Giáo Lý 3 / 6 (Tiếp-Pháp Trương Văn Tràng)


Lời dặn: Ở đây chúng tôi muốn nhắc lại cứu cánh sự tu hành của người xưa, để thông cảm với Chơn Pháp mà thôi. Chí như chúng ta từ nhỏ đã quen dùng vật chất thực để nuôi sống. Nay, thoạt nhiên đổi món ăn cấp kỳ thì tạng phủ không quen mà sanh loạn. Lẽ như vậy, cho nên Tân luật buộc mỗi người phải tập ăn chay, mỗi tháng 6 ngày,
hoặc 10 ngày. Mãi đến khi tạng phủ quen dần rồi sẽ tiến tới nữa.

NGŨ GIỚI CẤM
1. BẤT SÁT SANH
Năm Mậu Thìn (1.1928) Đức Chí Tôn dạy rằng :
Thánh ngôn :
" Thầy đã nói : Khi chưa có Trời Đất, khí Hư vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra lưỡng nghi . . . Lưỡng nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập Càn Khôn Thế Giới. Rồi Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : Vật chất, Thảo mộc, Côn Trùng, Thú cầm, gọi là " Chúng sanh ".
Chú giải: Đoạn nầy đã giảng giải, tinh thường trong chương " Vũ Trụ Quan " ( Xin xem lại )

Thánh ngôn: " Vậy, các con đủ hiểu mỗi vật hữu sanh nơi thế giản nầy đều do Chơn Linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là cha sự sống, vì thế nên lòng Háo sanh của Thầy vô cùng tận. "

Chú Giải: Theo lẽ nầy mà suy ra, chúng ta hiểu rằng: Khi một Tiểu Chơn Linh ( Điểm tánh của Chí Tôn chia ra cho mỗi người ) tánh khỏi cội sanh mình thì tùng Đạo biến hóa, lưu hành khắp Càn Khôn Thế Giới, mà hễ đến đâu thì hấp thụ khí chất của Vũ Trụ cấu tạo cho mình một vật thể. Như hiện giờ chúng ta có một phần hồn ( tức điểm tánh của Đức Chí Tôn chia cho ) và một phần xác do Thái Cực Âm Dương, Ngũ Hành cấu hợp ( Khí chất của Võ Trụ ) hồn xác hỗn hóa thành một đơn vị cá nhơn có sanh mạng.

Đạo Đức Kinh chương 42 nói rằng: " Vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương xung khí dĩ vi hòa ".
( Muôn loài đều có bồng một Âm, cỏng một Dương, Âm Dương xung khắc mà lại điều hòa thành mạng sống ).

Cái mạng sống ấy do Tiểu Chơn Linh ( Linh Hồn ) vi chủ, cho nên Đức Chí Tôn nói rằng : " Mỗi vật hữu sanh nơi thế gian này đều do Chơn Linh Thầy mà ra, có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống ".

Sách Nho có câu: " Phụ Mẫu ái tử vô sở bất chi " (Cha Mẹ thương con không sót chỗ nào). Đó là Cha Mẹ phàm còn như thế, huống chi Đức Chí Tôn là " Đại Từ Phụ " Thiêng Liêng hóa dục muôn loài. Đức Ngài sanh hóa vạn vật; tùy thời Khai Đạo và hàng năm xoay chuyển bốn mùa, tám tiết. Năm loài ngũ cốc và các thứ thảo mộc theo thời tiết mà hóa sanh để nuôi dưỡng cái sống còn của vạn vật. Bằng cớ ấy đủ chứng minh lòng Háo sanh vô tận của " Thượng Đế ".
Thánh Ngôn : " Mạng sống của chúng sanh cũng như nhành cây trong cội, phải có đủ ngày giờ Thầy định, để nở bông, sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa thêm ra, nếu kẻ nào làm hại nửa chừng là sát hại một kiếp sanh, không cho biến hóa. Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp, đến thế nầy hoặc lâu hoặc mau đều có định trước, nếu ai giết một mạng sống thì phải chịu quả báo. Mạng sống là của Thầy, mà giết Thầy không phải dễ. Các con rán dạy Nhơn sanh điều ấy ".

Chú giải : Đức Chí Tôn, Thái Cực Thánh Hoàng là cội sanh hóa muôn loài vạn vật. Đức Ngài là một nguồn sống tràn ngập Vũ Trụ. Tất cả vạn vật đều mượn sanh mạng trong nguồn sống vô biên ấy. Thế nên Đức Chí Tôn thí dụ Thái Cực Thánh Hoàng cũng như cội sanh. Mỗi sanh vật cũng như cành hoa trong cội ấy; mỗi sanh vật phải có đủ ngày giờ nhứt định để nó biến hóa thêm ra.

Ví dụ : Hột đậu phải có đủ thời tiết, để nó nức mộng, lên cây, rồi mới trổ trái đậu khác được. Thế nên ai giết một sanh vật là sát hại một kiếp sanh, không cho tiến hóa. Sự sống là Thầy, mà giết Thầy không phải dễ.

Luật thế gian còn định tội nặng nề cho kẻ sát nhơn, huống chi luật tự nhiên Nhơn Quả, cho nên kẻ giết mạng sống thì phải chịu quả báo không sai.

Đức Chí Tôn cấm sát sanh là lẽ như vậy.
Nói rút lại, chúng ta cứ suy gẫm mấy điều đã nói trên cho nó nhập tâm rồi chúng ta biết sợ luật Trời mà chẳng dám sát hại sanh vật. Đó là một cách trì giới đắc lực vật.

Không sát hại là một việc, rồi còn phải tùy phương tiện mà giúp đở muôn loài là một việc khác nữa. Lợi sanh vạn vật tức là lợi sanh cho cá nhân mình. Lòng bác ái dạy chúng ta yêu thương muôn vật như yêu thương thân mình là lẽ như vậy.

Vả lại, muôn loài vạn vật do một Ông Cha mà sanh thành, nên chúng ta cùng muôn loài vạn vật là anh em. Thế nên chúng ta mở rộng lòng yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên đường về với Đại Từ Phụ. Lòng bác ái nên vâng theo đức háo sanh của Thái Cực Thánh Hoàng mà thể hiện.

2 . BẤT DU ĐẠO
Năm Mậu Thìn (1928) Đức Chí Tôn dạy rằng:
Thánh Ngôn : Ôi ! Thầy sanh các con, Thầy yêu các con. Thầy cho các con đến thế nầy với một Thánh Thể Thiêng Liêng, y như hình ảnh của Thầy: Không ăn màsống, không mặc mà lành. Các con không chịu, lại nghe lời cám dỗ, luyến ái hồng trần.
Ăn phải cho bị đày, dâm phải cho bị đọa, rồi các con phải chịu dưới nạn áo cơm.
Lợi, Thầy để cho các con chung hưởng, nhưng vì lòng tham : Đứa giựt nhiều, đứa phải chịu kém.

Quyền, Thầy ban cho các con, y như Thầy đã ban cho Thần, Thánh, Tiên, Phật để các con có đủ phương tiện kềm chế lẫn nhau đặng giữ vẹn Thánh Thể của Thầy. Thế mà cái quyền ấy lại thành một món lợi khí, buộc trói các con trong tội lỗi. Ôi ! Cái thất vọng của Thấy rất nên đau đớn.

Các con có hiểu, vì sao Nhơn sanh có lòng tham gian chăng ? Thì cũng vì muốn có nhiều kẻ phục tùng, không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỷ quyệt thâu đoạt: lợi lộc thế quyền. Vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn tranh đấu, giựt giành, mạnh được yếu thua, mất hẳn công bình thiên nhiên Tạo Hóa.

Ấy vậy phải biết rằng: Tham lam vào Tâm, Tâm hết Đạo đức, tham lam vào nhà, nhà hết Chánh giáo, tham lam vào nước nước hết chơn trị, tham lam lộng khắp Thế giái. Thế giới hết Thần Tiên. Lòng tham lam có thể giục các con lỗi Đạo cùng Thầy. "

Chú Giải : Bài Thánh Giáo trên đây đã rõ lắm rồi, khỏi phải chú giải nữa, duy có câu Thánh Ngôn nói rằng: "Thầy cho các con đến thế giới nầy với " Thánh Thể Thiêng Liêng vân vân . . . . "

Thánh Thể Thiêng Liêng tức là điểm Linh Quang của Đức Chí Tôn và một phần Tiên Thiên khí của Thái Cực. Hai phần ấy hỗn hợp thành Thánh Thể, Thánh Thể ấy chẳng ăn mà sống, chẳng mặc mà lành, nhưng khi nhập thế cuộc, chúng ta vì cố chấp phàm tâm ham muốn vật chất, cầu thỏa mãn phàm thân. Đó là cái mầm khiến người ta tham lam, giành giựt lợi quyền mà sanh ra thất Đạo, cho nên Đức Chí Tôn nói tham lam đến đâu thì tai hại đến đó.

Phải biết rằng : Tài vật của người, dầu ít nhiều, dầu lớn nhỏ đều do người làm nhọc nhằn mới tạo ra được. Nay, chúng ta trộm cắp của người, để làm của mình, dầu cách nầy, hay cách khác, cũng đều là một việc thái ư bất công. Bất công thì chẳng những phạm luật Trời mà mích lòng người nữa. Muốn tránh sự trộm cắp, thì đừng tham lam, mà muốn chẳng có lòng tham lam chúng ta nên biết tri túc và bố thí.

Tri túc: Là biết đủ, tức cầu cho mình đủ ăn, đủ mặc thì thôi chớ chẳng nên vọng cầu những của phi nghĩa. Nếu chẳng biết đủ thì lòng tham nổi lên mà xúi chúng ta vơ vét của cải về cho mình, để rồi lại cho con cháu mình nữa. Ngạn ngữ nói : " Túi tham không đáy, chứa bao nhiêu cũng không đầy ".
Đạo Đức Kinh chương 44 nói rằng :
" Thậm ái tất thậm phí,
Đa tàng tất đa vong.
Tri túc bất nhục.
Tri chỉ bất đãi
Khả dĩ trường cửu. "

Tham thì thâm, chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ không nhục, biết dừng chân ở ngoài vòng tranh đấu lợi danh thì không hại và có thể lâu dài.

Bố thí : Chúng ta nên tùy phương tiện của mình mà thí tài, hay thí pháp, bố thí mà không cầu người trả ơn. Muốn cho đức ấy được tỏ rạng, phải mở lòng vị tha, nghĩa là vì người mà bố thí chớ không phải buôn quyền bán danh.

Kẻ xả thân hành Đạo thì hay hòa mình với Đạo, hòa sống với chúng sanh. Thử nghĩ thân còn chẳng có thân riêng, huống chi là tài sản. Suy tưởng, ngẫm nghĩ như thế, thì lòng vị tha sẽ khai hoát. dể thay thế cho tánh ích kỷ.

3 . CẤM TÀ DÂM
Thánh Ngôn đề ngày 26-6 Bính Dần (30-6-1926)
Vì sao Tà dâm là trọng tội ?
Nguyên xác thân con người, tuy mắt phàm xem như một, tựu trung chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh vật. Sanh vật ấy cấu kết nhau thành tế bào ( Formation de cellules ). Nó có tánh linh, chất dưỡng sanh nó là rau cỏ, bông trái, lúa gạo. Thử hỏi những lương vật nầy, nếu chẳng có chất sanh và chẳng hàm chưa sanh lực thì thế nào nó tươi đặng. Hoặc giả, nếu nó có khô rũ thì nó phải chết, mà các con có ăn vật khô héo bao giờ. Còn như dùng lửa nấu, bất quá tẩy trược mà thôi; kỳ thật, sanh vật bị nấu chưa hề chết. Vật ăn vào tỳ vị tiêu hóa ra khí, khí biến ra huyết. Nó có thể hườn thành Nhơn hình, vì vậy mới có cơ sống chết của chúng sanh. Một giọt máu là một khối Chơn linh, nếu các con dâm quá độ. tức là sát hại nhiều Chơn linh, khi các con thoát xác, nó đến Nghiệt Cảnh Đài mà kiện, các con chẳng hề chối đặn.
Vậy các con phải giữ gìn giới cấm nầy cho lắm."

Theo Thánh Ngôn trên đây, chúng ta đã hiểu sự dâm dục có hại cho kẻ hành giả là dường nào.

Vả lại, phàm thân do Nhơn duyên cấu sanh, mà hể có sanh thì tự nhiên có tử. Và khi tử thì duyên phải tan rã và trở về với đất nước gió lửa. Thế thì nhục thân có trường tồn đâu mà phải cần khoái lạc nhứt thời cho nó, đề rồi gây ra tội tình, Nhơn quả cho phần hồn phải chịu muôn năm, ngàn kiếp, nhứt là : Quyến rũ vợ con người vào đường quấy là phá hại gia cang người, lại là một việc ác đứng đầu trong muôn việc ác khác.

Gia dĩ, dâm dục sát hại nhiều Chơn Linh, khi thoát xác. chúng nó kiện nơi Nghiệt Cảnh Đài, chúng ta không chôi tội được. Vậy kẻ tu hành chớ nên ham vui một thuở mà chịu khổ cả muôn đời.

Tóm lại, thân thể người chẳng khác thân thể động vật. Điều chính của nó là hành động mà hành động của nó lại khuynh hướng về tư kỷ nhiều hơn, cho nên chúng ta phải cố gắng gìn giữ giới cấm nầy, để trị thân thể và đem nó về đường Chánh Đạo.

4 . BẤT ẨM TỬU ( Không nên uống rượu )
Thánh Ngôn Đức CHÍ TÔN đề ngày 15-12 năm Bính Dần (18-1-1927) Vì sao phải giới tửu ?
Thân thể con người là một khối Chơn Linh hiệp thành. Chơn Linh ấy hằng sống, Ngũ Tạng Lục Phủ cũng là khối sanh vật tạo nên. Phận sự của chúng nó hoặc hiểu biết hoặc không, đều tùy lịnh Thầy phán đoán, vậy Thầy lấy hình chất xác phàm để giảng dạy.

Hình chất con người cũng như hình chất thú, phải ăn uống mới sống được. Rượu vào tỳ vị, chạy khắp Ngũ tạng, Lục phủ. Trái tim là chủ động của bộ máy sanh sống, mà trái tim bị rượu thâm nhập, khiến cho nó rung động quá mức thiên nhiên đã định, thôi thúc huyết mạch vận hành, một cách quá mau lẹ. Sanh khí nơi phổi không có đủ ngày giờ nhuận huyết, rồi trược huyết thối nhập trong thân thể, truyền thống những chất độc vào trong những sanh vật. Mỗi khối sanh vật ăn rồi phải bịnh, càng ngày càng tăng thêm, rốt cuộc hết sanh lực, cốt tủy lần lần phải chết, thân thể tự nhiên chết theo. Nhiều kẻ bị tê liệt hết nửa thân mình cũng vì rượu.

" Thầy nói sự hại của phần hồn : Thầy nói Chơn Thần là khí chất ( Le sperme évaporé ) bao bọc thân thể các con. Trung tim nó là óc, cửa xuất nhập của nó là mỏ ác, chữ gọi Vi Hộ, Hộ Pháp hằng đứng giữ gìn các con khi luyện Đạo, đặng phép giúp cho Tinh hiệp với Khí rồi đưa khí đến Chơn Thần. Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt mới siêu phàm nhập Thánh. Đó là nguồn cội của sanh khí mà óc cũng vì huyết mạch vận chuyển vô chừng, đến đỗi tán loạn. Thế rồi Chơn Thần an tịnh thế nào đặng thân thể phải chịu ngây dại trở nên thú tánh, thú chất. Như vậy thì mất hết Nhơn Phẩm rồi, còn mong chi đến địa vị Thần Tiên; lại nữa, trong buổi loạn thần, cửa để trống tà mị thừa cơ xâm nhập, giục các con làm quấy gây nên tội tình mà phải chịu luân hồi muôn kiếp.
Vậy Thầy cấm các con uống rượu ".

Vấn đề kiên rượu, cólẽ trong hàng Anh em chúng ta người nào cũng đã có bị một lần say rượu. Vậy sự kinh nghiệm ấy đã dạy chúng ta biết với một cách rõ ràng rằng : Say rượu chẳng những loạn trí não mà Ngũ tạng cũng không còn giữ được chơn lực nữa. Thế thì giới tửu là một điều cấm quan trọng vậy.

5 . BẤT VỌNG NGỮ ( Chẳng nên nói dối )
Thánh Ngôn : Đức Chí Tôn có dạy năm Mậu Dần (1928)
" Nơi thân phàm các con Thầy cho một Chơn Linh theo gìn giữ. ChơnLinh ấy vốn vô tư, đặng phép thông công cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt việc lành, việc dữ đều có ghi. Vậy nên một mảy lành dữ đều có trả.

Lại nữa, Chơn Linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con, mà còn dạy dỗ nữa. Đời thường gọi là Lương Tâm. Thánh xưa nói rằng : Khi Nhơn tức khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội, hoạch tội ư Thiên vô sở đảo. Như các con nói dối, điều ấy chưa dối đặng người, mà các con đã dối lương tâm mình. Một lời nói, tuy chưa thi hành, song tội tình cũng đồng thể, như các con đã làm. Thầy dặn các con : phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, chẳng hơn các con nói tội mà phải chịu trọng hình đồng thể".

Theo giới cấm nầy, ngườit tu không được nói dối, dầu việc lớn hay nhỏ, trọng hay khinh cũng vậy. Cổ nhơn nói : " Nhơn bất tín bất lập ". Đối với thế nhơn : Mình mất tín nhiệm còn không làm nên được, huống chi đối với Trời Phật, cho nên chúng ta phải nói chơn thật và khi nói ra rồi phải giữ lời. Người tu chẳng những không nói dối, mà còn phải nói chơn chánh nữa. Nếu gặp sự thì phải theo sự mà nói thành thật, để cho người nghe tin dùng; nếu gặp lý thì phải tùy lý mà nói minh bạch để cho người nghe hết nghi.

Cấm lưỡng thiệt : Người tu không được đem việc đầu nầy mà nói đầu kia làm cho người nầy giận kẻ nọ mà sanh ra đôi co, cãi cọ.
Phải lánh xa những việc nói xấu kẻ khác, tức là nói hành.

Cấm ác khẩu : Người tu không được nói lời hung dữ, như chửi rủa chẳng hạn. Trái lại, phải dùng lời nói hiền lành, bàn việc hữu ích, phải dùng lời dịu ngọt, an ủi người khốn khó. Nếu gặp người nói hung dữ như : mắng lộn, chửu lộn, thì phải dùng lời êm thắm mà khuyên dứt đôi đường. Nếu gặp người làm việc gì mà thối chí, ngã lòng, thì nên dùng lời nghĩa lý mà khuyên nhủ cho bạn khởi lòng tinh tấn.

Cấm ỷ ngữ : Người tu không được dùng lời khôn khéo, để khêu gợi nguyệt hoa, không được dùng lời bóng bẩy, dể xuyên tạc kẻ khác. Trái lại phải nói ít và thiệt thà.

Bốn giới cấm để kềm dẫn khẩu căn vào cõi thanh tịnh. Người tu chẳng ai mà không biết, nhưng, biết thì dễ mà thực hành thì khó, mà nếu không thực hành được thì cũng như không biết. Đó là chỗ nói rằng : " Học mà không hành thì cũng như không học ". Vậy chúng ta khuyên nhau gắng gượng tiến lên đường đạo đức thực hành.

Ban đầu chúng ta tập ít nói, để có ngày giờ suy nghĩ, trước khi thốt ra lời. Về sau, quen rồi thì việc khó hóa dễ.

TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI
Tứ Đại điều qui là bốn điều luật răn cấm:
1. Phải tuân lời dạy của bề Trên. Chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
2. Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo, đừng nhớ cừu riêng; chớ che lấp người hiền.
3. Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối người trên, dười đừng lờn dể; trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4. Trước mặt, sau lưng, cũng đồng một bực, đừng kính trước rồi sau khi.

Tóm lại, xử sự tiết vật, nên lấy hạnh khiêm cung làm đầu. Tinh thần của lễ là kính. Phàm kính người thì luôn luôn hết dạ kính tin, dầu có mặt, hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu mà trọng, chẳng nên thấy khó mà khinh. Thường lấy lời nhỏ nhẹ mà khuyên bạn làm lành. Phép nước Luật Đạo hết lòng kính giữ. Đó là phương pháp sửa mình lập đức vậy.

GIÁO HUẤN

Đại Đạo có mở trường dạy văn chương và dạy đạo lý trong trường học, có thể lệ riêng.
Người muốn dự cử vào hàng Chức Sắc phải có cấp bằng của Trường Đạo mới được.

Đạo tràng - Trường Đạo có hai lớp :
Một lớp dạy Giáo Hữu và Lễ Sanh thì do một vị Giáo Sư đảm nhiệm.
Một lớp dạy chức việc do Giáo Hữu đảm nhiệm. Sự giáo huấn dưới quyền Hiệp Thiên Đài kiểm soát, vì giáo huấn thuộc quyền Hiệp Thiên Đài.
Vị nào theo học mãn khóa, mà không được cấp bằng thì phải tái học nữa để thi đậu.
Trường học văn chương : Đại Đạo có mở trường dạy văn chương.
Con nít từ 6 tuổi dẫn lên phải đến trường học.

RĂN PHẠT

Có luật dĩ nhiên phải có răn phạt: Nhưng cách răn phạt của Tôn Giáo chẳng giống luật Đời, mà thật cốt yếu là răn dạy. Đại khái như :
Kẻ nào phạm giới luật, nếu có bạn khuyên can thì phải vui lóng nghe theo mà cải quá. Nếu kẻ phạm có một hai lần được khuyên can rồi, mà còn tái phạm nữa, thì chúng bạn được đem việc ấy đến trình bày với vị chức sắc cai quản Thánh Thất sở tại. Nếu Vị Đầu Họ Đạo đã dứt bẫn rồi mà kẻ ấy còn phạm tội nữa thì việc lầm lỗi ấy, có thể đem đến Hội Thánh xem xét. Kẻ phạm luật đạo, có thể trục xuất, nếu tội lỗi không thể tha thứ được.

BAN HÀNH LUẬT ĐẠO

Sáu tháng sau ngày ban hành Tân Luật, chư Tín Đồ phải y tuân điều lệ .
Ngoại trừ :
a . Người hành nghề nào có phạm đến giới cấm thì phải giải nghệ, hạn định một năm.
b . Chức Sắc chưa trường chay được, kỳ hạn hai năm phải tập theo cho kịp.

2 . THẾ LUẬT
Cùng theo học một Thầy, tức thị anh em bạn đồng môn, mà hễ anh em thì phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trên đường Đạo và đường Đời. Tình đồng đạo, nếu ngày trước có hờn giận nhau, ngày nay nên hỉ xả. Quên lỗi củ đặng cùng nhau tạo một nền hạnh phúc chung. Phải tránh việc cải cọ hiện tiền, lấy đức nhẫn nhục đối đãi nhau. Trên dưới thương nhau trên đường Đạo và đường Đời. Ấy là hiến lễ trân trọng lên Đại Từ Phụ vậy.
Nhơn Đạo vốn có Tam Cang, Ngũ Thường, Tam Tùng, Tứ Đức là trọng. Kẻ học Đạo lấy đó làm nền tảng cho cuộc đời mình. Gốc đã thành lập thì tự nhiên ngọn nương theo mà sanh.

Người tín đồ Đại Đạo không nên có hầu thiếp, trừ ra, khi đã bị chích lẽ giữa đường, cần chấp nối. Hoặc giả vợ chánh không con nối hậu, thì đặng phép cưới thiếp, song phải có vợ chánh ưng thuận mới đặng. Vợ chồng chẳng đặng để bỏ, trừ ra tội nặng như ngoại tình, thất hiếu v.v. . . .
Con nít phảicó cha đỡ đầu, phòng khi rủi bị thân côi. Con nít lên bảy tuổi phải cho học đạo, học chữ. Việc Quan Hôn Tang, Tế anh em chung lo với nhau như anh em ruột một nhà. Tang lễ không nên xa xí, không nên quàn Linh cữu lâu ngày, không nên dùng đồ màu sắc, không nên yến ẩm. Việc cúng tế nên dùng đồ chay. Nhạc lễ theo Tân Luật, tang phục y như xưa.

Quân tử chi Đạo tạo đoan hồ phu phụ, Đạo làm người khởi đầu tại việc lập vợ chồng; gốc nếu rủi lầm lỗi thì sau ắt khó sửa chữa. Vậy nên người Tín Đồ phải kết hôn với người đồng đạo; trừ ra khi người ngoại đạo ưng thuận nhập môn trước rồi sau kết thành vợ chồng.

Trước lễ thành hôn 8 ngày, chủ hôn trai phải dán bố cáo tại Thánh Thất sở tại, gọi là Bát Nhựt. Ấy là ngừa sự trắc trở về sau. Lễ hôn phối cần cầu chứng nơi Thánh Thất sở tại.

Về việc sanh nhai, người Tín Đồ phải chọn một nghề nào không có tánh cách sát hại sanh vật, không có bại tục, tồi phong.

3 . TỊNH THẤT
Tịnh thất là một giáo đường thâm nghiêm. Tín đồ vào đó đặng an thần, dưỡng trí, tu luyện đến công viên quả mãn. Nơi đây, mỗi người đặng thọ bí quyết của Đức Chí Tôn truyền dạy và được dìu dắt cho đến siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn.
Hạng tín đồ nầy là bực tối thượng thừa, xong xuôi tất cả bổn phận làm người; nghĩa là chẳng còn dính dấp với gia đình xã hội nữa, mới đặng nhập Tịnh Thất. Hội Thánh sẽ xem xét kỹ càng, trước khi thu nhận.

Tịnh thất có kỷ luật riêng, ngày giờ công phu, hoặc ăn nghĩ, mỗi mỗi đều nhứt định. Cấm người trong tịnh thất giao tiếp với kẻ ngoài, hoặc thơ tín, hay bàn chuyện cũng vậy.

Trong tinh thất có luật riêng, kẻ ở tịnh thất nhứt nhứt phải tuân theo kỷ luật ấy. Đó gọi là Luật Xuất Thế.

Tóm lại : Lễ nghi và Luật Đạo tuy hình thức khác nhau, nhưng đồng đem lại một kết quả. Nghi lễ để trau giồi tâm lý, Đạo luật để cầm vững hành vi. Cả hai đều giúp cho người vững bước trên đường tu tỉnh.

Ấy vậy kẻ học phải biết quan sát, phải biết áp dụng, hầu cho mình có một tinh thần kỷ luật.
Phần Thứ Hai
VŨ TRỤ và NHƠN SANH QUAN

Vũ Trụ Quan

CHƯƠNG THỨ NHỨT
VŨ TRỤ QUAN
Vũ Trụ là gì ?
Lục Cửu Uyên người Trung Hoa sanh vào khoảng năm 1139-1192 nói rằng:
" Thượng Hạ tứ phương viết Vũ
Cổ vãng kim lai viết Trụ ".
( Bốn phương trên dưới gọi là Vũ, xưa qua nay lại không cùng gọi là Trụ ). Ở đây, chúng tôi muốn nói : Đạo biến hóa tạo Thiên, lập Địa, sanh hóa muôn loài. Tức là dịch lý của Vũ Trụ có liên đới quan hệ với đời sống của chúng ta. Đạo Dịch ấy trải qua 2 thời kỳ:

TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO - HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO.

TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO

Đạo có trước Trời là vô danh, vô hình mà Đức Chí Tôn vi chủ, như câu Thánh Ngôn nói rằng:
" Khi chưa có Trời Đất thì Khí Hư Vô sanh có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái Cực, Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Biến Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mà tạo lập Càn Khôn Thế Giái. "

Theo bài Thánh Ngôn nầy mà suy, chúng ta hiểu như vầy: Thoạt kỳ thủy, thì Khí Hư Vô sanh có một Đức Chí Tôn và Thái Cực.

Kế đó, Đức Ngài ngự trên ngôi Thái Cực mà điều khiển Thái Cực sanh ra Âm Dương. Từ đó về sau, Lưỡng Nghi cứ biến hóa mà tạo Thiên lập Địa. Hoặc nói cách khác là số 1 biến ra số 2, số 2 biến ra số 4, số 4 biến ra số 8, số 8 biến hóa vô cùng mà tạo lập Trời Đất.

Sự tích Tiên Thiên Bát Quái Đồ
Vua Phục Hy sanh về đời tối cổ bên xứ Trung Hoa. Thời đại ấy, Thần linh học phát triển đến tột độ cao siêu. Ngài là một Ông Vua Minh Quân Thánh trị tài cao, đức rộng tinh thần minh mẫn, hàm dưỡng được trọn vẹn trí huệ của Trời ban cho. Huệ nhãn của Ngài xem suốt cõi vô hình.

Khi dạo trên bờ sông Hà ( Ngày nay gọi là Huỳnh Hà ), Ngài trông thấy một con thú mình ngựa đầu rồng, mạng danh là Long Mã, trên lưng có năm mươi lăm chấm. Vua Phục Hy do đó mà chế ra bản đồ " Tiên Thiên Bát Quái ", người đời thường gọi là Phục Hy Bát Quái.


Sự tích Long Mã
Theo sách Nho, Long Mã bề cao 8 thước, năm tấc ( Thước Tàu ), xương cổ dài, chưn ngựa đầu rồng, trên mình có vảy như rồng.

Kinh Dịch chép rằng : Long Mã là vật linh : Kết hợp bởi 8 tinh túy của Thái Dương Hệ biến hiện dưới tầm mắt của Vua Phục Hy là một vị chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô hình, thấy rõ Linh Vật của Trời Đất, mang chở những cái tinh anh của Thái Dương Hệ,

Rồng là một linh vật trong số Tứ Linh: " Long, Lân, Qui, Phụng ", có đủ nơi mình tinh túy của Vũ Trụ. Ngựa là vật chở người và đồ vật đi mau lẹ.

Tóm lại, Long Mã tượng trưng Âm Dương tương hiệp, tức thời gian trôi qua mau lẹ và mang theo những tinh túy của Trời Đất để chan rưới sự sống cho muôn loài vạn vật.

Vua Phục Hy sanh đời tối cổ bên Tàu 4449 trước Tây Lịch, căn cứ theo đó mà phác học bản đồ " Tiên Thiên Bát Quái ".

Xuyên qua Tam Giáo chúng tôi thấy sau :
a) Đạo Giáo: Đạo Đức Kinh chương một nói rằng: " Vô danh Thiên Địa chi thủy ". Không tên là cái có trước Trời Đất. Nay như hỏi cái " Vô danh " ra sao ? Đạo Đức Kinh chương 25 nói rằng: " Có cái tự nó hỗn luân mà sanh thành lấy nó. Cái ấy sanh trước Trời Đất, yên lặng trống không, đứng một mình mà chẳng nghiêng chẳng lệch, lưu hành khắp nơi mà chẳng mòn mỏi. Cái ấy khá gọi là nguồn sanh hóa Thiên hạ, Ta không biết tên gì, song mượn chữ gọi là Đạo ".
" Hữu vật hỗn thành,
Tiên Thiên địa sanh,
Tịch hề, liêu hề,
Độc lập nhi bất cải,
Châu hành nhi bất đãi;
Khả dĩ vi Thiên Hạ mẫu,
Ngô bất tri kỳ danh,
Tự chi vi Đạo."
b ) Nho Giáo: Chu Liêm Khê là người Trung Hoa, sanh vào khoảng năm 1017-1073 nói rằng:
" VÔ CỰC nhi Thái Cực ".
Sở dĩ nói rằng: " Vô Cực " mà Thái Cực là vì Thái Cực ở trong Vô Cực mà ra. ( Hữu sanh ư vô ).

Hoặc nói rõ là: Vô Cực là cái bản thể vô vi tự tại, lặng lẽ bất biến, người ta dùng ngôn ngữ để mô tả thì không nói rõ được, dùng trí phàm để ngẫm nghĩ, thì không ngẫm nghĩ nổi, nhưng đứng về phương diện Dịch Lý thì gọi Vô Cực là Thái Cực là đầu mối sanh Âm Dương.

c ) Phật Giáo : Phật Giáo gọi Đạo là Chơn Như. Có câu nói rằng: " Chơn Như giả Vũ Trụ chi bản thể, nải bất sanh, bất diệt, vô thủy, vô chung, bất tăng, bất giảm ". Nghĩa là Chơn Như là bản thể của Vũ Trụ, chẳng sanh, chẳng diệt, không trước, không sau, chẳng thêm, chẳng bớt. Tịnh thì gọi là Chơn Như, Động thì hóa dục vạn vật ( Chư Pháp ).

Tóm lại : Khí Hư Vô, cái Vô danh, Vô Cực, Chơn Như, danh từ tuy khác, nhưng tựu trung đều chỉ về một bản thể " Không ".

Có điều nên lưu ý là : Tuy nói Đạo là vô danh, vô hình, vô sắc, tức cái bản thể " Không ", nhưng cái bản thể " Không " ấy chẳng phải trống rổng mà nó lại là "" tức là cái diệu hữu" là cái năng lực sanh hóa, Đạo Đức Kinh chương 14 nói rằng :

Đạo có 3 trạng thái là : Di, Hi, Vi.
" DI : Xem mà chẳng thấy nên gọi là Di
HI : Lóng mà chẳng nghe, nên gọi là Hi,
VI : Bắt mà chẳng nắm được, nên gọi là Vi ".

Di, Hi,Vi ba trạng thái hỗn hợp, thành một bản thể. Cái bản thể ấy phía trên không phản chiếu ánh sáng, phía dưới không ẩn khuất bóng tối,vằng vặc mà chẳng có tên, rồi lại trở về chỗ không vật. Thật Đạo là hình trạng của cái vô hình, là tượng của cái vô vật.
( Thị chi bất biến danh viết DI,
Thính chi bất văn danh viết HI,
Bác chi bất đắc danh viết VI,
Thử tam giả bất khả tri cật,
Cố hỗn chi vi nhứt,
Kỳ thượng bất kiếu,
Kỳ hạ bất muội,
Thằng thằng bất khả danh,
Phục qui ư vô vật,
Thị vị trạng chi vô trạng ).
Tóm lại, nay như nói Đạo là " Không " thì chẳng phải, còn như nói Đạo là " Có " thì lại lầm, cho nên nói Đạo dường như có, dường như không, tức trong cái " Không " có cái " Diệu hữu " là năng lực hay hóa sanh, sanh hóa.

Thái Cực, khi tỏ lên rồi, Thái Cực cứ Tịnh và Động mà sanh Lượng Nghi. Nghĩa là Thái Cực khi Tịnh thì sanh Khí Âm, tịnh hết sức rồi lại động, động thì sanh khí Dương. Thái Cực luân chuyển một động, một tịnh mà sanh nhị khí Âm Dương.

Âm Dương có tánh tương khắc mà lại tương hòa. Bởi tương khắc cho nên Âm Dương gặp nhau thì hỗn độn, đến tột độ rồi lại điều hòa. Chính sự hỗn độn điều hòa của Âm Dương nhị khí là Cơ định vị Trời Đất.

Theo sách Nho: Trong lúcÂm Dương hỗn độn điều hòa, khí nhẹ thì bay lên cao thành Trời, khí nặng thì chìm xuống thấp thành Đất. Cao thấp đã phân, tức Trời Đất đã định vị, rồi từ đó về sau, Đạo lại biến hóa nữa mà hóa sanh muôn loài. Thời kỳ nầy gọi Hậu Thiên Đại Đạo ( Đạo có sau Trời ) sẽ kể như sau:

HẬU THIÊN ĐẠI ĐẠO

Nhắc lại : Khi Trời Đất phân ngôi cao thấp rồi, trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất. Khí Âm Dương lại hỗn độn điều hòa nữa mà hóa sanh vạn vật. Đức Chí Tôn dạy rằng:
Thánh Ngôn: " Khi tạo lập Càn Khôn Thế Giái rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm gọi là chúng sanh. Vậy các con đủ hiểu rằng: " Mỗi vật hữu sanh nơi Thế gian nầy đều do Chơn Linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy. Thầy là Cha sự sống, vì vậy nên lòng Háo sanh của Thầy là vô tận ".

Ở đây, Đạo Đức Kinh chương 1 nói rằng :
" Hữu danh vạn vật chi mẫu "
Chữ " Hữu danh " ám chỉ Trời Đất, có hình danh là nguồn hóa vạn vật.

Kinh Dịch lại nói rằng :
" Thiên Địa nhơn luân,
Vạn vật hóa thuần, Nam Nữ cấu tinh,
Vạn vật hóa sanh ".

Nghĩa là Trời Đất ngui ngút hóa thuần muôn vật. Vạn loại đến lượt nó, khi trưởng thành rồi, giống đực và giống cái giao cấu mà sản xuất vạn vật.
Cơ hóa sanh vạn vật như thế, cho nên không bao giờ cùng tận.

Chu Liêm Khê là người Trung Hoa sanh vào khoảng năm 1017-1073 nói rằng :
Dương động thì biến hóa, Âm tịnh thì tập hợp. Bởi sự biến hóa và sự tập hợp của Âm Dương nhị khí mà sanh ra Ngũ hành (Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ). Cái Chơn của Vô Cực là Lý, cái Tánh của Âm Dương Ngũ Hành là Khí. Lý và Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ Khôn sanh con gái.

Sự tích Hậu Thiên Bát Quái.
Lạc Thơ là sách do sông Lạc mà lập thành, nguyên Vua Võ, sanh lối 2206 trước Tây Lịch. Thỉ Tổ nhà Hạ, khi nước lụt, người ta trấn nước ở bực sông Lạc, khi nước cạn, có một con Linh Qui đội cầu, trên lưng có 9 số, Vua Võ theo đó mà sắp đặt thành họa đồ Hậu Thiên Bát Quái.

Máy Huyền vi tức Đạo: Nguyên Vạn vật do Đạo mà sanh nên gọi là xuất sanh. Vạn vật tử ở thế gian thì về với Đạo, cho nên gọi nhập tử. Trong sách " Cung Oán Ngâm Khúc " Ông Ôn Như Hầu nói rằng: " Máy Huyền vi mở đóng không lường " tức Đạo.


Âm Dương giao cảm ( Khí hòa ) mà hóa sanh vạn vật. Nam Nữ giao cấu ( hình hòa ) mà sản xuất muôn loài.
(Thể theo Nho Giáo Trần Trọng Kim )
Đây là đầu mối mà Vua Võ, đời nhà Hạ bên Tàu sanh lối 2206 trước Tây Lịch, căn cứ để lập thành bản đồ Hậu Thiên Bát Quái. ( Xem hình trang 88 )

Tóm lại: Tiên Thiên Bát Quái vẽ tượng Âm Dương, như chúng ta thấy Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Bát Quái, nghĩa là số 1 biến ra số 2, số 2 biến ra số 4 v.v . . . .

Hậu Thiên Bát Quái định số Ngũ Hành, tức như nói rằng: Dương động thì biến hóa, Âm tịnh thì tập hợp; bởi sự biến hóa và tập hợp của Âm Dương mà sanh Ngũ Hành ( Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ ).
Hai Bát Quái Tiên Thiên và Hậu Thiên làm biểu lý nhau mà thành Dịch Lý của Vũ Trụ.

Dịch lý gồm có hai trạng thái : Một trạng thái thì bàng bạc trên Hư không, một trạng thái nữa thì trường lưu trong vạn vật. Một đàng phân tán, một đàng thu liễm, thành một đóng một mở máy huyền vi ( 1 ) là nơi xuất sanh, nhập tử muôn loài, vạn vật. Kinh Dịch nói rằng :
" Nhứt hạp, nhứt tịch vi chi biến hóa,
Vãng lai bất cùng vị chi Đạo ".

Nghĩa là một đóng, một mở gọi là biến hóa; qua lại, lại qua không cùng gọi là Đạo.

Đạo biến hóa vận hành như thế, cho nên có một hôm Đức Khổng Phu Tử đứng trên bờ sông ngắm nước chảy mà than rằng :
" Thệ giả như tư phù,
bất xá trú dạ ".
Nghĩa là ngày đêm cuồn cuộn chảy như thế nầy ư ! ?
Đại ý nói rằng : Dịch lý luôn luôn chuyển vận không ngừng, cũng như nước sông chảy đi kia vậy. Thời tiết theo đó mà vần xoay; hết Xuân Hạ thì tới Thu Đông, vạn vật theo đó mà sanh thành trưởng dưỡng, già chết rồi tái sanh nữa.

Giả sử: Nước chịu hơi nóng Thái Dương, nước thoát lên không gian làm mây; mây tan rã xuống trần gian thành nước. Còn như những vật hóa sanh như: Lá cây biến thành sâu, củ cỏ biến thành dế, chuột biến thành dơi, lươn biến thành chồn v.v . . . .Biết đâu những vật nầy còn biến hóa thế nào nữa, nhưng chúng tôi không biết được.

Chúng ta thử tạm dùng hột lúa là vật có hình chất, để minh chứng sự thay đổi của vạn vật.
Thoạt kỳ Thủy, Âm Dương vận hành, một đơn cử xuất phát, lưu hành trong Vũ Trụ mà nương theo Luật " Đồng khí tương cầu " cấu sanh hình thể hột lúa thế nào thì chúng ta không biết, nhưng khi hột lúa có đủ thể chất rồi. nó cũng vẫn còn thay đổi nữa.

Đại để như: Hột lúa được gieo xuống đất thì nó nương theo Tứ Đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) mà biến thành cây mạ. Cây mạ khi được cấy xuống ruộng thì cây mạ biến thành cây lúa, đến lượt cây lúa đơm bông trổ hột lúa khác. Nếu hột lúa mới nầy được gieo nữa thì nó cũng thay đổi như hột lúa trước. Có điều lạ là: Khi hình thể nầy biến ra hình thể khác thì cái nguyên thể của nó không còn nữa. Như hoa thành trái thì hoa tàn, trái thành cây thành thì trái hoại. Đó là bởi vật nầy ăn sâu vào vật nọ, thành thử, chúng nó sanh ở đây thì tử ở kia.

Vạn vật theo cơ tuần hoàn của Trời Đất mà diễn tiến rất mau lẹ. Giác quan chập chạp của chúng ta chưa kịp nhận định trạng thái nầy thì nó đã biến sang trạng thái khác. Nhưng lúc nào vạn vật cũng phải theo Đạo mà sanh tồn thì mới sống và tấn hóa, cho nên Đạo Đức Kinh chương 39 nói rằng :
" Thiên đắc nhứt dĩ thanh,
Địa đắc nhứt dĩ ninh,
Thần đắc nhứt dĩ linh,
Vạn vật đắc nhứt dĩ sinh,
Kỳ tri nhi nhứt giả,
Thiên vô dĩ vi thanh, tương khủng liệt,
Địa vô dĩ vi ninh, tương khủng phế,
Thần vô dĩ vi linh, tương khủng liệt,
Vạn vật vô dĩ vi sinh, tương khủng diệt ".

Nghĩa là: Trời đặng Một (Đạo) thì trong sáng, Đất đặng Một thì yên lặng, Thần đặng Một thì Linh Thiêng, muôn loài đặng Một thì sanh tồn. Đến như số Một (Đạo) nói đây, nếu : Trời chẳng đặng nó để làm cơ sở trong sáng thì e Trời phải vỡ, Đất chẳng đặng nó để làm cơ sở yên lặng thì e Đất phải lở, Thần chẳng đặng nó để làm cơ sở linh thì e Thần phải tản, muôn loài chẳng đặng nó để làm cơ sở sanh tồn thì e muôn loài phải dứt.

Thế đủ hiểu rằng người ta phải theo Đạo mà sanh sống và Tấn hóa đến chỗ Chơn Thiên Mỹ. Trái lại thì người ta phải dứt.

Hai chương " Thượng Thừa, Hạ Thừa " sau đây giảng giải phương pháp thông đạt Đạo, nhưng, chúng tôi xin nghị luận Thiên Triều, Luật Nhơn Quả và Luân Hồi trước, rồi sau sẽ bàn đến pháp môn tu tập.
QUAN NIỆM THIÊN TRIỀU

Chúng ta trông thấy Vũ Trụ bao la : Trên có Trời che, dưới có Đất chở, ở giữa có sơn xuyên, thảo mộc, cầm thú và người ta. Mỗi mỗi đều an bày một cách trang nghiêm huyền nhiệm. Nếu suy diễn nữa, chúng ta tin tưởng rằng phía sau Thế Giới vạn hữu còn có một Thế Giới huyền linh nữa. Thống trị Thế giới huyền linh là Đức Thái Cực Thánh Hoàng và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ trì. Triều của Thượng Đế, chúng ta tạm gọi là Thiên Triều :
Thánh Ngôn của Bà Bát Nương:

" Trong Vũ Trụ bao la, không gian ở trên là Thượng tầng Bí Pháp của quyền năng Thiêng Liêng Đức Chí Tôn vi chủ; Thần, Thánh, Tiên, Phậ hộ trì, Thời Gian ở dưới có đủ khí chất để tạo dựng Thế giới hữu vi và vật chất hữu hình. Phép mầu nhiệm ấy do quyền năng tuyệt đối của Đức Chí Tôn vận chuyển, khiến cho Không Gian phối hợp với Thời Gian thành cơ huyền nhiệm tạo lập Càn Khôn, hóa sanh vạn vật và Đức Chí Tôn còn hiệp lập Thiên Thơ định thành Thiên Điều là Pháp Luật Thống Trị Càn Khôn Vạn Vật ".

THIÊN CUNG
1 . Tân tả Bạch Ngọc Kinh
Một tòa Thiên Các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Thiên Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề sao.
                                                                                                 ( Thánh Ngôn )

2. Ngọc Hư Cung: Ngọc Hư Cung sẵn có Thiên Điều là luật thưởng phạt Bát Hồn (Bát hồn là: Vật chất Hồn, Thảo Mộc Hồn, Thú Cầm Hồn, Nhơn Hồn, Thần Hồn, Thánh Hồn, Tiên Hồn, Phật Hồn), Ngôi hành pháp là Linh Tiêu Điện, có đủ oai linh của Thái Cực Thánh Hoàng ban bố, để giữ vững máy hành tàng Đạo vô vi

Luật tấn hóa của Bát Hồn do quyền năng vô đối của Chí Tôn phán định. Chơn Pháp ấy vận hành từ vô vi ra hữu tướng, từ hữu tướng trở lại vô vi, mỗi đều căn cứ vào :
Hư vô là chuẩn đích.
Vận chuyển là hành tàng.
Điều hòa là phương pháp.
Chơn chánh là phương định.

ĐỨC THƯỢNG ĐẾ

Theo lẽ thường, trông thấy một tòa nhà nguy nga, đồ sộ, chúng ta liên tưởng đến vị Kiến Trúc Sư phát họa, tao tác nó. Trông thấy đứa bé ngộ nghĩnh, chúng ta nghĩ đến cha mẹ nó. Cũng như trông thấy Vũ Trụ bao la: Trên có Trời, dưới có Đất, giữa có sơn xuyên cẩm tú, thảo mộc muôn màu, ngắm đến vạn vật có thiên hình, vạn trạng khác nhau, nhưng mỗi mỗi đều an bày với một cách vô cùng tuyệt xảo; trông thấy Vũ Trụ vạn vật như thế, ắt chúng ta nghĩ đến Đấng Tạo Hóa, mà Nho Giáo sùng bái với danh hiệu Thượng Đế. Mời quý Ngài cùng chúng tôi tham cứu như sau:
Tham khảo kinh điển: Bà-La môn giáo giảng cái thuyết Tam Vị nhứt thể:

Brahma : Hóa công.
Vishmou : Thành tựu.
Shiva : Hủy diệt.

Đạo Giáo giảng cái thuyết Ứng hóa Tam Thanh:Thái Thanh.
Thượng Thanh.
Ngọc Thanh.
Đó là chỉ vào một Đức Thượng Đế Ứng Hóa Ba Ngôi.

Tham khảo lễ nghi: Tôn giáo nào cũng có sùng bái một Đấng Cao cả hơn hết, nhưng mỗi Tôn Giáo, tùy cách lập giáo, và tùy ngôn ngữ của Dân tộc mà xưng tụng một danh hiệu riêng như : Phật giáo Đại Thừa thờ Đức A-Di-Đà-Phật, tức đức Phật sanh trước muôn vàn Đức Phật khác.

Đạo Giáo thờ Đức Thái Thượng Đạo Tổ, tức Đấng tối cao vô thượng.

Nho giáo thờ Đức Thượng Đế.
Vốn có một Đức Chí Tôn, nhưng sùng bái với nhiều danh hiệu. Nay khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, tức là danh hiệu qui nguyên Tam Giáo, như chúng tôi đã giải trong mấy chương trước.

Tham cứu thực tế: Người thế gian chưa mấy ai nghe Trời nói, chưa mấy ai trông thấy Thiên Thể của Đức Chí Tôn. Nhưng, mỗi khi lâm tai nạn thì ai cũng kêu Trời cầu cứu. Vậy lòng tín ngưỡng đã có từ ngàn xưa.

Rất may cho nhơn loại, ngày nay Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Tiên gia khai mở mối Đạo Trời, mà Đức Ngài cầm quyền Thiêng Liêng Chưởng Giáo, nhờ sự linh ứng của phép phò cơ, chấp bút mà chúng ta suy diễn đến Đấng Tối cao vô thượng với một cách rõ ràng hơn ngày trước. ( Xem lại chương tiểu sử Đại Đạo )

Chúng tôi xin trích trong sách Phật một chuyện cha con của người kia học hỏi chơn lý như sau, âu cũng giúp thêm một tia ánh sáng :

Người con xin cha dạy chơn lý.
Người cha nói : Con lấy một nắm muối bỏ vào chậu nước, hôm sau con trở lại xem.
Người con làm theo lời cha.
Hôm sau người cha bảo :
Muối mà bỏ vào nước hôm qua, con hãy mang lại đây cha xem.
Bây giờ, người con vớt mãi mà không thấy muối, vì muối đã tan và hòa trong nước rồi.
Người cha bảo : Con hãy nếm nước trong chậu, nếm nước trên mặt, nếm nước ở giữa, xem như thế nào ?
Thưa cha mặn và vẫn mặn.
Con nếm cho thật kỷ rồi lại đây cha bảo.
Người con nếm đi nếm lại rồi thưa :
Thưa cha, vẫn mặn.
Người cha trịnh trọng nói : Thế đó con ạ! Con không phân biệt được cái Thực thể tinh vi tạo dựng Vũ Trụ, sanh hóa muôn loài, vì nó đã hòa hợp với thế giới vạn hữu, cũng như muối hòa hợp với nước kia vậy.

Cây chuyện nầy đại ý cũng như Thánh Ngôn Đức Chí Tôn nói rằng : " Các con đủ hiểu : Mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do Chơn linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha sự sống."

Kinh Upanishads nói rằng: Tất cả cái gì ở thế gian đều có Thượng Đế bao bọc. Cái Thực thể ấy là nguồn sống tràn ngập cả Vũ Trụ : Từ các vì Tinh Tú, các Quả Địa cầu hình thành trong vòng trật tự cho đến các loài động vật, mỗi mỗi đều nương nhờ nguồn sống ấy mà sanh tồn và tấn hóa.

Vậy mỗi người trong chúng ta, ai ai cũng đều có sự sống ở trong mình, mà sự sống thì trông không thấy, lóng không nghe, rờ không đụng. Như thế thì chúng ta chẳng lẽ chúng ta phủ nhận sự sống của mình sao ? Sự hiện hữu của Đức Thượng Đế cũng vậy. Nghĩa là: Chẳng lẽ vì trông không thấy, lóng không nghe, rờ không đụng, mà chúng ta cho là không có Thượng Đế sao ?

Có điều khó cho Thế nhơn là Đức Chí Tôn ngự trị trên cõi siêu nhiên, cảm quan của người ta không đến được, làm cho người đời bánn tín bán nghi. Trái lại, các nhà chơn tu nhờ lòng tín ngưỡng dẫn họ đến trước Thượng Đế, với một cách rõ ràng.

LUẬT NHƠN QUẢ

Nhơn chỉ về hạt giống, Quả chỉ về trái mới sanh. Tóm lại, Nhơn Quả có nghĩa đen là gieo giống nào thì hái trái ấy. Đây Nhơn Quả có nghĩa bóng là làm lành thi phước trả lại, làm dữ thì họa đến không sai. Sự báo ứng lành dữ y như gieo giống nào thì hái gặt trái ấy kia vậy. Kinh Phật thường lấy việc trồng dưa, trồng đậu làm tỷ dụ với Luật báo ứng, cho nên có câu : " Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu ".
Chúng tôi xin phân tách việc trồng đậu như sau, để nương đó mà nhận thức Luật Nhơn Quả đối với kiếp người.

   Hột đậu gieo xuống đất là Nhơn.
   Đất, Nước, Gió và Hơi nóng mặt trời là Duyên.
   Trái đậu mới sanh là Quả.
   Nhơn, Duyên, Quả là ba yếu tố sanh hóa vạn loại.

Nay chúng ta nương theo cách trồng đậu, để nhận xét Luật Nhơn Quả đối với kiếp người thì chúng ta hiểu rằng: Tư tưởng, lời nói, cách hành vi của người, sau khi tác động rồi còn lưu lại một diển ảnh trong không gian đó là Nhơn.

   Tinh thần của Vũ Trụ là Duyên.
   Phước họa trả lại cho người là Quả.

Vậy những điều phước họa, bây giờ là cái kết quả của sự hành vi trước, còn về hành động bây giờ sẽ làm Nhơn cho ngày sau, hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc trong kiếp vị lai. Theo lẽ nầy mà suy ra : Kiếp hiện tại vừa trả Quả cho kiếp quá khứ vừa tạo Nhơn cho kiếp vị lai và như thế rồi Nhơn kia Quả nọ, Quả nọ Nhơn kia, nối liền nhau thành một sợi dây duyên nghiệp ràng buộc chúng sanh trong bánh xe Luân Hồi không lối ra, nếu người ta không giác ngộ.

LUẬT LUÂN HỒI

Luân hồi nghĩa là xoay chuyển mãi, cũng như bánh xe lăn qua rồi lăn qua nữa không lúc lào ngừng.Về Đạo pháp, chữ Luân hồi chỉ về mặt chuyển kiếp của chúng sanh, như kiếp nầy làm người, kiếp tới làm Tiên Phật hay Ngạ quỉ, hay xúc sanh. Tấn hóa hay thối hóa đều do sở hành của người mà ra.
Đức Chí Tôn dạy: " Các con sanh trưởng nơi Thế gian nầy, khi tử hậu các con đi đâu ? Chẳng có một đứa hiểu cơ mầu nhiệm ấy. Thầy nói: Cả kiếp Luân Hồi của chúng sanh, thay đổi từ vật chất ra thảo mộc, từ Thảo Mộc ra Côn Trùng, từ Côn Trùng ra Thú Cầm, loài người phải chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn Phẩm."

Nhơn Phẩm chia ra làm nhiều hạng, bậc Đế Vương nơi Địa Cầu nầy chưa bằng bực chót Nhơn phẩm Địa Cầu 67, số Địa Cầu càng tăng lên; Nhơn Phẩm càng cao trọng. Mãi đến Đệ Nhứt Địa Cầu, Tam Thiên Thế Giới, rồi mới đến Tứ Đại Bộ Châu, rồi mới vào Tam Thập Lục Thiên; qua Tam Thập Lục Thiên rồi còn phải chuuyển kiếp tu nửa mới vào Bạch Ngọc Kinh, Phật gọi Niết Bàn.

Một kẻ kia, tuy chưa có chơn trong Tôn Giáo, song đã làm tròn Nhơn Đạo, tức làm xong bổn phận làm người, thì buổi chung qui cứ theo nấc trên mà tiến lần. Trên đường về Thầy, các con thử nghĩ ngày nào mới đến ? Vì vậy, nên Thầy ban cho nhơn loại một quyền hành rất rộng. Nếu các con sớm tỉnh ngộ thì một đời tu cũng có thể trở về cùng Thầy. Nhưng tiếc thay ! Thầy chưa từng thấy kẻ ấy ".

Riêng về kiếp luân hồi của cá nhơn, chúng tôi xin nghị luận như sau : Vả lại, mỗi người trong chúng ta đều có ba xác thân :
1 . Đệ nhứt xác thân, tức Phàm Thể.
2 . Đệ nhị xác thân, tức Chơn Thần.
3 . Đệ tam xác thân, tức Chơn Linh.

1 . Luân hồi của phàm thể : Cả Cơ chuyển sanh, biến kiếp đều do khí Âm Dương, Ngũ Hành diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành, nghĩa là từ buổi thành hình trong bào thai đến khi ra đời và nên vai nên vóc, lúc nào cũng nhờ khí Âm Dương, Ngũ Hành sanh dục, trưởng dưỡng đến mãn kỳ sanh thọ thì thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, Tứ Đại ( Địa, Thủy, Hỏa, Phong ) hườn nguyên về bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hóa hình hài khác nữa.

Vậy Nhơn thân vốn tạm khí chất của Vũ trụ cấu sanh, cho nên người ta phải vay nợ của Âm Dương, Ngũ hành gọi là nợ tiền khiên. Luật Nhơn quả đã định cơ vay trả ấy, dầu người nào muốn phủ nhận cũng không chối được. Nhơn quả là nguyên nhân sanh kiếp Luân hồi. Ấy vậy, nên hễ muốn giải thoát kiếp sanh tử thì phải thanh toán mối nợ tiền khiên ấy.

2 . Luân Hồi của Chơn Thần. Thánh Ngôn năm Mậu Thìn ( 1928 )
" Thầy nói : Chơn Thần là Đệ Nhị xác thân của các con, là khí chất ( Sperme évaporé ) bao bọc thân thể các con như khuôn bọc vậy. Trung tim nó là Óc, cửa ra vào là mỏ ác chữ gọi Vi Hộ; nơi ấy, Hộ Pháp hằng đứng gìn giữ Chơn Linh các con khi luyện Đạo, đặng giúp cho Tinh hiệp với Khí và đưa Khí đến Thần. Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt thì mới siêu phàm nhập Thánh ".

Phận sự của Đệ Nhị xác thân là dìu dẫn nhục thân hành động theo Thiên Lý. Trong kiếp hiện tại, nếu Chơn thần làm chủ Nhục thân khiến cho phàm thể hành động theo Chơn pháp thì chung qui Chơn thần sẽ được hiệp với Chơn linh, tạo thành một khí thể Vô Vi, chẵng những khi tử hậu được siêu thoát cõi trần mà lúc sanh tiền cũng có thể xuất ngoại. vân du trong cõi Ta bà nữa, người tu đến đây gọi là Đắc Đạo.

Trái lại, nếu trong kiếp hiện tại, Chơn thần không làm chủ Nhục thân để cho Đệ Nhứt xác thân buônglung theo phàm trần, phóng túng theo vật chất gây nên tội tình ác nghiệt thì khi nhục thân tiêu tan dưới mồ, Chơn thần phải thọ lãnh tội nghiệp ấy mà chuyển sanh kiếp khác, để rồi tạo dựng một nhục thân thô kịck thấp hèn hơn; đó gọi thối hóa. Vậy chúng sanh sở dĩ siêu hay đọa là tại Chơn thần một phần lớn.

3. Luân hồi của Chơn Linh. Thánh Ngôn năm Mậu Thìn ( 1928)
" Thầy đã nói : Nơi thân phàm của các con mỗi đứa Thầy đều có cho một Chơn Linh theo gìn giữ Chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng không cần nói các con cũng hiểu rằng: Chơn Linh ấy vốn vô tư mà lại đặng phép giao thông cùng cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và Các Đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt việc lành, điều dữ điều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa phán xét, bởi vậy một mãi không sai: Dữ lành đều có trả. Lại nữa, Chơn Linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con mà còn dạy dỗ các con nữa, thường nghe đời gọi lẫn là lương tâm ".

Theo Thánh Giáo, chúng ta hiểu rằng:
Chơn Linh nương Chơn Thần để dự trường thi công quả tại thế gian. Chơn Thần có phận sự chế ngự Nhục thân, Chơn Linh lại gìn giữ Chơn Thần.

Trong kiếp hiện tại, nếu Chơn Thần không chế ngự Nhục thân, Chơn Linh không gìn giữ Chơn Thần hành động theo luật pháp chơn truyền, đến khi Nhục Thân chết thì Chơn Thần phải chuyển kiếp. Còn Chơn Linh thì phải chờ mãi cho đến khi nào Chơn Thần tạo được một Nhơn Hình có đầy đủ thiện quả thì Chơn Linh sẽ đến cùng Chơn Thần hiệp tạo Khí Thể vô vi, như đã nói trên, tiếng thông thường gọi đó là đắc quả Thiêng Liêng. Theo Thánh Ngôn : Kẻ hành giả phải có Khí thể ấy thì mới đặng đến trước mặt Đức Chí Tôn.

Nói rút lại: Thế gian là trường học của chúng sanh, là trường thi công quả của muôn loài : Đắc thì về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, thất thì còn ở lại trần gian, chen lấn cùng các vật thể hữu vi, để đoạt cơ chuyển luân tấn hóa, mà then chốt là Nhơn Quả và Luân Hồi.

Nhơn Quả và Luân Hồi thường đắp đổi lẫn nhau, để định sự Tấn Hóa hay Thối Hóa của chúng sanh, nghĩa là có Nhơn Quả thì có Luân Hồi, mà Hễ có Luân Hồi thì có Nhơn Quả. Ấy vậy nên ngày nào chúng sanh không tạo Nhơn Quả thì sẽ không Luân Hồi, mà hễ không Luân Hồi tiện thị cũng chẳng gây ra Nhơn Quả.
Không Luân Hồi, Không Nhơn Quả tức là giải thoát kiếp sanh tử.

Tóm lại: Quan niệm Vũ trụ nói đây là Vũ trụ tinh thần Đạo lý tạo lập Càn Khôn, sanh hóa vạn vật, mà chúng ta phải biết, để làm khuôn thước cho sự tu tập của mình. Trong trương trước, chúng tôi có trích chương 39 Đạo Đức Kinh rằng :

Kỳ trí chi Nhứt giả, vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt ( Đến như một cái Đạo nói đây, nếu muôn loài chẳng đặng nó để làm cơ sở sanh tồn, thì e muôn loài phải dứt ). Thế đủ hiểu Đạo đối với Nhơn Sanh trọng yếu là thế nào?
*  *  *

CHƯƠNG THỨ HAI
NHƠN SANH QUAN

Đạo tạo dựng Trời Đất hóa sanh muôn loài thì vô danh, như đã nói trong chương trước, nhưng có điều nên lưu ý là Đạo ấy tác động đến đâu thì lại có tên tạm gọi khác:
Đại để như :
Khi tác động đến Vũ Trụ thì Đạo Vô danh tạm gọi là lý Thiên Nhiên, hay lý Thái Cực.
Khi tác động đến Nhơn sanh lại gọi Mạng Trời, Thiên Lý Tánh hay Đạo.
Cũng như sách Trung Dung nói rằng :
" Thiên mạng chi vi Tánh,
Xuất tánh chi vi Đạo ".

Nghĩa là Mạng Trời thị gọi Tánh, tuân hành theo Tánh gọi là Đạo.
Vậy Đạo ở nơi người là Mạng Trời là Thiên Lý mà người ta phải tuân theo để làm người và cầu giải thoát kiếp tử sinh.

Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn năm Bính Dần 1926) dạy rằng:
" Đạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật theo đó mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các Nhơn Phẩm do theo mà lánh khỏi Luân Hồi, nếu chẳng theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mất hết Ngôi phẩm. Đạo nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi sau sẽ học các nghĩa lý huyền bí khác.

Đời cũng thế, Đạo cũng thế. Chẳng có Đạo thì chẳng nên Đời. Chẳng có Đời thì chẳng nên Đạo. Lấy Đạo trau Đời, mượn Đời giồi Đạo; Đạo nên, Đời rạng, giũ áo phồn hoa nương bóng khổ, trăm năm mãn cuộc, tự mình thanh tao, mến mùi tự toại dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn ".

Vậy Đạo là Tánh, Tánh là Đạo; khi ở nơi người Tánh là bản thể của Tâm. Tâm với Tánh tuy hai danh từ mà sự tác động vốn một.
Có điều đáng tiếc là khi người ta nhập Thế cuộc, Nhục thân giao tiếp với vật chất sanh lòng hiếu ố, kích động Tâm làm cho Tánh biến sanh nhiều trạng thái khác như Vương Dương nói rằng :
" Thân chi chủ tể tiện thị Tâm.
Tâm chi sở phát tiện thị ý.
Ý chi bản thể tiện thị Trí.
Ý chi sở tại tiện thị Vật ".

Nghĩa là chủ tể của Thân là tâm, cái sở phát của Tâmlà Ý, bản thể của Ý là Trí; Ý ở chỗ nào thì nó là vật.
Vậy chúng ta có thể nói rằng : Tâm là cái thống danh gồm cả Tánh, Ý, Trí, Vật.
Muốn được rõ ràng sự biến thiên của Tâm lý chúng tôi tạm cái thuyết " Bát Thức " của Phật Giáo (Duy Thức Học) để giảng giải. Chúng tôi xin tạm chia ra làm hai đoạn

1 . SÁU THỨC NGOÀI
2 . HAI THỨC TRONG
Mắt thấy sắc thì sanh Nhãn thức.
Tai nghe thinh thì sanh Nhĩ thức.
Mũi hưởi hương thì sanh Tĩ thức.
Lưỡi nếm vị thì sanh Thiệt thức.
Ý tiếp pháp (1) thì sanh Ý thức.
(1)Pháp là tư tưởng, dục tình tức sự vật ở đời

a ) Sự tác động của ngũ thức : Nói riêng về Ngũ Thức ( Nhãn thức, Nhĩ thức, Tĩ thức, Thiệt thức, Thân thức ), chúng nó lấy Ngũ quan làm Nhơn và Ngũ trần làm Duyên; nhơn duyên giao cảm mà sanh Ngũ thức; nhưng về mặt tinh thần, chúng nó mượn cái biết của A-Lại-Da-Thức làm gốc.

Sách Duy Thức Luận bài số 15 nói rằng :
" Ý chỉ căn bản thức,
Ngũ thức tùy duyên hiện.
Hoặc câu, hoặc bất câu.
Như ba đào y thủy ".

Nghĩa là năm Thức lấy cái biết của A-Lai-Da-Thức làm căn cơ, rồi tùy duyên mà ứng hiện. Có khi chúng nó hiệp nhau, có khi không hiệp.

Năm thức lấy cái biết của A-Lại-Da-Thức làm chủ cho sự hành động cũng như sóng ba đào mượn nước để làm chỗ vẫy vùng kia vậy.

Nên hiểu rằng khi vô sự, Tâm chưa phát động thì Ngũ Thức là cơ quan thể hiện Chơn lý ở trong Tâm truyền ra, nhưng khi hữu sự, Tâm động thì Ngũ thức chạy theo vật chất như đã kể trên, rồi nó lại truyền cái hay biết của nó vào ý thức, để tư lường tính toán lợi hại. Đó chỗ khởi đầu của Ý Thức hiệp với Trí thức, sanh ra dục tình phức tạp, tư tưởng lãng mạn.

b) Sự tác động của ý thức: Ý thức lấy Mạt-Na-Thức l;àm căn, cũng như năm thức ngoài dựa vào Ngũ quan làm bổn. Ý thức hiện sanh là vì giao tiếp với Pháp trần ( Sự lý hữu vi, vô vi ở đời ) do năm Thức ngoài truyền vào. Thức thứ sáu nầy có đủ quan năng : Suy nghĩ, phân biệt tốt xấu, hơn kém. Lòng hiếu ố theo đó mà sanh.

Ví dụ thứ nhứt: Nếu gặp cảnh nghịch lý thì lòng hờn ghét nổi lên và xô đuổi những sự vật không thích ý đi cho xa thật xa.

Ví dụ thứ hai: Nếu gặp cảnh thích ý lòng ham muốn nổi lên và xúi giục người ta lo thâu đoạt vật ấy về với mình. Lòng ham muốn nầy, nếu được thỏa mãn thì vui mừng, rồi lại sợ hư, sợ mất mà phải lo săn sóc, giữ gìn. Trái lại, nếu thất vọng thì đâm ra phiền não, oán ghét, hờn giận. Nên biết rằng : Tính dục do ý thức sanh ra, vốn muôn vàn hình trạng, không sao kể xiết; nhưng kinh Phật tóm tắt gọi là: Thất tình ( Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục ) và Lục dục ( Muốn sắc, ham thính, muốn hương, muốn vị, muốn xúc và muốn pháp ).

Thất tình và Lục dục, khi ở trong Ý Thức thì tùy cơ duyên bên ngoài mà hành động, mãi đến lúc cơ duyên bên ngoài hết thì nó theo Mạt-Na-Thức vào ở ẩn trong A-Lại-Da-Thức, để chờ cơ hội khác xuất hiện hành động nữa.

Tham, Sân, Si là ba món độc gây thành Tâm bịnh của Chúng sanh. Kể sơ lược như : Chúng ta có lòng ham muốn ( Tham ) như đã kể trên thì nó giục thúc chúng ta phải lo thâu đoạt vật muốn về mình. Lòng ích kỷ nếu được thỏa mãn thì vui mừng, rồi lại sợ hư, sợ mất phải lo săn sóc, giữ gìn. Trái lại nếu thất vọng thì hờn giận, oán ghét đó là " Tham " sanh ra " Sân " mà hễ có " Sân " thì có " Si " (Vô minh), nghĩa là không biết trong thâm tâm người ta có điểm tánh của Trời ngự trị, để chủ tể sự hành vi của người và không biết làm dữ thì họa trả lại.

Sáu thức ngoài, tuy mỗi thức có cái biết riêng biệt, và tùy hoàn cảnh hành động khác nhau, nhưng ý thức làm chủ cả và Ý thức cũng gọi là đệ lục giác quan nữa.

2 . HAI THỨC TRONG

a ) Sự tác động của Thức thứ bảy. ( Mạt-na-Thức)
Duy Thức Luận bài só 5 nói rằng :
"Thử vi nhi năng biến.
Thị thức danh Mạt-Na.
Y chỉ truyền duyên hỉ.
Tư lường vi Tánh tướng."

Nghĩa là: Cái lực năng biến thứ nhì tên là Mạt-Na-Thức nó mượn A-Lại-Đa-Thức làm đối tượng để suy nghĩ. Tư lường là tánh tướng của nó.

Giảng lý: Mạt-na-Thức có tên riêng là Ý-căn, vì Ý-thức nương nó mà hiện sanh. Đến lượt nó, Mạt-na-Thức lại lấy A-lại-Da-thức làm chỗ ỷ lại đặng chuyển biến. Nó còn có phận sự khác là: Thông truyền cái biết của Chơn-trí ra sáu Thức ngoài để hành động, tức truyền cái Chơn niệm ở trong ra ngoài, rồi nó lại thâu cái Vọng-thức ở ngoài vào trong. Đại để như : Nó thâu thập những tư tưởng lãng mạn, những dục tình phức tạp của sáu Thức ngoài, truyền vào A-lai-Da-Thức đặng giữ gìn, cất kín. Rồi nó quay lại nhận những chủng tử (Hột giống) trong thức thứ tám làm đối tượng để quan niệm, nghĩ suy, cho nên nói tư lường là tánh tướng của Mạt-na-Thức.

Tư lường là gì ?
Tư lường là ý nghĩ, quan niệm, lo âu. Mạt-na-Thức đã chấp lấy cái thân của A-lai-Da-Thức, tức là nhục thân hiện tại làm cái ngã Chơn thật, rồi lại chấp những sự vật ở cõi đời bên ngoài tức là chư pháp làm quí trọng, rồi theo đó mà quan niệm, ý kiến để cũng cố Nhục-thân hiện tại cho được sung sướng, thỏa mãn và sống lâu. Cái năng lực tư lường nầy ngấm ngầm nghĩ suy không ngừng. Xem như khi chúng ta đang suy xét việc hiện tại thì thoạt nhiên có tư tưởng quá khứ, hay vị lai lại xen vào, làm cho sự suy xét của mình gián đoạn. Thậm chí, trong đêm vắng canh khuya, Nhục-thân an nghĩ mà Mạt-na-Thức cứ vu vơ nghĩ ngợi ? Người ta sở dĩ có chiêm bao mộng mị là lẽ ấy.

Về việc chiêm bao, có lẽ ai cũn có kinh nghiệm rồi. Giả tỉ khi Nhục-thân nầy nằm ngủ trên giường mà ý thức bắt chúng ta phải làm thân khác. Nếu làm thân giàu có, thì lên xe xuống ngựa. Trái lại, nếu làm thân nghèo hèn thì y phục rách rưới lang thang, đi theo xó chợ đầu làng. Trang Tử khi nằm mộng làm bướm. Lúc bấy giờ Ông cũng thích thú làm bướm. Ông nói: " Không biết Trang Chu mộng bướm, hay bướm mộng Trang Chu ".

Sở dĩ có sự kiện ấy làvì ý thức bắt người ta mê tít đi, quên lững cái nhục thân hiện tại, mà chỉ biết sống với cái thân trong giấc mộng. Kinh Lăng Nghiêm nói :
Thức là mơ tưởng,
Ngủ là mộng tưởng.

Kinh Phật thường nói ham sống (Ham sống chẳng phải tự diệt mà thật phải tránh sự ham muốn vật vì ham sống thì sanh lòng ích kỷ, gây tội tình nhơn quả.) là hột giống sanh kiếp luân hồi. Tại sao ? Bởi vì khi sanh tiền, chúng ta bám lấy thân Ngũ-uẩn và muốn cho nó sống mãi. Đến khi thân Ngũ-uẩn nầy tan rã thì lòng ham muốn giục thúc chúng ta phải tạo thân Ngũ-uẩn khác nữa. Thế nên nói rằng ham sống là hạt giống tạo kiếp sanh tử luân hồi.

Duy thức học nói rằng :
" Tứ phiền não thường câu.
Vi ngã si, ngã kiến.
Tịnh ngã mạn, ngã ái.
Cập dữ xúc đẳng câu."

Nghĩa là nó thường níu kéo bốn căn phiền não là: Ngã-si, Ngã-kiến, Ngã-mạn, Ngã-ái cùng với Tham, Sân, Si để tưởng tượng mơ màng. Tham, Sân, Si đã có giải rồi trong khoảng Ý-thức. Bây giờ xin giải nghĩa tứ phiền não.

1. Ngã-Si: nghĩa là mê muội, không biết Bổn-tánh chơn thật của mình, rồi nhận cái giả làm cái Chơn mà đối với lẽ Đạo; thì không biết Vũ-tru,ï Nhơn-Sanh là gì, mà bướng bỉnh cho mình là quán thông Chơn-lý.

2. Ngã-Kiến: Ngã-kiến nghĩa là chấp lấy ý kiến của mình là chí thiện, rồi chẳng học hỏi chi nữa. Kinh Phật chép bọn người mù xem voi : Người thứ nhứt rờ đuôi voi, rồi bảo rằng voi giống cây chổi. Người thứ hai rờ chân voi, rồi bảo rằng voi giống cây cột.. Mỗi người quả quyết cái biết của họ là đúng. Người sáng nghe thấy bọn mù thì buồn cười. Thế mà họ hiu hiu tự đắc. Người đời, nếu căn cứ theo cái mê lầm của Mạt-Na-Thức mà nhận định sự vật (chư pháp) thì chẳng khác nào nhóm người mù biết voi.

3. Ngã-Mạn: Ngã-mạn nghĩa là bướng bỉnh, khoe khoan, tự cho mình là tài giỏi hơn tất cả mọi người.

4. Ngã-Ái: Ngã-ái là chỉ biết có mình là quí trọng tài cao, đức rộng, không ai sánh bằng và muốn mình được tôn sùng và sống mãi.

Nói rút lạt, Mạt-na-thức có tánh si mê, bướng bỉnh, nó nương vào thân của A-Lai-Da-Thức (Nhục thân mà hiện sanh, rồi chấp lấy cái thân ấy là ngã chơn thật, song sự thiệt đó là cái Ta giả hiệp vậy).
Đáng buồn là nó lấy giả làm thiệt mà lại cho là hơn tất cả mọi người.

b. Sự tác động của A-Lai-Da-Thức ( Thức thứ tám ) : A-Lai-Da-Thức có hai trạng thái: Tịnh và Động. Tịnh thì nó tích lũy chơn lý, Động thì sanh Vọng-tưởng là cái màn vô minh che khuất chơn lý.

Nguyên lúc ban đầu, A-Lại-Da-Thức vốn tịnh thì nó thông truyền Chơn-lý ra bảy thức ngoài để thể hiện Thiên -Đạo thành Nhơn-Đạo; nhưng khi nó bị nhục thân lôi cuốn thì nó thiên về phàm trần mà rồi nó thu nạp những vọng niệm của 7 thức ngoài truyền vào, cho nên nó có tên là Hàm-tàng-thức ( Cái tạng chứa các thức ). Kinh Lăng Nghiêm có chép:
" Thí như hải lảng
Tự do mãnh phong khởi
Hồng ba cổ minh hắc
Vô hữu đoạn tuyệt thời
Tạng thức hải thường trụ
Cảnh giới phong cổ động ".

Nghĩa là : Thí như biển tịnh mà sanh động là tại gió thổi mạnh mà sóng nổi dậy, chẳng có giờ phút nào ngừng. Tạng-thức bổn lai thường trụ, nhưng gió làm nổi sóng, rồi lượn sóng nầy xô đuổi lượn sống kia mà thành ra sóng vẫy vùng làm loạn cả chơn tâm. Chính trạng thái động làm khuất trạng thái tịnh hay Nhơn-dục tế tắc Thiên-lý là vì lẽ đó.

A-Lai-Da-Thức, ngoài cái chức vụ làm chủ tể các thức kia, nó lại nương vào Mạt-Na-Thức mà chuyển biến, vì trong bản thể của nó có đủ các thứ giống. để sanh hóa các Pháp; thành thử, nó cũng có tên là " Nhứt Thiết Chủng ". Những hột giống nói đây chẳng phải vật chất như hột đậu, hột dưa, mà thật là một sức mạnh vô hình, có nhiều năng lực khác nhau, để rồi tùy duyên chuyển hóa các pháp : Nhập-Thế và Xuất-Thế.

Những Chủng-tử ấy kể sơ lược như vầy: Nguyên khi Lục-căn giao tiếp với Lục-trần mà sanh ra Lục-thức. Lục-thức sanh ra Vọng-niệm, Vọng-niệm theo cơ duyên bên ngoài mà hoạt động mãi đến khi hết cơ duyên bên ngoài thì Vọng-niệm thu hình thành những dấu vết tinh vi và theo Truyền-Thống-Thức vào ở ẩn trong Nhứt-thiết-Chủng, chờ có cơ hội khác, xuất phát hành động nữa và cứ thế mãi mãi.

Mà mỗi lần xuất hiện hoạt động thì "Nhứt-thiết-Chủng" thâu thập thêm một sức mạnh nữa. Tích thiểu thành đa, ấy vậy nên từ bao nhiêu kiếp quá khứ đến nay Vọng-niệm súc tích trong Nhứt-thiết-Chủng một số hạt giống không biết bao nhiêu mà kể. Đại loại như phiền não, tư lường, Tham, Sân, Si, vân vân... Chính những Vọng-thức nầy là nghiệp vô minh, che khuất đường chánh. Nay muốn giải thoát ra ngoài vòng sanh tử người ta phải phá sạch nghiệp vô minh. Phương pháp tu tập sẽ giảng giải trong hai chương sau Hạ-Thừa và Thượng-Thừa.

Tóm lại : Chương I: " Vũ-Trụ-Quan " nói về Dịch-lý của Đại-Vũ-Trụ, Thiên-Địa biến hóa vô cùng, tạo lập Càn Khôn hóa sanh vạn vật và khi đã trót sanh thành rồi vạn vật cũng phải theo Đạo biến hóa mà thay đổi không ngừng.

Còn Chương II: " Nhơn -Sanh-Quan " nói về Đạo biến hóa ở trong Nhơn-thân. Như trương trước đã nói rõ rằng : " Tiều-Vũ-Trụ-Nhơn-thân " cùng " Đại Vũ Trụ Thiên Địa " đồng nhứt lý và cũng nhơn lẽ ấy mà sự sống động của Nhơn-thân tùy thuộc Đạo tự nhiên. Lục-Cửu-Uyên là người Trung Hoa sanh vào khoảng 1139-1192 nói rằng :
" Vũ-trụ nội sự nãi kỷ phận nội sự.
Kỷ phận nội sự nãi Vũ-trụ chi nội sự ".

Nghĩa là việc trong Vũ-trụ là việc trong chức phận của mình. Việc trong chức phận của mình là việc trong Vũ-trụ.
Còn về đường tu tập, Đổng-Trọng-Thơ sanh đời Tây Hớn bên Tàu nói rằng :
" Nhơn chi nhơn bổn ư Thiên ".
Nghĩa là Nhơn-đạo của người gốc ở nơi Trời.

NHƠN-ĐẠO GỐC Ở NƠI TRỜI LÀ SAO ?

Tức là Mạng-Trời, Thiên-lý, Tánh hay Đạo như đã nói trước kia. Nhưng có điều đáng tiếc là khi Nhục-thân tiếp xúc vật chất sanh lòng hiếu ố, kích động Tâm làm cho Tánh biến thiên nhiều trạng thái khác nhau như Chương Bát-thức đã nói trong trương trước và Tình-dục lại gây thêm những tế tâm duyên tướng làm cho Thiên-lý lu mờ đó là nguyên nhơn khiến Chúng-sanh trầm luân khổ hải.

Nay muốn giữ Mạng-Trời nơi người để theo đó mà trở về với Cội-Sanh mình là Chí-Tôn thì phải phá những cái gì che khuất Thiên-lý. Đó là yếu lý của hai pháp môn tu tập Hạ-Thừa và Thượng-Thừa sau nầy.
PHẦN THỨ BA

THƯỢNG THỪA và HẠ THỪA

LỜI GIỚI THIỆU
Của Cụ LƯƠNG VĂN BỒI Nguyên Phó Hội Trưởng Thông Thiên Học.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Đức CHÍ TÔN Cao Đài Thượng Đế lập ra bằng Huyền cơ Diệu bút từ năm 1926 đến nay là Tôn Giáo Đại Đồng. Giáo Lý Đại Đạo gồm hai phần:
- Phần Hình Nhi Hạ Học tức ngoại giáo công truyền và
- Phần Hình Nhi Thượng Học tức nội giáo vô vi.
Nếu nhìn về hình thức bên ngoài, chúng ta nhận thấy Cao Đài Đại Đạo tuy có khác một phần nào với các Tôn Giáo và Môn Pháp triết học trên thế gian về nghi lễ, cúng kiếng, về cách thờ phượng vân vân. Nhưng nếu xét kỹ bên trong, về phương diện nội giáo vô vi, thì Chơn lý Đại Đạo thật là vô cùng cao siêu, thâm diệu bao gồm tất cả Chơn lý căn cơ ẩn tàng trong các Tôn Giáo chánh đại, môn phái triết học và Đạo pháp. Sau khi sưu tầm và chọn lựa những Thánh Giáo được Ơn Trên dạy rải rác trong các Đàn Cơ, chúng ta nhận thấy Giáo Lý Cao Đài rất là dồi dào phong phú dạy chúng ta đủ các khía cạnh của môn huyền bí học nào là "vũ trụ, nhơn sanh, luân hồi, quả báo, tiến hóa, hy sinh, nào là lập công bồi đức, huynh đệ đại đồng, cùng phương pháp tu tánh luyện mạng; phản bổn hườn nguyên, siêu phàm nhập Thánh, vân vân ".

Quyền Giáo Lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Đạo Huynh TRƯƠNG TIẾP PHÁP mặc dầu có tánh cách đại cương, nhưng cũng bao gồm số Thánh Giáo được chọn lựa kỹ lưỡng và xếp đặt thành năm phần rõ rệt : Phần thứ nhất nói về Hình Nhi Hạ Học mà mỗi môn đồ Đại Đạo cần phải biết, ba phần kế đó trình bày phương diện Hình Nhi Thượng Học của Đại Đạo. Phần cuối cùng là phần phụ lục lược khảo về Tam Giáo: Nho, Thích, Đạo.

Tóm lại, quyển sách được soạn rất công phu với sự trình bày thành phần chương, tiết một cách khoa học, ý tứ dồi dào, câu văn gọn gàng và dễ hiểu. Quyền sách nầy sẽ giúp ích cho phần đông môn đồ Cao Đài Đại Đạo và cũng sẽ giúp cho các học giả trong nước và ngoài nước đang sưu tầm Chơn lý có một quan niệm khá đầy đủ về Giáo Lý của Đại Đạo.

Đây là một trong những quyển sách đầu tiên có thể nói là " tiền phong " trình bày Giáo lý đủ mọi khía cạnh.
Làm sao cơ Đạo mở mang,
Cao Đài Thống Nhứt rải tràn năm châu.
Saigon ngày 1-6 Giáp Thìn (Dl. 9/7/64)
LƯƠNG VĂN BỒI

*  *  *

PHẦN THỨ BA
THƯỢNG THỪA Và HẠ THỪA

Đức CHÍ TÔN Giáng cơ dạy rằng:
" Ta vì lòng Đại từ, Đại bi lấy Đức háo sanh dựng nên nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tôn chỉ là:
- Vớt kẻ hữu phần vào địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi;
- Và nâng đỡ kẻ có tánh đức vào cõi an nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở cõi trần-thế nầy ".
Căn cứ theo Thánh Ngôn nầy, Tân Luật Đại Đạo ấn định Tín Đồ Đại Đạo có hai bậc :

THƯỢNG THỪA & HẠ THỪA

THƯỢNG THỪA. - Là bậc xuất thế, nghĩa là học giả chẳng còn bận rộn với Nhơn tình, Thế sự. Họ chỉ lo tu tập Đạo pháp tối thượng cho đến Đắc Đạo, viên mãn rồi đem sở đắc của mình mà giúp đời, tức thực thi câu : Tự độ, độ tha. Tân Luật Đại Đạo định rằng : Chức sắc từ Giáo Hữu dẫn lên phải chọn lựa trong bậc Thượng Thừa.

HẠ THỪA. - Là bậc mới nhập môn, còn ở Thế, vừa giữ Đạo, vừa lo việc Gia đình, Xã hội, mục đích chánh là hoàn thành bổn phận làm người và nếu có thể được thì chuẩn bị vào bậc Thượng Thừa.

Chi tiết sẽ giảng giải như sau:
CHƯƠNG THỨ NHỨT

HẠ THỪA

Chương trình gồm hai điểm chánh

LUÂN LÝ THỰC HÀNH - PHƯƠNG CHÂM XỬ THẾ

Luân lý thực hành nói chung cho hai Phái Nam và Nữ.
Nam phái giữ Tam cang, Ngũ thường, Nữ phái gìn câu : Tam tùng, Tứ đức. Phương châm xử thế bán sự tu thân cũng chung cho hai Phái Nam và Nữ.

I . LUÂN LÝ THỰC HÀNH NAM PHÁI
a) TAM CANG :
   - QUÂN THẦN CANG
   - PHỤ TỬ CANG
   - PHU THÊ CANG
     Home                 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét