La Foi en la Justice,
c’est-à-dire dans un équilibre supérieur n’est donc pas vaine, et elle est génératrice
du bien; car quel besoin aurait-on de faire le bien, dans tout ce qu'il a
parfois de peu attrayant, si on ne devait pas en être récompensé ?
L’homme d’ailleurs ne peut
vivre sans faire tous les jours des actes de Foi; il ne s’agit pas ici de la
Foi religieuse, mais de la Foi tout court.
Les plus incrédules ne
font-ils pas quotidienne- ment des actes de Foi, ne fuât-ce qu’ en
lisant leur journal ?
chi hay hơn là một luận thuyết kín
đáo, chỉ xin luận thuyết ấy đừng đè nén các luận thuyết khác ?
Lẽ chí lý có phải chăng trong một hoàn võ mà ta có dịp thấy chán chường những
kẻ tiểu nhơn sống với một phần sang trọng vinh hiển, còn người quân tử thì chịu
khổ não truân chuyên, mà tưởng rằng sẽ có sự công bình thường bồi lại cho kiếp
khác hoặc là có kẻ phải chịu quả báo của nợ tiền khiên ?
Về mặt nạp dụng công lý chúng ta, là do nơi sự công bình ấy mà sản xuất, với
nhờ tư tưởng đó mà đảm bảo. Nếu chẳng có sự công bình và tâm lý ấy trong toàn
thể mọi người mà chúng ta lại gọi Công lý thì Công lý chẳng hề ra hiện hữu. Điều đó chẳng phải người tu thấy xung quanh
mình trong kiếp sống mà nó nhủ cho ta để ý lạc hứng hầu tin rằng nó quả có thật.
Cái Đức tin nơi Công lý, nghĩa là tin nơi sự công bình cao thâm chẳng phải
là vô lối và nó làm cho sanh sản thêm điều tận thiện, vì thoảng như chẳng vậy
thì chúng ta cần chi phải làm lành mà sự lành ấy đòi phen chẳng làm cho chúng
ta hoan tâm, nếu không đặng hưởng một phần thưởng chi tất cả.
Con người chẳng hề sống trong một ngày mà không làm việc với Đức tin. Nơi
đây chẳng phải nói về Đức tin đạo đức mà nói về Đức tin trơn thôi.
Những người vô tín ngưỡng, mỗi ngày họ có làm theo Đức tin của họ chăng, chỉ
nói họ đọc báo chương là đủ ?
Thầm hiểu rằng : một cái tánh đức sáng suốt chừng nào thì ít cần làm theo Đức
tin chừng nấy; mà một người chẳng đủ toàn tri toàn năng, theo những nơi khuyết
điểm của họ thì họ cũng còn phải buộc mình làm theo Đức tin của những người lịch
lãm hơn họ.
L’ignorant, au contraire, fait des actes de Foi toute la journée et pendant
toute sa vie.
Pourquoi, dans ces conditions, dénier la Foi religieuse et les mystères de
l’Au-delà alors la plupart de ceux qui les condamnent ne les ont pas étudiés à
fond, et que ceux qui s’adonnent à ces études ne s’y livrent souvent
qu’accessoirement et ne possèdent à leur sujet qu’une documentation restreinte
sur les travaux qui ont été faits avant eux.
Sans vouloir nous étendre davantage,
nous dirons seulement que la Religion et la Foi dans l’Au-delà sont une
nécessité pour le peuple; et que, plus un peuple est malheureux ou misérable,
plus il a besoin d’espérer qu’une compensation lui est réservée pour plus tard
et plus il a besoin de la conviction que cette compensation n’est pas un vain
mot.
Le désespoir individuel mène au suicide; et le désespoir collectif à la
révolution.
Le fait d’entretenir chez ceux qui souffrent cette consolation que leurs
maux auront une fin, est donc une oeuvre de première necessité; et il
appartient à ceux qui sont plus éclairés et qui croient sincèrement à cette
compensation, d’entretenir dans le coeur de ceux qui souffrent cet espoir qui
adoucit leurs maux. C’est le rôle auquel nous nous consacrons.
Or, vous admettrez avec nous que, si chez un peuple libre, cette espérance
est déjà fort utile; chez un peuple colonisé, elle devient indispensable.
Hạng dốt nát, trái lại, làm theo Đức tin cả ngày và suốt cả đời.
Bởi những duyên cớ trên đây, sao lại chối Đức tin đạo đức và huyền vi bí ẩn
nơi cõi Hư Vô, trong cơn phần đông nhiều kẻ đã chê bỏ nó mà chẳng chịu tìm hiểu
cho tận cùng; còn những người chuyên môn học thuyết ấy thì chỉ làm cho lấy có
và đặng nơi tay rất ít oi triệu chứng về công trình của người trước đã làm.
Chẳng cần bày bố cho dong dài, chúng tôi xin nói quyết : Đạo và Đức tin nơi
cõi Hư Vô là một vật cần yếu cho dân sanh đó vậy. Hễ dân tộc nào càng khổ não
hay là khốn đốn, thì họ lại càng cần phải trông cậy sự bù đắp dành để cho họ buổi
sau kia và phải cần tin chắc rằng : sự
bù đắp ấy chẳng phải là lời nói mộng.
Sự thất vọng của cá nhơn giục phải tự tử và sự thất vọng của toàn thể giục
làm cách mạng.
Cái sở hành làm cho trong tâm của mỗi người đang chịu đau đớn đặng bền giữ
sự an ủi nầy là điều khổ não của họ có chỗ kỳ cùng, ấy là một cơ quan trọng yếu
nhứt; và thuộc phận sự của những người sáng kiến là tin thật rằng có sự bù đắp ấy
đặng bền để cái hy vọng nơi tâm những kẻ đau thảm hầu làm cho nhẹ bớt sự khổ
não của họ, ấy là cái vai tuồng của chúng tôi
đã định thi thố.
Vậy thì Thượng quan cũng phải chịu với chúng tôi rằng : đối với một dân tộc
tự trị, cái hy vọng ấy rất nên hữu dụng, đối với một dân tộc bị chinh phục, nó
lại thêm yếu trọng.
Étudions maintenat, si vous le voulez le rôle des religions dans la
conquête de l’Indochine par la France.
L’histoire de la conquête et de la colonisation de ce pays a été écrite par
de nombreux historiens, plus autorisés que nous, qui avaient à leur disposition
des documents que nous n’avons pas, nous ne nous risquerons pas à en reproduire
ici une mauvaise imitation.
Mais puisque c’est le côté moral seul auquel nous nous attacherons, nous
allons tenter de mettre en lumière les raisons profondes qui ont guidé les deux
peuples dans une transformation de leurs rapports entr’eux jusqu’au point où
nous en sommes arrivés aujourd’hui.
Nous n’étonnerions personne si nous disons que nous voyons dans cette
histoire le contact de deux civilisations; pourquoi étonnerions-nous davantage
en ne prenant de ces deux civilisations que l’essence même qui les a créées;
c’est-à-dire en vous montrant qu’elles ne sont que le reflet de deux religions.
Les rapports de la France et de l’Annam s’ils sont en effet une lutte de
deux civilisations en général, sont bien plus encore celle de deux religions
qui se sont affrontées.
Ces deux religions sont : d’une par le Confucia- nisme, d’autre part le
Christianisme.
La première : Religion aux principes de tolé- rance tellement large que sa
morale s’en était
Nếu Thượng
quan vừa lòng, chúng ta nên nghiên cứu ngay vai tuồng các tôn giáo trong lúc nước
Pháp sang qua chinh phục cõi Đông dương.
Lịch sử nói về sự chinh phục và thâu thủ xứ nầy làm thuộc địa do bởi nhiều
sử gia đã viết trước, có đủ phương thế và đủ tài liệu sẵn để cho họ nghiên cứu,
mà chúng tôi không có, nên dám mạo hiểm
đem chường ra nơi đây một sự học đòi thô kệch.
Nhưng chỉ về mặt tinh thần mà chúng
tôi chú trọng thôi, nên thử đem ra ánh sáng những lý lẽ thâm thúy nó đã dắt hai
dân tộc đến sự biến hóa cùng nhau mà ngày nay đã đến đỗi nầy.
Chúng tôi tưởng không làm cho một ai
lấy làm lạ nếu nói rằng: chúng tôi thấy trong đoạn lịch sử nầy, sự tương hội của
hai văn hóa; sao lại chúng tôi cũng làm cho thiên hạ lấy làm lạ hơn nữa là chỉ
lấy cái tinh túy của hai văn hóa nầy đã sản xuất, nghĩa là chỉ cho Ngài rõ rằng:
chúng nó thật là hình bóng của hai nền tôn giáo.
Sự tương hiệp của nước Pháp và nước Việt Nam, nếu chẳng phải đều do hẳn nơi
sự tương tranh của hai nền văn hóa thì thật ra là do sự xung đột của hai nền
tôn giáo.
Hai nền tôn giáo ấy : một đàng là Khổng giáo, một đàng là Thiên Chúa giáo.
Khổng giáo là một nền tôn giáo ở lý thuyết khoan hồng quảng đại đến đỗi
tinh thần đạo đức của nó.
elle-même relâchée et
qu’elle n’était plus une sauve- garde suffisante pour ceux qui la
pratiquaient; laissant se perpétrer sans
protester les pratiques mandarinales les plus condamnables, et n’offrant
plus une protection assez suâre à ceux qui en subissaient les funestes effets.
Elle aboutissait à une sorte
de farniente épicurienne, que rien ne venait réveiller en vue d’une activité
dirigée vers le bien.
La seconde, au contraire,
religion antinomique de
la première, ardente, active,
passionnée, jalouse, exclusive souvent même tracassière, n’admettant nulle
perfection ailleurs que sous son étiquette, nulle Vérité ailleurs qu’en ses
doctrines, exigeant l’apostasie préalable à tous ceux qui désiraient s’y
convertir.
N’était-ce pas par ses
caractéristiques une vraie religion de
conquérant ?
Cette dernière allait entrer en lutte avec
son aỵnée qui était appuyée d’un
long atavisme, et qui allait, elle aussi, tenter de lui disputer ses préroga-
tives et son droit d’ aỵnesse.
La lutte commençait.
On peut diviser cette lutte
en trois périodes :
a) La période antérieure et
contemporaine de la conquête.
b) La période de pacification.
c) La période de collaboration.
phải chịu từ bỏ nó, và những
người tùng
giáo thiếu phương che chở; rồi lại để cho duy trì, không phản đối những hành động tội tình của trường quan lại và chẳng còn cho những người đã chịu
cái ảnh hưởng
nguy nan của nó còn phương tự bảo lấy mình chắc chắn.
Nó đã đáo đến một cảnh nhàn lạc, vui hứng của
Épicur mà không có một cớ chi làm cho nó tỉnh mộng hầu day hành động qua mặt tận
thiện.
Thiên Chúa giáo trái lại, là
một nền tôn giáo ngược danh với cái trước, sốt sắng hăng hái, mê mẫn, ganh gổ, độc quyền, đòi phen gây gổ, không chịu nhận nhìn cái hay của kẻ
khác ngoài cái biệt hiệu của nó, không có điều chi gọi là chơn lý ngoài cái tôn chỉ của nó, lại buộc ai muốn tùng giáo
phải hành đạo mới đặng.
Do những cử chỉ ấy, quả
chăng là một tôn giáo chinh phục ?
Đàng nầy, liền khởi xung đột
với đàng anh là Khổng giáo, đã dựa nương một cổ sử, lại cũng toan phương tranh đoạt danh thể
và quyền lực của đàng anh.
Sự xung đột phát khởi.
Người ta có thể chia sự xung đột nầy
ra 3 thời kỳ :
1 .
Thời kỳ trước và ngay buổi hỗn độn thâu phục.
2 .
Thời kỳ trị bình.
3. Thời kỳ hiệp tác.
PREMIÈRE STADE
Nous avons indiqué que le
peuple d’Annam soumis à un Confucianisme trop tolérant et dont la morale était
insuffisante à contenir les appétits de ses mandarins, ne trouvait plus de
protection dans la religion de ces ancêtres. Il manquait au Confucianisme cette
autorité qu’avait su imposer la Religion Chré- tienne, à l’époque de la
Monarchie absolue, lorsqu’elle faisait se courber les têtes couronnées sous
l’excommu- nication ou sous la simple
menace d’excommunication, et ce, souvent pour le plus grand bien du peuple
français.
Jamais le Confucianisme
n’avait eu de ces réactions audacieuses; il n’a jamais fait autre chose que
d’appeler les hommes vers le bien par ses exhor- tations, sans menacer ni
rejeter de son sein ceux qui ne se conformaient pas à ses doctrines.
Le résultat fut qu’un nombre
important de malheureux, lassés d’une religion ancestrale qui ne les protégeait
pas contre les abus de ses mandarins, écou- tèrent l’appel des missionnaires
catholiques qui ensei- gnaient une autre morale également très belle; celle de
Christ; et ils allèrent à elle avec d’autant plus de facilité qu’elle était
plus agissante.
Les hauts représentants de
cette nouvelle religion, - en se présentant au nom du Gouvernement français, -
avaient d’ailleurs leurs entrées jusqu’à la Cour de Huế, par laquelle cette
religion était autorisée et des avantages considérables avaient même été
accordés à leurs missionnaires.
KHOẢN THỨ NHỨT
Chúng tôi đã chỉ rõ rằng:
dân tộc Việt Nam đang theo Khổng giáo rất quảng đại, nên tinh thần của nó không
đủ phương kềm thúc những điều tham tàn của trường quan lại, thành thử không tìm đặng sự bảo bọc trong tôn giáo của tổ phụ họ. Khổng
giáo thiếu quyền năng của Thiên Chúa giáo đã hữu định, trong buổi vương quyền độc
chiếm, khi nó đã làm cho các vua chúa phải cúi đầu dưới quyền trục xuất hay là
hăm trục xuất ra khỏi Đạo, và lại đã làm
cho dân tộc Pháp nhờ nhỏi biết
bao.
Chẳng hề buổi nào Khổng giáo
dám phản động mạnh bạo như thế, nó chẳng
làm chi khác hơn là kêu gọi nhơn sanh vào đường chí thiện, bởi cách khuyên nhủ, không hăm
dọa sa thải khỏi cửa Khổng những kẻ không trọn tùng tôn chỉ.
Kết cuộc, một số khá đông người bất phước chán ngán với tôn giáo của tổ phụ,
bởi nó không thể bênh vực họ trong điều quá quyền của quan lại, rồi nghe những
thầy truyền giáo của đạo Thiên Chúa dạy một giáo lý cũng vẫn tốt đẹp là Đạo của
Christ, nên họ liền theo giáo lý ấy một phương cách dễ dàng vì bởi nó cần mẫn họ
hơn.
Những vị thay mặt cao trọng của giáo lý mới mẻ nầy, nhơn danh của Chánh phủ
Pháp, đến tận triều Nam và nhờ đấy mà Đạo đặng rộng phép và các thầy truyền giáo
đặng ân tứ nhiều sở lợi vĩ đại.
Des Chrétientés avaient été ouvertes en maints endroits et ces domaines
s’étaient transformés un peu en terre d’asile aussi, bientôt les néophytes
vinrent-ils dans ces lieux pour se mettre à l’abri de leurs madarins prévaricateurs.
Malheureusement, ce refuge qui servait de lieu de réconfort à l’Annamite
pourchassé par la rapacité de ses mandarins, servait également de refuge à ceux
qui cherchaient à se soustraire purement et simple- ment à des châtiments
mérités; et la conscience publi- que annamite commença à s’émouvoir de ce que
les Chrétientés permettaient parfois à des criminels avérés, d’échapper à la
justice mandarinale qui les recherchait.
Des réactions sanglantes se produisirent contre les néophytes et leurs
pasteurs : le sang coula. Il y eut des martyrs de la Foi Chrétienne et la
France qui, à ce moment, était la fille aỵnée et reconnue de l’Église, entendit
venger le sang de ses missionnaires; elle en profita pour faire la conquête
d’une grosse partie de la Cochinchine et pour imposer son Protectorat à
l’Annam.
C’était, en réalité, la guerre du Christianisme contre le vieux
Confucianisme dénommé avec mépris “Paganisme”.
Dans sa conquête, la France fut
aidée en partie par les indigènes des Chrétientés.
Nhiều nhà chung đặng khai mở mọi nơi và những cơ nghiệp ấy biến thành Thánh
địa, bởi cớ, liền đó, nhiều kẻ tùng giáo đến trú ngụ đặng tránh sự tham tàn của
quan lại.
Hại thay, nơi làm chỗ đình trú cho những người Việt Nam bị quan lại tham
tàn áp bức, lại cũng dùng làm nơi trú ngụ ho những kẻ trốn tránh tội tình đáng
trừng trị, nên dân tâm người Việt Nam khởi ra sôi nổi rằng : các nhà chung che
chở những chánh phạm thoát vòng công lý của các quan viên tập nả.
Nhiều phản động dữ dội khởi dấy lên
đối với các tín đồ và các vị giáo sĩ : lưu huyết. Đã có tử đạo vì đức tin Thiên
Chúa giáo và nước Pháp buổi ấy, vốn là trưởng nữ nhìn nhận của Đền Thánh, nhứt
định báo thù sự lưu huyết của các vị truyền giáo, nên thừa cơ hội ấy, chinh
thâu một phần đất khá lớn nơi Lục Tỉnh và buộc nước Việt Nam tùng quyền bảo hộ.
Thật ra là trận giặc của Thiên Chúa
giáo chiến đấu với Khổng giáo, gọi nhục
danh là : Bụt Thần.
Trong buổi chinh phục, nước Pháp nhờ thổ nhơn của nhà chung vùa giúp.
Mais si l’on veut y réfléchir : dans une période où la France et l’Annam
étaient en guerre, les Annamites qui servaient ainsi la France étaient des gens
qui n’hésitaient pas, pour leur intérêt personnel, à trahir célibérement leur
Souverain en passant au service de l’ennemi.
Ils ne pouvaient tout de même pas être d’une moralité supérieure à la
moyenne de ceux qui dont ce rôle ne choque pas la conscience.
Ce serait d’ailleurs une erreur de croire que le sentiment nationnal
n’existait pas chez le peuple annamite, tout le dément, et celui-ci, jusqu’à
ces derniers temps, se plaisait à la représentation de scènes reproduisant les
anecdotes des temps hérọques.
Tel fut le bilan de la première période qui opposa au vieux Confucianisme
fatigué, un Christia- nisme actif, mais
représenté par un élément annamite qui n’était pas de premier choix.
DEUXIÈME STADE : La pacification.
La France fut victorieuse, et de ce fait, l’autorité des Chrétientés
augmenta de jour en jour, pendant que l’élément Confucianiste rétrogradait.
Les vieilles coutumes d’Annam ne s’étaient malheureusement pas modifiées,
et les mandarins n’avaient pas changé leurs méthodes, néanmoins l’énorme
majorité du peuple annamite restait cepen- dant attachée malgré tout à ses
traditions.
Mà nếu ai để ý suy nghĩ : trong buổi Pháp - Nam chiến đấu, những người Việt
Nam ra giúp Pháp đều là hạng người vì tư lợi, không còn ngần ngại gì mà không
phản Chúa của họ đặng theo kẻ nghịch.
Vậy thì, họ cũng không phải đặng một tâm đức cao thượng hơn những kẻ cho
vai tuồng ấy là trái nghịch với lương tâm.
Nếu tưởng rằng quốc dân Việt Nam không có lòng ái quốc thì thật là lầm lạc
đó, nhiều cớ tố trần và một cớ nầy, đến thời gian sau đây, họ đã diễn ra nhiều
tấn tuồng theo những cổ tích hùng dũng buổi xưa.
Ấy là tổng số của thời kỳ thứ nhứt đem đối diện Khổng giáo xưa mỏi mê với
Thiên Chúa giáo oanh liệt mà những người Việt Nam đứng ra làm danh thể cho nó
không phải là hạng đúng mực chọn lựa.
KHOẢN THỨ NHÌ: Trị bình.
Nước Pháp đắc thắng, và vì lẽ ấy, quyền hành các nhà chung tăng thêm hằng
buổi, trong cơn Khổng giáo thối bộ từ từ.
Hại thay, những cổ tục Việt Nam không thay đổi và quan lại cũng không canh
cải chánh sách, nhưng phần đông của quốc dân vẫn còn đeo đuổi theo tục lệ xưa
mãi.
Le Christianisme en effet
exigeait le renonce- ment solennel aux croyances paiennes; c’était grave ! Il
fallait renier formellement l’autel de ses ancêtres et le culte séculaire qui
leur était duâ; pour aller se prosterner devant de nouveaux autels près
desquels l’annamite ne cherchait un refuge que dans un but exclusivement intéressé.
Les cathéchumènes n’étaient
certes pas trom- pés dans leurs espérances; car ils étaient dispensés de
l’impôt, obtenaient des concessions et devenaient propriétaires, là où les
autres n’étaient que fermiers ou coolies.
Dès que surgissait une difficulté, leur missionnaire allait trouver les
Résidents de France et tout s’arrangerait selon leur désir. L’intérêt de la
Chrétienté étant avant tout de grouper des paroissiens riches et généreux.
C’est ainsi que, pour
beaucoup l’apostasie fut l’origine de la fortune.
Par contre, la masse du
peuple composée des braves gens fidèles à leurs traditions restait misé- rable
et digne, se refusant à un reniement que leur conscience réprouvait.
La lutte se faisait donc de
plus en plus âpre entre la nouvelle religion qui obtenait toutes les faveurs,
bien que ses éléments ne soient pas dominés par une morale parfaite; [1] et l’autre qui essayait de lui tenir tête, bien
que ses hauts partisans n’aient rien modifié à leurs méthodes rapaces.
[1] Cette
qualification ne vise en rien, les Chrétiens de la seconde générations.
Thiên Chúa giáo thì buộc phải
từ bỏ những sự tín ngưỡng ngoại đạo, ấy là điều trọng hệ. Phải từ chối hẳn đền thờ của tổ phụ và
sự tế tự đã roi truyền, đặng đến quì lạy
trước những đền thờ mới mẻ mà người Việt Nam chỉ vì mục đích tư
danh tư lợi, tìm tàng đến đặng trốn
lánh.
Những người giả đạo ấy không lầm trong sự hy vọng của họ, bởi vì họ đặng miễn
thuế, đặng đất địa và trở nên gia chủ những nơi mà kẻ khác chỉ làm tá điền hay
là làm tớ mà thôi.
Khi có điều gì khó khăn xảy đến, thì các Cha, Cố đạo đến lo với quan Công Sứ
Pháp và mọi điều đặng hoan hỷ theo ý muốn của họ. Các nhà chung vụ tất sự tom
góp theo mình những nhà đạo giàu có và quảng huợt.
Vì vậy mà sự vào đạo là căn nguyên của quyền lợi.
Trái ngược lại, trong đám dân, phần nhiều gồm những người chơn chất và trung
thành cùng tục lệ của họ thì chịu khốn khó, nhưng vẫn cao thượng, vì đã từ chối
những điều mà lương tâm của họ biếm trách.
Sự tranh đấu lại con trở nên thúc nhặt giữa nền tôn giáo mới mẻ hưởng đủ đặc
ân, dẫu rằng vi cánh của nó đều không trọn định bởi một tinh thần đạo đức hẳn
hòi [1], còn đàng kia thì thử chường mặt chống
chỏi, dẫu rằng những đảng phái của nó chẳng chịu sửa đổi chánh sách gian ngược
[1] Câu nầy chẳng chỉ trích những người Thiên Chúa giáo đời
sau.
Une telle rivalité n’avait plus rien d’une religion: la religion n’était
plus qu’un mot, un prétexte, un drapeau, un signe de ralliement, dont l’idée
morale absente ne laissait plus place qu’à une simple superstition.
N’y avait-il pas place à ce moment pour un culte rénové destiné aux braves gens,
aux travailleurs sans épithètes et sans calculs, respectueux des souvenirs que
leur avait légués leurs anciens, et qui, cependant étaient prêts à respecter
l’enseignement du bien, partout où ils le rencontraient, à condition, pour
cela, de ne pas être obligés de considérer comme abjecte, la religion dans
laquelle ils étaient nés ?
Ceux-là n’avaient-ils pas besoin de la création d’un nouveau refuge moral
plus approprié à leur état d’âme, d’une conception plus vigoureuse condamnant
sous quelque forme qu’elle les rencontrât les appétits des uns et des autres,
pour rester dans la morale élevée et pure.
C’est ce que plus tard le Caodạsme a tenté, et on comprendra aisément qu’il
a été dénoncé aussi bien par les Chrétiens auxquels il faisait un tort considérable,
que par les mandarins bouddhistes dont il réprouvait les méthodes; mais
n’anticipons pas, car il ne vit le jour que beaucoup plus tard.
Cuộc tương tranh dường ấy, còn chỉ rằng tôn giáo : tôn giáo chỉ là một khẩu
thuyết, một viện lẽ, một đại kỳ, một biểu hiệu hiệp đảng mà tinh thần đạo đức
đã vắng, duy lưu lại đều là những sự dị đoan mê tín.
Vậy thì, trong khi ấy, không còn chỗ
nào mà chấn hưng tôn giáo để cho hạng người chơn thật, hạng lao động không phiền
hà và không so đo biết kỉnh trọng những dấu tích xưa của tiền nhơn để lại, và họ
cũng vẫn sẵn lòng kính trọng giáo lý tận thiện bất cứ là nơi nào họ gặp đặng,
miễn là vì lẽ ấy không làm cho họ phải buộc mình coi Đạo nhà là thô hèn.
Có cần tạo cho những kẻ ấy một nơi đình trú tinh thần mới mẻ vừa theo
tâm đức của họ mà tư tưởng mạnh mẽ chỉ trích cái hám tâm của đôi đàng bất cứ
hình bóng khuôn khổ nào của nó mà họ đã gặp, hầu trọn gìn tinh thần cao thượng
và thanh bai chăng ?
Ấy là điều mà Đạo Cao Đài đã làm thử
và người ta sẽ dễ hiểu rõ ràng : nó đã bị những người đạo Thiên Chúa tố giác là
do nó làm cho họ thất phận rất nhiều, còn quan lại Phật giáo thì bị nó biếm
trách những chánh sách gian ngược. Nhưng mà bây giờ chúng ta chẳng cần vội luận,
vì Đạo Cao Đài sản xuất ra trong thời kỳ sau xa kia mà.
TROISIÈME STADE: La collaboration
Vint alors la troisième
période : celle de la collaboration.
Ce mot fut prononcé un jour
par M. Albert Sarraut, Gouverneur Général de l’Indochine dans un de ses
discours; et il eut une repercussion jusque dans les coins les plus reculés des
campagnes.
Le peuple annamite hésita à
y croire; les colonialistes français retardèrent un peu sa mise en pratique,
mais la sémence était jetée. Elle se mit à germer tout doucement, - trop
doucement peut-être au gré du peuple annamite , - mais, des deux côtés, des
hommes avaient entendu cet appel; et, intérieure- ment, ils y avaient aussitôt
répondu.
Un membre du Conseil privé,
aujourd’hui décédé, M. Lê Văn Trung, qu’en 1933, M . Albert Sarraut, Ministre des Colonies, a bien voulu
appeler son ami du haut de la Tribune de la Chambre des Députés voulut que cet
appel ne restât pas sans écho.
Longtemps, il chercha en
vain la concrétisation du rêve que son Gouverneur Genéral avait fait naỵtre
dans son coeur; et , un jour, - beaucoup plus tard, - en faisant ce qu’en
France vous appelez des recherches spirites, - il eut une révélation qui lui
donna la solution du problème.
Cette collaboration qui
semblait alors impos- sible, bien que promise par le Chef de la Colonie, il
fallait, pour l’obtenir, arriver à concilier les deux civilisations orientale
et occidentale,
KHOẢN THỨ BA : Hiệp tác
Đây đã đến thời kỳ thứ ba :
là thời kỳ hiệp tác.
Tiếng hiệp tác nầy là của
ông A. Sarraut, Tổng Thống Toàn Quyền Đông Dương đã thuyết ra trong một bài diễn
văn của người và nó đã truyền hình đến tận cùng nơi thôn quê sằn dã.
Quốc dân Nam ngần ngại không
chịu tin, dân chinh phục Lang sa duy trì thực hành chủ nghĩa, nhưng mà hột giống ấy gieo
xuống đã rồi, nó bèn khởi mọc một cách chậm
lụt, chậm lụt tưởng lẽ theo sở hám của người Việt Nam
mà đôi bên dân sanh đều nghe đặng tiếng kêu gọi ấy và nội tâm của họ đều
vội vàng hưởng ứng.
Một viên chức nơi Thượng Nghị Viện, ngày nay đã qui liễu là ông Lê Văn
Trung, người mà năm 1933, ông A. Sarraut, Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa buổi ấy, giữa
Hạ Nghị Viện Pháp triều, đã gọi rằng bạn thân thiết của Ngài, muốn cho tiếng
kêu gọi ấy đừng chịu lẽ đồng thinh bất tương ứng.
Hèn lâu, người đã hoài tâm tìm tỏi đặng
làm cho hiện tướng cái mơ mộng của quan Tổng Thống Toàn Quyền của người đã gieo
trồng trong tâm lý, và một ngày nọ, người học theo phương cách của bên Pháp, gọi
là Khảo cứu Thần Linh Học, người đặng một cái bí truyền cho người một phương giải
xong toán pháp ấy.
Cái cơ quan hiệp tác đó tưởng thế nào cũng bất thành, dẫu rằng vị chúa tể của
thuộc địa đã hứa, nhưng muốn cho đoạt đặng thì phải làm thế nào cho hai nền văn
hóa Âu Á tương hợp cùng nhau,
et pour les concilier, il
fallait unir deux religions qui s’affrontaient.
En théorie, cela semblait
simple, car toutes deux se réclamaient d’une morale supérieure qui devait
fournir un terrain d’entente admirablement préparé.
La morale de Confucius était
si douce et si ac- cueillante, et celle du Christ était si
généreuse et si belle.
Rien, dans leurs principes,
n’était en contradic- tion; mais hélas ! des deux côtés, la morale était passée
au second plan, et l’intérêt au premier; aussi le problème s’avérait-il
insoluble jusqu’au jour où l’on pourrait arriver à dire aux Bouddhistes : "Suivez
la morale du Christ." et aux Chrétiens : "Venez colla- borer
dans le bien à l’ombre des doctrines douces et tolérantes de Confucius."
Le Beau et le Bien n’ont pas
d’étiquette, donc pas de patrie, pas de religion qui puissent les revendiquer
comme leur propriété; la morale divine est de la même espèce: elle est comme le
soleil: Elle appartient à tous.
Donc, le jour où, tout en
conservant leurs croyances et leurs pratiques ancestrales, si vénérées, une
Religion nouvelle permettrait aux Annamites de pratiquer la morale du Christ
dont l’appel à la fraternité leur était lancé au-dessus les mers par la France
métropolitaine; le jour où, d’autre part, le conquérant s’imprégnerait de cette
tolérance Boud- dhiste vis-à-vis de ses semblables et ne prendrait plus
mà muốn cho nó tương hợp thì phải dung hòa hai nền tôn giáo đã xung đột.
Lấy theo lý thuyết, điều ấy
tưởng là nghiễm nhiên, vì chưng đôi đàng đều trông cậy cho có một tinh thần đạo đức
cao thượng đặng khai mở một hòa địa sẵn
sàng dành để.
Cái triết lý của Khổng Tử thì dịu dàng và dung túng, còn triết lý của
Christ thì khoan hồng và tận mỹ.
Trong cái chơn vi của hai nền tôn
giáo ấy chẳng có chi phản khắc, mà hỡi ôi ! đôi đàng cũng vậy, tinh thần đạo đức
thì ở sau, còn lợi lộc lại đứng trước, bởi
cớ mà toán pháp ấy khó giải quá chừng, mãi đến ngày nào mà người ta có thể nói với môn
đệ đạo Phật rằng : Phải tùng theo tinh thần đạo đức của Christ; còn nói với tín đồ Thiên Chúa rằng : Phải đến mà hiệp
tác trong đường tận thiện dưới bóng của tôn chỉ dịu dàng và quảng đại của Khổng
gia.
Tận thiện và Tận mỹ không có
nhãn hiệu, vậy thì không có quê hương, không có tôn giáo nào đặng tranh đoạt nó làm của
riêng đặng, cái triết lý của Chí Tôn cũng
vậy, nó cũng như ánh mặt trời, nó là của chung toàn
thiên hạ.
Vậy ngày nào mà cả quốc dân Nam được giữ vẹn sự tín ngưỡng và sự hành đạo của
tổ tiên họ để lại, đáng kính trọng và tôn sùng một nền Đạo mới mẻ nào cho họ có
phép hành đạo theo tinh thần của Christ mà lời qui hiệp đại đồng của nước Pháp
đã kêu gọi nơi cõi xa muôn trùng biển cách, ngày nào một đàng, dân chinh phục
thấu đáo đặng cái quảng đại bao la của Phật giáo đối với đồng loại cùng mình và
chẳng còn lấy
le mot "Autorité"
comme synonyme de "Bien" et de "Vérité", - ce
jour là, la solution serait trouvée.
Il fallait donc arriver à
une synthèse des deux religions en une doctrine rénovée ayant la tolérance du
Bouddhisme; et la foi ardente du Christianisme; mais pour cela, il fallait les
exorciser de cet esprit de lucre et de convoitise qui les avait envahies, et
les réunir sur le plan de la morale pure dans ce que l’une et l’autre ont de
beau, de noble et de désintéressé.
( Cao Dài-Cao: haute, Dài:
église).
Sous l’influence de l’ Homme-Dieu, le vieux Huế
méprisant de jadis, s’intéresserait aux masses popu- laires; et sous l’égide de
Confucius, l’autorité française tempérerait son absolutisme de tolérance
bienveillante.
C’était le lien à établir
entre l ’Orient et l ’Occi- dent, l’Annam des Empéreurs s’ouvrant délibérement
aux idées républicaines et l’impérialisme français appliquant les lois sociales
et humanitaires au peuple conquis.
C’était à la Religion la
plus tolérante à accueillir la morale de l’autre; c’est donc celle de Confucius
qui a ouvert sa porte toute grande au Christ et l’a installé sur ses autels.
Ce jour là, la Religion Caodạque
était née.
* * *
Chữ "hành Quyền"
như trùng
nghĩa với "Tận thiện" và "Chơn lý"
thì ngày ấy vấn đề khó khăn sẽ giải
quyết đặng.
Vậy, chúng ta phải làm thế
nào cho có sự dung hòa giữa hai nền tôn giáo hầu biến thành một tôn chỉ chấn hưng, có sẵn sự quảng đại
bao la của Phật giáo và có sẵn sự tín ngưỡng sốt sắng của Thiên Chúa giáo, mà
muốn cho cái xa vọng và tham tàn đã tràn
lan đầy dẫy trong trí não họ tiêu tận thì phải khuyến giáo họ cần hiệp hòa
trong một cảnh giới đạo đức tinh thần thanh bai trong sạch, nơi mà đôi đàng đều
tìm đặng sự Tận mỹ, Cao thượng và Vô tâm.
(Cao Đài = đền thờ cao, đức
tin lớn.)
Dưới quyền năng của Chúa Cứu
Thế, kinh đô Huế cũ kỹ đã chê bỏ lúc nọ, sẽ cần mẫn đến đám bần dân, và nơi bước của Khổng Tử, quyền
hành của nước Pháp sẽ quảng đại nhân từ mà trừ bỏ cái tài độc chiếm.
Ấy là mối dây liên lạc giữa Á và Âu, nước Việt Nam của đế chủ sẽ mở rộng chủ
nghĩa dân quyền, và đế nghiệp của Pháp triều sẽ thi hành dân luật và nhơn hậu
cho quốc dân bị chinh phục.
Ấy vậy, nền tôn giáo nào quảng đại hơn phải nghinh tiếp cái giáo lý của
đàng kia, vậy thì phần bên Đức Khổng Phu Tử phải mở rộng cửa nhà mình đặng rước
Chúa Christ và đem để lên đồng bàn cùng Người.
Ngày ấy là ngày Đạo Cao Đài đã sản xuất.
* * *
Aujourd’ui un grand chemin
est parcouru.
Longtemps persécutés nous
avons résisté avec une patience obstinée, les yeux lixés sur la Métropole,
certains que le Bien ne pouvait pas avoir le dessous.
Nous avons communié par la
pensée avec nos frères de France; nous avons montré à nos adeptes leurs
conceptions généreuses et altruistes, et nous avons eu le bonheur récemment de
sentir petit à petit la réalisation et l’application de leurs doctrines.
Nous pouvons dire que le
peuple annamite est intégralement conquis aux idées françaises; et ceux même,
qui ont l’air de se dresser contre le Gouver- nement, vous accueillent encore
avec votre signe de reconnaissance, comme s’ils venaient à vous en chantant
votre hymne national, et en déployant les plis du drapeau français.
Les Caodạstes ne prennent
pas part à ces démonstrations; ce sont des gens calmes qui s’abs- tiennent de
manifestations politiques.
Mais ils sont là pour vous
renseigner et pour vous dire : ceux qui semblent ainsi protester ne sont pas
vos ennemis irréductibles et un jour vous arriverez à les convaincre.
Actuellement vous parlez déjà le même langage,
mais vous avez encore à vous mettre d’accord sur le sens des mots; car ce
langage n’est peut-être pas prononcé d’une façon impeccable des deux côtés.
Ngày nay con đường khá dài
đã trải qua.
Hèn lâu bị bắt buộc, nhưng chúng tôi ráng chống
chỏi với một sự nhẫn nại bền bỉ, mắt ngó lom lom Mẫu quốc và hiểu chắc rằng :
cái Tận thiện chẳng lẽ phải chịu hạ mạt hoài.
Chúng tôi thường thông công, về mặt tư tưởng, cùng các bạn chúng tôi bên
Pháp triều; chúng tôi chỉ cho cả tín đồ của chúng tôi hiểu biết trí định nhơn hậu
và phi phàm của họ, và chúng tôi lấy làm hân hạnh vừa rồi hiểu đặng mãi mãi
chút ít kết liễu và sự thật hành tôn chỉ của họ.
Chúng tôi đặng nói rằng : Cả quốc dân Việt Nam đều bị trọn vẹn tư tưởng
Lang sa thâu phục; còn những kẻ, dường như chống chỏi nghịch với chánh phủ thì
cũng vẫn còn hoan nghinh với dấu hiệu tương thân của các Ngài, chẳng khác nào
như họ đến cùng các Ngài mà khải ca quốc thiều các Ngài và trương cây cờ nước
Pháp làm niêu hiệu.
Những tín đồ Cao Đài chẳng chịu chung hợp vào các phương ấy vì họ là hạng
người bình tịnh nên từ nan những cuộc biểu tình quốc sự.
Mà họ đã có đấy đặng chỉ vẽ cho các Ngài và nói cho các Ngài hiểu rằng : những
người dường như phản đối chẳng phải kẻ nghịch hẳn của các Ngài và một ngày kia
các Ngài sẽ có thể thâu tâm họ đặng.
Hiện nay, các Ngài đã đồng ngôn ngữ với họ, các Ngài duy làm cho phù hợp
nghĩa lý của lời nói, vì chưng cái ngôn ngữ đôi đàng chưa có thuyết minh ra thật
trúng điệu.
D’un côté, il est encore un peu trop mélangé de tournures annamites, -
d’idiotisme comme vous les appelez, - qui entachent le génie de la langue de se
manifester.
De l’autre, il est peut-être encore un peu trop mêlé de l’argot qui lui a
été légué par les troupes de la conquête.
Mais déjà, nous sommes arrivés à un point où l’on ne peut plus ne pas se
comprendre que si on ne le veut pas.
Petit à petit sous votre influence, le langage pur et châtié de la
Métropole s’imposera à tous; les fonctionnaires français et indigènes le
parleront, et leurs administrés y
répondront avec la même pureté.
Si, à ce moment, il y a quelques dissidents, ce seront leurs compatriotes
eux-mêmes qui sauront en faire justice.
Il est d’ailleurs une chose que tout Annamite instruit n’ignore pas, et que
nous savons le lui rappeler au besoin; c’est qu’il s’est formé, petit à petit
dans la jeunesse annamite une classe d’élite, qui, par ses études françaises,
et même ses diplômes obtenus dans la Métropole, à tout à perdre dans une
modification du pays colonisateur, et pour laquelle le changement de langue
officielle serait une catastrophe.
Cette classe ne va pas se sacrifier
à une poignée d’extrêmistes qui ont appris une langue étrangère.
Một đàng thì còn pha lẫn ý tứ Annam
mà các Ngài gọi là ngông ngôn; nó báo cho khẩu tài không thế biểu diễn ra đặng.
Còn một đàng thì có lẽ còn chất chứa một phần tục ngữ của đám chinh quân
lưu lại.
Mà rồi chúng ta đã đáo đến một mực mà nếu còn nói rằng : không hiểu nhau nữa
là tại chúng ta không muốn hiểu.
Dưới tài cảm hóa của các Ngài, ngôn ngữ đặc sắc và oai quyền của Mẫu quốc sẽ làm cho cả thảy
đều tùng theo một ngày một ít; hàng quan lại lang sa và bổn quốc sẽ cùng nói và
toàn dân cũng sẽ trả lời một cách rõ rệt hẳn hòi.
Thoảng đến chừng ấy, mà còn một ai phản loạn thì chính những người đồng
hương của họ sẽ rõ thông mà xử đoán.
Có một điều mà những bậc hữu học của quốc dân Nam không thể không hiểu và
khi gặp dịp thì chúng tôi sẽ nhắc nhở đến là trong hạng thanh niên VN đã phát
sinh ra lần lần một hạng dân trí học theo văn hóa Lang sa và đặng những cấp bằng
tốt nghiệp đã thâu thủ bên chánh quốc, sẽ chịu trọn bề thất bác khi quốc gia
chinh phục đổi dời và nếu thay đổi quốc văn thì là điều đại hại cho họ.
Hạng dân trí nầy, chẳng lẽ để mình chịu thiệt thòi cho một phần ít hạng cấp
tiến đã học ngôn ngữ tha bang vui hưởng.
Quant à ceux qui rêvent
d’indépendance, ils trouvent dans la guerre sino-japonaise une rude leçon, et
ceux qui raisonnent, apprécient à sa haute valeur la paix que nous assure la France.
Ils savaient que, s’il fallait que l’Indochine pourvoie seule à sa
sécurité, elle ne pourrait jamais se défendre contre un ennemi de l’extérieur
au prix où sont les armements. Ils se rendent compte que si la France n’était
pas là avec son admirable armement, et
son autorité mondiale pour les préserver de ce fléau, le peuple ne
travaillerait plus que pour les fabriques de guerre, sans pouvoir aspire à
aucun bien être.
Nos Caodạstes savent tout celà, nous le leur enseignons et ils comprennent
que, dans ces conditions, le poids qu’ils supportent, doit leur paraỵtre léger.
Telle est notre morale, tel est notre but à atteindre, tel est notre
idéal.
NOS DÉSIDERATA :
Notre voeu le plus cher est que la France d’ Outre-mer soit à l’image de la
France Métropolitaine; elle se transforme d’ailleurs chaque jour sous
l’action bienfaisante de celle-ci,
et tout notre effort tend à ce que cette évolution soit remarquée et comprise
de nos compatriotes.
Un autre voeu plus personnel, mais qui seconde- rait l’influence française
est que, dans notre tâche,
Còn những kẻ mơ mộng độc lập thì đã tìm đặng một bài học rất khắt khe trong
trận Hoa-Nhựt chiến tranh và những người biết suy nghĩ thì coi như sự hòa bình
của nước Pháp bảo đảm là trọng giá.
Họ sẽ hiểu rằng: với giá mắc của đồ binh khí đương thời, nếu xứ Đông dương
tự mình gìn giữ đặc an thì chẳng hề khi nào đối thủ lại kẻ nghịch ngoại bang
xâm lấn. Họ sẽ tự nhận rằng nếu không có nước Pháp với quân bị phú cường và oai
quyền toàn cầu đặng gánh vác cho họ thì quốc dân sẽ làm mọi cho các xưởng binh
khí chớ không mong mỏi hưởng đặng một điều hạnh phúc nào tất cả.
Tín đồ Đạo Cao Đài chúng tôi đồng biết điều ấy, chúng tôi sẽ dạy và cho họ hiểu rằng : trong các điều kiện nầy,
cái gánh của họ đã mang thật ra nhẹ nhàng lắm đấy.
Ấy là trí ý của chúng tôi, ấy là mục đích của chúng tôi đáo đến, ấy là cái
thượng đạt của chúng tôi.
Những điều ước vọng của chúng tôi :
Cái nguyện vọng yếu thiết của chúng tôi là Pháp triều hải ngoại biến thành
như hình chánh quốc. Nó sẽ thay tướng mỗi ngày dưới tài hành động hay ho của Mẫu
quốc và cả lực lượng của chúng tôi chú trọng về sự tăng tiến nầy làm thế nào
cho các đồng hương chúng tôi thấy đặng và hiểu đặng.
Một nguyện vọng riêng nữa mà nguyện vọng nầy liên hiệp với tài cảm hóa Lang sa
là, trong phận sự của
nous ne soyions pas mis en était d’infériorité vis-à-vis des autres
religions; car nos fidèles peuvent être induits en erreur sur la sincérité de
nos sentiments charitables dans l’impossibilité où nous sommes de les
manifester.
En effet, enseignant une morale toute de charité, il nous est interdit de
pratiquer cette charité.
Il y a quelques années, ignorants des lois fran- çaises applicables à
l’Indochine, nous avions conçu et réalisé un hospice pour les vieillards, une
crèche pour les enfants, un artisanat pour les aldultes et les sans travail, et
par mille moyens, nous avions tenté de soulager nos frères qui avaient besoin
de notre concours.
Nous avons alors été poursuivis devant les tribunaux, et nous avons appris
à nos dépens que la Charité était un Monopole d’État, ou, tout au moins un
privilège qui n’était donné qu’à certains.
Cette application de la loi heurte le vieux Confucianisme si tolérant; et
c’est notre principal obstacle pour propager les idées et leur conception
simpliste du Bien, qui ignorent Machiavel, et n’ont aucune conception de la
Raison d’Etat.
A leurs yeux, il y a quelque chose
qui heurte leurs sentiments de justice, lorsqu’ils voient que les Catholiques
peuvent se répandre en oeuvres de
chúng tôi khỏi bị khuất nhược đối với các nền tôn giáo khác, vì cả người
tùng giáo có thể bị quấy tưởng rằng lòng phước thiện của chúng tôi không chơn
thật bởi không thể biểu diễn nó ra đặng.
Đã trải qua mấy năm rồi, vì không hiểu luật pháp Lang sa thi hành nơi cõi
Đông dương, chúng tôi nong nả lập một Dưỡng lão đường, một Ấu trĩ đường, một cơ
quan công nghệ cho hạng trai tráng và thất nghiệp và tìm muôn chước mong nâng đỡ
các bạn chúng tôi, vì họ cần cho chúng tôi vùa giúp.
Chúng tôi đã bị buộc tội ra trước tòa án, và vì riêng chịu hại mà đặng hiểu
rằng : Phước Thiện là điều độc chiếm của quốc gia hay là riêng để cho một phần người thôi.
Sự thi hành luật pháp nầy phản khác với tôn chỉ cũ kỹ, quảng đại của Nho
giáo và cũng là cái trở lực làm cho chúng tôi không thể tuyên truyền tư tưởng
Pháp triều cho những hạng người chơn chất đến chúng tôi với tấm lòng chơn thật
và trí ý đơn giản trong điều Tận thiện. Họ không quen với Machiavel [1] và họ cũng không hiểu cái ý định của lẽ quốc
chánh là gì ?
Trước mắt họ, có hiển nhiên nhiều điều nghịch hẳn với tâm lý công bình của
họ, khi đã thấy những kẻ tùng giáo Gia Tô đặng bày bố các
[1] Mưu thần của Ý Đại Lợi, nghĩa là xảo trá và gian ngược.
Charité pour lesquelles ils reçoivent même des subventions, et que le Caodạsme
qui ne poursuit qu’un but de fraternité, et n’agit qu’avec ses modestes
ressources, n’a pas même le droit de s’adonner à des oeuvres d’entr’aide
mutuelle, si nécessaire aux pauvres gens, - parce qu’il lui manque la
personnalité.
Nos ressources mêmes sont paralysées dès leur naissance, car le Caodạsme ne
peut rien posséder en propre, n’étant pas reconnu, et n’ayant pu fonder encore
une association cultuelle pour gérer ce qu’il possède.
Songez à la vertu et à l’honnêteté qu’il faut à un individu souvent de
condition modeste pour résister à la tentation de déclarer "Tout ceci est à moi" - et devenir aussitôt propriétaire de ce qui est à son nom, - alors qu’il sait
que nous ne pourrions même pas intenter contre lui une action en justice.
Nous souhaitons ardemment voir cette infério- rité disparaỵtre et être
autorisés à fonder une association cultuelle au nom de laquelle seront mis les
biens qui nous permettent d’aider les malheureux.
Nous aurons alors plus d’autorité pour parler de la générosité de la
France, montrer que les morales Chrétienne et Confucéenne ne sont pas en
opposition, et que les doctrines françaises, bien appliquées, concourent au
développement et au bonneur du peuple annamite, évolution que celui-ci n’aurait
jamais pu obtenir de l’apathie de ses Souverains.
Cơ quan Phước Thiện mà lại đặng nhờ chánh phủ trợ giúp, còn Đạo Cao Đài đeo
đuổi theo mục đích đại đồng và sự hành tàng với nguyên liệu hẹp hòi của họ mà
cũng không đặng quyền lập cơ thể tương trợ lấy nhau, rất cần yếu cho những kẻ
nghèo hèn, là vì Đạo thiếu quyền chủ sản (Personnalité civile).
Những huê lợi của chúng tôi đã bị phá tán ngay khi nó mới nảy sanh ra, vì Đạo
Cao Đài chẳng đặng làm chủ sản nghiệp chi của nó, chưa đặng nhìn nhận về chánh
thể và cũng không tạo đặng một hội giáo hầu làm chủ sản nghiệp.
Kể một người phẩm giá thường tình mà chống chỏi với dục tâm, có thể khai
quyết rằng : “Cả của cải nầy là của tôi” và đặng làm chủ vĩnh viễn gia nghiệp của
họ đứng tên, khi họ đã hiểu chúng tôi không có phương nào buộc tội họ trước tòa
án thì mới để tin sao đặng ?
Chúng tôi cầu xin thiết yếu cho điều khuất nhược ấy tiêu hủy và xin đặng phép lập một hội giáo rồi lấy đó
đứng làm chủ sản nghiệp đặng dùng để cứu giúp kẻ nghèo hèn.
Chừng đó, chúng tôi sẽ có đủ quyền nói đến lòng nhơn hậu của Pháp triều và
bày tỏ ra rằng tinh thần Thiên Chúa giáo và Nho giáo không có phản khắc cùng
nhau và tôn chỉ Lang sa, nếu thật
hành cho chánh đáng thì giúp hay cho sự
mở mang và điều hạnh phúc cho quốc dân Nam Việt. Sự tăng tiến nầy, quốc dân Nam
chẳng hề trông nơi vương quyền bạc nhược của họ mà có đặng.
Donnez nous les moyens de
poursuivre notre idéal qui est le vôtre, et ne nous laissez pas en état
d’infériorité même dans les pays de Protectorat, où notre influence religieuse
combat la corruption qui y s’évit encore.
Çà n’est pas le Souverain
qui ne veut pas de notre doctrine, ce sont les fonctionnaires prévarica- teurs
qu’elle condamne, qui s’insurgent contre elle et tendent à entraver son
heureuse influence.
C’est le vieil Annam des
mandarins d’autrefois, c’est le vieux pays Khmer avec ses habitudes cente-
naires qui sentent toute la valeur morale de nos enseignements, et dont les
fonctionnaires s’irritent à la pensée des petits profits qu’elle leur fera
perdre, çà n’est aucunement le Souverain lui-même qui a toujours voulu
sincèrement que son peuple soit heureux.
Autour de nous sont groupés
en effet les travailleurs de la terre, les modestes commerçants, les braves
gens sans intrigues, ceux qui veulent le bien pour le bien et qui n’aspirent
qu‘au fruit de leur labeur; ceux qui poursuivent leur vie “ sans espoir de
duchés ni de dotations “ pour reprendre le mot d’Edmond Rostand; mais, qui, ne
cherchant point les faveurs, voudraient au moins conserver ce que leur travail
leur a acquis.
Ce sont les mêmes que ceux
qui ont refusé de renier la foi et le culte de leurs ancêtres, malgré les
avantages que cela pouvait leur procurer; ce sont également ceux qui vénèrent
le bien, d’où qu’il vienne,
Xin cho chúng tôi có phương pháp đặng đeo đuổi
theo thượng đạt của chúng tôi tức là cái thượng đạt của các Ngài đó vậy, và đừng
để cho chúng tôi chịu khuất nhược, dầu trong xứ bảo hộ cũng vậy, là nơi mà Đạo
của chúng tôi đã cảm hóa đặng chiến đấu với
sự tham tàn đương nhiên thành hại.
Ấy chẳng phải nhà vua không
muốn tôn chỉ của chúng tôi, mà tại các tham quan ô lại bị nó chỉ trích, nên
xung đột chiến đấu đặng làm cho ngăn trở cái tài cảm hóa của nó.
Ấy là Việt Nam tối cổ của
quan lại buổi xưa, ấy là xứ Cao Miên cũ kỹ với tục lệ lâu đời đã hiểu cả giá trị tinh thần giáo lý của chúng tôi, mà
do các quan lại phát nộ, e cho thất phát tiểu lợi của họ. Thật chẳng hề khi nào
phải chính nhà vua, vì nhà vua cũng thường muốn cho cả quốc dân mình đặng hưởng hạnh phúc.
Chung quanh chúng tôi, xúm
xít những hạng lao động về đất điền, hạng thương nhơn nho nhỏ, hạng người chơn
thật chẳng biết mưu chước là gì, hạng người duy biết lành gọi là lành và chỉ trông mong
nơi kết quả của sự làm lụng của họ; hạng đã
đeo đuổi theo sự sanh hoạt "không trông công danh mà cũng không trông lợi
lộc" tả theo lời của Edmond Rostand; tuy họ không có tìm kiếm cái đặc
ân nào, duy ít nữa muốn gìn giữ đặng cả của cải do bởi công trình làm lụng của
họ.
Ấy vốn là những người đã không chịu từ bỏ đức tin và thờ phượng tổ phụ của họ, dầu rằng
nhiều sở lợi họ có thể thâu thủ, ấy cũng là những hạng người mà họ trọng kỉnh sự
phải bất cứ nơi nào mà đến,
et auraient considéré comme une mauvaise action de rejeter loin d’eux une
morale élevée et pure qui avait sa place à côté de la leur.
Pour la réalisation de ces réformes, nous faisons, comme pour le reste, la
plus absolue confiance à la Nation française, son histoire à la tête de la
civilisation justifie ce sentiment, et nous attendrons avec patience la fin de l’épreuve de
probation à laquelle elle nous a soumis et dont les résultats heureux ne lui
sont peut-être pas toujours intégra- lement signalés.
Elle se rendra alors compte que
c’est elle qui retire le premier bénéfice de l’essor qu’elle nous donne, et, à
ce moment, elle regrettera d’elle-même le retard qu’elle a mis à nous tendre
ouvertement la main.
Fait au Saint-Siège Caodạque de TâyNinh.
(Le 12 Novembre 1937)
Signé : PHẠM CÔNG TẮC
Supérieur du Caodaïsme ou Bouddhisme rénové.
và kể cho rằng: xa lánh một giáo lý cao thâm và tinh khiết có thể gần gũi
cùng Đạo nhà của họ là một điều thất đức.
Muốn làm cho ra hiện tượng những phương cải cách ấy, chúng tôi định, cũng
như mọi việc khác, là duy để tín nhiệm trọn vẹn nơi Pháp triều vì lịch sử của
Pháp đã đứng đầu văn hóa, quyết định lẽ nầy, và chúng tôi trông đợi với tấm
tình nhẫn nại cho qua đỗi khảo đảo thử thất chúng tôi, và những điều liễu kết
hay ho đã thành tựu, e cho không thường trọn khai cho Pháp triều hiểu thấu.
Chừng ấy nước Pháp sẽ nhìn nhận chắc rằng: do nơi tay của nước Pháp thâu hồi
đặc ân trước nhứt theo đường tấn hóa ban cho chúng tôi và trong cơn ấy nước Pháp
sẽ ân hận lấy mình là trễ rộng đưa tay mà dìu đỡ chúng tôi đó.
Lập tại Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.
(Ngày 12 tháng 11 năm 1937)
Ký tên: PHẠM CÔNG TẮC
Giáo chủ Đạo Cao Đài hay Phật giáo Chấn hưng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét