31 . Huấn dụ Tiệc đãi Chức
sắc trở về Địa phương (12-2-66)
NGÀY
23 THÁNG GIÊNG NĂM BÍNH-NGỌ (12-2-1966).
BÀI
HUẤN DỤ CỦA NGÀI BẢO-THẾ THỪA-QUYỀN THƯỢNG-SANH
NHÂN
BỬA TIỆC LIÊN-HOAN THẾT ĐẢI CHỨC-SẮC TRỞ VỀ ĐỊA-PHƯƠNG
Kính Hội-Thánh Lưỡng Đài Hiệp-Thiên,
Cửu-Trùng và
Hội-Thánh Phước-Thiện, Kính Quý Vị Khâm-Thành, Khâm-Châu, Đầu-Phận, Đầu-Tộc Nam
Nữ, Kính Quý Chức-Việc và Đạo-Hữu Nam Nữ.
Bước sang năm mới Bính-Ngọ với bộ sắc phục mới, quý
Huynh, quý Tỷ, quý Đệ, quý Muội đã góp một phần trọng thể trong sự điểm-tô
Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tại thế sau 40 năm hoằng khai Đại-Đạo tại nước Việt-nam.
Như ánh Thái-Dương lố dạng buổi bình minh, quý vị
là những tia hồng của mặt nhựt vạch tan đám sương-mù bao phủ vạn-vật trên mặt
đất; những tia hồng đem sinh khí tạo sinh lực cho thế-giới hữu thể, nói tóm là
một Thánh-Thể rạng ngời tinh-thần phục vụ căn cứ vào quyền năng bác-ái làm
linh-phù cảnh tỉnh phàm-phu bỏ ác tùng lương cải tà qui-chánh.
Để dựng nên một Thánh-Thể như thế, Đức Lý-Đại-Tiên
có lời phủ-dụ phải là bậc Chức-Sắc gồm đủ điều kiện xứng đáng làm người
hướng-đạo.
Cho hay phàm tâm không giống đạo tâm vì lẽ phàm thì
xu hướng theo vật-chất còn đạo thì làm chủ tinh thần. Vật chất làm mồi khoái
lạc cho hình hài nhục thể, tinh thần làm nẻo khai thông phát huệ cho trí thức
não cân, mà con người càng văn minh càng dung túng cho sự đòi hỏi của xác thịt
không ngần ngại xa lìa cội Đạo. Vì lẽ đó đời thanh bình hóa ra đời loạn lạc
nhân nghĩa đoạn tuyệt, chiến tranh bộc phát, thuận hòa tiêu diệt, tham vọng gia
tăng, tội lỗi chập chồng, chỉ chờ ngày đền tội là kết cuộc.
Đó là bối cảnh của xã hội ngày nay trong thế kỷ thứ
hai mươi, một thế kỷ chứa đựng tiếng khóc pha lẫn giọng cười như tỉnh như say,
rồi đây kiếp sống con người sẽ giạt vào đâu đặng còn hay mất.
Trớ trêu thay là người xa đạo, mà đạo lại là cứu
tinh khi người khẩn đảo.
Tùng Đại-Đạo hơn 40 năm dư, vui với Đạo, buồn cũng
với Đạo. Đạo vượng thì ta vượng, Đạo suy thì ta suy, nghĩa là hơn 40 năm nay
chúng ta trọn vẹn hòa mình với Đạo. Trong trường hợp nầy Chức-Sắc Thiên-Phong
dầu muốn dầu không phải nghiêng vai gánh vác nhiệm vụ cứu tinh vãn hồi tình
thế.
Thiết nghĩ sống giữa hồng trần sao cho khỏi thân
lấm bụi trần, rồi ngọn đèn trơiø mà quý vị đang khêu giữa không trung sao cho
khỏi chịu chung ảnh hưởng là lu mờ vì bụi rồi sẽ tắt đi mà chớ. Bởi thế Đức
Lý-Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm Kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ với một đại lượng
vô đối cùng một thần bút hi hữu trong 3 đêm rằm, 16 và 17 tháng 10 Ất Tỵ (7, 8
và 9 tháng 11 năm 1965) đã dụng phất trần tẩy sạch bợn trần, nâng cao Thiên
phẩm của tất cả Chức-Sắc phần tử trong Thánh-Thể được tinh khiết linh hồn trí-não
lẫn châu-thân mới đáng mặt là môn đồ của Thượng-Đế đứng trước chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật đang ngự chung quanh mình.
Việc gì phải đến sẽ đến và đây đã đến rồi. Nếu có
những lời tuyên dương ân trạch Thiên Liêng như trên là không còn chờ đợi nữa,
quý vị đã thật sự được sắp vào bậc Thánh Hiền trong nền Đại-Đạo do Thánh-Giáo
Đức Lý-Đại-Tiên đêm rằm tháng 10 Ất Tỵ (1965)
May duyên nầy không may duyên nào bằng, nhưng hãy
dè chừng phương ngôn “Phước bất trùng lai họa vô đơn chí” để nhận định thời lai
vận khứ ngỏ hầu giữ gìn bổn mạng và địa vị.
Chúng tôi xin để lời mừng cho quý Chức-Sắc
Thiên-Phong nói riêng và cho toàn Đạo nói chung vì từ đây chúng tôi có cảm
tưởng khi ngó đến Chức-Sắc Thánh-Thể hiện tại dường như chúng tôi nhìn vào tấm
gương phản chiếu nét hiền từ, lòng ưu-ái, lượng khoan-dung và tình đoàn-kết của
quý vị. Đây là những yếu tố cần thiết để cấu tạo một khối tinh thần Đại-Đạo vừa
là hùng dõng vừa có nghĩa nhân để chuyển đời tân khổ ra đời nhàn lạc. Quý vị đã
sẳn có những yếu tố ấy và nếu chưa có hãy tạo cho có,
Kính Hội-Thánh,
Kính Quý Chức-Sắc Thiên-Phong Nam, Nữ Trung Ương và
Địa Phương,
Một lát nữa đây Hội Thánh sẽ mời quý vị dự tiệc đầu
năm Bính-Ngọ.
Bửa tiệc hôm nay khác với những bửa tiệc trong
những năm qua vì nó đượm nhuần màu sắc vui tươi như hoa nở mùa xuân, rồi sẽ kết
trái ngọt ngào như hương vị mùa thu đặng rồi trái sanh cây, cây trổ bông, bông
kết trái liên huờn nối tiếp hóa sanh theo đức thương yêu của Chí-Tôn.
Trong dịp nầy, tôi xin nhắn nhũ thêm đôi lời. Trong
thời gian sắm tới quý Chức-Sắc sẽ lãnh sứ mạng xuất dương đi ta ba khắp năm
châu để độ tận chúng sanh, quý vị hãy cố gắng giữ mình như sen mọc dưới bùn mà
không lấm bùn, chừng ấy Đức-Chí-Tôn sẽ chan rưới thêm cam-lồ-thủy cho quý vị
thành công trong thành trình.
Nếu chúng tôi mượn hoa sen làm tỷ dụ là vì nó là
khuôn mẫu thích nghi cho Thánh-Thể mới với nhiệm vụ mới như vừa phân giải.
Số là trong các giống kỳ hoa dị thảo chỉ có hoa sen
là thứ hoa được ca dao truyền tụng qua nhiều thế hệ, nhất là trong hàng tu-sĩ.
Ca-dao rằng:
Hoa sen mọc bãi cát lầm,
Tuy rằng lấm-láp vẫn
mầm hoa sen.
Chúng tôi tin trước rằng với tánh
đức cao minh tự giác của quý vị thì danh của quý vị là phi thường danh cũng như
Đạo Cao- Đài là phi thường Đạo vậy.
Nay kính,
BẢO THẾ-THỪA QUYỀN
THƯỢNG-SANH
* * *
32 . Huấn Từ Lễ Tiếp tân Văn
phòng Đường Nhơn Trung Ương (29-3-66)
NGÀY
MÙNG 8 THÁNG 3 NĂM BÍNH NGỌ (29/3/1966).
BÀI
HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ THỪA QUYỀN THƯỢNG SANH
NHÂN
CUỘC LỄ TIẾP TÂN
CỦA
VỊ GIÁO HỮU ĐƯỜNG NHƠN THƯỢNG NGỌC THANH
KHÂM
CHÂU ĐẠO ĐƯỜNG NHƠN TÂY NINH
TẠI
VĂN PHÒNG ĐƯỜNG NHƠN TRUNG ƯƠNG
Kính Hội Thánh,
Kính Thiếu Tá Tỉnh Trưởng
, Kính Quý Quan Khách,
Kính Quý Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam, Nữ.
Hôm nay tôi hân hạnh được dự lễ tiếp tân của vị
Giáo-Hữu Đường-Nhơn Thượng-Ngọc-Thanh khâm-Châu-Đạo Tây-Ninh riêng chuyên lo
các sự việc liên hệ tới người Đường-Nhơn trong Châu Đạo sở tại.
Nhập vào cửa Đại-Đạo đã bao năm qua và đem hết tinh
thần phục vụ cho Hội-Thánh, làm tôi cho nhơn sanh, ngày nay vị Giáo-Hữu
Thượng-Ngọc-Thanh được liệt vào hàng Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tại thế, đây là một
sự kiện chứng minh cho ta thấy ai làm được bao nhiêu công quả sẽ hưởng được bấy
nhiêu phần không phân biệt người làm công quả là người bổn quốc hay khách ngoại
bang vì trước mắt Đức-Chí-Tôn tất cả dân-tộc dưới thế gian nầy đều là con chung
của một Đấng cha lành cầm quyền ngự trị càn khôn võ trụ.
Hiện giờ chúng ta đang ở trên địa cầu 68, trên 4
địa cầu từ số 69 tới 72, dưới 67 thượng từng địa cầu khác. Như vậy là nhơn loại
phải tu biết bao nhiêu ngàn kiếp nữa mới lên tới địa cầu số 1 rồi còn qua
Tam-Thiên Thế-Giới, Tứ-Đại Bộ-Châu và Tam-Thập Lục-Thiên mới đến Bạch-Ngọc-Kinh
chầu Đức-Thượng-Đế.
Liệt kê như trên thì con người cho được thành Tiên
tác Phật phải trải qua vô số kiếp gian lao cực nhọc của xác thân lẫn linh hồn
mới thoát vòng khổ lụy. Thiết tưởng Đạo-Thánh Gia-Tô cứu thế vừa được 2.000 năm
thì văn minh vật-chất phát khởi mảnh liệt phi-thường làm cho đại chúng hăng say
trong khoái lạc nhục thể mà chồng chất tội tình không có dấu hiệu nào ân hận
hồi đầu hướng-thiện. Nếu theo đà tiến bước nguy hiểm như thế nầy thì loài người
sẽ tuyệt, thế gian sẽ tiêu tan mà chớ.
Hữu phúc là trong số người sắp tự diệt còn lẫn lộn
lắm nguyên nhân cần được dìu-độ ra khỏi chốn nan-nguy nên Thiên-Thơ dĩ định
đúng lúc cho chơn pháp ra đời đặng cứu vãn tình hình rối ren trên hoàn vũ. Tình
thế nầy không chừa một sắc dân nào, một nhược tiểu nào, từ Á sang Âu và vạn
quốc đang bối-rối tìm chưa ra lối tái tạo thanh-bình và hạnh-phúc.
Chơn pháp trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chẳng
phải do người Việt cầm yếu lý mà do một Hội-Thánh gồm có Chức-Sắc liên-bang
chung sức với Chức-Sắc bổn-quốc đem hết nhiệt tâm dựng ngọn cờ cứu thế độ dẫn
quần sanh, bỏ tà qui chánh. Với mục đích ấy trong hàng Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn
tại thế đã có một số Chức-Sắc là người chánh thống thuộc nước ngoài như: Pháp,
Nhựt, Trung-Huê Dân-Quốc, Lào, Miên và Thái Lan. Nhứt là Huê-nhơn đã chiếm địa
vị Chức-Sắc cao-cấp Thiên-Phong như Chánh-Phối-Sư, Giáo-Sư, Giáo-Hữu và Lễ-Sanh
nam, nữ. Bên người Miên cũng có người đoạt vị Giáo-Sư. Phía người Pháp đã có
Chức-Sắc truyền giáo đắc-lực lên tới bậc Tiếp-Dẫn Đạo-Nhơn.v..v……...
Lần lượt Hội-Thánh sẽ tìm phương tiện phái Chức-Sắc
đi hoằng Đạo khắp nơi, ắt sẽ còn nhiều sắc dân tùng pháp đoạt vị.
Sự nên để ý trong thời mạt kiếp là đa số thế nhân
mắc nợ nghiệp báo tiền khiên phải trả hoặc bằng cách nầy hoặc bằng cách khác,
mà chẳng trả chẳng đặng vì công bình Thiêng- Liêng không sơ sót một mảy hào hồ
dễ chinh lệch cán cân cho được. Vả lại nhơn loại đang sống giữa sự đòi hỏi của
hai khói tinh thần và vật chất. Khối tinh thần thì nghiêm cấm tham lam, sân
hận, si mê, khép vào khuôn viên đạo đức. Còn khối vật chất thì giục thúc tranh
đua, bạo tàn, sát hại. Vì đó Chức-Sắc Đại-Đạo có bổn phận đảm đương nhiệm vụ
phổ tế lấy đạo đức làm chìa khóa mở dây tháo xiềng cho kẻ tối tăm thoát tay tà
mị.
Cho hay trên quả địa cầu nầy có hơn trăm dân tộc,
chung sống mà chẳng chung tâm, tiếng nói dị đồng, phong tục cũng khác thì ngọn
đèn Thiêng-Liêng của Đại Đạo phải được khêu lên bởi những Chức-Sắc đồng hương,
đồng khí với mỗi dân tộc mới giác tâm hữu hiệu. Mà tiên tự giác nhiên hậu giác
tha, Chức-Sắc hữu trách cần cố gắng học hỏi thêm cho rành Giáo Ly,ù cho thông
mối Đạo, tập rèn đức tính cho nên hiền, chuyên khoa ngôn ngữ cho chơn thật, tận
tụy cho hành vi thuần chính thì hiền nhơn quân tử còn đang ẩn dật sẽ xuất hiện
giúp mình đạt thành mục đích cứu kẻ trầm luân theo Tân Pháp.
Nay chúng tôi đến đây chia vui cùng Hiền Đệ Giáo
Hữu Đường-Nhơn Thượng-Ngọc-Thanh trong cuộc lễ tiếp tân nầy, và mừng cho Hiền
Đệ được sự chiếu cố của ngài Tỉnh-Trưởng cùng đông đủ quý quan khách bổn hạt.
Chúng tôi cầu chúc cho Hiền-Đệ gặp nhiều may mắn trong tương lai.
Chúng tôi cũng cầu chúc cho ngài Tỉnh Trưởng cùng
quý quan khách được Đức-Chí-Tôn ban hồng ân trong mọi việc và mọi dịp của quý
Ngài.
Nay Kính,
BẢO-THẾ - THỪA-QUYỀN
THƯỢNG-SANH
* * *
33 . Huấn dụ Lễ Phát thưởng
Học sinh Đạo Đức Học Đường (29-4-66)
Tại
Tòa Thánh Ngày 9 tháng 3 Nhuần Bính Ngọ (29/4/1966).
Bài
Huấn Dụ Của Ngài Bảo Thế Thừa Quyền Thượng Sanh
Nhân
Bửa Lễ Phát Thưởng Cho Học Sinh
Trường
Trung Học Tiểu Học Đạo Đức Học Đường
Kính Hội Thánh,
Kính Trung Tá Tỉnh Trưởng,
Kính Quý Quan Khách,
Kính Quý Chức Sắc Thiên Phong,
Kính Ông Hiệu Trưởng Đạo Đức Học Đường,
Kính Ban Giám Đốc và Quý Vị Giáo chức.
Hôm nay ông Hiệu Trưởng và Ban Giám Đốc Đạo Đức Học
Đường có mỹ ý dành cho tôi một danh dự để lời Huấn Dụ mấy em học sinh nam nữ
trước khi mấy em về nghỉ hè, tôi xin cám ơn thạnh tình của ông Hiệu Trưởng và
toàn ban Giám Đốc.
Thì đây tôi xin tỏ cùng mấy em học sinh ý chí của
Hội Thánh đến đây là để chia vui cùng mấy em về mặt tinh thần trong giờ phút
mấy em đang hân hoan lãnh thưởng về phần vật chất.
Thiết tưởng tiền bối chúng ta có lưu lại nhiều câu
ca dao rất ngộ nghỉnh và thâm thúy chẳng hạn như về việc khai trí học tập thì
rằng: Rừng nhu biển Thánh khôn dò, nhỏ mà chẳng học lớn mò sao ra. Tôi rất hài
lòng nhận thấy tuổi mấy em vừa lên năm đã khởi công đèn sách thì lo gì nơi cửa
Khổng sân Trình lại không có nhân vật đáng kể.
Đó là diễm phúc của mấy em thụ hưởng do cái đức lớn
của cha mẹ tạo cho thì ơn chín chữ cù lao là vô bờ bến, mấy em phải lo đền đáp
ơn kia cho xứng đáng.
Kế đó được thọ giáo với những bậc Thầy là chuyên
viên ưu tú xuất thân nơi cửa Đạo thì dĩ nhiên nghĩa sư đệ cấu thành một mối dây
tương thân tương ái nảy sanh một cái ơn không kém trọng hậu, mấy em khá tạc dạ
ghi xương.
Để giúp mấy em bớt xao lảng trong ký ức khi ra vào
cửa trường ốc, tôi xin mấy em hãy nhìn lên bảng hiệu học đường sẽ nhớ nó khởi
thủy bằng hai chữ đạo đức minh định rõ rệt đường lối sư phạm mà mấy em theo
dõi.
Thế thì song song với việc nấu sử sôi kinh mấy em
hãy lập tâm theo ý nghĩa hiệu trường nếu có tài năng mà thiếu đạo đức thì nhơn
tâm bất phục, còn có đạo đức mà tài năng dầu kém phần nào cũng không đến nỗi
ươn hèn.
Tiện đây tôi xin nhắc lại bài thơ của cụ
Nguyển-Đình-Chiểu đề cao văn sĩ đứng đầu trong tứ dân để mấy em khi nhàn rỗi
ngâm nga làm điều lý thú.
THI RẰNG:
Lòng
gồm kinh sử mấy mươi pho,
Vàng
ngọc nào qua báu học trò.
Hoa
trái rừng nho ra sức hái,
Nghề
kinh biển Thánh ráng công mò
Cẩm
văn thêu dệt đời đời chuộng,
Mùi Đạo trau giồi bửa bửa no.
Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách,
Một nhà đều hưởng phúc trời cho.
Cố học cho đến mức công
thành danh toại, mấy em một khi ra chung lộn với đời mới nhận thức cái vui sống
với thế nhân nhưng chẳng vì mảnh cấp bằng mà tự hào là đủ vì nó chỉ minh chứng
bao nhiêu những lý thuyết thâu thập trong sách vở, chớ kinh nghiệm xử sự tiếp
vật là việc do lý trí dựng nên và khi gặp dịp thế sự đòi hỏi mới gẫm lại phận mình
đứng giữa trời đất phải có danh gì với chí trai; chừng ấy mới phấn khởi cái
tinh thần xếp bút nghiên theo cung kiếm chớ. Đành rằng kiếp người có hạn, nào ai
tránh khỏi cái chết là định luật của thời gian và là định mạng của không gian.
Song le khi chết rồi phải lưu lại cái gì trên thanh sử chẳng hạn như cọp chết
còn để da, người ta chết sao lại không để tiếng. Nói đến đây mấy em sẽ còn gánh
một mối nợ cũng vĩ đại, là nợ quốc gia thủy thổ, nợ tấc đất ngọn rau, nợ tan
bồng hồ thỉ.
Tuy vân, hiện giờ mâý em còn là mầm non của đất
nước nhưng ngày tương lai sẽ là tinh ba của giang san. Vả lại cổ ngữ không lầm
rằng hậu sanh khả úy, nên tôi không tiếc lời cho trọn tứ của bài nầy ước mong
mấy em thông đạt lấy.
Mấy em nam nữ.
Niên học 1965-1966 đã chấm dứt, mấy em sẽ nghỉ ngơi
vui vẻ dưới mái nhà của gia quyến thân yêu, tôi cầu chúc mấy em sẽ được sức
khỏe dồi dào, tâm trí thêm sáng suốt đặng rồi qua niên học tới mấy em lần bước
trên nghĩa vụ thanh thiếu niên như trên đại lược vừa kể thì không may mắn nào
bằng.
Kính Ông Hiệu Trưởng,
Kính Quý Ban Giám Đốc,
Kính Quý Vị Giáo Chức.
Lảnh sứ mạng Thiêng Liêng điều khiển cái lò rèn
luyện nhơn tài, quý vị dầu muốn dầu không là ân nhân của thế hệ đương kim cũng
như thế hệ sắp tới .
Tôi cầu xin Đức-Chí-Tôn ban ơn lành cho quý vị và
bửu quyến quý vị.
Kính Trung Tá Tỉnh Trưởng, và quý Quan Khách,
Tôi cũng cầu nguyện Đức-Chí-Tôn ban đầy đủ hạnh
phúc cho ông Trung Tá Tỉnh Trưởng và quý Quan Khách ngõ hầu phục hồi vinh quang
cho đất nước.
NAM-MÔ-CAO-ĐÀI-TIÊN-ÔNG-ĐẠI-BỒ-TÁT-MA-HA-TÁT.
Nay Kính,
BẢO-THẾ - THỪA QUYỀN
THƯỢNG-SANH
* * *
34 . Diễn Từ Khai Giảng Hạnh Đường (23-4-66 )
TẠI TÒA THÁNH NGÀY MÙNG 3 THÁNG 3 NĂM BÍNH NGỌ (23/4/1966 ).
BÀI DIỄN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ
NHÂN DỊP KHAI GIẢNG HẠNH ĐƯỜNG
Kính Hội Thánh Lưỡng
Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính Quý Chức Sắc, Chức việc và Đạo Hữu Nam, Nữ.
Cuộc lễ khai giảng Hạnh Đường năm Bính Ngọ (1966)
đưa đến cho tôi một hân hạnh thừa dịp nầy để lời khích lệ chư vị Lễ Sanh tân
phong trên đường học tập đặng một ngày kia sẽ thung dung để bước vào cửa Thánh.
Được vậy là do mỹ ý của ông Trưởng Ban Giám Đốc Hạnh Đường, tôi xin cảm tạ
thạnh tình của ông và toàn Ban Giám Đốc.
Đứng vào thời kỳ áp dụng Nho Tông để chuyển thế
loạn ra thế an, Chức sắc của Đại Đạo Tam Kỳ là những vị cần gồm đủ điều kiện
hạnh đức và tài năng ngõ hầu thi thố cho hữu hiệu trong nhiệm vụ chung.
Đành rằng Hạnh Đường là lò đào tạo nhơn tài trong
Tôn Giáo thuần túy, nhưng mượn đèn đọc sách chưa đủ làm phương tiện phải có
thầy dọn đường chỉ lối cho và cũng chưa đủ nữa vì còn phải tự mình cố gắng tận
nhơn lực mới thi thiên mạng.
Đức Khổng Tử khi xưa muốn lấy quyền trị dân đặng
buộc dân hướng về đạo lý của ông vì thời bấy giờ nước Tàu lâm cơn đại loạn, nên
Đức Ngài từ nước Lỗ sang nước Tề, qua nước Yên, nước Tần...v.v... nhưng không
được triều đình nào trọng dụng cả. Rốt cuộc Đức Ngài trở về nước Lỗ mở trường
dạy học. Trường nầy được thiết lập gần cây Hạnh, nên mới mượn tên cây nầy mà
làm danh hiệu trường ốc gọi là Hạnh Đường. Đây chhúng ta không có cây Hạnh
nhưng trường Đạo dạy từng hạnh nết cử chỉ cho đoan trang dĩ chí hành vi và ngôn
ngữ cho thuần thục thì tên Hạnh Đường vẫn phù hạp với cái ý nghĩa cao thượng về
mặt tâm lý của nó.
Hạnh nết thì tu chỉnh đức tánh cho nên hiền thuận
theo ý trời đã định từ trước.
Hành vi thì dựa vào bác ái và công bình làm then
chốt xoay chiều trở hướng cho phàm gian đoạn tuyệt bạo tàn qui về đại đồng
huynh đệ.
Ngôn ngữ thì áp dụng cam ngôn mỹ từ thay thế cho
nước nhành dương làm lắng dịu lòng tục nóng nãy sân hận.
Vì đó Phật Giáo thường dạy môn đồ hãy tránh xa ba
món thuốc độc là tham, sân và si hằng dẫn dắt tu sĩ qui phàm. Cho nên hành vi
là yếu tố bảo đảm ngôn ngữ vậy.
Còn Khổng Học thì phân 2 hạng người trong xã hội
Tiểu Nhơn và Quân Tử. Quân Tử thường an bần lạc Đạo, Tiểu nhơn hằng ngó danh
lợi làm bia, song le danh lợi vô thường chớ đạo đức vĩnh cửu.
Hiện nay đời sắp tàn nhơn sanh đã tận khổ thì nhược
điểm là phục hưng Nho Giáo đặng cứu vãn tình thế nguy nan trong thời kỳ mạt
kiếp nầy. Nguyên lý là khởi thủy nhờ Nho Giáo làm khuôn Luật nên dân tộc được
thuần phong mỹ tục, nước được thanh bình thịnh vượng, duy trong thế kỷ 20 nầy
đời càng trụy lạc, nước càng suy vi thì phải trở lại cội nguồn mà tầm diệu dược
là thượng sách.
Bắt được manh mối rồi là khó, nhưng còn cái khó hơn
là tri với hành đi đôi mới thâu thập kết quả mong chờ. Là người đặt mình vào
trọng trách hiến dâng công quả cho Hội Thánh, quí vị Lễ Sanh tân phong hiện
diện cũng nên chú ý về công phu học tập và đừng quên ngạn ngữ rằng: “Nhứt nhựt
bất kiến như tam ngoạt hề” là một ngày không xem sách bằng ba tháng không học
thì châu niên đăng hỏa thành bại chỉ do Hội nầy.
Tôi long trọng tuyên bố khai giảng Hạnh Đường niên
khóa Bính Ngọ (1966) và cầu chúc cho chư vị học giả được Ơn Trên phò trì hầu đủ
nghị lực khải mê và Hạnh Đường là đèn soi đàng rọi ngõ vậy.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Nay kính,
BẢO-THẾ - THỪA-QUYỀN
THƯỢNG-SANH
* * *
35 . Huấn Từ Khai mạc Cắm
Trại của Thanh Niên Hội và Hướng Đạo Đại Đạo (8-4-B. Ngọ)
Ngày
mùng 8 tháng 4 năm Bính Ngọ (1966).
BÀI
HUẤN-TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ
NHÂN
DỊP LỄ KHAI MẠC CẤM TRẠI VÀ ĐỐT LỬA THIÊNG
CỦA
THANH NIÊN HỘI VÀ HƯỚNG ĐẠO ĐOÀN ĐẠI ĐẠO
TẠI
ĐẠI ĐỒNG XÃTRONG BUỔI LỄ VÍA ĐỨC HỘ PHÁP
Kính Hội Thánh,
Kính Trung Tá Tỉnh Trưởng,
Kính Quý Quan Khách,
Kính Quý Chức Sắc, Chức việc và Đạo Hữu nam nữ,
Kính Quý ban Chấp Hành Đại Đạo Thanh Niên Hội và
Hướng Đạo Đoàn Đại Đạo.
Hai chữ Thanh Niên thích nghĩa là tuổi trẻ. Trong
hạng tuổi trẻ có nam lẫn nữ, và cho đặng phân biệt lưỡng phái người ta dùng
danh từ thanh niên cho phái nam và thanh xuân cho phái nữ nghe cũng thâm thúy
lắm vậy.
Còn Hướng Đạo Đoàn là đoàn thanh thiếu niên tập học
tương liên trong tình thương yêu dưới sự chỉ dẫn của Ban Tổ chức liên hệ.
Hôm nay bổn đạo rất hoan nghinh sự đóng góp công
cán của hai hội: Đại Đạo Thanh Niên và Hướng Đạo Đoàn để giúp vui và tăng thêm
phần long trọng cuộc lễ kỷ niệm Đức Hộ Pháp qui thiên.
Cho hay mọi sự vật ở trên mặt địa cầu đều đặt dưới
luật thiên nhiên của không gian và tự nhiên của thời gian và phải biến chuyển
bằng cách nầy hay cách khác đặng tiến hóa.
Thử lấy vài mẫu chuyện thiết thực để dẫn chứng:
CON TẰM
Con tằm như ai ai đều biết là một giống sâu như các
giống sâu khác mà người ta nuôi đặng lấy tơ. Khi nhả hết tơ con tằm thu hình ở
trong ổ kén. Để rồi hóa bướm sanh tằm khác nối tiếp kiếp sống tạo nhiên liệu
che thân cho loài người.
CÂY LÚA
Cây lúa sanh ra hột lúa, hột lúa được ngâm cho nứt
mộng. Đó là nhứt chuyển. Người ta gieo thành mạ rồi cấy vào ruộng. Cây nhỏ nở
nang thành bụi lớn mới trổ bông, ấy là bước sang nhị chuyển. Bông ngậm sửa biến
thành hột lúa là chung chuyển.
LOÀI NGƯỜI
Loài người theo sách truyền rằng cổ nhơn hình tợ
thú, uống huyết, mang lông, ở lổ. Lời nầy chẳng phải ngoa, vì giống người xưa
ấy còn di lưu tới ngày nay tại Phi Châu và tại vùng đất thiêng rừng độc, các
nhóm cù lao giữa Thái Bình Dương. Nhờ trải qua nhiều thời đại tấn hóa theo thời
tiết, theo địa dư, họ được biến đổi thân hình mất hết dấu vết dị tướng. Tuy
vân, còn ăn thịt sống, ở hóc, ở hang như nhiều nhà mạo hiểm Âu Tây đã bắt gặp
trong cuộc phiêu lưu tìm tòi huyền bí của tạo vật. May duyên đem tới cho kẻ man
rợ được gần cửa văn minh vật chất do những nhà mạo hiểm biểu hiệu thì dần dần
họ sẽ trở nên khôn về trí não và đẹp về hình hài.
Trên đây bàn về sử liệu nhơn sanh. Hiện giờ cứu xét
về tân tiến xã hội.
Nước Việt Nam vừa mới tái phục chủ quyền liền lâm
cảnh nội quốc bất an mới phát khởi phong trào thanh niên vụ công ích bất vụ lợi
tự đứng lên bài xích độc tài bất công bảo vệ kẻ bị hiếp đáp.v.v... và thâu thập
kết quả khả quan, đào tạo được lực lượng đáng kể mà cách năm năm về trước thanh
niên còn ẩn dật. Để theo kịp trào lưu tiến hóa của dân sanh, Đại Đạo Thanh Niên
Hội phát xuất từ ngày 16 tháng 3 năm 1965 DL , và đã đoạt kỷ lục trưởng thành với tinh thần
phụng sự cho Đạo trên đường đào luyện nhơn cách thanh niên lấy thương yêu làm
Tôn Giáo sách. Đồng thời cũng phụng sự cho đời lấy đoàn kết làm kỷ luật.
Dầu muốn dầu không, một khi quốc gia chẳng luận
quốc gia nào gặp cơn quốc biến sẽ đòi hỏi quốc dân chia phần hữu trách thì Tôn
Giáo mặc dầu thuần túy đến đâu không khỏi đem cả khối thanh niên ưu tú hiệp với
toàn Đạo và toàn dân góp sức vào việc tái phục thanh bình và điểm tô quốc thể
cũng như tô điểm quốc Đạo.
Các em thanh niên,
thanh xuân,
Thế sự biến chuyển đòi
hỏi Đại Đạo Thanh Niên Hội thành hình trong khuôn viên đạo đức, mấy em chẳng
nên lơi bước trên đường đạo hạnh.
Trong các hạnh, cái hạnh nhịn nhục là khó khăn hơn
hết. Nhưng có chí làm được thì tương lai sẽ rở ràng.
Xưa kia Hàn Tín lúc còn thất nghiệp, chịu nhục lòn
trôn đứa thất phu giữa chợ thì không đáng so tài với nó. Người nghèo cho đến
đổi phải ăn xin Bà Phiếu-Mẫu. Sau lại cái chí đồ vương nghiệp bá có sẵn trong
lòng bèn đưa người đi đến thành công danh vang bốn biển. Nhưng rốt cuộc vì
quyền với lợi mà thác một cách vô lối.
Trương-Lương là bạn đồng trào với Hàn-Tín, nhưng
sáng suốt hơn là khi danh thành công toại, người liền cáo quan để hưởng nhàn.
Sự thật là đi tầm Tiên học Đạo. Thanh sử khen Lương chê Tín.
Mấy em ngày mai hậu nên áp dụng cái thuyết của họ
Hàn đặng hưởng cái phú quí đem lại bởi công hạng mã và cũng nên áp dụng cái
thuyết của họ Trương gởi thân vào cửa Đạo là cửa thiên niên thoát tục.
Mấy em được diễm phúc hơn Trương-Lương là sẵn có
Đạo nơi mình khỏi nhọc công tầm kiếm, xin nhớ lấy.
Sự vui mừng của tôi hôm nay là dự lễ khai-mạc cấm
trại của mấy em lần đầu tiên trưng bày trước mắt hoan hỉ của Hội-Thánh, của
Trung-Tá Tỉnh-Trưởng và quý Quan-Khách, tôi cầu chúc cho mấy em được hoan-lạc
tới cùng và được Ơn-Trên ban phúc.
Kính Hội-Thánh,
Kính Trung-Tá Tỉnh-Trưởng,
Kính Quý Quan-Khách,
Tôi cầu nguyện Đức Chí-Tôn ban hồng ân cho quý Ngài
được đầy đủ tráng-kiện tinh-thần và sức-khỏe trên nghĩa-vụ.
Nay kính,
Bảo-Thế - THỪA-QUYỀN
THƯỢNG-SANH
* * *
36 . Huấn Từ Phát quà dịp Vía
Đức Hộ-Pháp (29-5-66)
NGÀY
MÙNG 10 THÁNG 4 NĂM BÍNH-NGỌ (29-5-1966 dl .)
BÀI
HUẤN-TỪ CỦA NGÀI BẢO-THẾ THỪA-QUYỀN THƯỢNG-SANH
TRONG
DỊP LỄ VÍA ĐỨC HỘ-PHÁP TẠI HỘ-PHÁP-ĐƯỜNG
KHI
PHÁT QUÀ CHO NHÀ NGHÈO, CHO BỊNH NHƠN VÀ THIẾU-NHI
Kính
HỘI-THÁNH,
Kính quý Quan-Khách,
Kính quý Chức-Sắc, Chức-Việc và Đạo-Hữu Nam Nữ,
Bánh xe tiến hóa vẫn lăn, bánh xe luân hồi vẫn
chuyển, nhưng hai bánh xe lại xoay ngược chiều, một cái thì phát triển tới mục
phiêu đoạt cơ mầu nhiệm của Tạo-Đoan hầu tạo phúc phần nào cho loài người, còn
cái kia thì thoái bộ dựng nên những nghiệp chướng phá tan hạnh-phúc. Cái vui
song hành với cái buồn, nhơn-sanh vẫn sống trong vòng lẩn quẩn theo khổ lụy khó
mong giải-thoát tấm thân trần cấu.
Để dẫn chứng sự kiện trên đây, chúng ta hãy nhìn
vào bối cảnh của xã-hội văn-minh hiện-tại sẽ thấy chẳng luận thuộc nước nào và
dân tộc nào đều hiện lên những trạng huống đau thương trên mặt thế như
bịnh-hoạn, tật-nguyền, cô-độc, đói rách, v.v... toàn là cứu cánh lưu tồn động
tác của kẻ mê muội mà ra.
Thiết tưởng bao nhiêu Tôn-Giáo ra đời từ thử chỉ có
mục-đích thức tỉnh kẻ bạo tàn và an-ủi người bạc phước, nhưng quá rủi cho
nhơn-sanh vì bởi không tận hiểu sứ mạng thiêng-liêng của khách phàm là thực thi
câu nhơn năng hoằng Đạo chớ Đạo bất hoằng nhơn, thành thử đạo giáo có lúc cũng
đành chịu bất lực trước nhơn tâm bất khuất.
Song le, đức háo sanh của Đấng cầm quyền Càn-Khôn
Võ-Trụ không để tận diệt loài người, nên kịp thì khai mối ĐẠI-ĐẠO hầu cứu vớt
người hữu duyên đặng tái tạo-ngươn Thánh-Đức. Chừng ấy nhơn sanh không còn thi đua
trên đường tranh đấu vì miếng ăn đồ mặc, đất ở và chung sống cùng nhau trong
tình huynh nghĩa đệ mà thôi.
Vã lại, từ nầy cho đến ngày nhơn vật hết trầm luân
còn đủ thời giờ cho mọi người tu tỉnh và trong lúc chờ đợi sự tu tỉnh thành
tựu, số người lận đận lao-đao trong sự trả vay nghiệp báo vẫn chiếm đại đa số
đáng cho ai là người có lòng trắc ẩn, có đức háo nghĩa tạo nhân không thể điềm
nhiên tọa thị mục kiến những bức tranh bi thảm như vừa kể.
Trên đây là nói chung những phần tử đặc sắc trong
quần chung. Còn nói riêng về với tu-sĩ thì không một ai có cử chỉ lảnh đạm cho
được. Mà huống gì ĐỨC HÔ-PHÁP là vị vừa cầm luật pháp giữ gìn trọn vẹn nghiệp
Đạo vừa thi thố chánh sách thương yêu công bình bảo vệ và nâng đỡ kiếp người
xấu số. Với chánh sách nầy, Đức Ngài trong buổi sanh tiền hằng bố thí thi ân
cứu trợ, nói tóm là hứng lấy nhu cầu của kẻ già nua, bịnh hoạn, thiếu nhi
v.v... và làm thỏa mãn mọi bề. Tức là Đức Ngài lựa đúng điểm để trương cao ngọn
cờ cứu khổ mà người người đều ca tụng công đức.
Có điều nên để ý nhứt cho đặng thoát vòng tứ khổ
thì đừng ỷ lại nơi sự phò nguy của kẻ khác vì đó chỉ là phương cứu nhứt thời.
Trái lại hãy tự mình giải nguy bằng cách xa lánh tội tình mựa đừng tái phạm lấy
công trả nợ xã hội và thường phát nguyện Ơn-Trên ân xá.
Mặc khác, Đức Chí-Tôn hằng dạy con cái Ngài rằng:
Các con có thương nhau được thì thương còn thương không được thì đừng ghét
nghe. Đây cũng là một trong những điều kiện để tránh tội tình.
Hiện giờ Hôi-Thánh nhứt diện tuân hành Thánh-Giáo
của Đức CHÍ-TÔN, nhứt diện nối chí Đức HỘ-PHÁP, mới thiết lễ phát quà hôm nay
và tôi ước mong quý vị đã từng chịu thống khổ bấy lâu sẽ được an-ủi phần nào về
mặt tinh-thần khi nhận lãnh phẩm vật của Hội-Thánh trao cho.
Tôi đùng hai chữ trao cho là vì của biếu nầy là của
toàn Đạo thuộc 18 Phận Châu-Thành Thánh-Địa không phân biệt giàu nghèo sang hèn
lớn nhỏ đều nhứt dạ nhứt tâm cộng công cộng tài đem đến nhờ tay Hội-Thánh phân
chia thì Hội-Thánh thay mặt người thọ ân để lời tri ân các nhà hảo ý.
Nay kính
BẢO-THẾ Thừa Quyền
THƯỢNG-SANH
(ấn ký)
* * *
37 . Diễn Từ Khai mạc Đại hội Đại Đạo Thanh Niên Hội (26-6-66 )
NGÀY 08 THÁNG 5 BÍNH-NGỌ (26-6-1966 ) tại GIẢNG ĐƯỜNG TÒA-THÁNH
DIỄN-TỪ CỦA NGÀI BẢO-THẾ
TRONG CUỘC LỄ KHAI MẠC ĐẠI-HỘI ĐẠI-ĐẠO THANH-NIÊN HỘI
Kính HỘI-THÁNH,
Kính TRUNG-TÁ TỈNH-TRƯỞNG,
Kính Quý Quan-Khách,
Kính Quý Chức-Sắc, Chức Việc và Đạo-Hữu Nam, Nữ,
Kính Hội-Trưởng và toàn Ban Đại-Đạo Thanh-Niên Hội,
Nhìn vào thế-sự nay dời mai đổi mau chóng trên mặt
địa-cầu, mường-tượng như trông lên nền trời thấy bức tranh vân cẩu thay hình
cải dạng, người ta không khỏi âu lo rồi đây thương-hải biến vi tang-điền,
nhơn-sanh sẽ làm gì để thoát khổ.
Cho hay, trời sanh trời dưỡng, đất chở đất nuôi,
kiếp sống muôn loài đâu phải để chịu gian lao, mà nếu có gian lao là do mình tự
tạo.
Đức LÃO-TỬ dạy Đời rằng hãy biết tri-túc là biết
cư-xử thế-tình, chịu kém phần mình không hơn người thì tai ương chẳng đến, dầu
có đến cũng chẳng tới nỗi thiệt thân.
Đức KHỔNG-TỬ phân cách Tiểu-nhân với Quân-tử đặng
khuyên bỏ ác tùng lương. Thoảng như hoạn-họa bố vây là vì chúng-sanh không đủ
năng lực chế ngự lòng phàm.
Đức PHẬT-TỔ trọng dụng bác-ái từ-bi vì là yếu tố
hữu hiệu ngăn-chận tam muội hỏa.
Đức GIA-TÔ cứu thế vạch rõ nước của Chúa và của
loài người không phải ở Hạ-giới dẫy đầy sâu bọ, ác thú, ác nhân mà ở nước
Cực-lạc trên Thượng-giới.
Lời Thánh-Hiền xưa thấm thoát bay qua như giọng đờn
bị luồng gió vô tình đưa vào cảnh êm lặng trong tối tăm tịch-mịch, thành thử
gần hai ngàn (2000) năm xa Đạo, vì vật chất làm chủ nhơn ông, đời thuần-phong
mỹ-tục trở nên đời trụy-lạc xa-hoa, cảnh thanh-bình biến thành cảnh loạn-lạc.
Một nguyên căn nguy hiểm hơn hết là nhiều lý-tưởng phản khắc nhau giữa dân-tộc
với dân-tộc vì chánh-kiến bất-đồng, nhu cầu nan-dị, rồi vì tranh-giành
ảnh-hưởng quyền uy, mà cái khổ về nhơn-sanh chung gánh. Cứu cánh là vạn vật sắp
điêu-tàn mà chưa thấy dấu vết gì hồi tâm cải-hoán.
Vì luật công-bình Thiêng-Liêng không tư vị kẻ làm
tội đành ưng hình phạt, người hiền lương cần được vớt khỏi trầm luân, bóng
Đạo-mầu lố-dạng phương Đông, cơ cứu khổ của ĐẠI-ĐẠO do người Đông-phương phất
phướn. Đầu công trong Hội nầy là người Đạo CAO-ĐÀI tìm phương hướng-dẫn khách
phàm tùng bóng Đại từ-bi của Đức CHÍ-TÔN rưới giọt nhành dương gội rửa mạch
sầu, ấy là diệu-dược.
Nên để ý rằng, muốn vãn hồi tình trạng tốt đẹp thời
xưa, thì cần áp dụng Nho Tông làm phương chước. Vả chăng trong thời kỳ Khổng
giới trấn an thiên hạ xuất hiện lắm bậc trẻ tuổi anh tài, chẳng hạng như Nhan
Hồi, Hạng Thác, v.v... Lấy trí suy tư tới mức, lấy chí phục vụ tới cùng, thì
tuổi không đợi, năm không chờ, cũng lưu danh ư hậu thế.
Các em Đại Đạo Thanh Niên Hội, Một bình hoa cặm đủ
thứ bông, thứ thì khoe màu mà không hương vị, thứ thì hương vị ngào ngạt mà sắc
tầm thường, nhưng bông nầy gần kề bông kia, sắc kia chen lộn sắc khác bình bông
mới hiệp đủ ngũ sắc tường vân, người ta bèn đặt tên bình ấy là bình Bá Huê Tôn,
chỉ trong nhà cự phú mới biết thú chơi bình và nhà mỹ thuật mới biết chọn hoa
san sớt hương sắc cho nhau thì là tuyệt diệu.
Mấy em hiện diện nơi đây thuộc các giới tuổi trẻ
của thế hệ đương kim đang xúm xít nhau chung sống trong khuôn viên đạo đức thì
mấy em là các loại kỳ hoa dị thảo; cặm chung trong một bình thì Hội Thánh như
bình Bá Huê Tôn bảo hộ mấy em không rời nhau trong tình đoàn kết, lãnh một sứ
mạng của Hội Thánh nẩy giao là làm con tế vật cho Đức Chí Tôn sử dụng về phương
diện trợ khốn phò nguy, qui tụ con cái Người dưới một chánh nghĩa về một chánh
giáo thì tương lai mấy em sẽ rỡ ràng trong lãnh vực cứu quốc cũng như kiến
quốc. Ấy là điều mong đợi của Hội Thánh vậy.
Tôi cầu chúc cho mấy em được Ơn Trên phò trì và ban
phước lành cho cả thảy. Tôi cầu nguyện Đức Chí Tôn ban hồng ân cho Hội Thánh,
cho Ngài Trung Tá Tỉnh Trưởng và quý Quan Khách được tinh thần tráng kiện và
sức khỏe dồi dào.
Nay Kính.
BẢO THẾ - Thừa quyền
THƯỢNG SANH
(Ấn ký)
* * *
38 . Huấn Từ Lễ Khánh Thành Thánh Thất Đệ Tứ Phận Đạo (19-8-66 )
Ngày
mùng 4 tháng 7 năm Bính Ngọ (19-8-1966)
HUẤN TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ THỪA QUYỀN THƯỢNG
SANH,
trong
dịp lễ KHÁNH THÀNH
THÁNH
THẤT ĐỆ TỨ PHẬN ĐẠO CHÂU THÀNH THÁNH ĐỊA
Kính Hội Thánh,
Kính Trung Tá Tỉnh Trưởng
, Kính Quý Quan Khách,
Kính Quý Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam Nữ,
Trên cõi phù vân vật chất nầy mọi việc và mọi vật
đều biến đổi, đều vô thường. Ví dụ như mưu toan một sự gì ngày nay người ta cho
là hay, ngày mai nó có thể trở thành vô dụng. Ngược lại một việc gì bị xem là
hư bữa hôm nay có thể trở thành nên bữa hôm sau. Thân hình của thượng cầm hạ
thú cho tới loài người cấu tạo bởi tế tào và nhờ vật chất nuôi sống, rồi sau
cũng sẽ bị vật chất mà vong mạng. Cuộc đời là xâu chuổi mâu thuẫn không ngừng,
song chẳng vì vậy mà cho là vô vị được. Rủi thay có một số người quan niệm hễ
chết là hết, mới tầm phương tiện tận hưởng cái vui thú của hồng trần trong khi
còn tại tiền, nên bương bả thi đua trên trường danh lợi quyền uy, để diễn xuất
những tấn tuồng hỉ nộ ái ố ai lạc cụ là nguồn gốc của bao nhiêu nghiệp chướng
đọa đày kẻ tạo ra nó. Bỡi lắm chác phiền não vào thân, người ta mới bâng khuâng
vạch cho ra lối thoát. Chừng ấy ngọn đèn Thiêng Liêng bựt sáng rọi đường sanh
lộ, kẻ tục mới nhớ lại Đạo là cứu tinh. Gặp được cứu tinh là níu lấy cứu tinh
nhưng chớ vội mừng vì còn điều kiện theo, ca dao bất hủ lưu lại như vầy:
Linh đinh qua cửa thần phù,
Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm.
Thần phù là cửa sông Đáy đổ ra bể, giáp với hai tỉnh Ninh Bình và Thanh
Hóa.
Mặc dầu ca dao là câu hát phổ thông trong dân gian nhưng rút kinh nghiệm của
người qua bể để làm kim chỉ nam cho kẻ xuất gia tùng Đạo thì nên dựa đó mà làm phép hằng tâm cũng chẳng
phải là vô bổ ích vậy.
Nghĩ rằng Đức Chí Tôn mở Đạo tại nước Việt Nam là may mắn vô đối cho dân
Việt, thường được lựa chọn trước tiên hơn các giống dân trên hoàn vũ để phó thác sứ mạng
góp công vào việc phổ truyền Chánh giáo ngõ hầu dìu độ người lành qui hồi chánh quả. Thế thì hành động thuận theo
lòng Trời là bổn phận chung của nhơn sanh chớ chẳng riêng gì của người bổûn xứ. Thoảng như nghịch lại Thiên ý thì quá
rủi đó thôi.
May kia rủi nọ phân cách nhau bởi một cái tâm thì
dụng lương tri để chế ngự tâm phàm, lấy nhục nhãn nhìn theo Thiên Nhãn đặng
nhận định chơn giả và lấy tâm hòa với Đạo mới thấu triệt huyền vi của Tạo Hóa.
Vả lại, Đạo tượng trưng chơn lý nên Đạo vốn không không nhưng lưu hành khắp càn
khôn võ trụ và trong cái không lại có cái có thì muôn loài sanh hóa và cái có
lại huờn về cái không thì im lìm bất động. Tâm vốn vô hình và nhờ thọ bẩm sinh
linh nơi Đạo nên mẫn đạt tinh thông và để chứng minh vi diệu nầy, Đạo Đức Kinh
rằng: nắm được Đạo rồi ngồi dựa cửa sổ trông ra cũng biết hết thiên hạ sự. Thật
vậy Đạo là chơn dương, là tuyệt đối, còn tâm thuộc chơn linh thì nhứt dương
hiệp nhứt âm là đầy đủ tinh anh thanh khiết rồi. Ngặc nỗi tâm càng nhiễm vật
trần thì phần âm càng gia tăng, tham lam sân hận si-mê lẫy lừng che mất chánh
tâm án luôn cả Đạo. Người mất Đạo thì hành động bất chấp nghiêm trị của luật
pháp thế gian lẫn khinh thường hình phạt Thiên Điều. Hoàn cầu mất Đạo thì thiên
hạ điêu linh và giờ phút nầy ba đào nổi dậy khắp bốn biển năm châu, ấy là hiện
tượng tam chuyển mãn hạn, tứ chuyển sắp đến và trong thời gian giao thừa cuộc
biến thậm nguy tới tấp liền liền, diệt trừ tàn bạo sùng hưng thiện lương và
đồng thời Đức Chí Tôn đem hột Thánh cốc rải xuống phàm trần làm linh đơn hồi
minh khử ám. Thánh thất tức là nhà chứa linh đơn vậy. Vả chăng nhơn năng hoằng
đạo, phi Đạo hoằng nhơn, thì nơi nào có bóng người thấp thoáng dầu ở miền hẻo
lánh xa xuôi vẫn có bóng Đạo vãng lai để che chở. Bóng Đạo thường trụ tại đâu?
Tại Thánh Thất. Cho nên trên lục địa Việt Nam chen chúc với nhà tranh vách đất
có Thánh Thất vách đất nhà tranh, gần kề với dinh thự nguy nga thì có thánh
Thất tương xứng, nói tóm là Đạo mựa hề chấp nê phú quý sang hèn duy vì kính
trọng nhơn phẩm mà chúng ta hạ mình ngang hàng hay thấp hơn để làm tôi cho sanh
chúng trên con đường công ái.
Phần khác là Đạo pháp vô biên không phân biệt kẻ
còn người mất. Còn thì rửa cho sạch mảnh thân trần cấu, mất thì cầu độ cho linh
hồn tiêu dứt oan khiên. Ấy là bổn phận của người có trách nhiệm thực thi tôn
chỉ của Cao Đài Đại Đạo.
Nay Thánh Thất Đệ Tứ Phận Đạo thiết lễ Khánh thành
thì bịnh tinh thần sẽ có linh đơn điều trị.
Một việc khác đáng lưu tâm là trong cuộc diện nầy
địa điểm Thánh Thất giáp ranh với nghĩa trang Cực Lạc Thổ là vị trí dành cho
hằng ngàn vong linh gởi xác nơi mồ chờ lịnh Ngọc Hư. Nay để bước gần vùng người
mất, Hội Thánh không thể không dừng chơn để cầu nguyện. Và một lát đây chúng ta
sẽ cùng đi đến đó.
Kính Hội Thánh,
Kính Trung Tá Tỉnh Trưởng,
Kính Quý Quan Khách,
Kể từ đây trên thượng giới Thiên Nhãn kiến thị nhơn
gian nói chung và bổn Đạo nơi Đệ Tứ Phận Đạo nói riêng, vì trên chánh điện
thường có Đức Từ Bi giáng hạ, và trước Thiên Nhãn bổn Đạo hãy giữ mình cho lắm
trong mọi tư tưởng hành vi và ngôn ngữ, và giữ đức tin như nhứt mà thôi.
Tôi cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN, Đức PHẬT-MẪU và chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật ban ân lành cho toàn thể quý liệt vị hiện diện chầu lễ./.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nay Kính,
Bảo Thế - Thừa quyền
Thượng Sanh
Lê Thiện Phước.
* * *
39 . Diễn Từ Hội Yến Diêu Trì
(29-9-66)
NGÀY
15 THÁNG 8 BÍNH NGỌ (29-9-1966 DL )
DIỄN
TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ THỪA QUYỀN THƯỢNG SANH
TRONG
DỊP LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ
Kính Hội Thánh.
Kính quý chức sắc Hành chánh và Phước Thiện,
Kính quý quan Khách,
Kính chư Đạo Hữu Nam Nữ ,
Sanh trên quả Địa cầu 68 nầy thiên hạ thống khổ từ
vạn kiếp đến nay mà chỉ có 8 ức nguyên nhân được độ rổi thoát chốn mê đồ, còn
lại 92 ức đang lẫn lộn trong một số hơn 3 ngàn triệu dân trên hoàn vũ. Người
càng đông đất càng hẹp, sự tranh giành tiện nghi ăn ở càng mãnh liệt cho đến
buổi hiện kim, Đệ nhứt và Đệ nhị thế chiến không giải quyết được vấn đề chung
sống trong an cư và lạc nghiệp .
Biết đâu chừng đang đứng trước ngưỡng cửa Đệ tam
thế chiến mà chúng sanh không hay, rồi cứ mãi tiến trên con đường nguy hiểm
đặng rồi liệt mình vào đại náo.
Tuy vẫn mê hồn trong giấc huỳnh lương nhưng còn
ngày giờ để tỉnh mộng. Thức tỉnh kịp thì là nhờ ĐẠI ĐẠO xuất hiện đúng lúc.
Khởi thủy bàn tay huyền diệu cầm chơn pháp qui tụ
những trang trọng yếu trong cửa Hiệp Thiên ngõ hầu nẩy cho sứ mạng khai thông
mối ĐẠO là của đức DIÊU TRÌ KIM MẪU có Cửu Vị Tiên Nương thọ sắc chung lo dìu
độ .
Thế thì hạ từng cơ sở đắp lấy nền ĐẠO vững chắc là
do Đức PHẬT MẪU điều động rồi thượng từng xây dựng đại nghiệp ĐẠO là do Đức CHÍ
TÔN xử khiến .
Dương quang của ĐỨC CHÍ TÔN và Âm quang của đức
DIÊU TRÌ KIM MẪU cùng tương hòa mới tạo thành Hội Thánh hữu hình lưỡng phái
thay cho hai Ngài giáng thế độ người trầm luân .
Do đó Đức PHẬT MẪU có dạy rằng :
Nơi
Kim Bàn vàn vàn ngươn chất ,
Tạo
hình hài các bậc nguyên nhân .
Cung
Trí Giác trụ tinh thần ,
Hườn
hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên .
Đại ý trong bài tứ tuyệt Thánh Giáo này là Đức PHẬT
MẪU thay quyền CHÍ TÔN nắm cơ sanh hóa, hiệp thập Thiên can với Thập nhị Địa
chi mà nắn hình vạn chủng và vạn vật. Trong vạn chủng có nguyên nhân và hóa
nhân, cả thảy được đứng vào hàng thứ ba trong tam tài. Duy khó khăn là mang
hình hài nhục thể chi cho khỏi nặng kiếp trần duyên thì người ngoan trí chớ nên
lụy vì trần mà khó tầm Tiên lánh tục. Cho hay Tiên Thánh xuất hiện nơi giới hữu
sắc phàm phu mà thăng và phàm phu xuất hiện nơi giới vô sắc Thánh Tiên mà đọa.
Cả hai giới Tiên phàm đều do Đức DIÊU TRÌ KIM MẪU tạo hình rồi khi nhập thế hãy
tự mỗi người tìm phương xuất thế .
Khá biết Đức CHÍ TÔN vốn chơn như, chiết tiểu linh
quang trong đại khối linh quang của người mà ban cho nhơn sanh ấy là nhứt bổn
tán vạn thù thì nhơn sanh phải tu theo chơn pháp mới đắc pháp tức là đem cái
tiểu linh quang của mình hiệp với đại linh quang của Trời ấy là vạn thù qui
nhứt bổn. Nói rõ hơn là đem chơn thần hiệp với chơn linh mà về nẻo hằng sanh .
Chủ yếu có bấy nhiêu mà thôi, cho nên đầu ở ĐỊA CẦU 68 chịu gian lao đủ điều
nhưng nhờ đại ân xá kỳ ba với một kiếp tu đủ đoạt thiêng liêng chi vị . Bằng
trái lại thì quay về cửa phong đô mà thọ giáo lại. Chừng ấy bao nhiêu công
trình với bao nhiêu kiếp thăng trầm đều hư hủy, cốt xưa hườn lại cốt xưa làm
cho đức PHẬT MẪU chỉ gạt lệ khóc thầm chớ chẳng biết làm sao bồng bế ra khỏi
tai ương cho đặng .
Am hiểu sứ mạng của đức PHẬT MẪU đối vơiù sanh linh
là thế nào rồi thì kẻ phàm phu tục tử nên nhìn công của Mẹ hiền mà trả thảo của
con hiếu. Thảo ấy phải trả đồng với công kia là tự mình làm thế nào cho ra mặt
phi thường cho đáng bậc siêu nhân mới khỏi phụ lòng mẫu nghi trông đợi.
Cho đặng lưu niệm công đức của ĐỨC PHẬT MẪU và Cửu
vị Tiên Nương từ buổi sơ khai ĐẠI ĐẠO, chức sắc Hiệp Thiên Đài trong mỗi kỳ HỘI
YẾN DIÊU TRÌ CUNG, đều phủ phục bồi yến mới phỉ dạ trong muôn một .
Kính HỘI THÁNH ,
Nhơn cơ hội này , tôi xin ngõ vài lời cùng Nữ phái
.
Kính quý Hiền tỷ và Hiền muội,
Theo cổ truyền thân phận bồ liễu hằng giữ câu khuê
môn bất xuất, vì lẽ phong tục nhà Nam rất e ngại cho phái yếu hay nhẹ dạ dễ bị
lôi cuốn vào vòng trụy lạc của vật chất rồi bỏ phế hay lợt phai nhiệm vụ trong
gia đình. Thật rất nghiêm khắc đó chút, nhưng nếu chẳng vậy mới lấy gì làm
cương tõa. Thử để bước vào chợ đời rộn rịp, kẻ tới người lui sẽ thấy có lắm món
hàng khêu gợi lòng tà, làm cho lắm tay hào phóng sa ngã vào đường tội lỗi thì
hãy can đảm chống lại cám dỗ của trần gian mới yên cho. Vã lại, trong thanh sử
của nữ lưu Việt thường có hiếm người xứng đáng đứng ngang hàng hoặc cao hơn cả
nam nhân nữa. Chẳng hạn như về văn hóa thì có nữ thi sĩ tài hoa như Bà HUYỆN
THANH QUAN, Bà ĐOÀN THỊ ĐIỄM, Bà NGỌC HÂN công chúa. Về mưu đồ quốc vận thì có
kiệt nữ như Bà TRIỆU ẨU, nữ vương TRƯNG TRẮC, TRƯNG NHỊ. Còn về Tôn Giáo thì
QUAN ÂM THỊ KÍNH đã chịu biết bao thử thách hàm oan mới thành ĐẠO.
Với bao nhiêu danh nhơn ấy tay họa sĩ thần tình có
thể tả một bức tranh đẹp vị trần gian chứng minh cho hàng phụ nữ chẳng phải lo
phần nội tướng mà xong bổn phận .
Nay đứng về mặt ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ mà nghiệm,
ĐỨC CHÍ TÔN dành cho phái nữ một bậc Thiên phong tới phẩm ĐẦU SƯ thì vô cùng
may mắn. Tương lai của nữ phái trong cửa ĐẠO sáng rỡ như trăng mùa thu thì phải
mẫn cán trau giồi hạnh đức và đem hết khả năng giáo hóa hạng quần thoa cho nên
người gương mẫu ĐẠO ĐỜI như một. Chừng ấy công kia quả nọ cộng lại thành một lễ
trọng thể hiến dâng cho đức PHẬT MẪU và Cửu Vị Tiên Nương thì không lễ trọng
nào sánh kịp.
Tôi cầu xin đức PHẬT MẪU ban ơn lành cho Bổn Đạo
thoát nạn chiến tranh cho nhơn loại thoát vòng khổ hải.
NAM MÔ TẠO HÓA HUYỀN THIÊN
DIÊU TRÌ KIM MẪU .
Nay kính,
BẢO THẾ THỪA QUYỀN THƯỢNG
SANH
* * *
40 . Diễn Từ Khen ngợi và
Khuyến Khích chư vị Hiền Tài tân phong (30-9-66)
TẠI
ĐỀN THÁNH Ngày 16 tháng 8 năm Bính Ngọ (30 - 9 - 1966 DL )
Bài
Của Ngài BẢO THẾ KHEN NGỢI VÀ KHUYẾN KHÍCH
CHƯ
VỊ HIỀN TÀI TÂN PHONG
Kính HỘI THÁNH ,
Kính QUÍ LIỆT VỊ HIỀN TÀI ,
Kính QUÍ QUAN KHÁCH,
Đứng giữa trời đất dưới ánh thái dương chói rạng
khắp nơi, con người dầu nam tử hay nữ nhân không khỏi lãnh một vai tuồng gì đối
với tổ phụ gia đình, với đồng bào xã hội, với đất nước non sông. Vai tuồng ấy
không thể từ nan chạy chối được, vì có một mối dây thiêng liêng vô thinh vô sắc
thắt chặc tình giao hảo giữa đồng loại ngõ hầu tương trợ nhau trong niềm chung
sống.
Thử nghĩ vừa lọt lòng mẹ chào đời, trẻ sơ sanh đã
bắt đầu thiếu nợ trần gian vì bởi từ bú mớm tới biết đi biết chạy, từ học hành
tới thành nhơn , không thể tự một mình lo liệu được hết, mọi sự tất nhiên phải
do người khác giúp hộ. Món nợ đời sơ khởi thúc phược nhi đồng rồi đó. Đến khi
chen lộn với quần chúng đặng sanh cơ lập nghiệp thì nhờ xã hội đưa đường dẫn
lối. Mối nợ nặng ân trọng nghĩa nầy cần đền đáp cho phu phỉ mới trọn đạo nhơn luân
.
Thật tế mà xem tình hình tổng quát của thế sự, ai
ai cũng công nhận vì đòi hỏi của cung cầu, người cầm viết cần người cầm cày mới
có lúa mà ăn, thợ cày cần thợ dệt mới có vải đặng mặc, thợ dệt nhờ thợ làm nhà
mới có nơi đùm trú , ...... thế thì Sĩ, Nông , Công , Thương , Cầm , Kỳ , Thi ,
Họa , Canh, Đọc , Ngư, Tiều , tóm lại toàn thể các giới trong tứ dân tứ thú
đồng tình kết giải đồng tâm bằng cách trao đổi qua lại năng lực của từng ngành
làm đà sanh hoạt chung của xã hội trên mực bình thường hằng bửa.
Cơm no áo ấm đi tiên, nhiên hậu hãy lo cho có danh
gì với thủy thổ, để trọn tư tưởng về điều nầy và cho đặng thâu thập kết quả khả
quan hãy thiên về phần tinh thần là yếu tố quan trọng, ai là người vui sống với
đời hồ dễ bỏ qua cho được. Tinh thần vốn có vi diệu trợ lực cho vật chất hữu
hiệu , nếu thiếu tinh thần là thiếu nền móng vững vàng để xây dựng.
Nói một cách khác có đời mà không có ĐẠO làm gốc
thì đời không sức, có ĐẠO mà không có đời phò trì thì Đạo không quyền. Bởi lẽ
ĐẠO và ĐỜI có trách nhiệm tương liên, nên gặp lúc hữu cần thì lấy ĐẠO sửa ĐỜI,
nhằm khi mạt vận thì lấy ĐỜI dồi ĐẠO.
Quyền của Đạo, sức của ĐỜI chan hòa lẫn nhau thì cơ
ĐỜI hòa điệu cơ ĐẠO yên lành . Riêng bàn về lãnh vực của ĐẠO, chúng ta nên lưu
ý rằng có ĐẠO mà không có Thánh rồi lấy ai truyền giáo, còn có Thánh mà không
có ĐẠO sẽ dựa nơi đâu mà lập nghiệp .
Suy cổ nghiệm kim mỗi lần thiên hạ đảo huyền thì
ĐẠO xuất hiện đặng phục hồi hòa bình tái thiết hạnh phúc cho nhơn loại. Bằng
chứng là cách hơn hai ngàn năm nay chẳng phải vô sự, vô lự mà Phật Giáo, Lão
Giáo, Thánh Giáo, và Gia Tô Giáo ra đời. Cho đặng cứu đời các vì Giáo Chủ hằng
cam thọ khốn bằng phương nầy hay phương khác lưu niệm cho thế hệ đương kim và
thế hệ tương lai những bàn tay công ái đã xoa dịu đau đớn san bằng bất công là
hai vết thương lòng bắt nguồn từ trong hư danh trong bạo tàn mà ra .
Cuộc tuần hườn đã vận chuyển giáp vòng, thời mạt
pháp sắp đến, bánh xe luân hồi cứ xoay, nhơn sanh hao hớt thậm đa không phân
biệt oan ưng hai lẽ và cho đặng cứu người vô tội độ kẻ có căn, Đức CHÍ TÔN bèn
khai ĐẠI ĐẠO làm cho nhẹ bớt cơ tận diệt, mở đường cho Chức sắc tùng chơn pháp
hầu phụng sự cho đời bớt nguy.
Sự việc của Đạo có phần, bổn phận của Đời là phần
khác liên hệ tới thành công hay thất bại của cơ phổ độ.
Về phần nầy đại chúng cần thật lòng phục thiện mới
hưởng võ lộ của Ơn Trên ban xuống .
Hôm nay gió thuận buồm xuôi quý vị đến với Đạo thì
Đạo sẽ tạo thêm Thánh tâm cho, rồi Đạo nhờ lại hiền đức và tài năng của quý vị,
nói tắt là Hiền Tài mà độ số danh nhân còn ẩn dật chưa khứng ra mặt thi thố tài
hay trí dõng.
Công lao của quý vị sau nầy sẽ tạc ghi vào Đạo sử
để muôn đời .
Khá khen trí giả khéo xử sự tiếp vật đúng lúc hạp
thời, tôi xin để lời mừng và cầu chúc quý vị sẽ bồi công tô điểm sơn hà và gia
tăng nhiệt huyết nâng cao danh Đạo.
Tôi cầu nguyện Đức CHÍ TÔN và ĐỨC LÝ NHỨT TRẤN OAI
NGHIÊM KIÊM GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ ban ơn lành cho quý vị và bửu quyến
.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Nay Kính,
BẢO THẾ - THỪA QUYỀN
THƯỢNG SANH
* * *
41.
Huấn Từ Tiễn hành Chức sắc trở về Địa phương (8-10-66)
Tại
GIẢNG ĐƯỜNG Ngày 24 Tháng 8 năm BÍNH NGỌ (8.10.1966)
HUẤN
TỪ CỦA NGÀI BẢO THẾ TRONG BỮA TIỆC
TIỄN
HÀNH CHỨC SẮC VỀ ĐỊA PHƯƠNG HÀNH ĐẠO
Kính Hội Thánh ,
Kính quý vị Khâm thành, Khâm châu, Đầu phận và Đầu
tộc lưỡng phái,
Kính quý Chức sắc, Chức việc, và Đạo Hữu Nam Nữ ,
Lá ngô đồng trổ vàng rụng xuống cội là biểu hiện
mùa Thu đã đến. Cây trổ trái, lá đượm màu, khí hậu bớt nóng bức, con người khỏe
khoắn hơn, ấy là luật tiến hóa của vạn vật, hằng năm như thế, từ Xuân sanh, Hạ
trưởng đến Thu liễm, Đông tàn.
Quý chức sắc Nam Nữ ở địa phương thừa cơ hội nầy
qui về Tổ đình chầu lễ Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU tỏ vẻ đầy đủ tinh thần phục
vụ tạo cho Hội Thánh một niềm hân hoan đón tiếp.
Cho hay, Đạo phát thì nhiều điều khó khăn dấy lên
làm cho phần hữu tướng phải lắm mệt và nan giải. Tình trạng éo le là có vài nơi
chức sắc Đầu tộc bị hoàn cảnh thúc phược trong vùng Đạo, mặc dầu có phương tiện
di chuyển đến nơi khác đặng cầu an, vị ấy quyết định lưu lại với con cái Đức
CHÍ TÔN để cùng chung giữ gìn nghiệp Đạo mặc cho phong ba bão táp. Đức độ như
vậy thật đáng khen và nếu toàn thể Chức sắc địa phương đều có một tinh thần như
thử thì Đạo vinh quang là dường nào.
Trong cơn Quốc phá Gia vong, nhơn sanh đồ thán, sứ
mạng thiêng liêng của quý vị thay mặt Hội Thánh nơi cõi xa xăm không để cho quý
vị lơi bước trên nhiệm vụ .
Vả chăng trên đường duy vật có nhiều sắc thái làm
cho kẻ thiện lương chẳng biết hướng về đâu đặng dung thân. Hướng về Lý Tưởng
thì gặp lý tưởng bất nhứt; hướng về hành vi thì đụng hành vi bất đồng; còn
không dựa bên nào thì lẽ loi yếu thế. Cân phân cho đúng đặng vạch lối đi thì
trường duy tâm là nơi lánh nạn. Mặc dầu tùng Đạo, quý vị thuộc phẩm thượng thừa
không dễ gì điềm nhiên tọa thị một khi đã truy ra nguyên do điêu đứng của đại
chúng. Nguyên do ấy là thiếu thương yêu trên mặt Đời cũng thiếu nghĩa nhân trên
mặt Đạo mới ra nông nỗi.
Phăng được mối dây để cứu vãn tình hình quý vị hãy
gần Đời đặng đem lại hòa tâm và hợp trí, hãy cận Đạo đặng đem lại bác ái và
công bình. Đời nhờ hòa hiệp, Đạo nhờ công ái, đôi bên bổ túc cho nhau ắt không
tốn một giọt máu đào mà cơ đồ khỏi sụp đổ, sanh mạng được an toàn.
Đối với ngoại cảnh như trên đã bày là một phương
diện, còn đối với nội thân có phương diện khác đi tới thành công là Chức sắc
khá trọn vẹn quên mình và trọng người .
Khi xưa Đức PHẬT THÍCH CA với mình trần thân trụi,
nghĩa là nghèo hơn kẻ nghèo, đói hơn kẻ đói, cầm bình bát đi hành khất đặng
nuôi người khốn đốn. Suy cho kỷ nghĩ cho cùng sẽ nhận thức trải qua hơn hai
ngàn năm trăm năm đời nầy kế tiếp đời kia không ngớt sùng bái Đức Ngài, sùng
bái chẳng vì thành Phật mà thôi, mà còn vì lòng bác ái vô bờ bến, chí hy sinh
vô cùng tột của Ngài không ai làm được duy Ngài làm được mới là nhứt nhơn thượng
đẳng trong Thiên Hạ.
Đạt được chơn truyền yếu lý rồi, bậc trí giả trong
cửa ĐẠI ĐẠO khá để qua một bên những tư ý, tư lợi, tư danh là những trái chủ
đòi hỏi thỏa mãn cho mình kết thành hậu quả thiệt hại cho người. Lý ấy tuyệt
đối căn cứ vào đức háo sanh của Thượng Đế bao bọc thế giới hữu vi. Ai vi phạm
tất mất hết tư cách người xả thân hành đạo. Xả thân như Đấng Ky-Tô cứu thế, một
mình thọ khổ cho loài người hết khổ. Xã thân như Phật THÍCH CA chịu đói làm cho
kẻ khác no, chịu rách hóa độ cho kẻ khác lành, nghĩa là làm tôi cho chúng sanh
mà thôi.
Đức CHÍ TÔN trong kỳ đại xá nầy khoan hồng cho đến
đỗi rộng ân cho các phần tử ưu tú trong Hội Thánh hữu thể tự mình làm thế nào
cho quả mãn công viên thì cửa Thiêng Liêng Hằng Sống lại mời, còn bất lực hay
chác lấy nghiệp báo thì cửa Phong đô lại rước. Tiếng xa chẳng bằng lời gần, tôi
cũng nên cho biết trường thi Tiên sắp mở cửa, nhiều rối rắm sắp bủa giăng chờ
đợi quý Liệt vị Nam cũng như Nữ so tài sánh đức. Quý vị nên lập tâm trong
trường thi nầy có hai yếu điểm: Thử Thách là võ môn, Đức Tin là văn quyển.
Kính quý Chức sắc Địa Phương ,
Luật Đạo có lý mà không thể có tình. Tâm Đạo có
tình mà không thể hạp lý, Quý vị đã được Hội Thánh phó giao trọng trách vừa cầm
luật vừa giữ tâm thì tình với lý, nếu quý vị không khéo xử sự, sẽ phản khắc
nhau rồi đưa quý vị vào đường thất phận mà chớ. Khá đả phá vô minh là độc nhứt
kế hoạch.
Bửa tiệc hôm nay đem lại cho Hội Thánh cùng tất cả
toàn thể Anh Chị Em hiện diện nơi đây một sự liên hoan chơn thật, một niềm
thương yêu khắn khít mà rồi vì phận sự nay mai phải chia tay kẻ ở người đi. Kẻ
ở vẫn tin cậy nơi người đi, người đi vẫn không quên kẻ ở đặng còn tái ngộ nơi
dịp khác. Vậy thì đi hay ở chỉ nên vui mà thôi.
Tôi cầu xin Đức CHÍ TÔN, Đức PHẬT MẪU và Tam Trấn
Oai Nghiêm ban ơn lành cho quý vị và riêng tôi cầu chúc cho quý vị gặp nhiều
may mắn trên đường ĐẠO lẫn đường ĐỜI.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Nay Kính,
BẢO THẾ - THỪA QUYỀN
THƯỢNG SANH
* * *
42 . Thuyết Đạo Vía Đức Khổng Thánh (10-10-66 )
TẠI
ĐỀN THÁNH ĐÊM 26 RẠNG 27 THÁNG 8 BÍNH NGỌ
(10
RẠNG 11-10-1966)
BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA NGÀI BẢO THẾ
NHƠN DỊP LỄ VÍA ĐỨC KHỔNG
THÁNH
Kính HỘI THÁNH,
Kính quý Chức sắc, Chức việc và Đạo Hữu Nam Nữ,
Hôm nay nhơn lễ vía Đức KHỔNG PHU TỬ chúng tôi xin
miễn đồ lại tiểu sử của đức Ngài vì ai ai cũng biết, nếu nhắc lại cũng là thừa;
Song le, khi nói đến Đạo Khổng chúng tôi liền có khái niệm rằng ảnh hưởng của
nó từ cổ chí kim vẫn còn lai láng tốt đẹp trong bổn quốc cũng như ngoại quốc.
Tin tưởng chánh của chúng tôi là đã nhờ nó dẹp an chiến tranh ở Trung hoa, rồi
đây sẽ nhờ nó giúp vào việc tái thiết hòa bình cho châu Á.
Đành rằng, trong thời buổi Tây học thạnh hành ở xứ
ta thì dầu muốn dầu không Nho học phải thối bước, nhưng Đạo Thánh vẫn còn giữ
mãi phần siêu việt vì nó là khuôn ngọc thước vàng chế ngự lòng người không để
cho ra ngoài phạm vi luân thường đạo lý. Bàn đến luân thường thì việc lớn của
mỗi người là giữ gìn Tam cang cho chính, Ngũ thường cho ngay, đó là về phần Nam
tử; còn về phận Nữ Lưu thì giữ gìn Tam Tùng cho thông , Tứ đức cho kỹ. Tam cang
là ba giềng mối giữa Quân thần, Phụ tử, Phu thê. Ngũ thường là năm hằng Nhơn,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tam tùng là Tùng phụ, Tùng phu, Tùng tử. Tức đức là Công,
Ngôn, Dung, Hạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét