Kỳ dư mấy vị Chức sắc Thiên phong đủ bằng chứng lụy mình vì Đạo thì quyền
Chí Tôn (nghĩa là Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp đồng) mới ban thưởng ân phong công
nghiệp.
Những các hạng phẩm linh bài kể ra sau đây :
1 . Thính thiện.
2 . Hành Thiện.
3 . Giáo Thiện
4 . Chí Thiện
5 . Đạo Nhơn .
6 . Chơn Nhơn.
7 . Hiền Nhơn.
8 . Thánh Nhơn.
9. Tiên Tử
10 . Phật Tử.
Không phân biệt tôn giáo nào tất cả, những Đấng Đạo Nhơn tu theo Phật giáo,
Tiên giáo, Thánh giáo, Thần giáo, Nho giáo, cùng là các tôn giáo khác nữa, nói
cho cùng là các Chi Phái tả đạo bàng môn mà đã hữu công cùng chúng sanh, lại có
quyền Vạn linh cầu thưởng và quyền Chí Tôn công nhận thì họ cũng đặng đồng quyền
đồng thể cùng Chức sắc Cửu Trùng Đài, đặng giáo hóa chơn truyền phổ độ.
Từ bậc Hiền Nhơn tới Phật Tử, thì lo bảo thủ Bí pháp tâm truyền và nhập
cùng Hiệp Thiên Đài làm một. Chức trách của mấy vị nầy cũng không phân biệt tôn
giáo nào, hoặc là tu hay là không tu, quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn đã công
nhận cho rằng đáng phẩm thì cũng đặng đồng thể đồng quyền cùng Chức sắc HTĐ,
chung nắm quyền hành luật pháp.
Ấy là lời ước thuyết, còn chương trình quyết định, khi quyền Vạn linh và
quyền Chí Tôn phê chuẩn rồi thì Hội Thánh sẽ tuyên bố ban hành.
Vậy thì Đại Từ Phụ đến khai Tam Kỳ Phổ Độ có đem theo một gia nghiệp thiêng
liêng xuống thế, rồi nắm tay các bậc lương sanh mà dắt đến một nơi vinh diệu, lại
bảo rằng : Các con phải leo cho thấu trên chót Đài Cao nầy cùng Thầy đặng xem
toàn thể của địa hoàn, ngó cho chường, suy cho quyết, rồi chung tâm hiệp trí
cùng Thầy lo liệu bề chuyển thế.
Đại Từ Phụ còn giao nơi tay của chúng ta những phần thưởng hữu hình và quyền
lực thiêng liêng của Thầy đã sẵn sàng dành để mà nhủ rằng :
“ Của cải nầy đủ thế lực cám dỗ nhơn sanh qui hồi Bổn thiện”.
Thừa tánh tham của phù du thế tục, các con trao phẩm vị thiêng liêng. Do
tâm dữ tranh quyền lộc công danh, các con đổi Chí linh Bổn thiện.
Cơ quan cứu khổ chúng sanh cũng do nơi đó.
Chúng ta phải tưởng tượng lại coi Ngũ Chi Đại Đạo là Phật giáo, Tiên giáo,
Thánh giáo, Thần giáo và Nho giáo bây chừ chẳng khác nào như ngũ mã tranh tiên,
còn Thầy đến bảo ta làm Chủ khảo.
Ông chủ khảo không phải là Mã Ôn, mà Mã Ôn thế nào làm chủ khảo, nên chúng
ta không tùng một đạo giáo nào mà hành chánh pháp của Chí Tôn, chỉ nắm chặt chủ
quyền ngồi phán đoán, đặng nâng cao giá trị của Phật pháp hiệp chơn truyền, mới
vẹn tiếng chấn hưng Phật đạo.
Dầu hồi buổi chưa tu, chúng ta đã chán thấy sự hay dở của Ngũ Chi Đại Đạo
là thế nào và cũng thấu rõ lẽ chánh tà của kẻ cầm quyền hành đạo. Chẳng cần để
luận những Chi tả đạo bàng môn, dầu chánh pháp chơn truyền mà đời chế giảm sửa
đương cũng đã thành phàm giáo.
Ta đã lãnh vai làm chủ khảo, thì buộc mắt ta phải xem cho chánh, tai phải
nghe cho chánh, miệng ta phải nói cho chánh, thân ta phải làm cho chánh, trí ta
phải định cho chánh, tâm ta phải giữ cho chánh, thì mới đủ quyền hành cầm cân
công bình thưởng phạt thiêng liêng, hiệp tâm lý đặng qui nguyên phục nhứt.
Kìa chúng ta đã thấy chán chường dưới mắt những điều lưu hại của tả đạo
bàng môn : Hoặc là theo Nho tông, thay vì quạt nồng đấp lạnh cho đời, lại nhốt
dân chúng vào hòm chôn sống, hay là quăng vào nơi tuyết giá lầm than; hoặc là
theo Thần giáo, thay vì lo giục thức tỉnh người đời, lại sát phạt ra trường lưu
huyết; hoặc là theo Thánh giáo, thay vì kêu thức tỉnh người đời lại để miệng
buông lời chửi rủa; hoặc là học theo Tiên giáo, thay vì hòa giải cho an ổn tâm
đời, lại tính kế đồ mưu giục loạn; hoặc là theo Phật giáo, thay vì tùng phương
giải khổ, lại tăng thêm sầu thảm của chúng sanh.
Một trường náo nhiệt đua tranh, xem mặt Đạo còn hơn mặt thế.
Chúng ta đã chán ngán những xảo mị của đời nên quyết tầm chơn, nương theo Từ
Phụ.
Bần đạo thấy đặng một lẽ phi thường không phương hiểu, nghĩa là những trang
đạo đức lại có sẵn tâm tu, đã hưởng mùi chánh giáo của Chí Tôn mà còn thối gót
phục tùng tả đạo.
Thật là làm chủ không muốn, làm tớ lại vừa lòng, tâm lý nhơn sanh vốn không
cùng đoán.
Thầy đã tuyển chọn các bậc lương sanh, lập nên Hội Thánh đặng làm hình thể
của Thầy, ban cho đủ uy linh quyền thế, làm cho Hội Thánh đủ quí hóa cao trọng
đặng đáng mặt làm thầy, lập luật pháp, tuyển hiền tài, định quyền hành, phân đẳng
cấp, nhứt là luật pháp thì thật là một cơ quan độc thiện làm cho hòa nhã liên lạc
cả con cái của Thầy, hầu giảm hại chia phe lập phái. (Thầy đã nói: Kẻ nào chia
phe lập phái là kẻ thù nghịch của Thầy.) Hễ thù địch của Thầy tức là thù địch của
nhơn sanh, mà thù địch của nhơn sanh ấy
là thù địch của toàn Hội Thánh.
Đối với thù địch xưa nay, tâm phàm vốn ít hay thiện xử. Vậy thì sự thù oán
nghịch lẫn của vài vị Thiên phong trong Hội Thánh gẫm cũng thường tình. Xin mấy
vị rộng nghe ráng hiểu.
Nào dè những cơ quan pháp luật, thay vì buộc con cái của Thầy chung hiệp
cùng nhau, lại đào tạo quyền hành quí trọng nên mùi thơm, giục cho sanh chúng
tranh giành, làm cửa Đạo biến thành trường náo nhiệt.
Ôi ! Sự thất vọng của Thầy rất nên
thê thảm !
Hại thay mới 8 năm truyền giáo, nên nhơn sanh chưa đủ thông luật Đạo cho
cùng, bị cám dỗ nên nghe lời xảo lảo của kẻ bất lương, giúp thế lực cho tà tâm
xô chánh giáo.
Thật ra thì nhơn sanh ngày nay còn theo người chớ chưa theo Thầy, nghe Chức
sắc chớ không nghe Đạo. Nếu chúng sanh theo người thì là theo phàm tâm, mà phàm
tâm vốn một người một thể, dầu cho tánh đức của mấy vị Giáo chủ cũng chẳng phù
hợp nhau nên sanh hại chia phe lập phái.
Bần đạo thử hỏi, thoảng như Đạo phải cô thế điêu tàn, tội trọng ấy đổ cho
ai gánh ?
Của cải của Trời cho nhơn sanh, nhơn sanh chê, nhơn sanh đốt thì nhơn sanh
chịu. Báu của ai phòng để dạ giữ gìn, còn của thế mà mất đi cũng thế, miễn cho
kẻ tà tâm có thế lực đôi hồi, loạn Hội Thánh đoạt vị ngôi là thỏa vọng. (Ấy là
học theo truyện Tề Thiên loạn Thiên cung
đặng nài chức Bậc Mã Ôn).
Chẳng biết những người tâm đạo mới nghĩ ra sao ?
Nè chư Đạo hữu lưỡng phái,
Xin nhớ rằng Đạo là của chung cả chúng sanh, dầu cho ai thù ai oán, ai giận
ai hờn, mưu hại lẫn nhau cũng trối kệ, chớ vì thù oán giận hờn, ai ra tay độc
phá nền Đạo thì người ấy là tội nhân của toàn sanh chúng đa nghe.
Bần đạo hằng đặng tin tức của mấy tỉnh Hậu giang cho hay rằng nhiều tay phản
Đạo, đi khắp nơi kích bác Pháp Chánh Truyền, lại dối gạt Pháp Chánh Truyền đầy
nỗi hại.
Có nhiều Đạo hữu phản kháng hỏi : Hại tại nơi đâu ? thì kẻ phản Đạo không
phương giải rõ.
Bần đạo cũng bắt chước hỏi : Hại tại
chỗ nào ?
Á phải ! có hại thật, thật có hại
cho quyền Hội Thánh, vì Bần đạo ban rộng rãi cho nhơn sanh đủ thế lực quyền
hành dám kháng cự cùng quyền Hội Thánh.
Hỏi : Người đồ mưu kích bác Pháp Chánh Truyền là ai ? - Có phải một vị đại Thiên phong của Hội
Thánh và những Chức sắc phe đảng của Ngài. Chư Đạo hữu chư Đạo muội lưỡng phái
tìm hiểu cho cùng thì biết rõ ràng chơn lý.
(Ôi ! Ai đã để hy vọng một ngày kia làm chúa cả của toàn nền Đạo thì cũng
lo giảm thế lực của nhơn sanh đặng dễ dỗ dễ tranh, hầu lợi dụng lấy quyền công
cử. Ấy cũng là phàm kế mà thôi.)
Cái hại thật của Hội Thánh là tại sao cho Chánh Trị Sự một quyền hành cùng
phẩm Đầu Sư nơi địa phận một làng sở tại, còn Thông Sự một quyền Hộ Pháp, Phó
Trị Sự lại giống Giáo Tông, song hành chánh nội trong một xóm.
Lại nữa, Đạo chia ra ba quyền đặc biệt :
* Quyền Nhơn sanh: là từ phẩm Lễ Sanh, Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự
và cả phái viên toàn đạo hiệp đồng định luật lịnh phục hành Thể pháp. Chánh Phối
Sư phái Thượng làm Chủ tọa. Hội nầy có hai vị Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp
Thiên Đài dự hội.
* Quyền Hội Thánh : là Hiệp Thiên Đài thì Thập nhị Thời Quân, Cửu Trùng Đài
thì từ phẩm Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư và Giáo Hữu thì vâng luật pháp thi
hành chánh trị, Chánh Phối Sư phái Thái làm Chủ tọa hội nầy.
* Quyền Thượng Hội: là HTĐ thì Hộ Pháp. Thượng Phẩm, Thượng Sanh; Cửu Trùng
Đài thì Giáo Tông, Chưởng Pháp và Đầu Sư, cầm luật pháp điều hòa đạo mạch. Thượng
Hội không quyền sửa trị, duy thi hành luật lịnh Chí Tôn, kỳ dư khi nào Hội
Thánh và Hội Nhơn Sanh phản khắc cùng nhau làm nền Đạo chinh nghiêng nguy hiểm thì Đầu Sư mới đặng thống quyền nắm
Đạo pháp thi hành chánh trị. (Quyền Thống nhứt phải có đủ quyền Vạn linh và quyền
Chí Tôn hiệp đồng ban cho mới đặng). Hội nầy của quyền Chí Tôn (là Giáo Tông và
Hộ Pháp) làm Chủ tọa.
Trừ hai vị Đại Thiên phong là Giáo Tông và Hộ Pháp đã thay quyền Chí Tôn tại
thế ra, cả ba Hội công đồng mới có quyền Vạn linh đủ phép.
Ấy vậy, Đạo có Quyền Vạn linh chớ không có Hội Vạn linh.
Chư Đạo hữu lưỡng phái biết đặng luật nầy thì sao cũng buồn cười cho Hội Vạn
linh của Quyền Ngọc Đầu Sư buổi nọ ! (Ngọc Trang Thanh, Lê Bá Trang).
Vậy thì Hội Nhơn sanh là một quyền lực của Vạn linh, nếu không phân trách
nhậm công bình, thiếu phương thế mong chi giữ pháp.
Ôi ! Nhiều Đạo đã khi rẻ chúng sanh
và chúng sanh chê Đạo cũng bởi thiếu cơ quan nầy mà chớ.
Bần đạo nhớ lại khi ban hành Pháp Chánh Truyền thì làm cho nhiều vị Thiên
phong Cửu Trùng Đài thất chí, nhứt là Cụ Lớn.
Bần đạo mới nói trên đây, đã sai một vị kia ra lập phái đặng kích bác chơn
truyền, hầu đánh đổ quyền hành Chánh Trị
Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự, nghĩa là quyền nhơn sanh cho tận diệt. May thay có
Chí Tôn phò trợ nên không kết quả chút nào và nghe ra Chi phái ấy ngày nay đã
tan tành rời rã.
Bần đạo nghĩ cũng nực cười vì họ cũng có thế dỗ dành cho tín đồ lầm lạc, thật
là họ dụng phản gián mưu sâu đặng xúi nhơn sanh tự vận.
Đảng phái ấy đã cả gan dám lột cổ pháp và cổi sắc lịnh một vị Trị Sự đương
bận hành lễ, liệng trước mặt của đông người, mà sao nhiều vị tín đồ cũng không
hiểu nghĩa.
Bần đạo khổ thân nhọc trí, càng lo bảo hộ quyền thế của mỗi người, càng bị
nhiều kẻ đồ mưu xúi người ơn đem trả oán. Thiệt tâm lý của người đời rất nên
ghê gớm.
Đạo là Đạo, mà ai cũng Đạo.
Thể pháp (nghĩa là ngoại dung) thì buộc, nào là phẩm, nào là quyền hành, chớ
trước Bí pháp (nghĩa là nội dung) cả con cái của Chí Tôn đồng một bực.
Không phân lớn nhỏ, chẳng kể sang hèn, hình tướng Chí Linh vẫn đồng một thể.
Bần đạo hằng nghe mấy vị Chức việc mấy Họ Đạo Lục Tỉnh than rằng : Phận thiệt
thòi nên không dám trèo đèo luận biện với Bề trên Chức sắc.
Bần đạo xin tỏ rằng : Duy bậc phẩm hèn của Đạo mới dày công nghiệp với Chí
Tôn, còn có công nghiệp thì có đủ quyền hành, có quyền hành thì có tự do ngôn
luận. Cũng vì chư Đạo hữu trong Hội Nhơn sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức
sắc Thiên phong lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi
kiếm hiểu).
Chúng ta chưa hề đã để ý định cho mình mẩy tay chơn của châu thân ta mỗi phần
giá, vì lớn nhỏ cũng đồng cốt nhục, dầu trọng khinh cũng cùng một thể thân, lễ
nghi kia để dỗ mắt phàm, phẩm vị nọ giục ham bụng thế.
Chí Tôn đã dạy rằng, phải tùy theo phong hóa của các sắc dân sanh mà truyền
giáo, thì người cũng tùy Nhơn đạo lập chơn truyền, bởi ta tham trọng thế lớn
quyền, Thầy mới tạo ngôi Tiên vị Phật.
Đại Từ Phụ một hôm kia than cùng Bần đạo rằng : Thầy không phương nào đến
cùng các con khác hơn cơ bút. Thầy còn phải trụ tinh ba chơn truyền của Ngũ Chi
Đại Đạo lại mà làm cho chúng sanh hiểu Đạo đặng dễ dàng nên phải dụng bút cơ
giáo hóa.
Hễ mọi điều chi có hữu ích thì có hữu hại.
“ Sau nầy Thầy e cho cơ bút sẽ hại cho nhơn sanh mê tín dị đoan cũng bởi vì
ưa ham phẩm vị. Nào là thành Tiên hiển Phật, nào là xưng Thánh hô Thần, xúi tục
tánh ham gần mộng mị.”
Lời tiên tri nầy ngày nay kết quả.
Ta thử thầm hỏi lấy tâm ta rằng : Đại Từ Phụ muốn cho ta ra phận sự gì ? Nó
ắt trả lời : Thế thì Thầy muốn cho ta thiện niệm thiện hành, thiện tu thiện
giáo, đặng nêu gương cảm hóa người đời, còn làm trái hẳn tôn chỉ cao thượng của
Thầy mà gieo ác thì là kế Quỉ vương giục loạn.
Hành đạo là khó, mà bảo chơn lại càng khó, bởi đó mà phận sự của Hội Thánh
rất nên yếu trọng. Nầy là mặt luật, nọ là nhơn tâm, vẫn đôi bên phản khắc. Nếu
muốn đắc nhơn tâm phải phế vong mặt luật, còn như thi hành chánh luật ắt là thất
nhơn tâm, hỏi Hội Thánh phải hành pháp thể nào đặng vừa lòng công chúng ?
Phải theo công chúng bỏ chơn truyền hay là nắm chơn truyền đặng hành quyền
cùng công chúng ?
Phải quấy để lòng người suy gẫm, Bần đạo không minh luận ra đây.
Sự vừa lòng công chúng đã hại nhiều tôn giáo chơn chánh qui phàm, chúng ta
nên noi gương ấy mà tùng theo, hay là phải tìm đường xa lánh ?
Còn như không vừa theo công chúng, người chê bai xa lánh Đạo mới sao ?
Thật là khổ ! Phải cho có đủ khôn
ngoan trí thức thiêng liêng mới tìm thấy trung dung Đại Đạo.
Hạng phẩm và trách nhậm đặc biệt phân minh của Hội Thánh có nên để cho rối
loạn cùng chăng ?
Nếu trật tự không vững gìn, dầu Chí Tôn có cho Hội Thánh quyền hành cao trọng
thể nào, Đạo rẻ giá bất năng vô ích.
Luật pháp cốt để giữ nghiêm trật tự của Chức sắc Thiên phong biết phận sự
mình, hiểu phẩm hạnh mình, đủ thể diện bảo an Hội Thánh.
Hỏi những tay đã đồ mưu phá tiêu pháp luật ở nội tâm muốn tính điều gì
? Bần đạo tưởng chắc cả thảy Đạo hữu lưỡng
phái nam nữ đều đồng ý đồng thinh mà trả lời rằng : Họ quyết chắc tìm phương diệt
Đạo.
Thật phải vậy đó chút. Hễ phá pháp luật là phá giá trị của Hội Thánh, mà Hội
Thánh mất giá trị thì Đạo phải điêu tàn tiêu diệt. Bần đạo tưởng muốn hại Đạo,
không có thế nào hay hơn là phá tiêu pháp luật.
Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ chơn truyền có nên để cho Chức sắc lộng
quyền phá tiêu pháp luật hay không ? Bần
đạo để cho chúng sanh định lý mà trả lời giùm, chớ ngòi bút của kẻ biết tu chẳng
nỡ để câu ác luận. Chức sắc Thiên phong cốt để thi hành luật pháp, chớ chẳng phải
nương chánh giáo đặng làm quyền. Hễ vị nào lập thế lực riêng thì vị ấy tự nhiên
lộng pháp.
Bần đạo hằng nghe văng vẳng bên tai những tiếng thị phi ác cảm rằng : Bần đạo
binh người nầy, vì kẻ nọ, mà không thấu rõ đủ bằng cớ binh vì.
Đã hai phen chung chịu, trước kia với Cao Thượng Phẩm, sau nầy với Quyền
Giáo Tông, Bần đạo bị khép vào án đồng lõa đồng tình hay là án bất minh tư vị.
Ôi ! Miệng mối lưỡi lằn không phương giải nghĩa.
Nhơn sanh chỉn thấy đặng bóng dáng phương ngoài mà nghị luận, nào biệt phân
đặng binh luật pháp với binh người, lẽ thiệt hư nếu hiểu lý cùng noi thì thấy
vì Đạo chớ không vì mị.
Bần đạo đã cầm luật pháp nơi Hiệp Thiên Đài đặng bảo an Hội Thánh thì những
người xâm phạm luật pháp, lạm dụng Đạo quyền phải đi ngang qua mặt Bần đạo hành
quyền trước đã, rồi mới toan rối loạn chơn truyền, sanh chiến tranh phấn đấu tự
nhiên, thắng Bần đạo mới mong hại Đạo.
Hại thay ! Thật ra cũng có lắm kẻ tà
tâm, may nương cội Đạo đã làm điều tồi tệ đắc tội với nhơn sanh, lại lạm hưởng
phận sự bảo hộ Hội Thánh của Bần đạo phải thi hành nên hại Bần đạo nhiều phen
phải cùng chung nhục nhã.
Ôi ! Phận sự cầm cân công bình thiêng liêng của Chí Tôn tại thế, vốn không
phải dễ. Hễ muốn trọng hồn thì phải nghiêm trừng xác thịt, mà nghiêm trừng xác
thịt vốn là phương kết oán gây thù, còn trọng xác thịt, rộng thứ dung thì linh
hồn sẽ tự nhiên sa đọa, mà để các đẳng linh hồn sa đọa thì lại đắc tội cùng Thầy.
Làm cho vẹn phận sự khó thôi rất khó !
Trách nhậm yếu trọng ấy, chẳng phải ngồi lim dim ngủ gục mà làm cho Đạo
bành trướng cả thể dường nầy. Bần đạo nhớ lại buổi trước Đạo còn sơ khai hỗn độn,
Chí Tôn lại rộng mở cửa đặng chực rước chúng sanh, các tôn giáo các đạo chi rần
rần rộ rộ, lộn xộn lao xao, kẻ thì bán bí pháp, người tụng mướn kinh, hại chánh
giáo chơn truyền một lúc chịu ô danh trược diện.
Lo sửa sang chỉnh đốn mấy năm trường thôi đã hết hơi, dân Việt Nam mê tín
khắp nơi nơi, nào bóng nào chàng, nào đồng nào cốt, nào bùa Tiên nào phép Phật,
đã đặng hồi đắc giá chợ đông người, bán mắc rẻ kiếm lời, lường gạt thế.
Khi ở Thủ Đức trở về Tòa Thánh thì thấy nào là kẻ theo ông Ngọc Lịch Nguyệt,
học trì thoàn niệm chuỗi từ bi, ngồi lần hột lim dim ngủ gục; nào người thì
theo làm học trò ông Giác Hải (Hòa Thượng Như Nhãn) đánh mõ chuông tụng mãi
Di-Đà, ngoài Thánh địa thì đồng cốt lên xưng quỉ gọi ma, còn Chức sắc xúm giành
nhà giựt đất.
Bần đạo cố gắng lo trừ khử đặng bảo thủ chơn truyền, trót mấy năm tà pháp vừa
yên, kế Chức sắc tranh quyền lấn chức.
Bần đạo cũng chẳng vì khen mà ham, mà cũng chẳng vì chê mà thối chí, sự buồn
vui đã chán ngán với tuồng đời, chẳng còn sót điều chi rằng thú vị, nay đã dâng
trọn tâm hồn cùng xác thịt cho Đại Từ Phụ, sự oán thù đã vô giá trị với thường
tình, chẳng sợ khinh, không cầu trọng.
Vị nể ai ? Vị nể đặng làm gì ?
Ngảnh lại đời thấy quí là chi, đặng mưu lợi phòng khi vị nể. Ấy vậy, đời
không mến, thế không ưa, còn sót lại chi hay thân buộc trói.
Thế thường nói : Để cho người mà xử người thì chưa hề có công bình chánh
đáng. Phải biết tận tâm lý và hiểu trọn hành vi của người thì mới định đặng
công bình tội phước.
Bần đạo xin dâng một chuyện hiện hữu của Bần đạo đã gặp khi đổi ra làm việc
tại Qui Nhơn.
Đến Bình Định đặng đôi tháng, Bần đạo biết đặng một người đã 36 tuổi, trang
nghiêm tuấn tú, diện mạo khôi ngô, Nho văn hay Pháp văn khá, đức hạnh có, tài
tình có, thật đáng trang danh sĩ Khổng Trình. Đờn thiệt hay, thi thiệt giỏi,
ngôn ngữ như lưu, thông minh tột lẽ, rất đáng bậc phong lưu tài tử.
Bần đạo vì thương tài kết làm bạn thiết.
Hôm nọ đến nhà Bần đạo đàm luận suốt canh khuya, thoạt nhiên thú thật rằng
người vốn tổ dạ du quân tử. Bần đạo nghe qua ngạc nhiên sự lạ, trước thì tưởng
nói chơi, sau nghe gốc tích thuật trang hoàng thì mới biết lời chàng tỏ thật.
Tự thuật của người như vầy :
Người gốc ở Thanh Hóa, cha người làm quan chức Tân triều, song kỷ trưởng
niên cao nên hồi hưu dưỡng lão; mẹ thì mất sớm, để lại một em gái cùng người.
Cha người tái thú với một bà góa ở Quảng Nam, sanh đặng thêm hai gái một trai,
cộng chung với 5 con riêng của bà nữa thành ra 8 mạng. Người thuật cả gian ác của
bà kế mẫu đối cùng người và em gái của người, nghe nên thảm thiết. Lịnh thân của
người lại sợ bà như hùm như hổ đáo để, nên 10 người phải tách mình đi ở mướn đặng
trốn xa cái khổ khắc của bà. Thời may gặp đặng ông chủ lại là người đạo đức hiền
lương, nên dạy học Nho văn thông suốt, còn Pháp văn và quốc văn thì người tìm
tòi mà học một mình, nhờ sáng trí và cố cần nên cũng khá.
Chí đến năm 19 tuổi, khi vừa đặng nên người, Bà kế mẫu xúi lịnh phụ đòi về
đặng lo đôi định bạn, cốt yếu cưới vợ cho người là mướn tớ rẻ chớ không phải là
thương người, đặng định gia thế cho người (điều nầy cũng là thường sự).
Tội nghiệp thay chị vợ rủi vô duyên mà phải chịu cam khổ cùng người, vì đó
nên ân nghĩa mặn nồng, vợ chồng vốn thương nhau thật dạ.
Lần lừa ngày lụn tháng qua, vì quen nhỏ nhẹ theo phận tôi đòi, biết chiều lụy
kính nhường nên bà kế mẫu để chút dạ thương tình, đã quá 3 năm thấm thoát. Hại
thay trong 3 năm an ổn lại sanh 3 cục báo đời, chị vợ đẻ hai trai một gái.
Miệng ăn thì nhiều, tay làm thì ít. Gia đình khiếm khuyết, sự nghiệp tiêu
hao, bà kế mẫu tính cho rằng hai tay của vợ chồng làm không đủ công trừ miệng của
ba con, nên lập chước đuổi ra khỏi cửa.
Chồng thì trần lỗ, vợ cũng không lành, con đói rách lang thang mà bà đành
đoạn đem dạ đuổi xô ra ngoài ngõ. Người em gái thấy cảnh thảm khổ dường ấy nên
quyết theo chung chịu cùng anh, nào dè thêm một miệng thì hai người thêm một khổ.
Chị vợ vào ăn cắp ít nồi gạo đem theo, rủi bị bà kế mẫu thấy, chạy theo giựt lại.
Một đồng một chữ không có, mơi cơm chiều cháo, đi làm công đặng kiếm nuôi
nhau, rủi khi nọ ông chủ mướn gây lộn không cho tiền tháng.
Chạy cơm không nổi, cả nhà nhịn đói đã bốn năm ngày, con thì khóc, vợ và em
thì than, kế cùng lực tận, chịu không nổi, người tính ra đường toan tự tử, may
sao người vợ có tánh linh, hiểu tình cảnh chạy theo níu lại. Thiệt là khổ não
vô ngằn, viết ra không hết.
Nằm khoanh mà chịu trót bảy ngày không có hột cơm, chẳng lẽ ngồi chờ chết cả
một nhà, đến cùng nước mới ra ăn trộm. Nhờ đã đủ trí đủ tài nên nghề dở cũng ra
hay, của Thạch Sùng cho cũng đủ xài, vàng Vương Khải độ ngày dư dả. Người nói rằng
gia nghiệp của người cũng nhờ của trộm mà lập nên, nên chính miệng người khai rằng
gia tài sự nghiệp ấy vô giá trị.
Người khai thiệt rằng, cách 4 năm giải nghệ, nhưng lương tâm cắn rứt hằng
ngày, vì hổ thẹm nên đành xa quê lìa vức, vào ở tỉnh Bình Định gần 4 năm chầy.
Nói đến đây, người khóc dầm dề, ngồi buồn bã thảm sầu than dài thở vắn. Bần đạo
để lời an ủi, đổ thừa cho vì cảnh gian nan, đến cùng thế phải toan cùng thế. Từ
cổ chí kim biết bao mặt trượng phu quân tử gặp thất thời phải cam chịu phận hạ
tiện tiểu nhơn, cũng vì leõ mạng tài
tương đố.
Tuy nói vậy nghe vậy chớ Bần đạo cũng không tin, nên kiếm chước đặng gần mụ
vợ. (Người em gái khi ấy đã nên gia nghiệp chồng con, cũng nhờ có tay anh giúp
đỡ và cũng ở tại tỉnh Bình Định cùng anh).
Cách ít lâu, Bần đạo đến nhà, nào là đờn ca xướng hát, nào là cờ bạc rượu
trà, nhà người đã thành ra nhà xẹt (Cercle). Mãn tiệc đã xình xoàn, kêu vợ
chàng hỏi lén.
Người vợ khóc dầm dề thuật lại y chẳng sót, lại thêm rằng : Có một đêm
chàng mang máu mủ chạy về nhà, mảng đương lo cạy vách người ta, bị chúng chém
may không đứt họng. Ôi ! Mẹ con tôi thấy
hoảng, nên ó ré khóc rùm, xúm la làng réo xóm lum um, sợ chàng chết nên không sợ
tội.
Khi ấy tôi đã đẻ thằng út của tôi bây giờ đó, tính hết thảy lũ con thành 7
đứa. Thầy không tin, khi nào vạch lưng cậu nó (là ông chồng, vì vợ con kêu anh
ta bằng cậu) thì thấy cái thẹo dài hơn một tấc.
Chết chết sống sống, khổ biết bao nhiêu, trên hai tháng mới là lành mạnh.
May không tôi đã phải góa, con chịu mồ côi, thân phận chúng tôi nghĩ thôi bao nả
!
Bần đạo nghe đến mà hết hồn, nếu như chàng mà phải thế nào, sắp con và vợ
ra sao chẳng hiểu ?
Nếu người bị ăn trộm khi ấy biết rõ cảnh tượng nầy, đưa tay chém lưỡi dao
khó xuống.
Bần đạo thử đem vụ nầy ra trường ngôn luận, thì chắc có người không tin rằng
người ấy có đủ tài ba trí thức, nếu quả có tài thì phải có nghề, cớ sao không
nghề nghiệp lại ra ăn trộm ?
Bần đạo sẽ trả lời rằng, phải hiểu dân ở tỉnh Thanh Hóa bề sanh nhai khó dễ
thế nào, mới luận thiếu nghề là dở.
Cũng có ông nói rằng, thà là thân ở mướn hơn sanh phương hạ tiện tiểu nhơn.
Bần đạo lại trả lời: Ở cùng chủ bị giựt lương mới ra thân chịu đói.
Đời mấy ai thương khó, thấy nghèo hèn dễ ngó đến thân hèn, giàu đầu non
cũng có người quen, đói giữa chợ anh em vắng mặt, lại còn chàng quá ngặt, vợ,
con, em tay dắt tay dìu, của một nhà nào có bao nhiêu, phòng nuôi nổi cho đều mấy
miệng. Một thân dầu quyền biến, cũng có miếng mà nhai, tiền ngày có một tay, ăn
hơn ngoài 8 bữa. Ai cả gan dám chứa, cả ba bốn đứa con, một miệng ăn núi lở non
mòn, lựa một lũ quả hơn gánh hát.
Cũng có cụ nói, thà hành khất nuôi nhau hơn đi đào ngạch chúng.
Bần đạo lại trả lời, đời mấy trang phước thiện, bố thí hiếm cho nhiều, của
đi xin ngày một đặng bao nhiêu, phòng nuôi dưỡng cho đều cho đủ.
Cũng có lão nói, thà chịu đói khô mà chết thì hay hơn mang kiếp tà gian.
Bần đạo lại xin nói: Một mình chàng sống thật đã không màng, còn con vợ khốn
nàn ai dưỡng dục ?
Nhiều ông đặng vui phần hạnh phúc, nào biết chi vinh nhục của người, cứ chấp
kinh lớn tiếng rộng lời, chớ chưa đủ trải đời cho thấy khổ. Xem kẻ rách lòi
trôn nói hổ, bởi chưa tường giá nợ áo cơm, đòi thấy bèn bụm mũi bịt mồm, vì
chưa hưởng mùi thơm vị thúi, những thấy phỏng định chừng tội lỗi, bởi chưa quen
lòn cúi khó là bao, vẽ tranh đời nhắm mắt nói màu, màu thế sự luận sao cùng lý.
Hỡi ai đã đa sầu đa cảm, có dạ thương đời, xin lấy thân người dạ du quân tử
nầy mà tỉ lại thân mình, thấy giống hệt như in chẳng khác.
Hội Thánh Đại Đạo ngày nay cũng thế, nỗi thảm khổ của Chức sắc Thiên phong
mấy ai thấy rõ, phòng để luận cho công, nhờ Chí Tôn nung trí giục lòng, bằng chẳng
vậy khó mong thành Đạo. Nỗi cơ đời ép bức, nỗi phận sự khó khăn, lo bảo tồn cả
triệu sanh linh, khỏi khổ hạnh vốn không phải dễ.
Bần đạo coi lại những kẻ để lòng gieo ác cảm, đều là người trốn lánh phận
mình, Đạo không nên mà đời cũng chưa đủ, xúm vầy đoàn kết lũ hại người lành,
hay là tay ghét ngõ ganh hiền, cứ xúm ngõ kim
tiền hô kiếm trộm, cùng những trang Chức sắc lo mua tiếng cầu danh, miếng
đỉnh chung tính bỏ không đành, còn quyền Đạo cũng tranh cũng lấn. Cả thảy chưa
dâng công cho Đạo, chỉ lấy tiếng bua danh, những vị ấy có hửi cái khổ của Hội
Thánh là dường nào mà xử định phân minh mùi vị ?
Bần đạo đã trót 8 năm chầy, lao tâm tiêu tứ, lo tìm phương bảo thủ chơn
truyền, hằng bị nỗi khó khăn gay trở. Trong thì Chức sắc Thiên phong nghịch lẫn,
ngoài tà quyền kiếm thế ép đè, khổ nhọc trăm bề, gian nan khó nói.
Nào là mưu giục loạn, nào là kế phân tâm, dẹp sự nọ, biến điều kia, khuyên
hờn nầy sanh oán khác.
Nào là tiếng gièm pha miệng thế, nào là lời kích bác phái tà, làm nghiêng
ngửa Đạo tâm, hại chia phui Hội Thánh. Tội nghiệp thay, có nhiều vị Thiên phong
Chức sắc chịu không kham hổ nhục của ác đời, cực chẳng đã phải kiếm chước lui
chơn, lập thế lực lo phương hành Đạo.
Thật sự rối rắm của Đạo là do nơi trở cảnh mà biến thành, chớ chẳng ai nỡ cố
tâm hại Đạo.
Cuộc bất hiệp tác đã nảy sanh ra trong hàng Đại Thiên phong cầm quyền hành
chánh, đều tại không đồng ý đồng tình, trên không biết dưới, dưới chẳng hiểu
trên, sự hành động bất hòa mới sanh nghịch lẫn.
Ông thì lo tìm phương giải ách, ông lại toan lập thế phổ thông, hao của nhọc
công, muôn điều khổ nhọc. Nếu quả nhiên có tâm hại Đạo thì còn lo vụ tất vẻ lịch xinh chánh giáo mà làm gì, cho bị dể
bị khi, thêm lao tâm tổn trí. Dầu mấy vị vì danh vì thể, lo xui mưu làm loạn đặng
tụ phái lập phe đi nữa, cũng có công giúp ích chơn truyền, nơi khổ hải đóng
thuyền ra tế độ.
Ấy vậy, thiệt nhục cho Bần đạo là không phương làm hòa nhã cả Chức sắc
Thiên phong, để mếch dạ chênh lòng, mới gieo phiền kết hận, song xét cho cạn lẽ,
thì nhơn tâm biến cải, dầu Thánh nhơn cũng khó nỗi ngừa, hễ xảo ngữ vốn dễ
nghe, còn thiệt ngôn hay nặng dạ. Chẳng biết người đạo đức ở thế nào cho thiên
hạ vừa lòng. Hèn chi Phật tỉ đời như Thất đầu xà, nghĩa là hình trạng thất tình
phàm thể.
Chớ chi Đại Từ Phụ ban cho Bần đạo phương thế nào mà làm cho chư Đại Thiên
phong yếu trọng của Hội Thánh bớt để tai nghe lời siểm nịnh của đám tà, thì nền
Đạo chẳng đâu ra nông nỗi.
Người muốn nên cho Đạo thì phần ít, còn kẻ giục hư lại vốn phần nhiều, vì
những tánh nết tự kiêu, vì đầy lòng ganh
ghét.
Bần đạo xin thưa cho chư Đạo huynh chư Đạo tỷ cùng chư Đạo hữu nam nữ lưỡng
phái một điều nầy:
Chúng ta tu hay là không tu. Nếu như tu thì phải hiền, như còn muốn dữ thà
bước cho xa cửa Đạo.
Chúng ta đã lãnh phận sự đặc biệt và yếu trọng là cảm hóa thế nào cho đời
đã tệ hóa ra hay, người bạo tàn hóa ra hiền ngõ. Nếu còn nêu gương tàn nhẫn thì
khuyến giáo đặng ai, cứ mong lòng tranh trí lấn tài, ắt tàn hại cái hay đạo đức.
Sở vọng của Đạo cốt yếu là làm cho thiên hạ thương yêu, vì sự thương yêu là
một quyền hành độc thiện, mà chư Chức sắc thay vì yêu thương lại chọc cho hờn
cho ghét, thì hành vi ngược ngạo biết là bao ! (Đạo thiên hạ đã ghét rồi đa,
làm thế nào cho thương đặng mới là hay, còn hại ghét hoài ra thường sự).
Bần đạo để lời tâm huyết nầy :
Chúng ta đã chung khổ cùng nhau tạo thành nền Đạo, dầu không tình cũng
nghĩa, dầu bỏ nghĩa còn công, đã 8 năm khổ hạnh chia đồng, hóa giọt thảm mặn nồng
bằng cốt nhục. Nay vừa đặng mảy may hạnh phúc, nỡ nào còn cân nhục so vinh, nên
cũng mình mà hư ấy tại mình, trọng là thế, khinh kia cũng thế. Đời tồi tệ miệng
còn nói lễ, Đạo dường bao chẳng kể tôn ti, nếu ta bày ra tiếng thị phi, biểu
sao chúng chẳng khi chẳng dể, cùng nhau đã đồng minh đồng thệ, của thiêng liêng
huynh đệ nên nghi, hơn mà chi thua ấy là chi, mưu hại lẫn nhau vì cừu hận, ráng
giữ chặt tánh hờn nét giận, ngọn hỏa tâm thiêu tận đền thờ, Đạo sử ghi kiếp kiếp
để nhơ, nơi cửa Thánh ơ hờ hóa quỉ, bớt nghe hồ mị, theo Đấng Chí Tôn, sống sót
kia xin ngó đến hồn, đừng đợi thác thây chôn để trược.
Độ tâm lý không cân không thước, lấy tinh thần làm chước làm mưu, tâm là
bình Bát vu, đức là cây Phất chủ, hạnh là bộ Xuân Thu, trối kệ đời khen trí chê
ngu, đã tự chủ trí ngu tự hiểu, lấy tánh đức từ bi làm kiểu, đưa ân hồng dìu
níu tay phàm, mặc ai còn danh mến lợi ham, trối kệ những tước ham quyền chuộng,
mồi chung đỉnh đủ nhàm ưa muốn, mỏi quì lên cúi xuống cửa công khanh, còn chi
hay phòng giựt phòng giành, có chi trọng phỏng tranh phỏng lấn.
Chúng ta ví biết mình cho cùng tận, thì hằng ngày nên hỏi lại mình rằng :
Phải Đại Từ Phụ mượn xác thịt của ta đặng thay hình thể của Người hay chăng ?
Nếu lương tâm đã cho phận sự ta để thay thế cho Thầy thì chúng ta phải tùng
phương châm của Thầy, bắt chước y nguyên, đừng sai một vẻ, mới mong tụ họp con
cái của Thầy chun vào cửa Đạo, bằng chẳng thì thà thối bước ra khỏi Thánh Thể của
Thầy hơn ở lại làm nhơ làm trược.
Vậy Bần đạo cả tiếng kêu những người đã một lỡ hai lầm và những bậc xả thân
vì Đạo, phải hiệp tâm hiệp trí cùng nhau, chỉ ngó một mình Thầy làm đường chơn
thật, rồi tha thứ nhau hay là giúp đỡ lẫn nhau đặng tròn phận sự cùng Thầy hầu
làm gương báu cho đời, tìm chí thiện do tình lẫn ái.
Vậy chúng ta đồng lực lại với nhau đặng un đúc nền Đạo cho chắc chắn và tạo
Đền Thờ của Thầy cho trang nghiêm mỹ lệ đặng qui hồi cả chúng sanh vào nơi lòng
thương yêu vô tận của Chí Tôn mà làm cho thân hình của Người khỏi chia phui rời
rã.
Nếu mấy lời tâm huyết nầy không lọt
vào tai của chư vị yếu nhơn của Đạo thì Bần đạo sẽ đợi xem cho toàn sự hành động
của mỗi người, rồi tuyên bố cho cả chúng sanh thấu đáo./.
* * *
THUYẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP
đọc tại Thánh Thất Kim Biên.
Ngày 11-7-Bính Tý (dl 27-8-1936)
Giảng về: Mật thiết Triết lý của Đạo Cao Đài.
Bần đạo muốn giảng điều siêu việt về tinh thần đạo đức, hầu tóm cả chơn lý
của các tư tưởng đối cùng Đức Chí Tôn, nhưng e cho sự cao siêu mầu nhiệm ấy nó
sẽ quá sức cho sự đoán xét của thính giả mà biến thành ra tuồng mộng ảo, nên
quyết lấy cái thiết thực hiển nhiên của Đạo đối cùng Đời đương giữa cơn tinh thần
phát triển, sưu tầm một mối tư tưởng phù hạp với trình độ trí thức nhơn sanh,
đương nhiên hầu giúp hay cho bực cố tâm tầm Đạo.
Những cơ quan và những hành vi hiện tượng của các tôn giáo đương nhiên ngày
nay như dường biến thành cổ vật, nên đã mất cái hay để giúp đời tự trí, tự
giác, tâm hồn thiếu ơn an ủi, tư tưởng mất phép chuẩn thằng, trí thức không phù
hạp hành động, biểu sao đời không trở nên một trường náo nhiệt rắc rối khó
khăn, rồi giục cho cả nhơn sanh dong ruổi
trên con đường duy vật mà quên hẳn cái quyền vi chủ của trí thức tinh thần.
Ôi ! Thử nghĩ cái ngày nào trí thức
tinh thần đã tiều tụy thì cái lương tri lương năng cũng do đấy mà tiêu tàn thì
con người đứng giữa cõi trần hoàn nầy phải trở nên bao nả ?
Chúng ta duy buộc phải trả lời rằng : Luật thiên nhiên tự bảo nó sẽ buộc mỗi
cá nhân chuyên chú về sự sống. Hại thay, cái sống ấy do nơi phép duy vật mà lưu
tồn thì con người chỉ sống hèn như con vật mà thôi.
Bần đạo chẳng cần luận thuyết chi sự phân biệt xa cách nhau như trời với vực
giữa vật chất và tinh thần, thì như thính giả cũng dư hiểu : Hễ vật chất hữu bổn
nguyên, hữu định thể; còn tinh thần thì tự chủ tự do.
Ấy vậy, vật chất có giới hạn, chớ tinh thần vốn không giới hạn.
Chúng ta lại thầm hiểu rằng : mỗi điều chi hữu bổn hữu nguyên hữu định thể
thì cái sự lớn nhỏ của nó, dầu hình dầu bóng tùy theo mặt luật pháp định hành
tàng. Hễ có bổn nguyên ắt có xứ sở cội nguồn, có định thể ắt có khuôn viên sắc
tướng.
Nói tóm tắt, hễ vật thì có chủ. Ấy vậy, do quyền có chủ ấy nó giục thành một
trường tranh đấu đua chen mà làm cho mặt thế biến thành chốn chiến trường náo
nhiệt.
Sống của con vật là phải ăn mà sống, phải mặc mà sống, phải ở mà sống, sống
một khuôn luật với sắt đá cỏ cây, côn trùng, điểu thú.
Nhơn loại đã nghịch lẫn nhau, tàn hại lẫn nhau, giết bỏ lẫn nhau, cũng do bởi
chạy theo cái sống của con đường duy vật.
Trái lại, cái sống của tinh thần là sống tự chủ, tự quyền, thì cái sống ấy
không nguồn không cội, không luật, không hình, không bờ không cõi, sống theo
gió theo mưa, theo Trời theo Đất, sống với càn khôn vũ trụ, sống với nhựt nguyệt
tinh quang theo một khuôn luật với cái sống vô ảnh vô hình của các tư tưởng bậc
Thánh hiền từ thượng cổ.
Cái sống của con vật thì chỉ có hai bữa ăn mà sống, còn cái sống của tinh
thần vốn vô độ lượng. Cái sống của vật chất ở tại bụng, cái sống của tinh thần ở
tại óc. Bụng với óc vẫn khác nhau thì hai cái sống ấy cũng khác nhau đặc biệt.
Cái vấn đề tương tranh của hai cái sống ấy, dầu cho trình độ trí thức nhơn
sanh đặng cao siêu tăng tiến dường nào cũng chưa xử trí và giải quyết thế nào
cho đích xác.
Dường như chúng ta phải biết hẳn rằng
: Hễ bụng no thì óc rỗng, óc cứng thì bụng mềm. Cuộc tương tranh nầy chưa có một
ông tòa nào nghị án nổi.
Ấy vậy, cái thuyết duy vật và thuyết tinh thần tự chủ đến chừ chưa có một
tôn giáo nào cầm đủ quyền hành dung hợp.
Có tôn giáo thiên về mặt vô vi, phế vong hình thể, tức nhiên là đảng phái của
tinh thần; lại cũng có thể nhiều tôn giáo khác bị xu hướng hữu hình, còn vô vi
thì vong phế, là tức nhiên làm môn đệ của thuyết duy vật đã đành. Hai đảng phái
ấy đương đấu đương tranh, đặng bia vào miệng thế tình những nẻo tà nẻo chánh.
Cũng vì do nơi vật chất với tinh thần đã gây lắm điều quyền biến; một đàng là
tôn chỉ luật điều tùng khuôn viên duy vật; một đàng thì cậy huyền diệu nhiệm mầu
do tinh thần vi chủ.
Những nhơn sanh tùng hai lý thuyết ấy vốn phản khắc xa nhau dường như sao
Khuê sao Dược.
Hỏi, đã có nảy sanh ra một Giáo Chủ nào đủ đức tánh, đủ quyền năng, đủ phép
mầu, đủ trí huệ làm cho hai đảng phái ấy dung hòa, mới mong mỏi đại đồng thế giới
hay chăng ?
Nếu chúng ta để cho tịnh tâm tịnh trí đặng tầm chơn lý của hai lẽ ấy cho hẳn
hòi, thì chúng ta dám cả tiếng phô rằng : Sự xung đột của hai tư tưởng ấy thật
ra chưa đích đáng, chẳng qua là một trường tranh luận tình cờ của các tiên nhơn
lưu hậu.
Dưới ngọn đuốc văn minh chiếu diệu soi huệ trí sáng ngời giữa thế kỷ 20 nầy,
chúng ta đã thấy quả quyết sự tương hiệp thân thiết của cơ quan hình thể với
tinh thần, thì chúng ta lấy làm ngạc nhiên cho sự quái dị cái nỗi phân chia của
thuyết tinh thần đối cùng hình thể.
Chúng ta lại còn để tâm nghiên cứu nguyên do của hình vật tương phân bởi
đâu mà sản xuất thì chúng ta lại thấy đặng bởi tư tưởng của Nho giáo và Đạo
giáo mà nảy sanh, chẳng phải do nơi miệng của Đức Khổng Tử hay Đức Lão Tử mà
ra, mà lại do bởi những thuyết của các môn đồ của đôi nhà luận bác.
Chưa có một quyền hành nào mà chia rẽ trí tuệ riêng ra hình vóc của con người,
thì chưa có một quyền năng cả gan dám phân chia hình vật. Bởi vậy, tinh thần và
hình thể vốn là hai bộ phận cần yếu trọng hệ của kiếp con người. Nếu chiếu theo
phép thiên nhiên thì đôi bên đồng một bổn, hễ có xác không có trí thì điên, hễ
có trí không thân thì dị.
Đời là hình duy vật, Đạo là bóng của trí thức tinh thần. Vậy thì phép Đời,
Đạo vốn đồng, cơ tạo thế phải có công Đời cùng nghiệp Đạo.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo do do lương tâm vi bổn, lấy cả triết lý của
toàn cầu làm căn, hầu làm trung gian cho các tư tưởng hiệp đồng đặng dìu dắt
nhơn sanh hồi thiện.
Ngoài ra pháp luật định quyền luật của thiên lương thì để cho mỗi cá nhân đặng
tự do tư tưởng.
Chẳng cần luận giải, chư thính giả cũng đủ biết rằng : cái tư tưởng vốn vô
cùng, chiều theo thời thế của Đời đặng nâng đỡ trí thức của nhơn sanh tạo thời
cải thế. Nếu hiểu rằng nghĩa lý của Đạo là đường duy nhứt của tâm lý nhơn sanh,
ắt phải nhìn nhận rằng : phải để cho tinh thần đặng tự do tín ngưỡng, miễn là
làm thế nào cho Đạo thuận cùng Đời, Đời không nghịch Đạo, mới gọi là lý thuyết
cao siêu làm cho thái bình tâm lý.
Thái bình tâm lý đặng mới làm cho thái bình thiên hạ đặng, thái bình thiên
hạ đặng mới làm cho đại đồng thế giới đặng.
Giữa buổi toàn cầu đương xôn xao chen lấn trong bước tấn bộ văn minh, loạn
hàng thất thứ, tùy theo tài lực của mỗi nước trong vạn quốc có văn hóa, có dã
man, có tài hay, có tục dở, phẩm giá vốn không đồng, nếu lấy giá trị hữu hình của
nước đặng định phân thì ắt khó mong làm cho cả
nhơn sanh hiệp chủng.
Tài lợi không đồng, phương diện không đồng, xã tắc không đồng, tức nhiên buộc
chánh trị cũng không đồng, cái chánh sách hiệp quốc hiệp quần chưa đủ kế hay mà
vĩnh thủ.
Xin nói hẳn rằng, nếu giá trị hữu hình của vạn quốc toàn cầu đặng định nặng
nhẹ thấp cao thì là phép giục thêm hại, so hơn tính thiệt. Tưởng khi đều cho
nhà chánh trị đại tài nào bôn xu trên con đường vật chất, mong mỏi cho thiên hạ
hòa bình thì tỉ chẳng khác đem cung trăng thay mặt đất, chẳng qua lập phương lừa
dối lẫn nhau, mượn chước khéo đặng tranh quyền giữ thế.
Ngày nào cả nhơn sanh biết rằng cả con người chẳng phải sanh ra để vụ tất lấy
cái sống theo con vật gọi là phúc hạnh khéo khôn, trái lại phải coi mạng sanh
là báu trọng, biết kính nể nhau, biết thương yêu nhau, biết binh vực nhau, biết
nuôi nhau, lại lấy phận sự cao thượng ấy đặng làm cái Đạo của người thì ngày ấy
là ngày của toàn nhơn sanh đều hạnh phúc.
Tưởng lại, tương lai của Đạo Cao Đài do nơi cái sở hành và cái tư tưởng cao
thượng của nó, ngày nay nó có thể hứa với nhơn sanh rằng: Chúng ta sẽ hưởng điều
hạnh phúc ấy./.
ĐỨC HỘ PHÁP nói chuyện
với thợ hồ đang xây cất Tòa Thánh.
Ngày 16-10-Bính Tý (dl 29-11-1936)
Bài ghi chép của Sĩ Tải Hiển và Luật Sự Trấn.
Công thợ đang ngồi nghỉ mệt nói chuyện, chợt thấy Đức Hộ Pháp đi vừa đến, cả
thảy anh em thợ sợ hãi vội lo kiếm việc làm, kẻ trộn hồ, người rinh đá, ...
Đức Ngài bảo mấy em nghỉ, cả thảy lại đây.
Mấy em làm có mệt thì nghỉ, đừng có trốn lánh nặng tìm nhẹ thì công quả
không đầy đủ, đừng có tựu lại Sở, ghi tên rồi đi chơi, chờ đến giờ chạy về làm
bộ siêng năng đặng Cai Sở ghi công. Đó là mấy em tưởng làm đây rồi trả nợ cho
qua buổi.
Thường công việc làm ở ngoài Đời, họ buộc từ giờ từ khắc, là vì mấy em làm
ăn tiền, nên cái tật lánh né đã quen. Nơi cửa Đạo, trường công quả không buộc,
không ép, hễ ai muốn lập công để tạo quả vị thì làm, rất có nhiều phương lập
công, từ bực thấp hèn dốt nát đến hạng trí thức thượng lưu, đều tùy sức và tài
năng của mỗi người, nam nữ cũng vậy.
Người giỏi có văn tài thì làm việc công văn ngồi bureau, cùng là đi Đầu Họ,
Đầu Quận để hành đạo, đúng chơn truyền luật pháp không sửa cải, họ phổ độ nhơn
sanh lập đức chiếm đại công quả. Điều nầy rất khó, vì mang một Thánh thể vào
mình để dìu dẫn con cái Đức Chí Tôn, nếu ai đầy đủ Tam Lập, được đem đại công về trình với Đức Chí Tôn;
còn nếu làm không trọn vẹn thì công quả đã mất mà còn thiếu nợ nhơn sanh nữa mà
chớ !
Còn ngồi bureau làm công văn, mà cứ lo xem sách, truyện, đọc báo, mà chờ giờ
ghi công trả nợ, đến khi khai công nghiệp kể cho nhiều năm để thăng phẩm Chức sắc
về hữu hình thì dễ, còn về quyền năng thiêng liêng thì dễ gì qua được, giỏi lắm
là trừ hột cơm của nhơn sanh, chưa đủ nữa là khác !
Sự lập công quả nơi cửa Đạo, dầu việc nhỏ việc lớn, đều là đắc vị được, do
tâm đức để tạo thiện đức, thiện công, thiện ngôn, trong ba mà thiếu một là chưa
chiếm được, dầu cho công phu đào luyện lên bực Đạo Nhơn đi nữa, một lời nói
chơi, nếu có hại cho người cũng đủ tái kiếp trả quả, chớ đừng nói đến sự ghét
giận người, gây oán trách hờn, không trọn tình thương thì không dễ gì đoạt được
Tam Lập.
Còn mấy em đây là hạng dốt nát thì cứ vâng lời Hội Thánh, sự mệt nhọc mồ
hôi tầm tã mà không thối chí ngã lòng, ăn cháo rau, rách rưới, ngày nào cũng vẫn
như ngày nấy, dầu vậy mà mấy em có phước về đây hiệp cùng Qua lo tạo tác Đền
Thánh.
Trước kia đã 3 năm khởi tạo đều ngưng trệ bỏ dở vì không tạo được tâm đức
nên Hội Thánh giao cho Bần đạo lãnh làm. Bần đạo tạo tâm đức cho mấy em.
Nếu ai muốn làm công quả, phải trọn hiến thân, chỉ có người Phước Thiện về
đây, đứa thì lãnh Đốc Công, Cai Sở, thợ hồ, công thợ, nam thì tu chơn, nữ thì
thủ trinh tình nguyện cho đến khi tạo Đền Thánh xong. Chỉ có tâm đức đó, thầy
trò mình mới dám lãnh, đứng ra làm.
Vậy, các em ráng bền chí lo công quả tạo tâm đức, lập âm chất, thì Đức Chí
Tôn ban cho mỗi đứa được hưởng cái vinh diệu vô cùng, ai muốn hưởng tại thế thì
hưởng, còn không thì hưởng phần thiêng liêng cao trọng và tồn tại.
Hồi mấy thế kỷ trước, nơi Đế Thiên Đế Thích, người cũng tạo bằng cây gạch
ngói vôi cát, Chí Tôn cũng cho đắc vị hết.
Bên nữ thì ham làm vì sợ thua bên nam, nên ráng làm cho rồi, còn bên nam
thì ỷ giỏi không cần làm, thả trôi, đến ngày Chí Tôn cho thành thì bên nữ đắc vị
về thiêng liêng nhiều hơn, còn bên nam thì ít.
Ngộ nghĩnh thay, lúc thành đạo, tòa Đế Thiên trở thành đá hết, đến đỗi xung
quanh và người đang bào đục, nấu cơm, . . . nói rõ là cả thảy người nơi đó đều
thành đá, bia tạc lưu truyền thiên niên chi cổ cho đến ngày nay vẫn tồn tại,
danh tiếng khắp cả hoàn cầu, mặc dầu xác họ là đá, nhưng linh hồn họ đạt Phật vị
cả.
Đền Thánh Đạo Cao Đài hiện tại ở Việt Nam ngày nay là nơi Đức Chí Tôn ngự,
tượng trưng Bạch Ngọc Kinh tại thế, bây giờ nó là gạch ngói, xi măng, cát vôi,
cho đến buổi thành thì là một khối đá vĩnh cửu trường tồn cũng như tòa Đế Thiên
đó vậy, nó sẽ mỹ lệ hơn nữa.
Rồi đây, mấy em muốn đến xem phong cảnh tòa Đế Thiên, Bần đạo sẽ cho đến
xem thì sẽ thấy quyền năng thiêng liêng
vô đối. Vậy mấy em cứ lo làm, đừng tưởng làm đây rồi không có hưởng gì, nếu mấy
em đặt trọn đức tin nơi Chí Tôn thì sẽ hưởng hồng ân vô đối của Ngài ban cho
không gì bằng.
Khi làm Đền Thánh xong, Bần đạo còn chọn một chỗ cất Nhà Tịnh thì mấy em
cũng ráng làm nữa.
Ông Huỳnh Thiện Chơn :
- Bạch Đức Ngài, nếu cất Nhà Tịnh, mấy con cũng cứ lo làm công quả, làm sao
tịnh được và cấp bực nào mới xin vào tịnh ?
Đức Ngài nói :
- Bần đạo lập là chung cho cả nhơn loại, hạng nào cũng được, không phân biệt
Chức sắc hay tín đồ, hoặc các Chi phái xin trở về, cùng là các đạo giáo khác, nếu
muốn thì vào cũng được nhưng phải có Quyền Vạn linh công nhận (đó là phần Chi
phái và ngoại giáo).
- Bạch Đức Ngài, rồi đây người nào cũng xin vào tịnh, rồi ai lo phổ độ, ai
làm công quả, chỉ có mấy người không phận sự họ mới xin vào tịnh.
“ Đức Ngài day lại nói với Sĩ Tải Hiển, Luật Sự Trấn
ở bên cạnh đang ghi chép :
- Hiển với Trấn hay tò mò lục lạo, các nước ngoài người ta giỏi lắm, chế ra
nhiều thứ chữ viết tắt lẹ lắm, mỗi khi hội đàm cùng giảng thuyết, họ đều ghi
chú lại hết, còn mình đây dốt, chưa phát minh, có khi hội đàm cùng đi ra ngoài
đời, có nhiều cái hay mà mình không chép lại được để học hỏi. Mấy đứa bây ráng
chế làm sao, làm dấu như thế nào để ghi lại cái hay mà người ta nói giữa đông
người.”
Đức Ngài nói tiếp :
- Chơn, bộ em ham tịnh lắm sao ? Đâu có phải những người làm biếng mà vào tịnh
được. Trước khi vào tịnh thì phải có đủ Tam Lập là : Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn. Nơi cửa Đạo đặt ra việc chi đều là hữu ích cả, mượn Thể Pháp tượng trưng
mới đoạt Bí Pháp. Trước kia Bần đạo lập Phạm Môn xuất hiện tại Tòa Thánh tượng
trưng Cửa Phật độ sanh hồn, tức nhiên gọi Phật; Minh Thiện Đàn mở tại Khổ Hiền
Trang, Bần đạo khai Thể Pháp tại đó, gọi là Pháp, Phước Thiện ngày nay đã ra
thiệt hiện, tức nhiên ra mặt xã hội, gọi là Tăng, thì nó sẽ bành trướng vận
chuyển lưu hành cùng khắp xã hội nhơn quần, nghĩa là phải phụng sự cho toàn thể
chúng sanh, tế khổ phò nguy, đi Đầu Họ Đầu Quận làm hậu thuẫn cho Hội Thánh Cửu
Trùng Đài, lo cơ tận độ, chỉ có công phổ độ mới giải quả tiền khiên. Ai không
có xuất thân hành đạo, nghĩa là không có công phổ độ thì không vào tịnh được,
vì không đủ Tam Lập.
Trước khi xin vào, phải nạp tất cả giấy tờ hành đạo, lai lịch từ thuở nhỏ đến
trưởng thành, ở ngoài Đời không án tiết, trong cửa Đạo cũng vậy, trọn tùng luật
pháp Đạo và trường trai mới được, rồi giao cho Pháp Chánh minh tra về Thể Pháp
đủ bằng chứng.
Chi Pháp phải giữ hồ sơ của mỗi người, còn nhiều điều trọng yếu về vô vi,
không thế gì Chi Pháp biết đặng, chiếu văn kiện thì đầy đủ lắm vậy, Chi Pháp chỉ
biết văn bằng hiện hữu về mặt hữu hình mà thôi. Khi minh tra đủ lẽ, rồi mới
giao cho Hộ Pháp cân thần, nếu vị nào đủ
Tam Lập thì vào tịnh được, bằng thiếu thì trở lại đi Đầu Họ, Đầu Quận, đi hành
đạo nữa. Nói rõ là phải có Hộ Pháp trục thần khai khiếu mới biết đặng đủ hay
thiếu Tam Lập, còn không thì ngồi tịnh, bụng lớn vô ích.
Ông Bàng :
- Bạch thầy, như thế mấy con đây làm công quả, không đi Đầu Họ Đầu Quận làm
sao vô tịnh được, vì không đủ Tam Lập ?
Đức Ngài nói :
- Riêng về phần mấy em, cứ lo tạo Đền Thánh, rồi đây Bần đạo định cho, phần
thiêng liêng thì Chí Tôn đã hứa, còn về hữu hình, nếu muốn làm quan Đạo
thì Bần đạo ban cho phẩm Giáo Thiện, nam nữ cũng vậy.
Ông Trình bạch :
- Những hạng văn hay chữ giỏi tài đức, người ta mới giúp nhơn quần xã hội
đúng theo lời thầy dạy là phải giúp nhơn loại khắp cả hoàn cầu đặng Lập Đức, còn Lập Công, muốn đền ơn cha mẹ
và xã hội vì công sanh thành và xã hội nuôi hột cơm và manh quần tấm áo, nhờ đó
mà ta sống, tức nhiên đụng ai trả nấy, nghĩa là trả cho toàn thể nhơn quần xã hội
trên mặt địa cầu mới đúng thuyết Lập Công. Còn Lập Ngôn thì tìm hiểu chép Thánh
Ngôn lời lành lời phải để lại cho nhơn sanh học hỏi cái Đạo ngôn ngữ mà bắt chước,
mấy con dốt có thế nào làm được ?
Đức Ngài nói :
- Phương pháp Tam Lập, nói rõ là chỉ đem trọn mảnh thân nầy làm tế vật cho
Chí Tôn đặng phụng sự nhơn loại, nếu giải rõ thì rất nhiều chi tiết, để có dịp
Bần đạo sẽ thuyết minh hoặc viết sách in ra cho học hỏi.
Bây giờ mấy em làm công quả, nó cũng ở trong thuyết Tam Lập, lại nữa cái
công tạo tác Đền Thánh là đền thờ chung của toàn nhơn loại sùng kính, như thế
cũng đáng lắm rồi.
Mặc dầu không đủ Tam Lập, mà mình làm điều gì mà toàn thể nhơn loại hằng ca
tụng, nhắc nhở và ghi ân, lưu danh hậu thế, cũng là một việc khó làm, nó cũng
sánh với công phổ độ vậy.
Nếu xét lại, em nào còn thiếu Thiện Công, Thiện Ngôn, sau nầy phải xuất sư,
cũng làm thầy tạo nghiệp đạo, rồi ngoài kia hễ Chức sắc xuất dương ngoại quốc, các
em cũng xuất sư tạo nghiệp ở các nước, nên ráng lập công, học cho thông mọi việc
theo nghề nghiệp mình.
Bần đạo khuyên các em ở cùng nhau một sở, phải coi nhau như ruột thịt vậy,
trên thương dưới, dưới không nghịch trên, dùng ngôn ngữ từ hòa đối đãi với nhau
để đoạt đạo ngôn ngữ, nam nữ cũng vậy.
Thợ hồ :
- Bạch thầy, mấy con về đây làm công quả, đã hiến thân trọn đời vào Phước
Thiện, hằng ngày cực khổ, ăn cháo rau, áo quần tiền bạc thiếu kém mọi mặt mà
không Thiện Công, Thiện Ngôn. Bạch thầy, kiếp sanh làm người ở thế mong được
cái Đức là hạnh phúc mà có người làm chưa được, bây giờ thầy dạy phải Thiện Đức thì làm sao cho đặng ?
Đức Hộ Pháp nói :
- Bần đạo hỏi mấy em về làm công quả tự mình đi hay là có ai biểu ?
- Mấy con là người hiến thân Phước Thiện thì trọn quyền của Hội Thánh sai
khiến, khi nghe Châu Tri mộ công quả, mấy con mới vâng lịnh ông Đầu Họ biểu về
đây.
Đức Ngài nói:
- Đó là lập công lập vị hay là chuộc quả, đứng vào hàng “Giáo nhi hậu
thiện” là nghe lịnh mà theo. Nếu các em nào tâm đức minh mẫn, được “Bất
giáo nhi thiện” là thiện công thiện ngôn đó vậy. Hạng nầy gọi là phi thường, khỏi
vào Nhà Tịnh họ cũng đoạt pháp được là vì họ sẵn là nguyên nhân, họ hiểu biết
mà làm, họ tự tạo âm chất, thật hành điều nghĩa điều thiện, là Thể pháp, tức
nhiên có thể đoạt Bí pháp, có điều thiếu một việc, muốn đắc pháp phải có chơn
sư khai khiếu mới trọn vẹn được, đó mới gọi là “Thượng phẩm chi nhơn”;
còn mấy em đây là “Trung phẩm chi nhơn,
giáo nhi hậu thiện”, mấy em tạo thiện đức được là là biết nghe lời Hội Thánh.
Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì làm việc thường. Bần đạo
tỉ dụ một việc thường để mấy em dễ hiểu: Phận mình dốt thì làm theo dốt. Muốn tạo
thiện đức, thiện công, thiện ngôn là làm như vầy:
Mình nghe đâu có cất chùa thì mình tự tính đi đến xin làm công quả; nghe
đâu có ai bị tai nạn khốn khổ thì trong đêm ấy, nằm tính và thương xót, nghe chỗ
đó bị tai nạn, mình định sáng ngày rủ anh em hay tự mình đi, dầu sáng nầy tằm
chín hoặc có một mối lợi gì đó cũng bỏ, đi đến trợ giúp việc tai nạn, đó là thiện
đức, nghĩa là khi mình tính.
Khi đến nói như vầy: Thưa anh, tôi nghe anh bị tai nạn, tôi đến để xin phép
giúp anh một ngày, hoặc là vác một cái cây, hoặc là giúp một đồng bạc, vậy xin
anh vui lòng cho tôi giúp với một nghĩa mọn.
Khi mình nói là thiện ngôn, khi mình làm là thiện công. Chớ không phải ỷ có
của rồi nói sỗ sàng : đây tôi cho anh một đồng bạc mua gạo ăn đỡ đói. Như vậy
là chưa thiện ngôn.
Mấy em đừng có phân bì việc lập công với Đạo, bực Chức sắc mà không làm được,
còn mình là tín đồ thì làm gì !
Mấy em phải hiểu rằng cái tâm đức từ thiện ở cửa Đạo không phân biệt lớn
hay nhỏ, dầu nhỏ lớn đều làm được. Hễ ai có nguyên căn thì làm được.
Cam La sớm gặp cũng vinh,
Muộn thời Khương Tử cũng vinh một đời.
Mấy em đừng lầm tưởng rằng phải vào Tịnh Thất mới đoạt pháp đặng. Mấy em
làm công quả hằng ngày là tô điểm nuôi nấng Thể pháp. Khi mấy em đắc pháp mà mấy
em chưa biết đặng, cái Thể pháp ở trong trong thuyết Tam Lập mình tự đào tạo nó
hay là lo làm âm chất và làm điều thiện, tự giác nơi lòng mình, thì cái Chơn
pháp ấy vẫn từ từ sẽ có và tồn tại. Đó mới gọi là Chơn pháp, chớ chẳng chờ ai
ban cho mình Chơn pháp.
Nếu tâm thiện mình không có, dầu thọ pháp hay là tịnh luyện rồi nó cũng mất.
Bởi lẽ ấy mà Bần đạo truyền Thể pháp lẫn có Bí pháp cho Chức sắc giải oan, tắm
Thánh, hôn phối và phép xác. Chỉ có Giáo Sư Minh vừa khá rồi cũng bị lấy lại,
còn bao nhiêu từ từ phai lợt của Bần đạo đã ban cho mà tự mình làm mất, bởi lý
do không giữ tồn tại.
1 . là sự nóng giận khiến ngôn ngữ không lành.
2 . là sắc dục, dầu cho vợ chồng
cũng là sắc dục.
3 . là không trọn vẹn giữ trai giới
và không tinh khiết.
Trọng đại hơn hết là cái đạo ngôn ngữ ở trong cửa Đạo, từ tín đồ lập công
cho đến Chức sắc phải có ba ngàn (3000) công quả, đã nhiều năm dày công tu luyện
mới nhập vào Thánh thể của Đức Chí Tôn, nếu mà chưa trọn đạo ngôn ngữ, thốt ra
một lời nói bất lợi cho mình cho người thì nó cũng tan như giá.
Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang,
Nhứt ngôn khả dĩ tán bang.
Tỉ như lúc gặp đồng đạo của mình mà bị phạm tội với Đạo, với Hội Thánh, với
thầy với bạn, họ đã chịu khổ đau tâm hồn lắm vậy. Mình là người vô tội hoặc là
mang Thiên mạng vào mình, mà còn tánh đức phàm tục, cứ khinh rẻ chê bai, trích
điểm, làm cho bạn mình đau khổ thêm. Lẽ đạo thương người không hết, có lý đâu
buông lời nhạo báng, vô tình mà mình mất cả chơn pháp mà gánh lấy tội của họ đã
làm mà may duyên cho họ được trao lại cho mình.
Chớ chi Hội Thánh thay hình thể Đức Chí Tôn, dùng luật hữu hình trị tội thì
Thiên điều khỏi tội.
Còn mình không phải là thay hình thể Đức Chí Tôn, cũng là bạn đồng sanh, mà
mình chưa chắc gì trong sạch hơn kẻ đang có tội, mà mình lại lãnh thêm nữa.
Cái huyền vi mầu nhiệm của Bí pháp rất hệ trọng lắm vậy.
Học đạo ngôn ngữ của Thánh hiền phải cẩn ngôn cẩn hạnh, trước khi nói phải
suy nghĩ điều nào phải, điều nào lợi rồi sẽ nói. Một là chơn chánh, hai là dễ
thương, ba là hữu ích.
Nhược bằng không được ba điều trên thì nên giới khẩu, làm thinh là tốt hơn
nói.
THUYẾT ĐẠO của Đức Hộ Pháp
trong lễ Khánh Thành Thánh Thất Kim Biên
Thưa cùng chư Viên quan quí chức, quí Ông quí Bà, chư Chức sắc Thiên phong
nam nữ, chư Đạo hữu lưỡng phái.
Chiếu theo ý nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối
với Đức Chí Linh cùng càn khôn vũ trụ.
Loài người bao giờ cũng chủ tâm tìm tòi. Kiếm cái nguyên do lai lịch của
mình, hầu định phận đối cùng Tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột
cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế, gọi là chúng sanh, đặng so
sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng
cái năng tri năng giác của chúng sanh mới tìm đặng cái tâm linh của mình là
báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết Thiên lương do Chí thiện. Khi hiểu cái
Thiên lương ấy là mầu nhiệm huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết
lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO.
Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM làm mục đích.
Các Thánh nhơn xưa thường đem cái triết lý ĐẠO TÂM hiệp làm môi giới, nên dầu cho các vị Giáo Chủ,
tuy mỗi Đấng đều có cái tư tưởng đặc sắc nên triết lý cao thấp không chừng,
nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn
cội.
Ôi ! Nếu luận đến hai chữ CHỦ TÂM
thì ta cũng thấy rõ ràng : một vấn đề thuyết không cùng, biện không tận, vì nó
quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do nơi Đức Chí Linh là Trời mà sản xuất.
Hễ càn khôn vũ trụ nầy vĩ đại bao nhiêu và cơ bí mật Tạo đoan bao nhiêu thì
nhơn tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức đặng hay là còn ẩn vi mầu
nhiệm mà lương tâm của con người đã hưởng ứng, đều cho mọi trí não mọi tinh thần
tự hiểu rằng : sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng vô tận, muôn phần loài người chưa định
đặng một, vì vậy các nhà triết học đạo đức
tinh thần cho
Nhơn tâm tức Thiện tâm cũng đáng.
TÂM ấy là gì ?
Ấy cũng là một định từ để chỉ cái hình bóng của trí thức tinh thần. Đạo gọi
là Nhứt điểm linh quang chiếu giám.
1 . Đức Chúa Jésus khi thọ pháp giải
oan nơi sông Jourdain thì điểm linh quang ấy đến với một cái hình ảnh phi cầm
là con bồ câu hào quang sáng lạng.
2 . Đức Phật Thích Ca khi trì định
tại vườn Bồ Đề thì điểm linh quang ấy giáng như hình khối lửa.
3 . Đức Lão Tử khi thiền định tại
Thư viện nhà Châu thì điểm linh quang ấy giáng như hình sấm sét.
4 . Đức Khổng Phu Tử khi vấn đáp với
thần đồng Hạng Thác, thì điểm linh quang ấy giáng như hình sợ sệt.
Chẳng cần luận cao xa hơn nữa, như Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời
trong đạo hào quang sáng sáng suốt; như Đức Lão Tử, Nguơn Thỉ Thiên Tôn và
Thông Thiên Giáo chủ thấy Hồng Quân Lão
Tổ trong năm sắc tường vân, như Phục Hy thấy Long mã hóa Hà đồ. vv . . .
Nhứt điểm linh quang ấy vẫn nhiều hình dáng, vẽ không nên hình, tả không
nên tướng.
Ấy là một huyền bí vô chừng mà các nhà đạo đức từ thượng cổ đến chừ đã để
tâm nghiên cứu tìm tàng, đôi phen phải lặn suối trèo non, chun trong hang sâu,
vào nơi vực thẳm.
Bởi cái chí hướng của loài người bị quyền năng của Nhứt điểm linh quang
thôi thúc, nên trí não tinh thần cũng xu hướng theo sự bí mật ẩn vi của quyền
năng Tạo đoan còn chất chứa.
Hễ có tìm thì có biết, hễ biết lại còn phải biết nữa, càng biết lại càng giấu,
bởi sự hay biết của tánh đức loài người chưa hề thấu đáo đặng sự bí mật Tạo
đoan cho cùng tận, tức gọi là “Tầm Đạo”.
Hễ càng tìm càng dốt, hễ gọi biết lại là ngu, vì chưa có một mắt phàm nhơn nào
tại thế nầy mà Đức Chí Tôn đã giao trọn huyền vi bí mật. (De pauvres esprits prétentent qu’ ils sont dans le
secret de Dieu. Or, je ne donne à nul humain ici-bas d’ en faire la
révélation).
Ấy vậy, chữ ĐẠO vẫn để nói
mà hình vật của Đạo vốn khó tìm. Đạo do trí thức tinh thần mà xuất hiện, chưa có một vật chi hữu
linh tại thế nầy mà không có Đạo. Cái vĩ đại của Đạo thật là khó rõ, mà Đạo lại
dễ lợi dụng.
Dưới mặt luật tương đối của đời đã biến hình, biết bao tư tưởng phô bày, biết
bao tướng diện ảnh hình.
Tranh nhau từ cái khôn cái khéo, hơn nhau từ cái xảo cái ngoan, sánh nhau từ
cái cao cái sâu, giành nhau từ cái sang cái trọng, để một trường luận biện
chánh chánh tà tà, cho biết cái quyền năng của Đạo nó tạo cái hay sự dở.
Chưa ai lấy một triết lý dầu cao siêu thế nào đặng làm môi giới chuẩn thằng
hầu định đức tánh của loài người cho cùng tận thì không có một giáo lý nào dưới
mặt địa cầu nầy đã đáng danh là Đạo.
Chúng ta không dám chối, các tôn giáo không phải là Đạo, mà chúng ta quyết
hẳn rằng, các nền tôn giáo chưa đáng danh gọi Đạo. Nếu biết cái triết lý do
tinh thần sản xuất thì là Đạo đã đành, nhưng nó chỉ là một tư tưởng trong vô
cùng vô tận của trí thức tinh thần mà thôi, song chúng ta phải biết bao nhiêu
tư tưởng khác nữa. Cái nguồn ấy chưa khô
chưa cạn và chúng ta lại quả quyết rằng, hễ còn loài người thì có tư tưởng, cả
tư tưởng ấy cho đến tận thế cũng vẫn còn.
Ấy vậy, loài người đương bôn xu trên con đường Đạo chớ chưa hề tới tận nguồn
cội của Đạo bao giờ.
Các tôn giáo tuy đáng danh Đạo chớ chưa phải Đạo. Tỉ như cát kia ở nơi một
gò, một bãi biển, một sa mạc thì nhỏ lớn đều đặc biệt cùng nhau. Thay vì chỉ
tên một gò, một bãi hay một sa mạc, lại gọi tiếng cát trơn, thì chúng ta chẳng
hề chối đặng, bởi dầu một bãi, một sa mạc hay một gò, nó đều có danh là cát.
Vậy thì dầu cho tả đạo bàng môn hay là chơn tông chánh giáo, cũng đặng phép
tạm xưng là Đạo, những điều khinh trọng, duy để nơi cân công bình của toàn
Thiên lương trí thức tinh thần định đoạt.
Ta không dám xử, nhưng tự nhiên mỗi cá nhân để trí thức mà định phận.
Ta không đủ thông suốt đặng dung nạp các giáo lý của các nền Đạo đương thời
mà linh tâm cho ta hiểu rằng, nó chưa vui hưởng đặng cái hay của
mùi Đạo.
Từ cổ chí kim, con người đã mua cái danh Đạo rất nên mắc mỏ. Cái linh tâm của
chúng ta vốn là tự do mà các tôn giáo đã buộc ràng nó trong một hành vi chật hẹp
đặng bảo thủ cái Thiên lương thì tức nhiên nó đem một cái báu vô giá đặng đổi
chuộc một vật thường tình, e cho thế gian thất Đạo cũng do theo lẽ ấy.
Cái khí hứng của Linh tâm bao giờ cũng chú trọng theo cái hoạt động tự do,
lấy Thiên mạng làm căn bản, thì Thiên lương là tớ, Linh tâm là thầy. Các tôn
giáo buộc thầy tùng tớ, thì rõ ràng là trái lý. Bởi cớ cho nên Linh tâm phản động
mới nảy ra Tả đạo bàng môn, làm cho các mối chơn truyền thành ra bất năng vô
ích.
Hỏi Linh tâm do đâu mà sản xuất ?
Có phải do nơi Tạo Hóa Chí Linh đã ban cho loài người đặng có đủ quyền năng
làm chúa cả toàn vạn vật hay chăng ? Nó là Nhứt điểm linh do nơi Đức Chí Linh
mà có, thì nó là con của Trời, tức nó là Trời.
Còn Thiên lương do nơi đâu mà có ?
Thiên lương do nơi sự đối phó cùng vạn vật hữu hình lập phương chước bảo tồn
sanh hoạt. Không có Thiên lương thì chưa biết nhìn nhau là bạn trong trường khổ
não đau thương hầu bảo thủ mạng sống lẫn nhau đặng dìu dắt nhau đi tận con đường
giải thoát.
Có Linh tâm mới biết mình là một vật trong vạn vật của Chí Tôn đào tạo, rồi
nhìn Chí Tôn trong hình vạn vật mà tự hiểu rằng, Chí Tôn phải có tự nhiên tánh
đức Bác ái Từ bi, mới nuôi nấng trọn chúng sanh vạn vật.
Tâm lành của Trời tức là tâm lành của người. Hình ảnh vĩ đại trước kia nó
biến ra hình ảnh tối thiểu sau nầy, nên gọi nó là Thiên lương.
Vì vậy, các giáo lý của mấy vị chưởng giáo từ trước đều là cơ quan un đúc bảo
trọng Thiên lương mà thôi. Hễ có Linh tâm tức nhiên có Thiên lương, dầu không cần
kiếm, tự nhiên nó cũng có. Chúng ta chưa hề dám nói các tôn giáo là vô ích mà
ta chỉ than rằng : Chưa đủ.
Dạy đời cho lành mà không dạy đời cho ngoan thì chẳng khác nào dạy cho biết
cái sống mà quên cho hiểu cái chết, hay là dạy cho đọc sách mà không cho học chữ.
Chớ chi, các tôn giáo biết chú trọng Linh tâm hơn là cần lo gầy dựng un đúc
Thiên lương thì con đường Chí thiện của chúng sanh sẽ đặng quang minh quảng đại
hơn nhiều, mà cái Đạo của Đời sẽ tùy theo Linh tâm trở nên hiền lương nhơn hậu
hơn. May ra khối khổ não của Đời chưa đến nỗi to lớn nguy hiểm như thế nầy.
Chúng ta thoạt nhiên quan sát tận tường, bởi các bằng cớ tạo đời do nơi tư
tưởng của các tôn giáo hiển nhiên tại thế nên đoán chắc rằng, nếu giáo lý nào
mà rộng mở cho sự tự do hoạt động của điểm Linh tâm thì điểm Linh tâm tùy theo
sự nhỏ lớn của sự ân hậu khoan hồng ấy mà hưởng ứng, do đó, các tôn giáo mạnh yếu
khác nhau cũng vì lẽ ấy.
Hiện thời, đạo Thiên Chúa đã đặng thế lực mạnh mẽ, đáng danh là một tôn
giáo toàn cầu, kể tổng số hơn các tôn giáo khác. Ngoài ra phương chước làm cho
thành tướng các triết lý chơn ngôn, những tay cầm giềng mối đạo đã rộng mở cho
đời đôi chút tự do tư tưởng, đạo Thiên Chúa nhờ nương cái đức tín của một Đấng
Chí Tôn nên thế lực vững vàng kiên cố.
Các quốc dân châu Âu đã đặng khôn ngoan hơn, đặng tài tình hơn, đặng cao trọng
hơn, tưởng cũng do may hưởng các đặc ân của Đấng Chí Tôn cho rộng thế hoạt động
thành hình của tự do tư tưởng.
Trái lại, chúng ta lại buồn thay cả khu địa giới cõi Á châu nầy chịu dưới
quyền cảm hóa của Phật giáo từ cổ đến kim, nên dân sanh phải chịu lỡ bước văn
minh tấn bộ.
Kiếm duyên cớ, chúng ta đã thấy hẳn rằng : Triết lý mà Phật đã bó buộc tư
tưởng của con người vào một khuôn khổ hành vi chật hẹp nên mới ra đến đỗi. Một
tôn giáo đã khuyên nhủ, đã dụ dỗ, đã yêu cầu cho điểm Linh tâm tự diệt, rồi lại
để cho Thiên lương vi chủ, thì là một nền tôn giáo biểu chủ phải tự tử để cho tớ
cầm quyền thì bảo sao không chịu cái nạn tán gia bại sản. Thảm thay ! Nếu phải
vong phế vì quốc sự bạc nhược ấy, các sắc dân nơi cõi Á châu nầy phải tìm tòi đặng
học vấn với một thầy nào, tức nhiên phải đến gõ cửa Khổng gia hay tìm nhà Lão
giáo.
Ông Khổng thì biểu ôm một kho sách cho dẫy đầy, đủ phương chước mưu mô đặng
trị an thiên hạ, đặt đủ truyện đủ tuồng, đủ vai đủ vở, nhưng rủi thay đời chưa
kiếm đặng một mặt kép hay đặng làm tuồng theo đúng vở, thành thử không khác nào
một ông thầy tuồng đặt bài vở thiệt hay nhưng không có kép tài đặng hát.
Ấy là một tôn giáo rộng lý thuyết mà hẹp thật hành, bởi thúc phược tự do tư
tưởng.
Nho giáo như cái chậu, cái khôn ngoan của đời tức là Linh tâm như cây kiểng,
cây kiểng ở trong chậu chẳng hề đặng to lớn bao giờ, duy để cho đời đặng ngoạn
mục xem ngắm cái hay của sự u nần
cùi cụt.
Ông Lão thì chỉ khuyên nhủ dân sanh nuôi nấng cái điểm Linh tâm cho cường
cho thạnh, nhưng không cho nó hoạt động biến hình, thành thử dạy đời về khôn
khéo mà ghét đời về ăn ở thì chẳng khác nào như một ông thầy thuốc đã triï bịnh
cho người, biểu đừng ăn cứ ngủ.
Tưởng ra thì một giáo lý dạy chúng sanh nằm ngủ đặng đợi hết đói thì dầu
cho các môn đệ của người bảo thủ vẹn vẻ lấy điểm Linh tâm, thì điểm Linh tâm ấy
cũng hóa bất năng vô ích.
Cái triết lý của đạo Lão là một triết lý rộng mở cho điểm Linh tâm, mà trở
lại một tôn giáo thúc phược lương tâm hơn hết.
Đường Đạo vốn mênh mông, tâm đức đi ngõ nào cho đúng nẻo ? Tâm đức vốn vô ngằn, phải đạo lý nào cho phù
hạp ?
Hai câu vấn đáp mật thiết tương thân nầy, nếu mấy vị Giáo chủ còn đương thời
hỏi đến cũng phải nhăn mày nhíu mặt.
Chúng ta cũng nên riêng tưởng rằng : chưa có một cái quyền năng nào mà thúc
phược đặng điểm Linh tâm, hầu bỏ nó vào một khuôn khổ hữu hình hữu dạng, thì tức
nhiên chưa có một nền tôn giáo nào đủ tài đức quyền hành đặng làm chủ đức tin
thiên hạ.
Đời phải học với cha mẹ, cha mẹ chưa đủ đức mà dạy cho nên danh, đời phải học
với thầy, thầy chưa đủ đức mà dạy cho nên phận, đời phải học với vua, vua chưa
đủ đức mà dạy cho nên Đạo, duy phải tìm Trời là Đấng đủ quyền năng tạo thế, lại
là Cha của đức tánh loài người, thì mới đủ phương pháp dạy người cho nên người
vẹn vẻ.
Đạo Cao Đài vốn là cơ quan để nắm tay của đời đặng dắt vào trường học của Trời mà chớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét