
Việt ngữ: Tháng 07-1927 (âl. tháng 6-Ðinh Mão)
Juillet
1927
THI
VĂN DẠY ÐẠO
1.
Tròi
trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náu nương chân.
Ở
nhà mượn đám mây xanh kịt,
Ðỡ
gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố
hóa người đời gây mối Ðạo,
Gia
ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng
nào đất dậy Trời thay xác,
Chư
Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
2.
Tân
tả BẠCH NGỌC KINH
Một
Tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền
bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn
trượng then gài ngăn Bắc Ðẩu,
Muôn
trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào.
Chư
Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt
Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời
đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững
bền vạn kiếp chẳng hề xao.
3.
Huỳnh
lương một giấc cuộc đời in,
Có
trí có mưu phải xét mình.
Phú
quí lớn là giành với giựt,
Lợi
danh cao bởi mượn và xin.
Trăm
năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,
Một
kiếp đeo đai mối nợ tình.
Biết
số biết căn tua biết phận,
Ðường
xưa để bước lại Thiên đình.
4.
Ðời
hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương
đời nên mới đến đem đường.
Ðường
dài vó ngựa tua bền sức,
Sức
yếu lòng người khéo để gương.
Gương
đạo noi theo đời Thuấn Ðế,
Ðế
dân vẹn giữ lối Văn Vương.
Vương
hầu lê thứ, ai là chí,
Chí
quyết làm cho thế khác thường.
5.
Thanh
thanh nhựt nguyệt Cửu Trùng Thiên,
Hiện
xuất cao nhơn tại nhãn tiền.
Bất
quản hổ tranh thâu Bắc Cực,
Chỉ nguy long đấu đoạt Nam Uyên.
Sanh tồn cụ pháp vô công trác,
Tử hậu cùng đồ uổng lộ diên.
Hữu đạo, hữu công du tự khả,
Vô công, vô đạo tổng đồ nhiên.
6.
Hảo Nam Bang! Hảo Nam Bang!
Tiểu quốc tảo khai hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Ðài truyền Ðại Ðạo,
Hảo phùng Ngọc Ðế ngự trần gian.
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn
đại an.
Chí
bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng
tri giác thế sắc cao ban.
7.
Hữu
văn, hữu võ, hữu phong ba,
Nhựt
Nguyệt Âm Dương tứ quí hòa.
Thiên
Ðịa Càn Khôn kiêm vạn loại,
Nhơn
quần thảo mộc cập chư hoa.
Ly
kỳ cảnh vật cao nhơn thưởng,
Ðáo để san hà thượng khách ca.
Ngã
vấn chư nhu hà thủ tạo?
Kỉnh
Ngô vi chủ, Ðạo như hà?
8.
Ngọc
ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
Hoàng
thiên bất phụ chí anh hào.
Giáng
ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
Thế
tạo lương phương thế cộng giao.
Giáo
hóa nhơn sanh cầu triết lý,
Ðạo
truyền thiên hạ ái đồng bào.
Nam
nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
Phương
tiện tu tâm kế diệt lao.
9.
Tường
quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam
giáo qui nguyên giữ cộng đồng.
Phật
pháp khuyến nhơn qui mỹ tục,
Nho
Tông phục thế hưởng thuần phong.
Diệu
huyền chơn đạo tu tông hướng,
Mê
hoặc tà mưu khả tự phòng.
Thế
thượng dục tri Thiên sứ đáo,
Tam
Kỳ Phổ Ðộ lập kỳ công.
1.
Ðã
từng muôn kiếp có tên Ta,
Ta
bởi Ðạo Trời mở cửa ra.
Ra
để rước người lành đến ở,
Ở
chung một cõi lại chung nhà.
2.
Cương
tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng
mơ căn nghiệt một đời nầy.
Hữu
duyên độ thấu nguồn Chơn Ðạo,
Tu
niệm khuyên bền chí chớ lay.
3.
Một
ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên
Phật nơi mình phải ở xa?
Luyện
đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa
Tiên xuất nhập cũng như nhà.
4.
Một
Trời, một Ðất, một nhà riêng,
Dạy
dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm
mối Thiên cơ lo cứu chúng,
Ðạo
người vẹn vẻ mới thành Tiên.
5.
Mơ
màng chưa khỏi lụy phồn hoa,
Chưa
biết nên thân tính sắm nhà.
Cải
hạnh đố ngươi về tập thử,
Tháng
sau sẽ đến trước trình Ta.
6.
Trình Ta, Ta phải đỡ nâng chơn,
Khuyên một điều con khá giảm hờn.
Hễ ghét người thì Trời ghét lại,
Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn.
7.
Nào
hơn vui thú đức tài lo,
Sẵn
gối sẵn chăn cứ xuống đò.
Ngoài
nữa còn Cha, còn chú bác,
Làm
gương cho đáng mới nên trò.
8.
Nên
trò đạo đức dễ gì đâu,
Vui
chẳng vui sầu chẳng dám sầu.
Cái
khổ của đời mình ước vọng,
Cái
chê của chúng lại nài cầu.
9.
Ký
thành một cuốn gọi Thiên thơ,
Khai
Ðạo muôn năm trước định giờ.
May bước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
10.
Thơm tho chi cũng vốn mùi đời,
Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
11.
Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết đạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.
12.
Ngừa thuyền Thầy đợi kẻ sang chơn,
Khổ hạnh khuyên con chớ dạ hờn.
Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,
Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn.
13.
Hay
cho kẻ sĩ biết tu hành,
Hành
ấy thì thân chẳng mến danh.
Danh
vốn là bùa mê muội thế,
Thế
không đạo đức thế không thành.
14.
Mưa
nắng thương thân chịu lắm lần,
Ðành
đem đức gởi tại Chiêu Tân.
Thanh
cao là biết ngon dưa muối,
Hơn
ngự lầu Yên ngó đảnh Tần.
15.
Bát
Nhã xin con trở mái chèo,
Thìn
lòng thương lấy chúng sanh eo.
Trăm
năm chưa hẳn nên hiền đức,
Tấn
nẻo chông gai khá lựa dèo.
16.
Lựa
dèo, lựa thế độ nhơn sanh,
Khó
dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.
Ám
muội thì nhiều mưu trí ít,
Ðường
Tiên chẳng bước, đọa thì đành.
17.
Vong
xu trọn cả một Càn Khôn,
Hết
kiếp thịt xương, tới kiếp hồn.
Ngảnh
lại hỏi người là chắc đó,
Trăm
năm là tuổi chết rồi chôn.
18.
Ra
vòng thế tục ít người toan,
Vì
chẳng ưa mua một chữ nhàn.
Rồng
rắn cùng đời rồng hóa rắn,
Vinh
huê ngó lại giấc mơ màng.
19.
Sánh
vai Sào Phủ ẩn danh xưa,
Vì
nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười, than, vui, khóc, thấy
hay chưa?
20.
Nghe
nghe thì lắm tiếng hiền lương,
Ðạo
đức con tua giữ một đường.
Biển
đổi, non dời đời phải tuyệt,
Ðức
cao bền vững khó cân lường.
21.
Bày
đờn ai khéo sắm đờn đây,
Ðể
quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn
bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm
cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.
22.
Sắc
Trời đã đến tận nơi tay,
Cực
nhọc khuyên con chớ dạ nài.
Lập
Ðạo dầu nên ngàn thuở để,
Nêu
danh hậu thế tiếng bền dai.
23.
Từng
lo tu luyện bấy lâu nay,
Chuộng
đạo từ đây đã gặp Thầy.
Một
chức giáo dân tua lãnh lịnh,
Làm
cho đời tệ hóa ra hay.
24.
Ðức
cao thì mới đáng nên người,
Ðức
thắng tài kia đã mấy mươi.
Có
đức có tài giềng đạo trọng,
Không
tài không đức hóa không thời.
25.
Nhơn
là đầu hết các hành tàng,
Cũng
bởi vì nhơn, dân hóa quan.
Dân
trí có nhơn nhà nước trị,
Nước
nhà nhơn thiệt một cơ quan.
26.
Trời
hằng thương mến lũ nhơn sanh,
Giận
nỗi cưu cưu ở bạc tình.
Ép
trí sợ trôi, trôi khó níu,
Thương
thì để dạ, dụng oai linh.
27.
Bay
đến Hồ Dương phụng gáy chiều,
Thần
Tiên giáng thế biết bao nhiêu.
Trở
chơn ít kẻ lo đi ngược,
Bước
đọa xem qua dấu dập dìu.
28.
Dập
dìu lắm kẻ ngó Thiên đường,
Buổi
thế không lo níu nhánh dương.
Dương
thạnh thì hay đời mạt kiếp,
Nêu
thân ở giữa cuộc tang thương.
29.
Tang
thương đã biến cuộc hầu gần,
Bắc
Hải rồi sau lại hóa sân.
Thanh
thế con người toan cải ác,
Tùng
theo nhơn cách đặng phong thần.
30.
Phong
thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa
biển ai từng gặp Lão Tô?
Mượn
thế đặng toan phương giác thế,
Cũng
như nương viết của chàng Hồ.
31.
Chia
đôi lỡ ở, lỡ khi về,
Cách
trở một mình biết mấy quê!
Thạnh
bỏ, suy đương lao khổ phận,
Cũng
như Bạch Khỉ đến hôn mê.
32.
Hôn
mê chẳng quản một thân hiền,
Tâm
niệm tự nhiên đặng thấy Tiên.
Thử
để hỏi tâm, tâm sẽ dạy,
Rằng trong thế giới Lão cao quyền.
33.
Cao quyền khó kiếm đặng cao ngôi,
Ðạo đức gầy nên đã phải hồi.
Mượn của trần gian lưu chất
lại,
Thiên
niên còn mặc đứng gầy Trời.
34.
Ngu
vì đạo đức ấy ngu hiền,
Thành
dạ thì toan đến cảnh Tiên.
Nước
mắt chưa lau cơn kiếp trái,
Có
công phổ độ giải tiền khiên.
35.
Tiền
khiên đã mãn nghiệp căn xưa,
Phải
biết ăn năn chiếm thượng thừa.
Một
kiếp muối dưa xong kiếp nợ,
Cuộc
đời oan nghiệt thấy rồi chưa?
36.
Chưa
rồi nửa kiếp lắm lo lường,
Thấy
kẻ lòng thành Lão cũng thương.
Nếu
muốn an vui theo lẽ đạo,
Từ
từ đừng vọng vị cao lương.
37.
Cao
lương mỹ vị hại thân phàm,
Hỏi
thử thế đời mấy món tham?
Cao
chức vợ nhiều ăn lớn đũa,
Thầm
lo lự tứ với ưu tâm.
38.
Tâm
ưu Bàng Cử trắng đầu non,
Mua
lấy chức quan đức phải mòn.
Chi
bẳng một bầu đầy nhựt nguyệt,
Thông
minh miệng thế mặc dò đon.
39.
Dò đon cho rõ nẻo Thiên thai,
Cái tiếng tài khen chẳng phải tài.
Mình Thánh, mình Hiền, mình biết lấy,
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai.
40.
Người đâu biết đặng tấc lòng mình,
Họa hỏi đến Trời mới biết linh.
Thiệt thiệt hư hư vì mắt thịt,
Thôi thì đợi chết biết tiền trình.
41.
Tiền trình Thầy dạy trước con tường,
Ðợi
hạ sang năm mới tuyển lương.
Năm
bảy năm sau nên nghiệp lớn,
Ðến
chừng ấy khá Ðạo lo lường.
42.
Lo
lường cho rõ thấu Thiên cơ,
Biết
đặng thì tua tính kịp giờ.
Khuyến
thiện đã nhiều công cực nhọc,
Toan lo cho vẹn đạo đồ thơ.
43.
Ðồ thơ oằn oại gánh nghiêng vai,
Mặc
khách làng văn nhọc chớ nài.
Nghiệp
nước nỗi nhà còn bận bịu,
Thanh
nhàn chưa phải buổi xem mai.
44.
Xem
mai trông gặp trổ hai lần,
Như
Ðức Khổng xưa muốn thấy Lân.
Hờn
gió, giận mưa hoài trí tính,
Thâu
niên chẳng đoái chút tinh thần.
45.
Tinh
thần đầy xác mới tinh anh,
Ðừng
vướng nẻo công với mối danh.
Thường
hứng gió đông tua biết gió,
Ðừng
trương cánh nhạn bị tan tành.
46.
Tan
tành khó nỗi kết làm nguyên,
Như
chỗ non cao muốn quá thuyền.
Mình biết phận mình an thú vị,
Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên.
47.
Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
48.
Chi Lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng
để mũi gần chẳng biết hương.
Hiền
ngõ rủi sanh đời bạo ngược,
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.
49.
Cao Ðài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.
Chiều lụy đòi phen xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.
50.
Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng
mất một con, nghiệt cả bầy.
Biết
phận già không chờ chống gậy,
Nương
theo con dại mới ra vầy.
51.
Lòng
lành là vốn có căn xưa,
Bao
quản lợi danh chẳng dám chừa.
Nỗi
phận, nỗi nhà còn biến đổi,
Thương
mình khá nghĩ phận mình xưa.
52.
Mình
xưa chưa kẻ độ nên phàm,
Phải
ngó tâm mình đạo mới ham.
Phải
phải cùng đời đừng sửa quấy,
Quấy
nhiều tức quỉ giục mình tham.
53.
Yến
Tử thời xưa lúc vận cùng,
Còn
mang dép rách đến Quang Trung.
Nay
con chưa đủ thông đường đạo,
Cứ
ngóng theo chơn Lão tháp tùng.
54.
Trữ
đức còn hơn muốn trữ vàng,
Giàu
sang chẳng chuộc gánh giang san.
Thế
đời càng dữ càng kiên đức,
Võ
lực hùng oai cũng chẳng màng.
55.
Trước
lâm chứa đặng bảy ông Hiền,
Vì
bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng
cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn
thua cười kẻ biết nơi tiền.
56.
Cao
ngôi chưng đạo chẳng cao quyền,
Mở
lối dắt người đến cảnh duyên.
Ham
hết công danh mòn mỏi đức,
Cũng
như ham chở khẳm khuôn thuyền.
57.
Khuôn
thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi
quá như bông, nặng quá kim.
Có
đạo trong muôn ngồi cũng đủ,
Không
duyên một đứa cũng là chìm.
58.
Thiên
cơ đã lộ lúc khai Trời,
Kêu
khách phàm trần đã hụt hơi.
Cứ
mến vinh huê cùng lợi lộc,
Chẳng
lo kiếp thác đến gần nơi.
59.
Gần
nơi Tiên cảnh phải xa phàm,
Cái
kiếp trần nầy trẻ chớ ham.
Một
miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,
Phải
toan lui gót tránh vòng tham.
60.
Nơi
lòng Thầy ngự động Thầy hay,
Ngặt
nỗi là xưa chẳng thế bày.
Ðạo
hạnh khuyên con gìn tánh đức,
Cửa
Cung Bạch Ngọc đã gần khai.
61.
Mày
râu đã đủ phận cùng người,
Biết
đạo thì con chớ dể ngươi.
Ăn
mượn ở thừa đời gắt gổ,
Thì
toan lo tránh chớ đua bơi.
62.
Suy
thời dầu quí cũng ra hèn,
Nghiệp
cả khuyên con lửa nhúm nhen.
Ðòi
lúc phân vân đời vẫn thế,
Màng
chi miệng độc để chê khen.
63.
Nên
hư cuộc thế gẫm thường tình,
Ðừng
mỗi muôn điều đổ chí linh.
Lành
dữ nơi mình chiêu phước họa,
Thành
tâm ắt thấy hết thần minh.
64.
Bề
trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,
Miệng
chánh thì đời vốn trái tai.
Lừa
lọc cho cùng rồi nhứt định,
Ðừng
quen tính một chẳng dè hai.
65.
Phòng
cơn biển nọ hóa cồn dâu,
Chưa
hết quan viên há hết chầu.
Cái
bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn
đào thong thả đã là đâu?
66.
Tham
chi sự thế lắm đua tranh,
Cái
miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ
hết trong cơn mê một giấc,
Trăm
năm ngắn ngủi nhớ làm lành.
67.
Làm
lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai
chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mừng
thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen
chê giận ghét lẽ đời thường.
68.
Lời
vàng nhắn hỏi khách trần gian,
Một
nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn?
Bụi
đất của trần là của tục,
Chưa
ai đem đổi cảnh an nhàn.
69.
Tâm
thành có thuở nghiệp nhà nên,
Ðạo
đức khuyên con cứ giữ bền.
Hễ
đặng bữa cày, buông bữa giỗ,
Phân
thân đâu đặng hưởng hai bên.
70.
Ðài
vân Quan Võ để phong Thần,
Còn
của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn
đức ngàn lành không sót một,
Bao
nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
71.
Thiên
thai nào phải tại trần nầy,
Chẳng
phải giữa trời, chẳng phải mây.
Ðưa
phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo
chơn giỏi bước níu sau Thầy.
72.
Khờ
ngây đã quá hội xuân rồi,
Rồi
mới biết đời có bấy thôi.
Thôi
chẳng tranh chi mồi phú quí,
Quí
là đạo đức đó ai ôi!
73.
Ai
ôi! Tự nghĩ biết lo xa,
Xa
bốn phương trời cũng kiếm ra.
Ra
mối manh thì tua liệu lấy,
Lấy
nền Ðạo chánh dẫn truyền ra.
74.
Sanh
đời nắng lửa với mưa dầu,
Tội là đâu, phước lại là đâu.
Chiu chít như chim cơn khuất
bóng,
Mới vui rồi tới chịu đeo sầu.
75.
Cung trương chim đỡ thế nào đang,
Mất phước ôn nhu ấy mất nhàn.
Quyền biến dầu dùng khi buổi
ngặt,
Dằn lòng nhớ tránh kế mưu gian.
76.
Sum
vầy các sắc, các con nhà,
Dầu
phải sang hèn cũng một Cha.
Nương
dựa con tua vầy hiệp bạn,
Ðường
đời cũng thế chẳng bao xa.
77.
Khánh
chuông tiếng khởi giục nhơn sanh,
Bỏ
ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp
trước phải ngừa là kiếp phạt,
Hễ
là có thưởng phạt theo mình.
78.
Xanh
xanh nào có phụ người hiền,
Ðã
thấy trọn quyền đấng Chí Thiên.
Lo
lập nghĩa nhân đồng loại giúp,
Ðừng
ham quyền thế một mình riêng.
79.
Chim
khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người
thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn
trọng người như Trời với Phật,
Thương
yêu cả hết chúng sanh thành.
80.
Lợi
danh đã đọa biết bao người,
Nhiều
kẻ nay còn ý dể ngươi.
Hễ
muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ
chung danh lợi hết gần Trời.
81.
Sách
truyện xưa ghi đã lắm điều.
Như
chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường
tu ví bẳng không lo trước,
Ðền
điện Lương Vương phải cháy tiêu.
82.
Cho
hay Trời Phật chí công bình,
Trước
mắt ngờ ngờ thấy phép linh.
Huyền
diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng
đừng xảo mị gọi tài tình.
83.
Ngọc
lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể
mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo
đức mãn đời đừng trở dữ,
Làm
cho mất nghiệp mấy muôn năm.
84.
Khanh
tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn
luân trọn đạo đáng nên Thần.
Ví
xưa biết chút đường tu niệm,
Thì
chắc nay đà ngự các lân.
85.
Khuya
sớm tương dưa hết dục lòng,
Lòng
dầu toan kế, kế sao xong.
Xong
bề nhơn đạo tua gìn trước,
Trước
cửa không rồi mối đạo thông.
86.
Mão
đội không bằng lọng mát đầu,
Làm sao cho đặng lọng cao cao?
Che năm họ mát lòng thêm mát,
Muốn đặng mát thì học sách nào?
87.
Thiệt vàng gặp lửa tuổi càng cao,
Dầu gọi mình khờ cũng chẳng nao.
Theo Ðạo Cao Ðài ơn cứu độ,
Muôn
năm hưởng phước trở về sau.
88.
Nhiễu
điều ví đặng phủ gương trong,
Thì
mới làm cho cái nghĩa đồng.
Dồn
dập mối sầu, thân thảm thiết,
Thầy
khuyên hành đạo sẽ vui lòng.
89.
Ðắc
thất đều do tại máy Trời,
Làm
sao qua đặng chốn non khơi.
Tuy
không cao mấy mà khôn với,
Biết
rõ cơ quan ắt biết đời.
90.
Thiện
ác đáo đầu đã biết chưa?
Hiểu
rồi cái ác cũng nên chừa.
Theo
làm âm chất may bồi đắp,
Thì
sẽ trở về chỗ vị xưa.
91.
Sách
dầu muôn cuốn dạy câu lành,
Nào
kẻ học cao thế gọi lanh.
Ðổi
thử máy trời coi có được,
Thì
Ta đổi tội dữ ra lành.
92.
Sai
lầm một thuở biết ăn năn,
Năn
nỉ lòng kia tự xét rằng.
Rằng
ở đời thì nhơn đạo trọn,
Trọn
rồi Thiên đạo mới hoàn toàn.
93.
Gồng
gánh hai vai nặng nợ trần,
Có
thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa
no buổi sớm, lo nồi tối,
Cái
kiếp oan kia khá dứt lần.
94.
Lánh
đường trần tục đến non Tiên,
Lấy
nước nhành dương tưới lửa phiền.
Ðã
chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
95.
Bên mình sầu vướng khá âu lo,
Bước
nhọc đường gay gắng chí dò.
Biển
khổ chơi vơi lằn sóng dập,
Mau
chơn kẻo trễ bước con đò.
96.
Lòng
Trời đâu có phụ riêng ai?
Ai
đạo đức hơn trổi một vài.
Vài
quả thì công trình phải nặng,
Nặng
mà sau đặng đứng trên vai.
97.
Trên
vai gánh nặng cả Càn khôn,
Khôn
khéo rủ nhau xuống cả phồn.
Phồn
tục theo hoài quên trở gót,
Gót
son biết đặng mất hay còn.
98.
Phụng
gáy non Nam, Ðạo trổ mòi,
Trổ
mòi nhân vật bốn phương Trời.
Trời
Âu, biển Á chờ thay sắc,
Sắc
trắng mây lành phủ khắp nơi.
99.
Tính
chi những việc tới đâu đâu,
Ðâu
cũng Trời cao ở khỏi đầu.
Ðầu
nhà xem rõ cơ Trời Ðất,
Trời
Ðất không sai một mảy hào.
100.
Từ
thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay
Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví
bằng ai hỏi sao bao nả,
Rằng
trẻ noi sau biến hóa già.
101.
Tích phước cho con, Tích hỡi con,
Con
còn lăn líu lắm nghe con!
Con
thương con cháu là thương Ðạo,
Ðạo
chẳng ở xa, ở tại con.
102.
Tánh
tự thông minh hỏi của ai?
Ban
cho nên mới rạng cân đai.
Ðường
tu ví biết hồi lui bước,
Kẻo
để ngày qua hết một ngày.
103.
Triều
thiên nhứt lộ định phong quang,
Bất
nhá trần ai khả quí nhàn.
Thiện
tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên
niên gia sự đắc bình an!
104.
Ðạo cao thâm, Ðạo cao thâm,
Cao bất cao, thâm bất thâm.
Cao khả xạ, hề thâm khả điếu,
Cao thâm vạn sự tại nhơn tâm.
105.
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.
106.
Thiện tâm minh đạo đắc chơn truyền,
Bảo mạng trì thiên tất đắc viên.
Hậu nhựt khả tri danh lợi chí,
Tâm lưu nhứt thứ thị đương
nhiên.
LỜI
THANH MINH
20 bài thi Tứ tuyệt sau quyển Thánh Ngôn (bổn thứ
nhứt) bằng Nho Văn không được rõ ràng và khó hiểu, nếu tái bản thêm tốn giấy mà
không bổ ích cho độc giả nên miễn đăng. Trái lại có mấy bài Thánh Giáo bằng
Pháp văn dịch ra Việt Ngữ nên in vô quyển nầy để giúp độc giả rộng hiểu thêm.
Trưởng Ban Kiểm Duyệt
Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC
20 bài thi Tứ tuyệt Hán văn từ số 107 đến 126, Ngài
Hiến Pháp Trương Hữu Ðức, Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách Ðạo, bỏ ra từ bản in
năm 1964, nay xin chép bổ sung:
107.
Bình sanh tâm địa náo trung can,
Nhược thể nan tri thế đạo tàn.
Thích hạt công danh tâm mộ hám,
Hữu nhơn hữu đức đắc giang san.
108.
Tứ
quân bạch trực nhứt tâm ưu,
Mãn
hạn tu hành Ðạo thị mưu.
Cư
thế đắc thành nan vị thế,
Thánh
tâm vô đức nạn năng cừu.
109.
Ðạo
căn nhứt lượng tẩm sài hồ,
Chuyên
trị nhứt thời hạnh khả đô.
Khánh
nhựt đắc kỳ y hữu lộ,
Bắc
phương đắc ngộ tấn sinh đồ.
110.
Tiên
đàng nhứt thế biến Lôi Âm,
Tận
độ nhơn sanh thoát tục phàm.
Thánh
giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu
hồi nhập nhứt Ðạo Kỳ Tam.
111.
Tường
quang nhứt khí chiếu minh Thiên,
Ðạo
thử khả tri ý diệu huyền.
Nhơn
phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào
trang thỉnh nhập cửu quyền nhiên.
112.
Bửu
kinh đệ chiếu triệu qui hồi,
Khả
tác từ viên bất cử bôi.
Thiên
Ðịa vô công nan nhập hội,
Thành
công tùy lực khích nhơn hồi.
113.
Chí
cao tự hữu chí cao sanh,
Sanh
lạc cảnh thiền khí tự sanh.
Sanh
trị nhơn bàng tâm tức lự,
Lự
thanh lự trược tất hương sanh.
114.
Lưu
danh tự thế, thế năng tồn,
Tồn
tính tồn tâm vật tự tôn.
Tôn
bái bổn thần thành quái sự,
Sự
đương nhiên hại bổn kiền khôn.
115.
Thành
tâm tu niệm đắc Thiên ân,
Ân
tứ hiền nhân dữ thiện nhân.
Phân
thị phân phi, phi thị thị,
Thị
phi hậu thức giả phân phân.
116.
Thánh
vô trí giả tự nhiên nghinh,
Thế
bất Ðạo tùng, thế tất khuynh.
Mạc
hám hồng trần khiêm tạo mộng,
Thức
tâm dị chưởng đáo hồ đình.
117.
Hán
chất vô tri thử dược cầu,
Ðình
tiền tu tỉnh mộng huyền cầu.
Thành
tâm háo Ðạo thiên tai tán,
Chánh
thị kỳ khoa đắc sở cầu.
118.
Chí
Ðồng đắc kiến diện Thần Nông,
Bác
ái tương tâm khấn bạch hồng.
Ðắc
dược khả đình tiền khấu phục,
Thiên
trung hữu Ngã giáng tinh thông.
119.
Huyền
vi nhứt trí thức Càn khôn,
Tặng
nhữ diệc tri độ thử hồn.
Nghiệt
trái khuyến quân tu tuyệt tận,
Thiên
đình hữu lộ dĩ khai môn.
120.
Bá
lạc hữu duyên hưởng Thánh tình,
Khoan
hồng thức tỉnh mộng oai linh.
Thử
nhân đắc vấn quân tu thuyết,
Bán
thế vô công hữu đắc sinh.
121.
Hy
sanh hà xứ đáo Chơn thần,
Tại
thế hữu nhơn tất hữu quân.
Ðộc
chiếm nhứt quyền sanh thế giới,
Thiên
căn vạn kiếp vĩnh tri thoàn.
122.
Thiên
thơ dĩ định nhứt danh qui,
Tam
Giáo qui nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo
thị tối cao vô thế đoán,
Hà
nhơn đạm tánh đáo khinh khi.
123.
Quảng
trí minh tâm đắc thức thì,
Hành
tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ t
âm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc
cảnh Thiên ban quá dạ tri.
124.
Niên
ngoạt nhứt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thủy phong vân.
Thương tâm hoài cổ Lưu Linh chí,
Thiện
ác tùy công diệt đọa trần.
125.
Diệu
đạo tùy đường chí hữu linh,
Thanh
trung liên cộng tác liên bình.
Thùy
tri thế sự tâm thiềm quí,
Ðắc
nhữ trung toàn vạn lý minh.
126.
Nhựt
tại thiềm đầu, nguyệt tại song,
Hà
thời liễu đạo đắc Tiên phong.
Thùy
tri công đức Thiên tâm khiển,
Ðắc
địa nhơn do tánh tự phòng.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét