, chớ
không cố chấp điều gì. Thế nên đứng vào cảnh ngộ nào cũng an vui; chớ không làm
mất tư cách người Quân tử.
NGHĨA :
Về tâm học "Nghĩa" là phương pháp giúp
cho kẻ học thành đức. Về tâm học "Nghĩa"
là phương pháp giúp cho kẻ học thành đức. Về Luân Lý học, "Nghĩa" là lẽ phải giúp cho kẻ học hoàn thành bổn phận
làm người, hoặc nói cách khác "Nghĩa"
cụ thể hóa lòng Nhân thành Đạo đức. Ở đây, hai chữ "Nhân" và "Nghĩa"
phải đi đôøi với nhau. Trái lại nếu có Nhân mà không có "Nghĩa" thì Đạo đức thiếu hình thức; còn như có "Nghĩa" mà không có Nhân thì
Đạo đức thiếu tinh thần.
Giả tỉ : Chúng ta có lòng
thương người lâm nạn, nhưng không ra công, hoặc ra của, để cứu giúp thì lòng
thương không thể hiện. Ngược lại, nếu ra công, ra của để tế độ mà chẳng có lòng
thương thì đó là một ý khác chớ không phải Nhân.
LỄ :
Lễ trước dùng để tế tự,
sau lan rộng đến nề nếp xử sự, tiếp vật mà Nhân quần Xã hội thừa nhận. Chữ
"Lễ" lại đồng thể với chữ Lý; cho nên nó phải tùy thời mà biến đổi,
càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng khá cố chấp mà phải sa vào cái vạ hủ lậu.
Về phương diện tế tự, Lễ
có mục phiêu thứ nhất là làm cho đàn tế được trang nghiêm; mucï phiêu thứ nhì
là đào tạo cho con người một tâm lý Kính và Thành. Có Kinh thì mới giữ được bản
tánh của mình, có Thành mới cảm ứng được với Trời. Đó là Lễ giúp người tồn
dưỡng Tâm tánh.
Theo sách Lễ Ký: Lòng người
ta lúc nào cũng có muốn sự ăn uống, sự trai gái và sợ cái nạn tử vong, bần khổ.
Nếu người ta không nghĩ lại thì Thiên lý sẽ bị tiêu diệt. "Lễ" giúp người ta giữ vẹn Thiên lý.
Nói lễ giữ "Lễ" thì khi đi, đừng, nằm,
ngồi lúc nào cũng chẳng khá dể duôi. Ở thường thì Cung, làm việc thì Kính, giao
thiệp thì hết lòng. Ba điều ấy, dầu ở chung với kẻ mọi-rợ, cũng chẳng khá quên.
Ra khỏi cửa thì Kính, như hầu khách quý; sai khiến kẻ dưới thì Kính như thừa
hành lịnh trên; nhứt cử, nhứt động, đều có "Lễ",
đó là người lịch sự. Hành vi, lời nói và tư-tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là
người có tiết.
Trên đường giao tế,
"Lễ" phải có Nghi làm hình-thức. Giả tỉ như chúng ta gặp người trưởng
thượng, thì chúng ta đem lòng Kính, đó thuộc về Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi
chào, tỏ lòng kính ra ngoài, đó thuộc về Nghi. Thế nên nói : Nghi tùy "Lễ" mà chế. Hai chữ "Lễ Nghi" thiếu một thì không
thành qui tắc. Giả tỉ như Chúng ta có Kính trong lòng, mà không nghiêng cái mũ
cúi chào, thì lòng cung kính không chỗ nương, để phát biểu. Trái lại, trong
lòng không Kính mà bên ngoài làm ra vẻ cúi chào. Nghi không lễ thì đó chỉ là
hinh thức khô khan mà thôi.
Lễ nghi dùng để phân-định
ngôi thư ù: Tôn ti, thượng hạ. Giả tỉ trong đám hội đàm; người lớn cứ sỗ sàng
ăn nói, sỗ sàng hành động, kẻ nhỏ thì hổn ẩu không kính nể người lớn. Thế thì
làm sao mà hiệp nhau cho được, cho nên nói rằng: thất "Lễ" thì loạn.
Học "Lễ" không phải khó khăn, như có người lầm tưởng. Bởi vì "Lễ" thuận lông người mà dấy:
chớ không phải cưởng bách. Cổ nhơn thường khuyên nhau: Trước học Lễ rồi sau mới
học văn, tức là học Đạo lý rồi sau sẽ học các môn khác. Luật dùng để răn người
phạm tội. Lễ để ngăn tình cảm xấu, thế mà người ta sợ Luật, hơn sợ "Lễ"; đó là tại Luật đó hậu
thuẫn hình phạt.
Hành vi, lời nói và tư tưởng
mỗi mỗi đề thích Trung, ấy là người có tiết độ. Tiết độ là mực thước của người,
cũng như nhịp trường canh là mực thước của Âm nhạc. Lễ định nên tiết độ ấy.
Nói rút lại : "Lễ" là mực thước để đo lường
tư tưởng, lời nói và hành vi trong khi xử kỷ, tiếp vật. Đức LÃO TỬ nói rằn :
Nếu thất Đạo thì nên theo Đức, nếu thất Đức thì nên theo Nhân, nếu thất Nhân
thì nên theo Nghĩa, nếu thất Nghĩa thì nên theo Lễ. Vậy chúng ta có thể nói
rằng kẻ học nên theo Lễ để trở về với Nghĩa, nên theo Nghĩa để trở về với Nhơn,
nên theo Nhơn để trở về với Đức và nên theo Đức để trở về với Đạo.
TRÍ :
Trí là năng lực hay biết.
Người ta nhờ Trí để biết phân biệt phải quấy, lành dử. Người Trí biết Đạo Đức
và lần hồi hoán cải việc dở thành hay, điều ác thành điều thiện và mỗi ngày mỗi
làm cho mình được tăng thêm phẩm hạnh.
Muốn thành người Trí,
chúng ta phải học hành. Theo Nho giáo, kẻ học phải làm năm việc: Học, vấn, tư,
biện, và hành.
Học: Lấy sự tìm kiếm làm
cho giỏi mọi việc gọi là Học.
Vấn: Lấy sự tìm kiếm giải
thích cho rõ ngờ vực gọi là Vấn.
Tư: Lấy sự tìm kiếm làm
cho thông suốt mọi lý thuyết gọi là Tư.
Biện: Lấy sự tìm kiếm làm
cho tinh tường lẽ suy xét để rồi giảng lại cho rõ gọi là Biện.
Hành: Lấy sự tìm kiếm hiểu
biết làm ra sự kiện gọi là Hành.
Học hành phải đi đôi thì
cái biết mới được cụ thể. Nói tỉ : Chúng ta biết thờ Trời là một việc rất hữu
ích: Nhưng biết thờ Trời chưa đủ, thành thử chúng ta phải tế lễ Đức CHÍ TÔN
hằng ngày, để tập cho mình có lòng thành kính. Lòng thành kính tức là Chơn tâm,
nó sẽ giúp chúng ta trừ khử Vọng tâm và cảm thông với Thiên lý. Thờ Trời, tế
Trời là một phương pháp làm sáng đức sáng của mình.
Thầy Tuân Tử nói: Chẳng
nghe không bằng có nghe, có nghe không bằng trông thấy, trông thấy không bằng
biết rõ, biết rõ không bằng làm được. Học để biết, biết để làm. Thế là cái đức
sáng của mình càng ngày càng sáng suốt thêm lên.
Sự học có nhiều lối : Học
với kinh nghiệm và học với Trí nghĩ. Ví dụ : Chúng ta chưa biết lửa có tánh
nóng. Nay vì có một duyên cớ gì, chúng ta chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay. Thế
là chúng ta nhờ bài học kinh nghiệm, để biết lửa có tánh nóng.
Đời người là một cuộc học.
Nếu chúng ta rủi bị phiền não vì một việc gì, thì chúng ta chẳng khá trách
Trời, chẳng khá trách người, chẳng khá trách vật; mà trái lại, phải tự xét mình
tìm cho ra cái nguyên nhân nào làm cho chúng ta phải phiền não. Phải chăng :
Tại không biết, tại trễ nải, tại tức giận? Khi đã thấy nguyên nhân tạo ra phiền
não rồi, chúng ta nên tìm phương giải quyết, để cho cách xử sự lần sau được khá
hơn.
Trí người là một trường
hành động. Khoa học ngày nay, nhờ Trí mà phát minh biết bao nhiêu cơ khí kỳ
xảo. Chúng ta nên dùng Trí của mình để tìm biết đời sống của mình : Đại để như
nhìn ra Vũ Trụ bao la, biết bao nhiêu Thế giới vận chuyển không ngừng, lại nhìn
đến vạn vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận người ta ở đời :
Sống như vậy rồi chết ra sao? Và còn biết bao nhiêu những việc huyền bí trong
Vũ Trụ mà chúng ta chứa biết được. Vậy chúng ta nên ghi những vấn đề ấy, để rồi
suy nghĩ khám phá sự liên lạc của người với Trời, người với người và người với
vật. Một khi chúng ta khám phá những lẽ bí mật của Tạo vật rồi, ắt chúng ta sẽ
giải quyết được đời sống của chúng ta với một cách ứng đáng. Theo lý đương
nhiên, đời sống chẳng phải tìm nơi sự lý nhỏ mọn trong vòng vật dục, mà phải
vượt ra ngoài, để rồi sống với Đạo, sống với Thượng Đế và sống với Chúng Sanh.
Mục đích của người Trí là
biết Đạo, thế nên kẻ học phải chuyên tâm trì chí. Cách học phải mở cho rộng,
hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rõ và hết sức làm theo để thành toàn
cái biết của mình. Mỗi ngày phải xét mình và bền lòng tự xét tự tỉnh mãi cho
đến một ngày kia, chúng ta sẽ có tâm trọn lành.
Trí đã phát khởi, thấu
hiểu Chơn lý Thiện ác và biết giới hạn của tình dục rồi. Lúc bấy giờ, chúng ta
ung dung thông cảm với Thiên lý mà sống với một thái độ thuận hòa, bình tỉnh
theo Đạo tự nhiên.
TÍN :
Tín là tin. Thủ tín là
điều quý trọng của người, nhứt là kẻ tu hành. Lời nói của mình thốt ra phải
trọng nó: Nói ra rồi phải nhìn nhận, nếu nói không chắc một lần, về sau mặc dầu
chúng ta nói thiệt, người ta cũng không tin. "Nhơn vô tín bất lập": Người không đặng tín nhiệm thì
chẳng làm nên được.
Đối với mình lại càng phải
thủ tín hơn nữa. Chúng tôi xin nhắc câu sách Đại Học nói rằng: " Sở vị thành kỳ ý giả vô tự khi
dã". Nghĩa là: Cái chổ gọi là sửa ý ra thành thật, cốt yếu ở chỗ mình
chẳng tự dối. Đại để nói rằng nếu người ta tự dối mình thì mình không làm nên
được.
Ví dụ : Chúng ta hứa với
mình "Học cho giỏi" thế mà
rồi ít lâu lại quên mất, không làm được như lời hứa. Đó là tại sao? Tại mình tự
dối mình. Mà kẻ tự dối mình tức là dối Lương tâm; mà dối Lương tâm là dối Trời.
Thử hỏi: Trời có nên dối chăng?
Những kẻ bội ước, bất
trung, nói rồi chối, hoặc điên đảo xảo ngôn, là kẻ xúc phạm đến thần minh. Kẻ
ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất lòng tín nhiệm của người lại mất lòng tự tín
của mình, kẻ ấy thành ra một nhân vật khả ố. Nó hảm mình vào nơi hốn nạn. Kẻ
học đạo phải tự mình bó buộc mình; nói thiệt và thủ tín, vì khoản này rất khó
dung chế.
Tóm lại Ngũ thường là năm
mối hằng tâm để cho người ta noi theo mà hành động, hầu trở nên người có Đạo
hạnh. Ngũ Thường để sửa hành động của người cũng như thước qui để làm hình
tròn, thước củ để làm hình vuông. Muốn làm hình tròn, hình vuông mà không dùng
thước qui thước củ, để làm rập thì không thể được, cũng như muốn làm người Đức
hạnh mà chẳng dùng Ngũ thường thì biết theo đâu mà làm. Ngũ Thường tuy có năm
Đức, nhưng Nhân đứng đầu và gồm cả Đạo làm người. Lễ là mực thước để làm Đạo
Nhân, thực hiện trọn Đạo Nhân, tức là thể hiện Thiên lý thành Nhơn luân và cũng
là làm tròn bổn phận người.
PHẬN GÁI
Giữ câu Tam Tùng và Tứ Đức
a) TAM TÙNG :
Mặc dầu trai hay gái, đều
có bổn phận làm người; đại để như đã nói trong những trương trước, nhưng riêng
về Nữ phái, cỗ nhơn đã vạch sẵn con đường: "Tam
Tùng" mà kẻ hậu tấn noi theo để làm nên người con thảo, vợ hiền, mẹ
lành.
Có người nói : Thế kỹ 20,
văn minh vật chất đã phổ truyền. Phụ nữ từ Tây sang Đông, từ thành thị đến thôn
quê, người người đều chen lấn trên đường "Canh
tân" nếu đem cái thuyết cũ kỹ "Tam Tùng" mà hô hào, thế có
phải là đi ngược chiều Tấn hóa chăng? Không. Bởi vì Luân lý cổ truyền của người
Việt Nam vốn ở trong Nho giáo; mà vì Thánh sư của Nho giáo là Đức KHỔÂNG PHU TỬ
có nói rằng: "Luân lý Pháp luật phải
tùy thời mà sửa đổi cho thích-nghi với trình độ Tấn hóa của Nhơn sanh".
Câu sách Trung Dung sau đây đủ chứng minh điều ấy rằng: "Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Võ, thượng luật
thiên thời, hạ tập thu thổ". Nghĩa là Đức Trọng Ni (KHỔNG PHU TỬ) thuật
lại Đạo Vua Nhiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn, Vua Võ; trên theo thời Trời mà
quyền biến; dưới tùng thủy thổ mà an vui. Vậy chúng ta nên lược lại những qui
luật Cổ truyền, như cái thuyết "Tam tùng" chẳng hạn, rồi cham chước
sửa đổi cho vừa lằn Tấn hóa; nghĩa là chúng ta giữ những cái "Hay" bỏ
những cái "Dở" để đưa đoàn
em đi đến con đường "Mỹ tục Thuần
phong". Nghĩ thư thế, nên chúng tôi yên trí soạn lại như sau :
1.- Tại Gia Tùng Phụ: Bổn phận làm con phải
thảo với cha mẹ. Đạo hiếu không phân biệt trai hay gái, đại khái như đã nói
trong chương "Phụ Tử Cang".
Riêng về phần nữ lưu, chữ "Tại gia
tùng phụ" có nghĩa đặc biệt về việc lập gia thất.
Vả, đường đời muôn nẻo,
mặc dù người con có học thức đến đâu cũng chưa đủ kinh-nghiệm thế tình, chưa
từng trải việc đời, thành thử, những việc quan trọng, con nên tuân lời cha mẹ
là hơn. Phải biết rằng trong đời không ai thương lo cho con bằng cha mẹ. Từ
xưa, chưa thấy cha mẹ nào có ý làm hại con. Cha mẹ chúng ta cũng như muôn vàn
người khác, hằng nuôi con, hằng dạy con, và hằng trông mong con trở nên người
cao quý, hạnh phúc.
Vậy người con chẳng vì lẽ
gì mà không tuân lời cha mẹ. Thảng như có điều chẳng vừa ý thì nên ôn tồn, nhỏ
nhẹ, bày tỏ chỗ thiệt hơn, chẳng khá cãi cọ mà sanh ngỗ nghịch.
Gần đây, mới xuất hiện
phong trào "Tự do kết hôn"
nghĩa là trai gái tự do tác thành, chớ không cần hỏi đến ý kiến mẹ cha. Việc
nầy có thể chấp thuận về nguyên tắc; bởi vì chồng vợ phải chung sống trọn đời :
Từ tóc xanh đến đầu bạc; cho nên hai người cần có tâm đầu, ý hợp thì mới vui
vầy. Trái lại, nếu kẻ nói trâu trắng, người nói trâu đen thì khó dung hòa để
tạo ra gia đình hạnh phúc.
"Chấp thuận nguyên tắc" chúng tôi muốn
nói phận gái được phép chọn bạn trước, nhưng khi quyết định thì phải chờ lịnh
mẹ cha. bởi cha mẹ là người niên cao kỷ trưởng từng trải việc đời, dầu sao,
người cũng am hiểu thế tình hơn con. Trẻ lòng, non dạ, con chưa phân biệt lẽ
thiệt hơn. Biết đâu, mình quyết tìm hạnh phúc, nhưng chung qui lại sa vào cạm
bẩy tai hại.
Tạo lập gia đình là việc
lớn của đời người. Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, nếu bước đầu tiên rủi
lỡ lầm rồi phải khổ trọn đời. Phận gái mười hai bến nước, trong đục phải cam.
Nhưng nếu rủi rồi sao ?
Người làm cha mẹ, không
nên ỷ quyền mà ép con. Ngạn ngữ nói : "Ép
dầu, ép mỡ, ai nở ép duyên". Có người gả con mà không dám hỏi ý con,
về sau, thành ra vô tình mà hại cuộc đời con. Đương môn, đối hộ là một điều
tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nhì, duy có điều : Chọn dâu, chọn rễ kia, mới
thật là trọng yếu.
Quyền cha mẹ, nghĩa làm
con, đôi bên phải dung hòa với nhau, để đào tạo hạnh phúc cho con là hơn hết.
Nếu rủi cha mẹ qua đời thì phận gái cũng nên nghe lời người nuôi dưỡng như :
Cô, Cậu, Chú, Bác v.v . .
2. Xuất Giá Tùng Phu : Khi có chồng rồi, phận
gái phải ở với nhà chồng, cả một cuộc đời mới đó phải thi hành; nào là bổn phận
đối với cha mẹ bên chồng, anh em bên chồng, nào là xử sự với kẻ ăn ở trong gia
đình và người làng giềng, mỗi mỗi phải cư xử cho trọn Đạo; nhứt là đối với
chồng phải giữ gìn trinh tiết; bởi vì người đàn bà mất trinh thì mất giá trị.
(Xin xem bài Phu-thê-Cang)
3.- Phu Tử Tùng Tử : Rủi chồng chết thì phải
nương theo con; khi con còn thơ ấu thì lo bề dưỡng dục, đến lúc con nên người,
con thành nhơn thì một lòng sống với con cho tròn phận mẹ hiền.
Sách Nho chép truyện bà
Thân Sanh của Mạnh Tử chọn xóm ở, để cho con ăn học; có lần Mạnh Tử biếng nhác,
Bà chặt khung cữi, làm cho con biết sợ mà lo học. Nhờ mẹ hiền mà Thầy Mạnh Tử
trở nên bậc Á THÁNH. Đoàn hậu tấn nên noi gương làm mẹ đó mà lập thân mình.
b) TỨ ĐỨC (Công, Ngôn, Dung, Hạnh).
Công.- Ngoài việc văn
chương, cung kiếm như các bậc anh thư, phận gái còn có Nữ công thường thức, cần
phải am tường thuần thục, hầu làm trọn phần nội trợ của mình. Đại khái như :
May vá, nấu nướng, sắp đặt việc nhà, cần kiệm, nuôi chồng, dạy con vân vân . .
.
Nội trợ là phận gái, phẩm
giá làm người tùy đó một phần lớn. (Xem lại bài "Phu Thê Cang" và
chương Lập công trong quyển "Trên Đường Tấn Hóa").
Ngôn.- Ngôn là lời nói,
người bàng quan do lời nói của mình mà đoán ra tâm lý. Tại sao? Bởi có tư tưởng
trong lòng mới tỏ ra ngoài lời nói, thành thử, lời nói năng phải cẩn thận.
Không nói lả lơi, không nói hoa nguyệt, không nói xằng, không nói bậy; không
ngồi lê, đôi mách, không nói dối. Muốn được vậy thì phải tập cho có thói quen
rằng: "Suy nghĩ trước rồi sau sẽ
nói" tức là Ngôn đoái Hạnh, Hạnh đoái Ngôn. (Xem lại bài cấm "Vọng Ngữ" và chương "Lập Ngôn" trong quyển "Trên Đường Tấn Hoá").
Dung. - Dung là dung nhan,
diện mạo, cần phải sạch sẽ vẻ vang, đi đứng trang hoàng, hình dung yểu điệu; nhưng
lúc nào cũng phải giữ tự nhiên, nghĩa là không phải sửa cách đi đứng, vì có ý
sửa là mất tự nhiên, mà mất tự nhiên thì không đẹp.
Hạnh. - Hạnh là nết, mà
nết lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có Hạnh trước phải giồi mài bổn Tâm.
Kể sơ lược như thành thật,
hiền lành, tao nhã. Thành thật thì được người tín nhiệm, tin dùng; hiền lành
thì ngăn được phóng tâm; hòa nhã thì tránh được tật kiêu căng, hổn láo.
Rút lại người Phụ nữ giữ
trọn Tam Tùng Tứ Đức thì đủ làm nên người con thảo, vợ hiền, mẹ lành.
Tóm lại: Làm người, mặc
đầu Phái Nam hay Phái Nữ, đều phải lấy Đạo Tu thân làm căn bản Nhơn Đạo, nghĩa
là trước nên trau dồi Tâm Thần của mình trở nên Chơn Thiện Mỹ, rồi sau mới biết
nghĩa phương để sửa việc nhà, làm việc nước và góp công vào việc Hòa bình Thiên
hạ (Tu thân, Tề gia, Trị Quốc, Bình Thiên hạ). Cổ nhơn rất trọng Đạo Tu thân;
họ thường khuyên nhau: Từ vì Thiên Tử đến kẻ Thứ dân, hạng người nào cũng phải
Tu thân trước rồi sau sẽ làm những nghĩa vụ khác. Trái lại, nếu Thân chẳng Tu
mà muốn Tề gia, Trị Quốc, Bình Thiên hạ thì e rằng làm không nên; bởi vì gốc đã
loạn mà muốn cho ngọn trị thì không bao giờ có được.
Trước kia, chúng tôi đã có
nghị luận rằng : Phái Nam nên thực hiện Tam Cang, Ngũ thường; Phái Nữ nên giữ
câu Tam Tùng, Tứ Đức. Sau đây xin bàn thêm ba phép nữa là :
Minh Minh Đức
Thân Dân
Chỉ Ư Chí Thiện.
Âu cũng giúp thêm một phần
nào trong sự học tập.
MINH MINH ĐỨC: Tánh Trời
phú cho người cũng gọi là Thiên lý ở trong Tâm. Trong Thiên lý vốn có một Đức
sáng tự nhiên gọi là Minh Đức, Minh Minh Đức nghĩa là khai sáng cái đức sáng
ấy. Về phương pháp học tập sách Đại Học bảo rằng:
" Tri chỉ nhi hậu hữu định.
Định nhi hậu năng tịnh.
Tịnh nhị lâu năng an.
An nhi hậu năng lự.
Lự nhi hậu năng đắc."
Nghĩa là khi
chúng ta đã nhứt quyết con đường mà mình phải theo và mục đích mà mình phải đến
rồi sau Tàm định. (ví dụ: Bỏ nhơn dục theo Thiên lý). Có định rồi sau Tâm sẽ
Tịnh (yên lặng). Có Tịnh rồi sau Tâøm sẽ an (An có vẻ tự tại hơn tịnh một cấp).
Có An rồi sau sẽ Lự (tức tưởng gẫm tìm hiểu Chơn lý. Có Lự rồi sau sẽ đắc (tức
sáng suốt rõ ràng).
Nói như thế nghĩa là trước
chúng ta phải chuẩn bị cho Tâm được Thanh tịnh rồi bắt đầu tưởng gẫm để tìm
Chơn lý.
Nói về sự tưởng gẫm tìm
Chơn lý, thì phải tuần tự mà thực hành theo thứ tự, bởi vì vật hữu bổn mạt, sự
hữu thủy chung. Tri sở tiên hậu tắc cận đạo hỉ. Nếu biết được chỗ trước sau,
làm cho cái biết của mình có mạch lạc hệ thống, ấy là biết Đạo vậy, tức cũng
như cái thuyết cách vật trí tri của VƯƠNG DƯƠNG MINH đã giảng giải.
Hoặc nói rõ ra là chúng ta
cứ hồi quang phản chiếu về nội giới và dịch hoá những tư tưỡng lãng mạn dục
tình phức tạp, dịch hoá và dịch hoá mãi cho đến trong Tâm chỉ có một đức sáng ở
trong cõi lòng chưa phát động; thế là khai sáng đức sáng.
Thân dân: Thiên địa chi
đại đức viết sanh. Tánh bản nhiên của chúng ta là một điểm Tánh Trời ban cho.
Vậy chúng ta phải thể hiện cái Đại đức của Trời Đất là sự sanh-hoá mà thôi; chớ
chẳng hề sát hại vật nào. Nghĩa là chúng ta nên tương thân, tương ái, tương trợ
với người và vật, tức là thực thi lòng Nhân ái với mọi người và vật để giúp vào
cái Đại đức của Trời là Sanh hoá.
Thân dân nghĩa là gần gũi
thương yêu người và vật để thể hiện lòng nhân ái.
Minh Minh Đức tức là khai
hoá Trí. Thân dân tức là thực hành đức Nhân, Nhân Trí đắp đổi mà thành tựu lẫn
nhau. Minh Minh Đức là học. Thân dân là hành. Tri hành hiệp nhứt sẽ hoàn thành
nghĩa vụ làm người.
Chỉ ư chí thiện: Minh Minh
Đức và Thân dân lấy Chí Thiện làm phương tiện và cứu cánh. Nghĩa là tu luyện ý
chí vững vàng để cho mình có đủ nghị lực mà học tập và sự học tập phải nhắm vào
Chí Thiện mà tiến bước. Chí Thiện là gì? Là cái lẻ tột lành. Trạng thái nầy,
Tâm không còn điên đảo mà chí yên lặng để cầu sự Tri và hành đức Nhân ái được
trọn vẹn.
Tóm lại, Minh Minh Đức là
luyện trí, Thân dân là thực hành lòng Nhân, Chỉ ư Chí thiện là đào luyện ý chí
(tức Dũng) để có đủ can đảm mà làm Nhân. "Trí Nhân Dũng" là ba cái
trạng thái của Tâm linh phát hiện mà học giả luôn luôn phải học tập cho đến Tâm
đắc.
Học tập cho đến Nhơn dục
tận tịnh, Thiên lý lưu hành rồi cứ ung dung theo Thiên lý mà hành động, chớ
không cố chấp điều gì. Đức KHỔNG PHU TỬ bảo rằng : "Quân tử chi ư Thiên hạ đã, vô thích dã, vô mịch dã, nghĩa chi giữ
tỉ" : Bậc Quân tử làm việc cho đời chẳng có điều gì cố ý làm cũng
chẳng có việc gì cố ý bỏ, hể hợp nghĩa thì làm.
Đó là điều đáng ghi nhớ.
Tóm lại Đức CHÍ TÔN là
Thầy chúng ta, là Đại Từ Phụ của chúng ta : Đức Ngài sanh hóa chúng ta, ban phú
cho chúng ta một Điểm tánh, để làm tự Tánh của mình, như câu Thánh Ngôn nói
rằng: "Khi tạo lập Càn Khôn Thế Giái
rồi Thầy phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng,
Thú cầm gọi là Chúng sanh".
Chúng ta là một phần tử
trong số vạn vật, cho nên chúng ta cũng có bẩm thọ của Đức Thái Cực Thánh Hoàng
một Điểm tánh, để làm Tánh của mình. Nho Giáo gọi Tánh là Mạng Trời và tuân
theo Mạng Trời mà hành động thì gọi là Đạo (Thiên mạng chi vị Tánh, suất Tánh
chi vị Đạo (Trung Dung).
Vậy những nghĩa vụ làm
người, Nhơn Đạo, tức chúng tôi muốn nói những bài học Luân lý đã giảng diễn,
mặc dầu, hình thức có lệch lạc, mặc dầu cách lập luận không mấy châu đáo, nhưng
tinh thần của những bài học này nằm gọn trong câu "Căn cứ theo Mạng Trời để thực hiện đạo người", để cầu
được một phẩm hạnh làm người Đạo đức thuần lương và chuẩn bị vào cửu Thiên đạo.
* * *
CHƯƠNG THỨ HAI
THƯỢNG THỪA
Thượng thừa là lớp học
hành dành riêng cho người có đại chí quyết tâm tu luyện đến mức cao siêu rộng
rãi, để độ mình và độ người. Tân Luật Đại Đạo có câu : "Chức Sắc truyền giáo từ Phẩm Giáo hữu phải chọn trong hàng Thượng
Thừa".
Đức CHÍ TÔN cũng có dạy
rằng :
" Ta vì lòng Đại Từ Đại Bi, lấy Đức Hóa sanh dựng
nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôn chỉ là cứu vớt kẻ hữu phần vào Địa vị cao
thượng tránh khỏi số mạng Luân hồi ".
Vậy kẻ tu Thượng thừa là
người xuất thế, thể hiện một đời sống siêu việt; Vượt khỏi thế tục thường tình,
vượt khỏi những thói quen " Túy sanh
mộng tử ", chứng nhận một nếp sống sâu kín tâm linh, làm gương lành
cho người đời soi sáng và, chung qui, cần sự giải thoát kiếp sanh tử.
Về Giáo lý, Đức CHÍ TÔN
không mở riêng, mà lại qui nguyên Tam giáo, hiệp nhứt Ngũ chi thành một khoa
Nhơn sanh triết lý học đại đồng, cung ứng cho tất cả từng lớp Nhơn sanh. Ai
cũng có thể theo học được. Đại để như nhà Khoa học chỉnh lại Đức tin Thượng Đế,
còn các nhà tu hành thì gạt bỏ những điều mê tín dị đoan. Đó là Đức CHÍ TÔN có
ý nhắc cho Nhơn loại nhớ rằng: Tất cả loài người, tuy khác nhau về ngôn ngữ,
sắc tộc, màu da, nhưng tựu trung đều là con cái của Đấng Tạo hóa. Tất cả Tôn
Giáo, tuy bất đồng về lễ nghi hình thức, nhưng tựu trung Đạo nào cũng sùng bái
Đấng Cao Cả trong Càn Khôn Vũ Trụ và Tôn giáo nào cũng dạy người ta làm lành
lánh dữ. Bài Thánh Ngôn sau đây sẽ cắt nghĩa sự qui nguyên phục nhứt nói trên.
THÁNH NGÔN: "Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Đại Đạo
là tùy phong hóa của Nhơn Sanh mà gầy ra Chánh giáo là vì khi trước Càn vô đắc
khán, Khôn vô đắc duyệt, Nhơn loại chỉ hành đạo nơi tư phương mình mà thôi. Còn
nay, Nhơn loại đã hiệp đồng, Càn khôn dĩ tận thức thì lại bị nhiều Đạo mà Nhơn
loại nghịch lẫn nhau, nên nay Thầy nhứt định qui nguyên phục nhứt ".
Thật vậy, ngày nào người
ta nhìn nhau là con một Cha, bạn học một Thầy thì ngày ấy không còn cái vạ kỳ
thị Chủng tộc, kỳ thị Tôn giáo nữa.
Cứu cánh của Thượng thừa
là tìm gặp lại Bổn tánh Trời phú cho người để làm chủ tể cho sự hành động của
mình, vì Bổn tánh ấy là mạng Trời là Thiên lý hay Đạo mà người phải thể hiện
nơi thế gian gọi là Nhơn Đạo (Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo) :
Mạng trờøi là Tánh, tuân theo Tánh ấy là Đạo.
Muốn giác ngộ Bổn tánh
phải làm sao?
Đây là một vấn đề mà tập
sách nầy sẽ giải đáp. Để trình bày có thứ tự, chúng tôi tạm chia làm hai thiên
là:
1. - Minh tâm kiến tánh.
2. - Độ tha.
* * *
THIÊN THỨ NHỨT
MINH TÂM KIẾN TÁNH
Nguyên điểm tánh Trời phú
cho người, hằng ngự trị trong thâm tâm và lúc bấy giờ tánh là bản thể của Tâm,
thành thử, Tánh và Tâm tuy có hai danh từ, song sự tách động vẫn một. Kẻ hành
giả nên ghi nhớ điểm nầy, hầu sau khỏi phải nhận lầm. Bổn tánh thì hư không
linh chiếu, nhưng khi người ta nhập thế cuộc, Nhục thân cảm nhiễm mùi trần,
sanh lòng ham muốn, kích động đến Tâm làm cho Tánh biến sang nhiều trạng thái
khác.
Sách Nhạc Ký chép rằng :
" Nhơn sanh nhi tịnh Thiên chi Tánh; cảm ư vật
nhi động, tánh chi dục dã. Vật chí tri tri nhiên hậu hiếu ố hình yên, hiếu ố vô
tiết ư nội, tri dụ ư ngoại bất năng phản cung. Thiên lý diệt hỉ, Phù vật chi
cảm nhơn vô cùng, nhi nhơn chi hiếu ố vô tiết tắc thị vật chí nhi nhơn hóa vật
dã, nhơn hóa vật giả dã, diệt Thiên lý nhi cùng Nhơn dục giả dã ".
Nghĩa là người sanh vốn
tịnh là tánh Trời phú cho đến chừng người ta cảm nhiễm vật chất mà sanh động là
dục vọng của Tánh vậy. Vật đến thì người hay biết, hay biết thì lòng yêu ghét
bày ra. Lòng yêu ghét ấy nếu chẳng hạn chế bên trong, để cho sự hay biết chạy
rông ra ngoài mà chẳng thâu hồi về bản thân được thì Thiên lý (Thiên tánh) sẽ
mất vậy. Vả lại, vật cảm nhiễm người ta thì vô cùng còn lòng yêu ghét của người
nếu không hạn chế, không ngăn đón, thì khi vật đến người ta không còn sức tự
chủ nữa mà rồi phải hóa theo vật vậy. Mà hễ người hóa theo vật thì Thiên lý
diệt, mà hễ thiên lý diệt thì người ta nguy khốn với Nhơn dục.
Theo lẽ trên mà suy ra:
Thiên lý ở trong người thì tịnh, nhưng lòng ham muốn làm cho tánh động và biến
sanh nhiều trạng thái khác mang danh là Nhơn dục. Trường hợp nầy nếu người ta
không nghĩ lại thì Nhơn dục làm tiêu tan Thiên lý, rồi người ta phải sống theo
Nhơn dục. Mà hễ xa Thiên lý thì phải đọa vào phàm trần khổ não.
Thiên lý và Nhơn dục đây
Kính Phật gọi Tâm bất sanh diệt và Tâm năng sanh diệt. Minh tâm, tức là cảm hóa
lòng sanh diệt biến thành lòng bất sanh diệt và hàm dưỡng. Bổn tánh để làm chủ
tể của sự hành động, ấy là đem cái lý siêu nhiên vào đời sống thực tại, hoặc
nói cách khác là phải tuyệt trừ tất cả tật hư, nết xấu, mê chấp sai lầm như ngã
tướng, pháp tướng chẳng hạn. Tâm thanh tịnh thì kiến tánh.
Về phương pháp thực hành,
chúng tôi đề cập ba pháp môn là:
GIỚI
ĐỊNH
HUỆ
Trì giới để dìu dẫn Thân
Khẩu Ý vào cảnh tịnh. Thiền định để lặng lửa lòng cầu biết tâm năng sanh diệt
và bất sanh diệt. Trí huệ để chiếu phá vọng chấp mê lầm. Ấy là phương pháp sáng
lòng thấy tánh.
1 .
GIỚI
Theo Phật giáo, giới cấm
có nhiều đẳng cấp : ngũ giới, bát giới, thập giới, nhị bá ngũ thập giới, ngũ bá
giới cho đến tám ngàn oai nghi, bốn muôn tế hạnh. Tuy nhiều đẳng cấp nhưng tựu
trung cũng chỉ làm cho ba nghiệp Thân khẩu Ý được thanh tịnh mà thôi.
Sau đây là Thập giới :
* Ba giới cấm Thân căn
- 1. Cấm sát sanh
- 2. Cấm trộm cắp
- 3. Cấm dâm dục
* Bốn giới cấm Khẩu căn
- 4. Cấm nói dối
- 5. Cấm nói thêu dệt
- 6. Cấm nói hai lưỡi
- 7. Cấm nói hung dữ
* Ba giới cấm Ý căn
- 8. Cấm tham dục
- 9. Cấm sân hận
- 10. Cấm si mê
Ở đây, chúng tôi không bàn
đủ thập giới, vì ba giới cấm về Thân và bốn giới cấm về Khẩu đã nói nhiều trong
những trang trước và trong quyển "TRÊN
ĐƯỜNG TẤN HÓA". Ấy vậy, Nên chúng tôi chú trọng về Ý- nghiệp.
8 .
Cấm tham dục: Lòng Tham dục vốn thiên hình vạn trạng, nhưng tóm tắt mà nói thì có Lục
dục. Bảng thống kê sau đây sẽ trình bày phương thức tổ hợp thành Lục dục:
CHÚ THÍCH BẢNG THỐNG KÊ
Khi người ta nhập Thế
cuộc, tiếp xúc với ngoại cảnh thì Lục căn giao tiếp với Lục trần mà sanh ra Lục
thức.
Lục thức quay lại giao
tiếp với Lục trần mà sanh ra Lục dục, tức lòng ham muốn.
Nên nhớ rằng lòng ham muốn
thì kể không cùng; hễ được một thì muốn hai, được hai thì muốn bốn v.v. Ngạn
ngữ nói " Túi tham không đáy ".
Chính lòng ham muốn sanh ra tật ích kỷ. Bao nhiêu lợi lộc, danh quyền ở Thế
gian đều muốn tóm thâu một mình. Vả lại, người ta là một phần tử trong Vũ trụ.
Theo Luật tự nhiên người ta phải sanh hoạt theo Vũ trụ, Đạo lý và phải hòa mình
với muôn loài vạn vật trong kiếp sống còn. Nhưng lòng ích kỷ lại khiến người ta
bảo thủ riêng tư, mãi rồi phải bị đào thải ra ngoài cái nguồn máy Tấn hóa của
Chúng sanh.
Phật cho cõi Trần là bể
khổ mênh mông, lai láng không biết đâu là bờ bến. Thật vậy, nếu chúng ta ham
muốn quá lẽ, quanh năm cứ đồi mưu định kế thâu hoạch vật muốn là một cái khổ
rồi. Khi thâu hoạch được thì lại phải lo thụ hưởng, giữ gìn sợ mất. Nếu chúng
ta theo đó mà suy rộng ra thì thấy lòng Nhơn dục gây phiền não cho người là bao
nhiêu.
Bổn tánh ở phía sau Nhơn
dục, cho nên kẻ học muốn giác ngộ Bổn tánh thì phải hồi hướng về nội giới, vượt
qua tất cả những hình danh sắc tướng như phiền não chẳng hạn, vượt qua và vượt
qua mãi đến cõi lòng chưa phát động thì mới thành chánh quả.
Nên nhớ rằng vật chất hay
làm cho sự hiểu biết của người ta sai lạc, như Đạo Đức Kinh chương 12 nói rằng
:
" Năm màu sắc khiến người ta chóa mắt,
Năm âm thanh khiến người ta điếc tai,
Năm vị ăn khiến người ta tê tái lưỡi
Dung ruỗi săn bắn khiến lòng người ta phát cuồng.
Của quý mắt giá khiến người ta hành động sai Đạo
đức".
Ấy vậy, nên kẻ học phải
dày công nội tính tích cực suy gẫm để tránh sự ham muốn sai lầm.
Đức CHÍ TÔN nói: " Tham lam vào Tâm thì Tâm hết Đạo đức,
tham lam vào nhà thì nhà hết chánh giáo, tham làm vào nước thì nước hết Chơn
trị, tham lam lộng khắp Thế giới thì Thế giới hết Thần Tiên".
Vậy muốn tránh sự tham dục
phải làm sao?
Đức KHỔNG PHU TỬ bảo rằng:
"Khắc kỷ phục lễ " tức :
" Mắt chẳng nên xem sắc vô lễ.
Tai chẳng nên nghe lời vô lễ.
Miệng chẳng nên ăn nói vô lễ.
Thân chẳng nên hành động vô lễ".
Phật dạy: Bất tùy phân
biệt, tức chẳng nên chạy theo vật chất để phân biệt chỗ tốt xấu, hơn kém của
nó.
Ngoài những lời dạy trên,
chúng ta cũng nên lập tâm về phép Tri túc và Bố thí.
Tri-túc: Tạo cho mình một
nếp sống bình-thản an vui, không làm việc phi nhân, bất nghĩa để cầu giàu sang
danh lợi, không ham muốn việc phù phiếm xa hoa. Mục đích chúng ta là cầu sự
giải thoát : Trước là giải thoát ngoài vòng tục lụy phồn hoa, sau nữa là giải
thoát sự mê lầm, để rồi hòa mình với Chơn lý. Ấy vậy nên nếp sống của chúng ta
thản nhiên điềm đạm đủ ăn no, đủ mặc ấm. Nói rút lại là chúng ta cầu sống với
Đạo tự nhiên hơn là sống với phàm trần vật chất.
Bố thí Bố thí nghĩa là
cho. Sự cho có hai cách : Thí tài và thí pháp.
Chúng ta tùy phương tiện
của mình mà cho người đói khát vật thực, cho người rách rưới áo mặc, cho người
đau ốm thuốc men và cũng tùy cơ hội giảng Đạo đức thuyết nhân nghĩa cho người
nghe để cho họ hướng thiện làm lành.
9. CẤM SÂN HẬN : Chẳng những sự thù hằn,
nóng giận, oán ghét làm cho tâm thần si mê mà các mối tình khác như: Mừng, vui,
sợ cũng làm loạn tâm không ít. Bằng cớ là khi cười quá độ thì cũng chảy nước
mắt như khóc. Ấy vậy nên chúng ta chẳng khá để cho thất tình sôi nổi quá mức
trong tâm gian.
Ngạn ngữ có câu: " Giận mất khôn ". Vả lại
người ta nhờ có năng lực trí giác chỉ dẫn đường ngay lẽ phải. Nếu chúng ta để
mất khôn rồi thì sự hành động sẽ dở dang, nhơn cách cũng vì đó mà phải sứt mẻ.
Trong giới tu hành, người
ta thường bảo: " Đốn củi ba năm
thiêu một giờ ". Đó là ám chỉ vào công phu tu luyện nhiều năm lần hồi
thu lượm những căn lành, đức tốt. Nay vô ý thức để cho lửa giận bừng lên hủy
hoại tất cả công đức ấy thì oan uổng biết bao !
Sân hận do tham dục mà
sanh, cho nên muốn trừ Sân hận phải ngừa lòng ham muốn.
Xem như khi người ta muốn
vật gì thì lòng ham muốn giục thúc người ta phải hành động. Nếu thâu đoạt được
vật ấy thì vui mừng rồi lại sợ mất mà phải lo gìn giữ. Trái lại, nếu thất vọng
thì đâm ra buồn phiền, oán ghét. Từ lục dục xô đẩy đến thất tình, tâm lý biến
thiên không biết bao nhiêu trạng thái. Cái nầy vừa qua thì đã có cái khác ứng
tiếp làm cho tâm loạn động chẳng khác gì những làn sóng làm nhăn mặt biển. Trên
đường giao tế, đôi khi chúng ta thấy có người đương vui mà bỗng nhiên buồn,
đương giận mà bỗng nhiên thương, đương ghét mà bỗng nhiên sợ. Đó là tại người
ta chẳng có đủ tinh thần tự chủ, rồi thất tình tùy cơ duyên bên ngoài mà biến
hiện. Tâm thần sở dĩ loạn động lắm là vì lẽ ấy.
Theo Chánh đạo, người ta
phải tuân theo Mạng trời mà hành động để tránh khỏi nghiệp quả Luân hồi; nhưng
thất tình, Lục dục làm loạn Đạo tâm, làm mờ Chơn tánh, khiến cho đời sống bơ vơ
: Không biết bám vào đâu để tiến và lui về chỗ nào cho phải Đạo, cũng như chiếc
thuyền linh đinh trên mặt biển mà chẳng có kim Chỉ nam dẫn đường. Quanh quẩn
lắm rồi người ta phải vớ lấy Nhơn dục để làm trự cốt cho hành vi. Trường họp
nầy, người ta càng hành động bao nhiêu thì càng tạo bấy nhiêu tội lỗi.
Muốn tuyệt trừ Sân hận
phải làm sao?
Phải tập rèn hạnh Nhẫn
nhục, Nhẫn nhục không thù oán, nóng giận, Nhẫn nhục không buồn phiền sầu thảm
vân vân. BỒ TÁT nhẫn cũng không nhẫn, nhục cũng không nhục, chỉ để tự tánh
thanh tịnh chẳng sanh lòng khởi diệt nên tâm tỏ ngộ.
" Cảnh nhục như sừng thỏ,
Nhân tâm tợ huyển bào.
Dụng công phu chớ trễ,
Điều khổ nạn bền tiến,
Chi quấy mà chi phải,
Chẳng hèn cũng chẳng cao,
Giới tham sân muốn dứt
Lấy trí huệ làm dao. " (Trích trong sách Phật)
Và khi rảnh rang chúng ta cũng
nên quán tưởng như vầy: Theo lẽ thường, ai ai cũng muốn cho mình giàu sang,
quyền quý lên xe xuống ngựa, hạnh phúc hoàn toàn. Thì chúng ta cũng nên mong
ước kẻ thù chúng ta được hưởng sự may mắn như chúng ta vậy. Quán tưởng nầy khi
nó nhập tâm rồi thì chúng ta sẽ thương yêu kẻ thù cũng như tự thương yêu mình.
Theo lý đương nhiên mỗi tật bịnh đều có một vị thuốc trị. Chúng ta dùng "Thương" để trị "ghét" thì cũng như dùng thuốc
nào để trị bịnh ấy.
Người hành Đạo nên thấy
lỗi mình mà chẳng nên thấy lỗi người. Cả thảy lỗi của người không quan hệ đến
mình thì chẳng nên cố chấp mà sanh lòng oán ghét. Thấy người lầm lỗi nếu khuyên
được thì khuyên còn không thì thôi, chớ chẳng nên quan tâm cố chấp.
Mục đích chúng ta là đào
luyện một lẽ sống hòa đồng với cái hòa điệu của Vũ trụ Đạo lý. Nhưng muốn hòa
đồng với các hòa điệu của Vũ trụ, chúng ta bắt đầu điều hòa với sự vật ở gần
trước như Điều hòa thâm tâm, điều hòa tâm lý và sanh lý, điều hòa Thần khí,
điều hòa với Gia đình và Xã hội. Đó là thể hiện cái lẽ " Dữ Thiên địa đồng tham, dữ Vạn vật đồng thể ".
10. -
CẤM SI MÊ: Cấm si mê nghĩa là không nên để cho mình dốt nát, ngu muội, tối tăm, vô
minh.
Đã hiểu bản thể của tâm là
điểm Linh quang Trời phú cho người. Như vậy đáng lý tâm phải tự nhiên sáng
suốt, chớ tại so lại bị si mê?
Đành rằng thế, nhưng có
điều đáng tiếc là tâm khi bị nhục thân lôi cuốn, khuynh hướng về phàm trần, tâm
phải động mà biến sanh trạng thái khác mạng danh là ý thức, ý thức chạy rông
theo vật chất rồi sanh ra Tham và Sân là cái mầm làm tâm loạn. Tâm loạn thì che
khuất điểm Linh quang rồi, người ta trở nên vô minh, tức là không nhận định.
Thiên lý và Nhơn dục, rồi cứ theo Nhơn dục mà hành động. Tâm trạng nầy gọi là
si mê, tức là tối. Nay muốn hết si mê thì ngay bây giờ chúng ta phải dùng giác
ngộ để trị si mê. Hễ giác ngộ thêm một phần thì si mê bout một phần, giác ngộ
thêm hai phần thì si mê bớt hai phần và cứ thế mà tu tập mãi thì có ngày chuyển
mê khải ngộ, cũng như chúng ta dùng sáng để trị tối. Sáng càng lan rộng thì tối
càng thâu hẹp mãi đến khi sáng hoàn toàn thì hết tối.
Vậy phải làm cách nào đem
cái sáng về với tâm?
Lẽ tất nhiên phải học,
phải nghĩ, tìm hiểu Chơn lý và làm cho Chơn lý nhập tâm thành năng lực cố hữu
của mình. Đó là đem sáng về với tâm. Sáng càng thêm thì tối càng bớt mãi đến
sáng hoàn toàn thì hết tối.
Về phương pháp học nghĩ,
chúng tôi đề cập một vài cách như sau :
1.-Học với kinh sách: Chọn
kinh cao, sách Thánh, mỗi ngày đọc một trang và lưu tâm suy nghĩ, tìm hiểu kỳ
được Chơn lý ẩn tàn trong bài sách kinh. Đọc sách và suy gẫm phải đi đôi thì sự
học mới có kết quả. " Đọc kinh cầu
lý". Nói tỷ chúng ta đọc sách nhiều quá mà không suy nghĩ thì chung
qui, chẳng những không ghi nhớ Đạo lý mà có khi hiểu lầm là khác nữa. "Đa thơ loạn tâm". Hoặc giả,
chúng ta suy gẫm nhiều quá mà không đọc sách thì tư tưởng không siêu thoát.
Còn một lẽ nữa, chúng ta
cũng chẳng khá lãng quên là : Văn tự chỉ ghi chép được những tư tưởng thô sơ,
thiển cận mà thôi. Trên đường học vấn chúng ta dùng kinh sách để khỏi màn suy
gẫm cho mình, còn biết được Chơn lý là nhờ công phu suy gẫm.
2.-Học với thực tế : Những
việc xảy ra chung quanh chúng ta hằng ngày thì phức tạm thật; nhưng việc gì
cũng có gốc ngọn, trước sau của nó. Nếu chúng ta chịu khó quan sát nhân thức
thì ắt chúng ta sẽ rút được nhiều kinh nghiệm. Hơn nữa cách học nghĩ cần có sự
tập trung tinh thần.
Thế nào là
tập trung tinh thần?
Tôi đang nói
chuyện với anh, đồng thời tôi cũng hiểu biết những điều tôi đã nói : Sự hiểu
biết nầy cũng như một người thứ ba vậy. Hoặc giả, khi anh vừa làm việc nầy, vừa suy nhớ
việc khác đồng thời lại có một bộ phận thứ ba nữa chứng kiến. Bộ phận thứ ba ấy
cũng hay biết những việc anh làm và anh nghĩ. Những tri năng lực tản mác ấy gọi
là tinh thần. Nay chúng ta thâu thập tất cả những tri năng lực tản mác ấy thành
một khối; đó gọi là tập trung tinh thần. Tinh thần tập trung nầy có một sức
mạnh phi thường, nó có thể đánh tan tất cả những ác căn, tà kiến và nếu dùng để
giải quyết vấn đề sanh sống hằng ngày thì nó đem lại một sự hiểu biết chơn
chánh rộng rãi.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét