Huấn Từ của Bảo Thế Lê Thiện Phước - 2 / 5 (Bảo Thế - Lê Thiện Phước)


11 . Huấn Từ Lễ Khai Giảng Hạnh Đường (16-4-62)
Ngày 12 tháng 3 Nhâm Dần (16/ 4/ 1962 dl )

BÀI HUẤN TỪ của Ngài BẢO THẾ
trong dịp Lễ Khai Giảng Hạnh Đường,

Kính Hội Thánh và Chức Sắc Cơ Quan Phước Thiện,
Kính quý Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam Nữ .

Tôi hân hạnh thay mặt Ngài THƯỢNG SANH đến dự Lễ Khai Giảng Hạnh Đường niên khóa Nhâm Dần (dl 1962) và tôi được hài lòng nhận thấy một số rất đông các em hưởng ứng nhập trường, tỏ ra một tinh thần hiếu học bất khuất trước cảnh khổ của Đạo làm cho Hội Thánh không khỏi không quan tâm đặng nâng cao tinh thần ấy .

Vậy đứng trước quí Sinh Viên hiện diện tôi xin để lời khen ngợi mấy em .

Mấy em Sinh Viên,
Mấy em vừa nghe những lời châu ngọc của nhị vị Đại Huynh TIẾP PHÁP và THƯỢNG CHÁNH PHỐI SƯ giải thích rành mạch cái sở dụng của Hạnh Đường, có thể tóm tắt như thế nầy .

Đứng về mặt Đạo mà luận, những kẻ qua lại trước cửa Hạnh Đường ví như khách lữ thứ đi đêm tịch mịch gặp ngọn đèn lòa quyến rũ dừng chơn và một khi lại gần yến sáng rồi thì người người để lộ vẻ vui tươi trên nét mặt cùng là tỏ sắc vững dạ trong cõi lòng dường như nhờ ngọn đèn cởi mở phần nào lo sợ trên lộ đồ thiên lý .

Giờ nầy mấy em là lữ khách, rồi đây Hạnh Đường sẽ khai tâm mở trí cho mấy em thuần thục nghĩa vụ người tu trong cửa Đại Đạo bắt nguồn từ Nhơn Đạo tới Tiên Đạo và Phật Đạo đặng rồi đem cái sáng của mình mà làm sáng thêm cái sáng của người khác ngõ hầu dìu dẫn họ tách khỏi bến mê qua cảnh giác .

Vậy tôi xin tiếp lời của quí Đại Huynh trên đây bình chú cách học về khoa Siêu hình xướng xuất nơi Hạnh Đường nó sẽ choán một phần trọng yếu về chơn lý hầu giúp mấy em làm phương khai khiếu trong hồi đèn sách . Khoa ấy nếu sưu tầm cho đến tinh vi và thực hành cho đến tế nhị sẽ dìu dẫn con người đứng vào hàng tam tài (Thiên Địa Nhơn) ngang hàng với Trơiø Đất giúp Đấng Tạo Công bảo tồn sanh hóa muôn loài, điều khiển Càn Khôn Võ Trụ . Vậy chư học giả cần biết học cách nào cho hữu hiệu chớ chẳng phải học thuộc lòng mà thành công . Cách ấy là minh cho được cái ý tứ của bài vở, ở ngoài mặt chữ, mới thấy cái vi diệu của ngôn ngữ đặt để trong bài .

Như thầy Tử Cống học Kinh Thi mà đạt tới Đạo lý, Thầy Tử Hạ cũng học Thi mà thông tới Lễ . Đức KHỔNG PHU TỬ thấy con chim Trĩ đang đậu trên sườn núi, thoạt có người đến, nó liền cất cánh bay đi, Ngài cho đó là nó e có chuyện chẳng lành nên lánh thân . Và trước khi muốn đậu chỗ khác nó bay lượn vài vòng trên không trung rồi mới đáp xuống . Ngài cho đó là đúng thì .

Mấy em thử nghĩ nếu chẳng gia công tra khảo cho tận chỗ sâu xa kín đáo của mỗi việc hay mỗi vật mà trong bài vở không thể tả hết thì làm thế nào hiểu phương chước đã phá cái vô minh là cái cửa đóng chặc con đường xuất thế .

Đành rằng cái tri với cái hành của người nầy không giống với người kia màchương cú trong bài vở soạn ra ví như vừng Thái Dương chói rạng một vườn hoa, loại nào trổ bông theo loại nấy, như cành Sen không bao thuở trổ bông hường là vì khí chất riêng của mỗi thứ tạo ra hữu tướng của mỗi hoa và nhờ có khí Thái Dương đem sinh lực cho nó sống và cấu kết tế bào cho nó trổ sắc, đượm hương, kheo màu . Tuy giống nầy không kém xinh lịch giống kia vì bởi sức hấp thụ nhiều ít dương quang của nó nhưng mỗi hoa vẫn đẹp mỗi vẽ .

Vậy thì trên nền học vấn ta nên chuyên chú vào cái sở đắc của lương tri sẵn có của mỗi người hầu tạo đài vinh dự cho mình . Vã lại lương tri ấy căn cứ vào sự thực nghiệm mà quán thông thêm rộng . Nếu phân tách lương tri với thực nghiệm ra hai phần thì chúng ta sẽ thấy về phần tri thì đa văn, đa kiến còn về phần hành, thận ngôn thận hành, hiểu xa thấy rộng, nói mà ít người chê bai, làm mà không điều hối tiếc . Có tri có hành mới đạt tới lý .

Thêm nữa nên quan tâm rằng có vùi thân trong mối Đạo, nếm mùi cay đắng ngọt bùi của Đạo, mới mong hiểu Đạo rồi thuyết Đạo mới có ý vị cho . Bằng trái lại chỉ biết ngoài bì phu mà nói trong cốt tủy thì công học bấy nhiêu sẽ trở thành công giả tràng mà chớ .

Phế bỏ thế sự để phụng sự cho người còn ở Thế thì duy có hàng Tu sĩ mang Đạo bào mới hi sinh dường ấy. Học đây là học đào tạo Đạo bào để che mình khi gặp nỗi khó khăn cùng để che người khác tùng bóng Đạo dung thân và vì vậy mới có Hạnh Đường làm địa bàn chỉ hướng .

Vậy quý em Sinh viên nên trì chí sử kinh và tôi cầu chúc quý em khá đứng bảng vàng khi mãn khóa học thì không còn gì vinh diệu bằng ./.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
BẢO THẾ (Ấn ký )

*  *  *

12 . Thuyết Đạo vía Đức Quan Thánh Đế Quân (24-7-62)
tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 6 năm Nhâm Dần (24/ 7/ 1962)

BÀI THUYẾT ĐẠO của Ngài BẢO THẾ
trong dịp Lễ kỷ niệm Đức QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN

Kính Hội Thánh,
Kính quý Huynh, Tỷ, Đệ, Muội,
Nhơn dịp Lễ Kỷ Niệm Đức Quan Thánh Đế Quân, tôi hân hạnh để vài lời nêu cao gương chí sĩ của Đức Ngài trong thời kỳ dân tộc Trung Hoa phân tranh Tam quốc . Tuy vân gương ấy xuất hiện ở nước ngoài, nhưng nó chói rạng thấu nhựt nguyệt, chiếu sáng cả Càn khôn, nên mới có ngày hôm nay Đức Ngài đứng vào hàng Tam Trấn Oai Nghiêm hộ trì Đại Đạo hoằng hóa trên mặt địa cầu nầy .

Thiết nghĩ không riêng về Trung Hoa, mà nước nào cũng có anh hùng chí sĩ, duy tinh thần thượng võ của Đức Quan Thánh có phần đặc sắc hơn người, là làm tướng giữa chốn ba quân, Đức Ngài vẹn giữ mối nhơn luân để xử sự tiếp vật và bảo tồn nền phong hóa triều cổ . Đặc sắc ấy chỉ tìm ở hạng siêu nhân mới gặp . Vì lẽ đó, người ta lập chùa dựng miễu thờ Ngài, thậm chí trong tư gia cũng lắm người thượng trang sùng bái . Sự thờ phượng nầy có ý nghĩa tuyên dương gương trong quả đẹp của hiền xưa cho đoàn hậu tấn trông vào mà tạo định lối đi của mình trên nghĩa vụ hay chí hướng .

Cho hay sống trên mặt thế nầy, bao phủ bởi những giả cuộc mà nhục thân hằng đòi hỏi luyến tiếc, người ta dễ dãi cho phàm tâm lấn áp đạo tâm, rồi chịu vất vả một kiếp sanh trên bước phong trần khổ lụy .

Để cứu vãn tình hình, Nho giáo đặt để những giềng mối liên kết bổn phận người đối với cá nhân mình, đối với người khác, đối với gia đình xã hội, với xứ sở quê hương, với lân bang ngoại quốc . Chánh yếu là chế ngự ích kỷ, diệt trừ bạo ngược, ngõ hầu đem sự sống còn thay thế sự sống mất . Giềng mối ấy căn cứ vào Nhơn Nghĩa Lễ Trí làm tiêu chuẩn . Đức Quan Thánh gồm cả 4 đức nầy làm nấc thang đoạt thiêng liêng vị .

Như nói về Nhơn tức là nói trong đó có công bình và thương yêu , thì phải quán triệt cái tình đồng sanh đồng hưởng âm dương chi khí, để cùng sống thuận theo lẽ Trời, thì cái Nhân của Đức Ngài biểu hiệu trong cuộc kết hữu tại Đào viên thủy chung như nhứt đi theo chánh nghĩa . Đó là cái Nhân về ngoại giới, còn cái Nhân ở nội thân hễ gặp dịp thì làm, ví dụ như kiến nhơn hạ mã bất huy đao, không nở sát hại kẻ sa cơ thất thế .

Nói về Nghĩa thì chi chi cũng vì hai họ Lưu Trương, mựa hề thất thệ . Thoảng như lâm cảnh xiêu lạc chia lìa kẻ nam người bắc, thì hàng Hớn bất hàng Tào .

Trong cái Nghĩa còn có cái chí . Chí ấy là một năng khiếu vừa trọng phận mình vừa trọng của Trời Đất là của chung thiên hạ, nên mới nãy ra khí phách anh hùng thà thọ tử để danh thơm hơn là thọ nhục phụ rảy thâm ân của Tào.

Nói về Lễ thì tự mình nghiêm khắc với hạnh nết mình, không để một hành động nào làm tổn thương đến nhơn vị mình hay nhơn vị người khác . Thủ Lễ đến chí Lễ, như ngồi chong đèn xem sách thâu canh trước phòng Nhị tẩu, như trong lúc ngụ với Tào Tháo, khi lưu khi khứ thảy đều minh bạch .

Nói về Trí thì đầy đủ kinh nghiệm am hiểu tận tường các khía cạnh khắt khe của phàm sự, nên thường tránh cho khỏi bị miệng người chê bai biếm nhẽ hầu giữ cho mãi còn cái danh trọng giá cao . Đức Ngài hằng luyện tâm cho được linh, dồi chí cho đến thành . Tâm linh chí thành, mới đem thân hồ thỉ tô điểm san hà và xây đấp cội Nghĩa nền Nhân để thỏa mãn những cái mơ ước thèm thuồng về mặt nầy của quần chúng. Vậy thì Ngài gồm cả trí của quân tử và chí của trượng phu đem thế đạo vận chuyển thế thái nhơn tình ra thế nhơn an cư lạc nghiệp.

Tham khảo tiểu sử của Đức Quan Thánh Đế Quân, chúng tôi không thấy nơi nào nói Đức Ngài có ý nghĩa gì về Đạo. Nhưng khi mãn kiếp phù sinh, trong 4 ngôi Thần Thánh Tiên Phật, Đức Ngài chiếm ngôi Thánh. Hỏi vậy ngôi nầy do đâu mà được nếu không phải do nhơn luân chi Đạo .

Xem Kinh định lý, chúng ta nhận thức Đạo hàm súc vạn nghĩa, chất chứa vạn năng, vô sở bất tại, lưu hành khắp nơi nuôi sống khắp loài . Song vì bởi rờ không đụng, ngó không thấy, kêu không nghe tiếng dội, người ta mới không gần được Đạo . Chẳng những vậy, đa số người còn đinh ninh rằng sống đây là tự nhiên sống chớ chẳng hiểu có liên hệ gì giữa hữu tướng và vô vi.

Hiện giờ Đại Đạo hoằng khai mở cửa vô minh vén màn hắc ám độ người trầm luân . Nhưng trông vào thật trạng của thế hệ đương kim chúng ta phải nhìn nhận công năng của Đạo rất dày mà tự lực của người rất mỏng.
Là Chức Sắc gánh nặng mối Đạo Trời, chúng ta có bổn phận còn phải hy sinh thêm nữa mới mong bồi bổ phần nào tự lực ấy.
Nay kính,
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
BẢO THẾ

* *  *

13. Thuyết Đạo Kỷ niệm Ngài Khai Pháp (14-2-63)
tại Đền Thánh đêm 21 rạng 22 tháng Giêng năm Quí Mão (14/ 2/ 1963)

BÀI THUYẾT ĐẠO của Ngài BẢO THẾ
trong dịp Lễ Kỷ Niệm Ngài KHAI PHÁP CHƠN QUÂN

Kính Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Chức Sắc Phước Thiện,
Kính chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam Nữ,
Hôm nay là ngày kỷ niệm đăng Tiên của Ông Khai Pháp Chơn Quân (Trần Duy Nghĩa) tôi hân hạnh nhắc lại tiểu sử của Người đặng những bạn gần xa biết qua công trạng của một bậc tiền bối, vì Đạo quên mình như các vị tiền bối khác trong cửa từ bi ngõ hầu noi theo mà lập vị.

Quê quán tỉnh Gò Công, Ông Trần Duy Nghĩa sanh năm 1889 . Vốn là công chức hồi hưu sở Hỏa xa trong thời Pháp thuộc, Ông nhập môn cầu Đạo năm Bính Dần (1926) và thọ Thiên ân Khai Pháp Hiệp Thiên Đài, đắc lịnh phò cơ phổ độ .

Năm 1930, nội bộ Hội Thánh Cửu Trùng Đài thiếu Chức sắc cao cấp hành quyền, tạo nên một cuộc khủng hoảng Hành Chánh Đạo, Ông phải nhận lãnh trách vụ Qu. Ngọc Chánh Phối Sư đặng ổn định mọi bề .

Qua năm 1937, Ông trở về Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự Chưởng Quản Phước Thiện, Ông được bề trên yêu chuộng, bề dưới thuận tùng . Cơ Quan Phước Thiện ngày hôm nay vẫn còn luyến tiếc một vị làm đầu có đủ tài năng đức độ dìu dẫn cơ quan ung dung để bước trên đường Đạo và đường Đời.

Tai bay họa gởi bất thần, đến năm 1941, Ông bị Chánh phủ Pháp bắt đày qua Hồng đảo, khép tội vi phạm chánh trị.

Sau 5 năm khổ lụy ở xứ người, Ông được qui hồi cố thổ vào năm 1946. Về Tòa Thánh Ông tiếp tục dựng lại công nghiệp Đạo đã gián đoạn ngoài ý muốn của Ông và lãnh nhiệm vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh

Đến năm 1953, nhìn lại hành trình dĩ vãng chưa thấy thâu thập được kết quả gì khả quan để mở thêm trí giác, Ông liền chủ tâm bớt việc văn phòng để vào Trí Giác Cung nhập định . Nhưng thiện nguyện chưa kịp đạt thành thì ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954) Ông từ giã cõi trần trở về cựu phẩm, hưởng thọ 66 tuổi (tính theo Âm lịch) .

Khuất bóng trên cõi dương gian về thể xác, Ông vẫn tồn sanh về anh hồn nơi cõi Thiêng Liêng . Lần lượt trong những cuộc học hỏi riêng của chúng tôi, Ông giáng cơ tỏ dấu vui mừng được dịp luận đàm với bạn đồng Đài.
Trong những dịp nầy, Ông lưu lại cho chúng tôi một kỷ niệm trong bài tứ tuyệt như vầy:
Thi:
" Trần hoàn khỏa lấp bụi phù sanh,
Duy lý uyên thâm tại Đạo thành .
Nghĩa dõng tài cao còn thiếu đức,
Nắm cơ trị thế khó nên danh ."

Bài thi nầy về văn chương thì thâm thúy vô cùng, về ý tứ thì cao xa tột bực .
Đọc giả có thể hiểu đó là những lời nhắn nhủ cùng khách phồn hoa, từ trang tế thế an bang, nhà tu sĩ tới thường nhơn, nên rèn luyện đức tánh là điều cần thiết để lập nên nghiệp cả .

Nói đến chữ đức thì nó bao hàm cái thể của Tâm, cái dụng của tánh, bắt nguồn từ nguyên lý không hình, không tình, không tên, không tuổi, cho tới khi tâm tánh trọn hướng về sắc tướng thinh âm, tức là về giả cuộc, thì cái đức khuất dạng . Mà hễ thất đức thì không làm ra trò trống gì .

Ngụ về thế sự tình đời, Đức Thái Thượng Lão quân phân tách hai hạng người: Thượng sĩ và Hạ sĩ cũng như hai hạng đức: Thượng đức và Hạ đức đặng rồi kẻ trí trông vào như trông gương soi mình, rồi chọn lấy con đường lập thân cho hưũ hiệu .

Bực Thượng sĩ thì không tự cao tự quí, không bận lòng tới việc phải quấy, nên hư, tốt xấu, cứ giữ vẹn hiền tâm thánh trí .

Kẻ Hạ sĩ thì phàm tâm nặng nề, ưa biện luận sắc sắc không không mà trong lòng trống rỗng .

Bậc Thượng đức thì nơi mình gồm đủ các yếu tố của tánh nhơn tổng hợp lại thành một cơ điều hòa thuần mỹ an nhiên dường như ở ngoài thiên hạ sự .

Kẻ Hạ đức thì thân tâm lắm nhiễm ô trược hồng trần, mất nhơn mất nghĩa, mất lễ, mất trí . Thoảng như thi thố được vài điểm Đạo đức nào vẫn không đủ rửa sạch bợn tâm tẩy hết bợn trần . Rồi làm sao lập nỗi thân danh .

Đứng về mặt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà luận, chúng ta nên áp dụng con đường trung dung giữa hai hạng đức nói trên, để làm kỷ luật trau giồi thân tâm, thì có 3 điều:
            Vị tha bất vị kỷ,
            Tránh hư danh theo chánh danh,
            Bỏ tư lợi phục vụ công ích .
            Đó là thượng sách trong buổi tu học .
Nay kính
BẢO THẾ
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT .

* *  *

14 . Diễn Từ Khai mạc Đại Hội Nhơn Sanh Giáp Thìn (24-3-64)
tại Tòa Thánh ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (24/ 3/ 1964 dl) .

BÀI DIỄN TỪ của Ngài BẢO THẾ
Qu. Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài trong dịp Khai mạc Hội Nhơn Sanh

Kính Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Phước Thiện,
Kính Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh,
Kính quý Nghị viên, Phái viên,
Nhơn danh Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, tôi xin để lời chào quý Nghị viên và Phái viên Hội Nhơn Sanh năm Giáp Thìn (1964) .

Thiết tưởng sau 12 năm tại Tổ Đình vắng tiếng con cái Đức CHÍ TÔN, các địa phương vì cuộc bất an trong Quốc nội mà ra nông nỗi, Hội Thánh chỉ biết riêng sầu trong tấc dạ, đợi chờ ngày quang đãng chớ chẳng làm chi hơn, thì Nhơn sanh cũng nên ý thức tình trạng mà thông cảm giùm . Quý vị cũng nên biết thêm rằng sống trong giai đoạn vừa qua chẳng khác nào nằm giữa mùa đông lạnh lẽo, lá rời cành, chim đổi tổ, cảnh vật đìu hiu, Hội Thánh luống trông mau tới mùa xuân đặng nối lại với nhơn sanh mối dây thân mật trong cuộc sum vầy tại nhà chung như thuở nọ; nhưng chẳng biết mấy lượt xuân lai, Hội Thánh mong chờ vẫn không ngớt mong chờ ngày tái ngộ . Rất may, thiên tùng nhơn nguyện, ngày quang đãng đã đến lại đến trong dịp gió xuân hãy còn dịu mát thổi vào lòng mọi người và số người trong cửa Đạo được hưởng ngọn thanh phong trước hơn ai hết là chư thiện nam tín nữ hữu hạnh được Đức LÝ NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM khen tinh thần đạo đức của chư đạo hữu khả quan do Thánh giáo đêm mùng 9 tháng Giêng Quí Mão (2/ 2/ 1963) .

Song le giữa khoản giao thừa xuân sanh đông tàn, làn mây đen che áng mặt nhựt chưa trọn tiêu tan mới có ứng hiện vài điểm bất tường đe dọa kết quả của quý Hội sẽ xoay về hướng nào mà định hướng duy nhứt của Hội Thánh là hòa đồng với nhơn sanh để tạo phúc cho nhau .

Vả chăng việc phải đến sẽ đến, hoặc kiết, hoặc hung, hoặc mau, hoặc chậm, tùy không gian định luật cho thời gian căn cứ vào hành tàng vén khéo hay không của mỗi người có trách nhiệm trong cửa Đạo. Một khi việc đến rồi thì không quyền năng nào sửa cải, cứu cánh cho được. Vì cớ mà trong 38 năm qua nền Đại Đạo đã lắm phen thay đổi cuộc diện, như khi thăng thì vinh diệu vô song, còn lúc trầm thì thẹn thuồng chí để. Mỗi lần biến chuyển là cả một bài thi của Đức CHÍ TÔN sắp bày trên mặt Thế đặng con cái Người có dịp so tài sánh đức để đoạt vị. Phương châm đi đến mức giựt giải quán quân không chi lạ là thí sinh phải luôn luôn trụ vững đức tin, sáng suốt nhận định thị phi tà chánh và bình tĩnh lướt qua cơn chuyển biến. Lẽ hằng là thi nhiều đậu ít vì bởi nếu bài thi dễ thì đậu nhiều mà hễ dễ thì chẳng phải bài thi.

Giờ nầy đây cơ khảo dượt đang hoành hành, những ước nguyện của nhơn sanh là những bài toán đệ lên cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài giải đáp, đoạn dưng lên cho Thượng Hội hay Đức LÝ NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM chuẩn phê mới kiện toàn quyền Vạn linh tại Thế .

Kính quý Nghị Viên và Phái Viên,
Nghĩ rằng trong cơ hội nầy, Cửu Trùng Đài là đâu, Hiệp Thiên Đài lại là đâu, khi vui chia sớt, khi nhọc có nhau, nên chúng tôi sẵn sàng chen vai gánh vác với Cửu Trùng Đài phận sự vẹt chông gai quét miểng sành đặng quý Hội được thung dung tiến bước .

Với thiện chí ấy chúng tôi sẽ nhứt diện bảo tồn uy tín của Hội Thánh, nhứt diện đáp nghĩa với nhơn sanh bằng cách khoan hồng xem xét nguyện vọng của con cái Đức CHÍ TÔN để khuyến khích trên đường tấn hóa đạo đức .

Sau nầy chúng tôi rất hân hạnh được biết quý vị đã đem hết khả năng hành sự từ ngày 16 tháng Giêng chí hôm nay 11 tháng 2 Giáp Thìn không giờ phút nào lơi bước, thậm chí làm việc tới ban đêm . Tinh thần phục vụ như vậy làm cho chúng tôi có quan niệm và tin chắc rằng quý vị sẽ là Chức Sắc trọng yếu tương lai của bổn Đạo .

Ngày nay Hội Nhơn sanh được long trọng hợp pháp hóa, như có một vị Thời Quân và 3 Chức Sắc thay mặt Hiệp Thiên Đài chứng sự, có nữ Chánh Phối Sư đại diện Nữ Phái ngồi ghế Phó Chủ Tọa .

Đó là về phần hình thức, duy về sự việc thì hồ sơ cầu phong cho phái nam cũng như phái nữ phải chuyển lên Bộ Pháp Chánh minh tra công nghiệp mới hợp pháp và không mất lẽ công bằng vì là trách nhậm đặc biệt của Chức Sắc hữu thệ .

Còn về phần phát biểu ý kiến của chư Nghị Viên và Phái Viên thì được tự do ứng dụng nhưng không ra ngoài chương trình nghị sự của Đại hội và chẳng nên quên lễ độ là hạnh kiểm của nhà tu và là kỷ luật của Hội Thánh .

Kính Hội Thánh,
Ở đời trong dịp xử sự tiếp vật chúng ta được kinh nghiệm trong mọi việc, việc nào cũng có khó mới có nên, cái hay rút trong cái dỡ, thoảng như gặp sự trắc trở trong việc của người thì nên ghi vào lòng để tự giác và khi tới việc mình hãy lấy đó hầu dọn lối cho đến thành công . Chẳng hạn như đi ngang qua một vườn bông hường được khéo săn sóc nên cả vạn bông đua nhau phơi sắc khoe màu, đượm hương ngào ngọt làm cho khách nhàn du phải dừng chơn thưởng cảnh và ca tụng công phu của chủ nhơn ông miếng vườn . Nhưng hường nào lại chẳng có gai, muốn bẻ nó phải cẩn thận từng ly từng tấc mới cầm được của quý vào tay, bằng trái lại thì luống công vô bổ .

Hôm nay Hội Thánh đến đây đông đủ như thế nầy tỏ ra một niềm đoàn kết thân hữu, tôi xin để lời cám ơn Hội Thánh và trao phận sự Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh cho Hiền Huynh Thượng Chánh Phối Sư ./.
Nay kính,
Tòa Thánh, ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (24/ 3/ 1964 dl)
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
BẢO THẾ
(Ấn ký)

* *  *

15 . Thuyết Đạo Vía Đức Hộ-Pháp Giáp Thìn (20-5-64)
đêm mùng 9 tháng 4 Giáp-Thìn ( 20. 05. 1964 dl)

Bài Thuyết-Đạo
của ngài BẢO-THẾ Qu. chưởng-quản Hiệp Thiên Đài
trong dịp lễ vía Đức Hộ-Pháp, tại Đền -Thánh

Kính Hội -Thánh Hiệp-Thiên, Cửu -Trùng và Phước-Thiện ,
Kính chư Thiện nam Tín nữ ,
Ở đời trong dịp xã giao có lắm điều tế nhị ảnh hưởng lớn lao tới sự thành bại của đại cuộc, cho nên trong những việc làm hay lời nói cần thiết là TRI với HÀNH phải đi đôi và CHUNG với THỦY phải vẹn toàn mới mong tạo uy tín cho mình và gây thiện cảm với người.

Như hồi Đức HỘ PHÁP còn tại tiền, toàn thể bổn đạo sùng thượng Ngài như sư phụ , sư huynh, nay người đã xuất thế sự tôn kính trên đây còn gia tăng vạn bội. Ấy là niềm chung thủy của bổn đạo trước sau không phai lợt TÌNH lẫn HIẾU, còn THỦY CHUNG của đức Ngài thì khi xưa ở cõi phàm trần bồi đấp nền đạo, dạy dỗ con em thế nào thì khi nay cũng thế ấy, ở cõi thượng thiên Đức Ngài vẫn tiếp tục về mặt vô vi, ban phép lành cho mọi người đồng hưởng.

Nay nhơn dịp lễ Vía Đức Ngài tôi xin đọc bài thi sau đây của Đức Ngài lưu lại cho Hội Thánh làm kỷ niệm.
THI :
Trót đã bao năm ở xứ người ,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi .
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định ,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi .
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi ,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông ĐẠO lẫn ĐỜI.

Thương thay, một bậc siêu nhân trong cửa đạo như Đức HỘ PHÁP mà chịu lưu vong nơi xứ người, rồi gởi mảnh hình hài nhục thể nơi đó, với một điều định quyết là không qui hồi cố quốc nếu quê hương xứ sở còn bị chia đôi, phải chăng đó là mối lo liệu cho vận mạng tương lai của giang sơn cẩm tú sẽ giao gởi lại ai là người an bang tế thế , đặng giải khổ cho đồng bào chóng thoát nạn đao binh đã diễn xuất từ lâu trong vòng huynh đệ.

Vã lại tình huynh nghĩa đệ khắn khít nhau như thủ túc mà nỡ nào tay mình đành chặt chơn mình, nên Đức Ngài hằng luyến tiếc chẳng vì thiếu sức phàm nhưng vì số thiên định nan đào phải tách miền hạ giới không trọn viên mãn công trình trong nghĩa vụ .

Nhắc đến sức phàm, chúng tôi xin đại lược đề cao đại chí của Đức ngài không hề lung lay trước mọi biến cố, liên hệ tới nền Đạo dầu ở nơi nào phát sanh ; đức tin không hề suy kém trước những thử thách thậm nguy, còn tinh thần thượng võ phụng sự cho Hội Thánh thì chưa hề một ai mưu dụng lợi khí gì mà khuất phục cho được.

Có điều đáng để ý là trong những động hành kể trên có lẫn lộn những thái độ ôn nhu khi cần , những nét điềm tỉnh khi phải chỗ, tức thị là Đức Ngài đã thực thi trọn vẹn cái dõng của Thánh nhơn với mục đích là bảo vệ cả hai triệu tín đồ an cư hành đạo.

Luận tiếp về bài thi, chúng tôi rất bồi hồi trong tấc dạ khi nghe qua những lời thống thiết của Đức ngài, vừa tự thán, vừa nhắn nhủ với thế hệ đương kim trong cửa Đạo rằng khi vắng bóng Đức Ngài rồi sợ e chiếc thuyền-từ sẽ lâm cảnh thân côi phận bạc trên mặt biển trầm luân mênh mông lai láng sóng dập gió dồi lại thiếu địa bàn chỉ hướng ắt phải lắm gay go xoay trở.

Đã rảnh tay nơi cõi tục mà còn nặng lòng nơi cõi Thiên, thử hỏi có bao nhiêu người cùng tột ưu-thời mẫn thế như vậy. Nếu Đức Ngài chẳng đắc vị nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống hồ dễ chúng ta được may duyên gần gũi Đức Ngài hầu học hỏi thêm những điều cần học hỏi.

Cho hay về phần Đức Ngài thì Thiên định đã đành, còn về phần chúng ta thì NHƠN NGUYỆN HÀ NHƯ ? Nếu không thiện nguyện, rồi dựa nơi nào mà để lời đối chiếu với câu "Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi".

Trong hoàn cảnh này hai chữ cội Đạo có nghĩa ám chỉ lãnh vực của Hiệp-Thiên-Đài không ra ngoài phạm-vi bảo-thủ chơn-truyền và Luật-Pháp mà từ lúc ban sơ Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài là tay gìn sứ mạng phò huyền cơ diệu bút cho Đức CHÍ-TÔN mở Đạo cứu đời. Tiện thị cội Đạo là Hiệp-Thiên-Đài đó vậy.

Để nhận định cho rõ thêm yếu điểm này, tôi xin trích lục một đoạn văn trong bài chú giải Pháp-Chánh-Truyền về Hiệp-Thiên-Đài như vầy:
" Cửu-Trùng-Đài là Đời mà Hiệp Thiên Đài là Đạo; cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng mới mong độ rỗi nhơn-sanh chuyển cơ Tạo-hóa.

" Cái trọng hệ là nếu không có Hiệp-Thiên-Đài thì không có Đạo. Trời Đất qua chớ Đạo không qua, nhơn-loại tuyệt chớ Hiệp-Thiên-Đài không tuyệt".

Kế đó, Pháp Chánh Truyền dạy tiếp:
PCT.  " - Hiệp-Thiên-Đài là nơi THẦY ngự cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài vẫn còn".

C.G. " THẦY là Chúa Tể Càn-Khôn Thế-giới tức là Chúa-Tể sự Vô-Vi, nghĩa là chủ quyền của Đạo, mà hể chủ quyền của Đạo ngự nơi nào thì Đạo ở nơi ấy.

Vậy Đạo còn thì Tòa-Ngự của Thầy là HTĐ vẫn còn. Hễ nói Đạo chẳng hề khi nào bị diệt thì HTĐ vẫn còn vì Đạo diệt thì là tận thế. Vậy thì Đạo chưa tuyệt ắt HTĐ cũng không tuyệt".

Trên đây là những lời vàng tiếng ngọc minh giải Hiệp-Thiên-Đài là Cội Đạo vậy.
Bây giờ chúng ta tìm hiểu vì lẽ gì Đức-Hộ-Pháp lại buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rút kinh-nghiệm đã thâu thập trong thời gian cầm quyền Chánh-Trị-Đạo tại thế, Đức Ngài nhận thức căn phần của Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài khó khăn nặng nhọc, lại là thiểu số, thoảng như rủi lâm vấp vào nẽo chông gai hay sa cơ vào nơi hầm hố thì tự cứu lấy là phương duy nhất chớ chẳng nên ỷ lại vào năng lực nào khác để nâng đỡ cho mình, rồi đã thất vọng, lại thêm thất vọng chớ chẳng chi hơn.

Tuy vẫn không nói hết lời, Đức Ngài thương xót cho thân phận cội Đạo không ngớt chơi vơi mới tỏ nỗi ưu sầu nhưng trong cái rầu buồn ấy có ẩn ý cái hy-vọng một ngày kia sẽ có người nối chí tận lực đem con thuyền-từ qua Bỉ-ngạn.

Vã lại việc gì cũng có nên hư, có mặt trái, có thành công thất bại Ngài mới chuyển kết bài thi bằng hai câu:
" Rồi đây ai đến cầm chơn-pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn đời "

Đoạn chót này thuộc về tương-lai và chưa phải hồi giải-thích, chúng ta nên nhường chỗ cho thời-gian trả lời./.
* *  *

16 . Phủ dụ trong dịp Bà Phối Sư Hương Nhiều
tái thủ Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái
NGÀY 24 THÁNG 3 GIÁP-THÌN (5.5.64)

BÀI PHỦ-DỤ CỦA NGÀI BẢO-THẾ
Qu. CHƯỞNG-QUẢN HIÊP-THIÊN-ĐÀI TRONG CUỘC LỄ
MỪNG BÀ PHỐI-SƯ HƯƠNG-NHIỀU TÁI THỦ PHẬN-SỰ
CHƯỜNG-QUẢN nữ-phái PHƯỚC-THIỆN

Kính Hội-Thánh Lưỡng-Đài Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng,
Kính Hội-Thánh Phước-Thiện,
Kính Bà Phối-Sư Hương-Nhiều,
Kính Quí Chức-Sắc, Chức-Việc Nam Nữ,
Trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một ngày công-quả của mỗi chúng ta là một ngày chúng ta trọn vẹn hiến thân cho Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu xử khiến để thay thế cho Người đặng dìu dẫn nhơn-sanh thoát ly khổ hải nhứt là đối với hạng người còn nặng say sưa với mùi chung đỉnh còn lắm quằn quại trong bả vinh huê là những miếng mồi treo gương cho kẻ phàm phu lạc lầm làm tôi cho tà-mị. Thất một ngày công-quả là mất một bửa phục-vụ nhơn-sanh tức là thêm một ngày chìm đắm nhơn-sanh trong vòng tục lụy.

Vã chăng trong bổn Đạo có hai hạng người, một là hạng hạ-thừa chỉ lo giữ Đạo cho vuông tròn và đức-tin cho mạnh mẽ và một nữa là hạng thượng thừa có nhiệm vụ trọng yếu hơn như trên vừa kể. Thoảng như trong phẩm này mà có người còn liều lĩnh trong sứ-mạng Thiêng-Liêng, tự mình đã nhận lãnh thì thà xuất ngoại cho khỏi phụ lòng Đức-Từ-Bi che chở. Vì đó trong đêm mùng năm tháng chạp Tân-Sửu (10.1.1962) tại cung Đạo Đền Thánh Đức LÝ NHỨT-TRẤN OAI-NGHIÊM giáng cơ dạy như vầy:
" Mỗi vị chức-sắc cần phải có một phận-sự; nếu không phải là phận sự Đạo thì là một phận-sự đối với đời về mặt Bác-Ái thì mới thật hành câu cứu nhân độ thế. Không có phận sự gì đặc biệt để đếm ngày giờ trông mong cầu thăng phẩm thì là tội với Thiêng Liêng đó "...
Thế thì dầu chức-sắc hay đạo-hữu cả nữ lẫn nam không ai được trái bước trong đạo nhơn-luân nhiên hậu mới gấm ghé vào Thiên-Đạo. Thì công-quả là phương-châm duy nhứt dọn lối vào đường lập vị.

Sau này chúng ta cũng cần ý-niệm thêm rằng gắng sức thường hành công-quả là phương-chước đoái công chuộc tội, nếu chẳng phải tội hiện kim thì cũng nợ tiền khiên vì không ai được thập toàn trên mặt thế. Rửa sạch tội lỗi bằng công-quả tức là ưng lòng hứng chịu những gian lao về trí não cùng những khổ nhọc về hình hài đặng đền lại cái mà những ai trong chúng ta đã tạo hoặc trực tiếp hay gián tiếp cho kẻ khác, phải vì ta mà điêu-linh tân khổ. Đòn cân công-bình nhứt là thuộc phía vô-hình không bao giờ chênh lệch, thử hỏi những công kia trả nợ nầy hồ dễ không hạp chơn lý cho được .

Một trọng điểm khác nên quan tâm là trong khi làm công quả có những việc bị hàm oan phải mang, có những điều ngang trái phải gánh, những chuyện thị phi phải lảnh với ngậm ngùi nuốt đắng trêu cay mà không dám than thân, không nên trách phận, đó là những cách thử thách của tà thần để cho ta được thực nghiệm, trau giồi đức tánh thế nào cho ngang hàng với Phật , Thánh , Tiên mới mong thành Đạo. Lẽ dĩ nhiên quả đẹp thì vị cao, bằng trái lại thì chỉ có kế tái sanh tục kiếp mà lần hồi tiến hóa.

Vã chăng ĐẠI-ĐẠO khai sáng một lần đại ân xá, chẳng ân tứ hai lượt , thì nhơn sanh hạnh ngôï Tam Kỳ hội này là may duyên hi hữu. Nếu chẳng tu theo ngọn đèn thiêng liêng vạch lối, dầu giữa nắng ban ngày hay bán dạ thâm canh luôn luôn tỏ rạng. Trong lúc tà quyền giành giựt con cái Đức CHÍ-TÔN đang lôi kéo vào chốn âm u đày đọa, chừng ấy tấn thối lưỡng nan có hối tiếc cũng muộn màng không xoay trở kịp.

Đức HỘ-PHÁP buổi nọ đã dụng phương hay chước khéo bảo vệ chức sắc, chức việc và thiện nam tín nữ của cơ quan Phước-Thiện cho khỏi sa vào cạm bẩy món ngon vật lạ tứ giăng chung quanh mỗi người, nhứt là phái yếu nữ lưu còn lắm thiệt thòi về trình độ học thức và tinh thần phục vụ và lắm hiếm hoi về hạnh đức để làm gương mẫu cho kẻ mình phổ độ noi theo, nên Ngài mượn tay một nữ Chức Sắc Cửu-Trùng-Đài là bà Phối Sư HƯƠNG-NHIỀU có đủ kinh nghiệm và phúc hậu để dìu dẫn nữ phái Phước-Thiện đi trên đường ngay nẻo chánh của chơn đạo . Mở trí khai minh là việc khó khăn nặng nhọc mà bà đã làm tròn bổn phận từ lâu cho đến khi phải gián đoạn nhiệm vụ của đức HỘ PHÁP nảy giao vì đại biến trong cửa đạo liên hệ tới gia đình bà, mà bà vẫn kiên tâm bền chí không rời Thánh Địa để giữ cho còn sự tượng trưng lãnh đạo giáo hóa nữ phái Phước Thiện khổ hạnh nầy Hội Thánh hằng ghi nhớ.

Hôm nay cơ điều hòa trong cửa đạo đã trải qua nhiều trạng thái khó khăn mới được trổ mầm hứa hẹn một tương lai nhiều hy vọng khả quan cho con cái Đức Chí-Tôn và Đức Phật-Mẫu trụ hết đức tin vào hai Đấng khai Thiên lập Địa nắm cả huyền vi mầu nhiệm cơ đạo đặng cứu vớt sanh linh khỏi cơn đồ thán.

Hội Thánh Hiệp-Thiên-Đài nhận thấy sứ mạng Bà Phối-Sư HƯƠNG-NHIỀU còn tiếp tục được đắc lực hơn theo ý định của Đức Hộ-Pháp khi còn tại tiền. Nên chúng tôi vui lòng giao hườn cho bà trách vụ Chưởng-Quản Nữ Phái Phước-Thiện.

Ngày nay bà chánh thức hành sự, tôi ước mong bà sẽ thi ân bố đức cho đoàn em út Nữ phái dưới quyền bà đặng thụ hưởng để rồi cả thảy đều một nhịp một nhàng chị trước em sau nâng đỡ lẫn nhau trong tình tương thân tương ái thì may mắn lắm .

Đành rằng Hội Thánh Hiệp Thiên Đài có phận sự lập ngôi định thứ cho chư chức sắc chẳng luận ở cơ quan trọng yếu nào trong cửa Đạo, nhưng phải có sự tận tâm tận lực của mỗi đơn vị cho dễ bề Hiệp Thiên Đài công minh phân đoán .

Nhơn danh Hội Thánh Hiệp-Thiên-Đài tôi cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT MẪU phát hạ hồng ân cho Hiền Tỷ trong công khó đặc biệt nầy sẽ được sớm cao thăng phẩm tước .
Nay kính,
TÒA- THÁNH, ngày 24 tháng 3 năm Giáp Thìn (dl.5.5.1964)
QUYỀN CHƯỠNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
( Ấn-Ký)
Bảo Thế LÊ THIỆN PHƯỚC

* *  *

17 . Diễn Văn Khai mạc Đại Hội Hội Thánh Giáp Thìn (25-9-64)
NGÀY 20 THÁNG 8 GIÁP THÌN (dl 25.9.1964)

BÀI DIỄN VĂN CỦA NGÀI BẢO THẾ,
Qu. CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI TRONG DỊP LỄ KHAI MAÏC
ĐẠI HỘI HỘI THÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI TẠI ĐỀN THÁNH

Kính Hội Thánh Hiệp Thiên Đài,
Kính Hội Thánh Cửu Trùng Đài nam nữ,
Kính Hội Thánh Phước Thiện,
Cuộc đời có lắm chuyện trớ trêu như vinh nhục thay đổi liền tay, sang hèn chuyển xoay chớp nhoáng, còn kiếp người như bóng phù du vừa thấy đó liền mất đó. Với bao nhiêu chuyện ấy, hơi đâu mà bàn.

Nền Đạo cũng có lúc thăng, lúc trầm. Thăng thì vui vẻ tươi cười anh em lớn nhỏ chia nhau cộng hưởng, trầm thì sầu não ưu tư cũng cùng nhau kê vai chung chịu.

Khác với đời là Đạo hằng kết tình thân hữu giữa bạn đồng thuyền xúm nhau giữ vững nghiệp Đạo cho tới ngày hôm nay và luôn tới ngày mai hậu.

Song le, đã trải qua gần nửa thế kỷ sau khi khai sáng Đạo Trời, phàm tâm với chất Thánh vẫn còn lẫn lộn dưới bóng từ bi làm cho Hội Thánh phải nhiều phen điên đảo. Mặc dầu vậy, dầu muốn dầu không, vì Thiên thơ dĩ định cả chức sắc lãnh sứ mạng thể thiên hành hóa phải chung tâm hiệp trí quyết sách vận trù tìm phương tái tạo niềm hòa khí thuận theo ý Trời đặng khỏi tủi hổ khi về cảnh Thiêng liêng Hằng sống.

Vã lại, đã khá lâu quyền Vạn Linh gián đoạn sự thông công với quyền Chí Linh, bởi những chuyển biến gây nên trong cửa Đạo thì thật khá tiếc. Nay Hội Thánh khởi đoạn phục hồi năng lực của quyền Vạn Linh, thật khá mừng.

Tuy vân mừng, tôi xin lưu ý chư Thánh Nam Nữ cổ ngữ này để làm câu nhựt tụng:
Nhơn tâm vi nguy, Đạo tâm vi vi,
Duy tinh duy nhứt, doãn chấp quyết trung.

Lòng người thì chất chứa những nham hiểm ích kỹ hại nhân còn lòng Đạo thì gồm những tinh vi tế nhị, người trí thì quyết chí noi theo đường Đạo là đường duy nhứt để vén màn hắc ám khám phá mối huyền vi của Đạo. Mục đích tư riêng trong kiếp tu của mỗi phần tử ưu tú trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn tại thế có bấy nhiêu đó thôi. Còn việc truyền giáo cứu độ nhơn sanh thoát chốn trầm luân là công quả ngoại giới thuộc về đức tánh thương yêu và công bình.

Nếu thiếu những yếu điểm này có tánh cách liên hệ trực tiếp với công phu nội giới thì cũng khó mong đoạt cơ mầu nhiệm như trên vừa kể. Vã lại trên trường phổ độ chư vị được đặc sắc hơn kẻ khác để thành công là sẳn có nơi mình cả quyền năng vô lượng vô biên của vô hình ám trợ.

Đấy là một lợi khí không ai thấy được và cho đặng duy trì món lợi khí ấy cho mãi còn hiệu lực thì phải tự mình rèn luyện bổn tâm cho linh diệu quang minh ngõ hầu chế ngự dục vọng sa vào cạm bẩy của tà mưu để chia rẻ con cái Đức CHÍ TÔN, làm tôi cho tà mị ấy là điều tối kỵ trong nền Chơn giáo.

Giờ luận đến ý nghĩa của cuộc Đại hội HỘI THÁNH hôm nay, chúng tôi nhận thấy đây là cơ hội tốt đẹp cho chư Thánh tuyên dương công trạng của mỗi người trong thời gian qua để lập thêm quả cao vị trọng.

Có điều nên đề phòng là Thánh Thể Đức CHÍ TÔN tại thế còn dẫm bước giữa chợ đời với mãnh nhục thân yếu đuối rất dễ bị khắc phục bởi những lợi, lộc, quyền, danh là vật của đời treo cao giá. Một khi thâm nhiểm mùi đời ắt quên mùi Đạo, rồi sức chống chỏi với tà tâm lần hồi suy giảm thì một ngày kia nếu đa số con cái Đức CHÍ TÔN hướng về đường tội lỗi rồi thiểu số người còn lại e phải đổ lụy mà xem cơ đồ sụp đổ.

Ngừa bịnh hơn trị bịnh, chúng ta hãy cương quyết dụng phép thương yêu lấy đường dung thứ làm chuẩn thằng để nâng đỡ nhau trên đường thi công quả, thì trong Bát Quái Đài chư Thần, Thánh, Tiên, Phật sẽ chứng minh lòng thành của mỗi chúng ta mà ban ơn lành cho cả thảy: Ấy là ý nguyện chúng tôi rất lo ngại bánh vẽ sẽ là kết quả của cuộc hội chăng?

Sau nữa tôi xin chư vị quan tâm rằng đã được Thiên Phong vào hàng Thánh trong đương kim thời đại thì phải có tư cách hành vi tư tưởng như liệt Thánh trong Thượng cổ thời đại. Luôn luôn lấy tâm quản thể bàn mà tiếp nhơn xử sự thì nền Đạo mới thiệt tướng là phi thường Đạo và danh mới tỏ rạng là phi thường danh.

Đây rồi Hội Thánh sẽ đem hết công tâm và lượng khoan hồng để xét đoán từng thỉnh nguyện của Hội Nhơn Sanh vừa rồi về năm Giáp Thìn (1964) và chứng minh công nghiệp của những vị đã xứng đáng đứng sổ cầu phong và cầu thăng hầu dâng lên Thượng Hội giải quyết.

Kính Hội Thánh,
Tôi xin long trọng tuyên bố khai mạc Đại hội HỘI THÁNH Cửu Trùng Đài về niên hội Giáp Thìn (1964) và trao cho Ông qu. Thái Chánh Phối Sư nhiệm vụ chủ tọa Hội Thánh.

Tôi cầu xin Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU, Tam Trấn Oai Nghiêm và chư Thần Thánh Tiên Phật ban ơn lành cho toàn Hội.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nay Kính,
BẢO THẾ (Ấn Ký)

* *  *

18 . Huấn Từ Lễ Kỷ niệm Đức Q. Giáo Tông (16-11-64)
NGÀY 13 THÁNG 10 NĂM GIÁP THÌN (16-11-1964)

HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI TRONG DỊP LỄ KỶ NIỆM
ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT
TAÏI TRƯỜNG TRUNG TIỂU HỌC TỰ THỤC LÊ VĂN TRUNG

Kính Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Kính Quý Quan Khách,
Kính Ban Giám Đốc,
Kính Hiệu Trưởng,
Kính Quý Vị Giáo Sư,
Các em học Sinh,
Bước vào cửa Khổng Sân Trình, chúng tôi lấy làm e ngại không dám múa búa trước cửa Lổ bang. Song le dầu thế nào, sự hiện diện của chúng tôi nơi đây chỉ cốt yếu gây tình thân hữu với nhà mô phạm và giúp tinh thần cho Ban Giám Đốc ngôi trường này được mạnh tiến thêm trên nhiệm vụ.

Lãnh sứ mạng khai tâm mở trí cho đoàn son trẻ mầm non nước nhà, một nước tuy đứng vào hàng tiểu quốc nhưng rạng danh văn hiến hơn 4.000 năm tại miền Nam Đông Á, quý vị giáo sư có mặt nơi đây được hãnh diện nhận lãnh chức vụ trong ngành giáo huấn, một chức vụ cao thượng mà lại bạc bẻo. Bạc bẻo vì chịu phận thiệt thòi hơn các giới trong tứ dân: Sĩ, Nông, Công, Thương, mặc dầu Sĩ đứng hàng đầu và trên tất cả. Để bù lại cái thiệt thòi này về bề ngoài, bề trong được vui vẻ lương tâm nhà nghề vì chính mình quý vị là tay đào tạo nhơn tài mà ngày nay hay ngày đã qua cùng ngày sẽ tới họ không quên tình sư nghĩa đệ. Cái tình này các giới khác chưa hề có.

Đức Khổng Thánh khi xưa vì lo cho tương lai dân tộc Trung Huê trong thời kỳ gia vong quốc phá bèn xướng xuất Nho Tông làm phương trị loạn. Nho giáo của Đức Ngài căn cứ vào Đạo lý luân thường nhưng không thích hợp với chánh sách bá Đạo của các vì Vương thời bấy giờ.

Vì lẽ đó mà châu lưu khắp xứ, Đức Ngài gắng tìm minh chúa mà phò. Thảm nổi, từ nước Lổ sang nước Vệ, đến nước Tấn, nước Tần v.v... Ngài không được trọng dụng rồi phải lui về nguyên quán là nước LỖ mở trường dạy học. Trong số 3.000 học trò, có 72 vị tài cao học rộng tinh thông lục nghệ là: Lễ Nhạc Xạ Ngự Thư Sổ. Hiện nay hậu tấn còn xưng tụng chư vị ấy là Thất Thập Nhị Hiền.

Thiết tưởng con người sinh ra phải học mới biết chớ nào ai được đặc biệt sanh nhi tri chi. Thử hỏi dầu ở thời đại nào với dân tộc nào, hay tôn giáo nào, nếu không có văn chương thì lấy đâu mà tả kinh diễn điển. Cho nên chuyện học là cần nhứt của trò, chuyện dạy là bổn phận của Thầy, và nhà trường là lò ung đúc văn chương. Nếu thiếu một trong ba yếu điểm này thì đường văn minh phải thoái lui, dân trí và dân khí phải chìm đắm trong lạc hậu u tối.

Kính quý liệt vi Giáo Sư.
Luận cổ suy kim, tôi nhận thấy Mạnh Thường Quân lúc nọ là tay hảo hớn nhứt trong nước Tề, ưa chiêu hiền đãi sĩ, thích kết bạn hơn kết thù. Hằng ngày Người chứa Tân Khách hàng ngàn và hậu đãi mỗi người như nhau, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo và lấy tư cách bình dân để tiếp nhơn xử sự, dầu thân hay sơ, ai ai cũng được gần gũi Người như bạn cố giao. Một bửa kia vì hết tiền nuôi khách, khách lần lượt tứ tán ra đi không màng ngó lại, ngôi nhà khi hôm qua vang tiếng vui cười khi nay lại im hơi vắng bóng người lui tới. Mạnh Thường Quân tỏ dấu buồn rầu cho nhơn tình thế thái. Một người khách bặt thiệp nói: Hiền sĩ hãy nhìn buổi chợ, sớm mơi thiên hạ tấp nập chen vào, chiều lại vắng vẻ như bãi tha ma, vì không còn đồ cần dùng nữa. Hoàn cảnh của quý vị có thể ví như hoàn cảnh của Mạnh Thường Quân, thì dầu gặp cơn bất hảo, danh Mạnh Thường Quân vẫn lưu truyền ư hậu thế.

Các em học sinh,
Đường học vấn của các em còn dài, tuổi các em còn thơ, nhưng không vì vậy mà tôi không thuật cho mấy em nghe cho vui một chuyện khá ngộ nghĩnh là tích của Sở Vương Hàn Tín.

Sanh ở nước Sở bên trung Hoa, Hàn Tín là một người nghèo lại sớm mồ côi cha mẹ, thường buổi đi câu cá đổi tiền mua gạo. Chỗ người ngồi câu laiï gần chỗ bà Phiếu Mẫu giặt đồ. Phiếu Mẫu liền nói:

Nảy giờ tôi trộm thấy cậu không câu được con cá nào, chắc tại tôi giặt đồ nước xao động, nên cá không dám tới ăn câu. Thôi tôi mời cậu về nhà tôi dùng cơm chờ qua ngày khác. Hàn Tín du dự nhưng cơn đói thúc tới, người liền nhờ cơm đở dạ của Phiếu Mẫu. Ngặt thay, ngày nào cũng như ngày nào, câu không được cá và ngày nào cũng như ngày nào cứ ăn cơm nhờ của Phiếu Mẫu.

Hàn Tín hứa ngày sau sẽ trả ơn cho bà,
Gân tới ngày xuống Trường An lập công danh, Hàn Tín ra chợ gặp một côn đồ thấy Hàn Tín mang gươm bèn thách đố Tráng sĩ muốn đi qua đây phải lòn trôn ta mà đi, bằng không hãy để gươm lại đó cho ta. Hàn Tín tự nghĩ: giết thằng này được rồi nhưng lở hội công danh chi bằng ta chịu nhục mặc cho miệng thế chê cười.

Hết hồi bỉ cực tới hồi thới lai Hàn Tín xưng vương nước Sở, thì Hàn ơn đền nghĩa trả cho Phiếu Mẫu đã đành lại còn phong thưởng cho tên du đãng tiền nhựt làm nhục Người và nhờ cái nhịn đó mà có ngày nay vinh sang bốn bể.

Đặc điểm trong đời oai võ của Hàn Tín là trả ơn và nhịn nhục.

Nhờ Thầy ngày nay mà mấy em trở nên người hữu dụng ngày sau. Mấy em sẽ là hậu hiền chớ khá quên hai đặc điểm trên đây của tiên hiền Hàn Tín vậy.

Kính Quý Ngài,
Dưới bóng từ bi của Đức Thượng Đế, anh cả chúng ta là Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã nhiều phen trải qua lắm nổi khổ tâm vì tình đời luôn cả mối Đạo.

Hiện giờ đứng trên Thiên Thượng để mắt nhìn xuống thiên hạ, Ngài hằng hoài cố đến thân phận nhơn loại đang dung ruổi trên đường nguy khốn và không ngớt ám trợ cho người có nhiệt tâm giáo hóa nhơn sanh. Âu cũng là một đại công quả về phần vô vi của Ngài vậy.

Quý trường Trung Tiểu học tư thục LÊ VĂN TRUNG đặt dưới danh bất hư truyền của một bậc tiền bối như Ngài, sẽ được ngài phò trì cho danh thêm cao và quý vị có chức vụ trọng yếu trong nội bộ sẽ được Ngài nâng đỡ tinh thần thêm tráng kiện, lý trí thêm dồi dào để dìu dắt con em vui sống trên một nền văn hóa tuyệt sắc bắt nguồn từ đạo đức ra đến thân dân.
Nay Kính,
Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
BẢO THẾ
(Ấn Ký)

* *  *

19 . Huấn Từ Lễ Bế Giảng Hạnh Đường ((24-12-64)
NGÀY 21 THÁNG 11 GIÁP THÌN (24-12-64)

HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ QU. CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
TRONG DỊP LỄ BẾ GIẢNG HẠNH ĐƯỜNG
Kính HỘI THÁNH Lưỡng Đài HIỆP THIÊN, CỬU TRÙNG và PHƯỚC THIỆN,

Kính Hiền huynh ĐẦU SƯ kiêm Thượng Chánh Phối Sư,
Kính Hiền huynh Giám Đốc Hạnh Đường,
Quý Sinh Viên và Học Sinh nam nữ,
Nhơn dịp niên học Hạnh Đường Giáp Thìn mãn khóa, tôi hân hạnh được Hội Thánh hoan hỉ mời dự lễ bế giảng long trọng như thế này, tôi xin để lời cảm tạ thạnh tình của Hội Thánh.

Giữa đây tôi nhận thấy số Sinh Viên và Học Sinh nam nữ năm nay thặng số hơn năm ngoái rất nhiều, ấy là triệu chứng mùi Đạo đã nhẹ nhàng tưới mát tận cõi lòng con cái Đức CHÍ TÔN mới có nhiều người nông chí thi đua vào học đường tìm hiểu Đạo Mầu. Rồi đây các bạn khác sẽ noi gương chuyên lo đèn sách hơn quyến luyến gia đình thì rất may cho những bạn ấy.

Thiết tưởng sinh viên và học sinh của Đời lo học văn chương rèn tập bách khoa thì có nghỉ hè để bồi dưỡng tinh thần và phục hồi sức khỏe. Còn sinh viên và học sinh của Đạo thì có nghĩ xuân để đối tượng. Hẳn đôi bên đều có nghỉ xong nghỉ khác mùa vì khác lối học và cũng khác cảnh ngộ. Cho nên nói rằng nghĩ chớ kỳ trung bên hàng tu sĩ chúng ta một khi rời cửa học đường thì bắt tay vào việc thực hành những cái gì đã học trong bài vở vừa để thí nghiệm vừa để rút kinh nghiệm. Có thí có nghiệm như có tri có hành đi đôi thì sự học mới thành hữu ích.

Vả chăng lý thuyết là ngọn đèn, còn thực hành là lối đi. Ngọn đèn chỉ soi sáng chứ không dìu bước vẹt chông gai hay qua hầm hố. Thảng giữa đường gặp những chướng ngại này thì khách lữ hành phải dụng lý trí bổ túc lý thuyết rồi tự mình tìm thế qua truông nhưng không mất ngọn đèn báo hiệu.

Quý Sinh Viên và Học Sinh,
Như trên vừa nói trong nay mai quý em sẽ dấn thân vào đường thực nghiệm ắt không khỏi vướng nhằm trắc trở khó khăn rồi vì đó mà bất cập để luận bài dễ bài khó, Thầy dở Thầy hay. Trái lại hãy xét kỷ trình độ học thức của mình tiến thoái hà như, chớ chưa hề có bài học dễ hay bài học khó, Thầy dạy dở hay Thầy dạy giỏi. Như xưa kia Đức Khổng Tử mà Thiên Hạ tặng là Đại Thánh Sư biểu yết kiến Đức LÃO TỬ và hỏi Đạo, Đức LÃO TỬ giãng rằng: Ông lấy nhân nghĩa sửa Đời ư ? Sao thấy người ta say không nấu rượu bán để có bả mà ăn. Sao thấy người ta sụp xuống bùn không lội xuống bùn để có tôm có cá mà bắt. Bày ra việc nhơn nghĩa lễ trí, đặt ra người Quân Tử kẻ Tiểu Nhơn, Thiên hạ mới tranh khôn dại, mới luận thị phi, mới giành cao hạ, tức là Ông xúi loạn đó.

Cái thuyết của ta thì thanh tịnh vô vi nhưng vô vi nhi vô bất vi.
Ta không ra tới cửa ngỏ mà biết THIÊN HAÏ sự, vẫn ngồi trong nhà dòm ra cửa sổ mà biết việc Trời Đất. Ông nghĩ sao ?

Nếu chẳng phải là Thánh Nhơn, Đức KHỔNG TỬ sẽ phiền lòng vì bị chạm tự ái rồi sẽ chê Đức LÃO TỬ là tự phụ tự cao chăng ? Không, Đức Ngài về nhà tự nghĩ cái Đạo của ta là Đạo nhập thế, còn Đạo của Đức LÃO TỬ là Đạo xuất thế, cho nên Ông luận như vậy rất phải, ta khó theo kịp đó.

Nói đến đây chúng ta nhận thức rằng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qui hiệp tinh ba giáo lý của Tam giáo và ngũ chi làm cho giáo lý thuần nhứt để giác ngộ nhơn sanh trong thời buổi văn minh khoa học thạnh hành theo đuổi vật chất bỏ rơi tinh thần thì dầu người khó tánh đến đâu hễ nhập Đạo rồi liền có phương châm tu luyện theo sở thích cá nhân. Như vậy Hội Thánh có đủ phương sách cứu độ mỗi từng giới trong xã hội. Chẳng hạn như ai có chí trị bình giữa đời loạn lạc thì dụng Nho tông chuyển thế.

Những ai không muốn xen vào việc phức tạp của phồn ba thì học thuyết thanh tịnh vô vi của Đức LÃO TỬ hoặc thuyết tự túc của Đức Trạng Trình pháp danh là Thanh Sơn Đạo Sĩ, hồi còn sanh tiền lưu lại bài thi trạng cảnh thanh nhàn cư sĩ như vầy:

THI
Một mai một cuốc một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào?
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Trở lại giáo lý của Đại Đạo chúng ta nhận thấy có ba phương tiện bổ túc cho nhau như:

Khổng giáo dạy thương Đời, giữ thuần phong mỹ tục lập hòa bình. Kỳ dư không cần biết tới cái chết, vì cho rằng chưa biết cái sống hồ dễ biết cái chết cho được.

Đạo giáo khuyên sống đơn sơ giản dị ẩn dật an nhàn, trường sanh bất lão, vân du thiên ngoại cho tới chừng nào muốn bỏ xác thì tự bỏ lấy.

Phật giáo thỏa mãn nhu cầu siêu nhiên, bài giải nguyên nhân sanh khổ đặng đoạn tuyệt quả báo luân hồi.

Vậy thì Đại Đạo hiện nay gồm hết cái tinh thần vạn năng truyền thống của dân tộc Việt Nam, là "Tam Giáo Đồng Nguyên" căn cứ vào ba yếu điểm: Lễ Trí, Thần Bí và Triết Lý. Ba phương diện này hiệp một làm chơn pháp tận độ hữu vi trở lại vô vi muôn đời hằng sống ở Thiêng Liêng cảnh. Gặp Đại Đạo hoằng khai, ai không tu thì quá uổng.

Giờ phút này ở tại đây quý em còn là Sinh Viên, qua ngày mai sẽ là chức sắc lãnh lịnh đi ta bà thế giái với những kết quả thâu thập nơi Hạnh đường, ra tay rưới giọt nhành dương gội rửa bụi trần cho khách phàm tục theo sứ mạng giáo nhơn qui thiện, mà mỗi người trong chúng ta phải đoạt thành mục đích.

Cho hay việc phổ truyền chơn giáo không chờ tuổi tác, không đợi ngày giờ, cũng không phân biệt nam nữ. Như Đức QUAN ÂM NHƯ LAI kia đoạt vị cao hơn biết bao nhiêu bậc Bồ Tát hay La Hán của Nam phái; thì trong hàng nữ lưu đâu phải không có bậc dị nhơn cứu thế, chỉ với hai chữ thương yêu hóa độ quần sanh, Đức ngài được ngự trên tòa sen rạng ngời chiếu diệu.

Vậy thì đối với người TU, điều toát yếu là lập đại chí, thốt đại nguyện và giữ y lời sẽ chắc chắn đoạt Đạo.

Tôi cầu chúc cho mấy em sẽ gặp nhiều may mắn trong tương lai hành Đạo và cứ theo chơn HỘI THÁNH, nối gót Đức CHÍ TÔN, ngõ hầu thung dung để bước thì cửa kinh Bạch Ngọc sẽ đón mời, không còn chi hơn nữa.
Nay kính,
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
BẢO THẾ
(Ấn ký)

   Home                 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét