
Hội Thánh xin trích lục ra đây để cống hiến chư đạo
hữu những bài thi và những lời chỉ giáo của các Ðấng Tiền Bối đã sẵn lòng giúp
chúng ta xây dựng nền Ðạo.
Những bài thi ấy cho từ
cuối năm Ất Sửu (1925), lúc còn "xây
bàn" và đầu năm Bính Dần (1926), trước khi mở Ðạo.
Ngày mùng 6 tháng 6 năm
Ất Sửu (26-07-1925), vong linh Cụ cố CAO QUỲNH TUÂN, tức là Cụ thân sinh của
Ông CAO QUỲNH CƯ (Ðức Cao Thượng Phẩm) giáng cho trong cuộc "xây
bàn" bài thi sau đây:
THI TẬP
THI
Ly
trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi
mới vừa lên ước đặng mười.(*)
Tổng
mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình
thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên
màn đôi lúc đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi
thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót
nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp
nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Ký tên: Cao Quỳnh Tuân
(*) Mi tức là Ô Cư.
Ngày mùng 10 kế đó, cô Ðoàn Ngọc Quế giáng cho ba
bài dưới đây:
THI
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng
bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những
ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào
dè phủi nợ xuống Tuyền đài.
Dưỡng
sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ
tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn
dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai.
Trời
già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo
nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy
bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến
ôm mối thảm lại Diêm đình.
Người
thì Ngọc mã với Kim đàng,
Quên
kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình
dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc
ai chung hưởng phận cao sang.
Ký
tên: Ðoàn Ngọc Quế
Bà Bát Nương giáng làm thi vấn đề "Tiễn biệt tình lang" dưới đây:
THI
Chia
gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng
đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước
rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời
trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày
chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm
bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần
lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa
xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.
Bát
Nương
HOẠ
VẬN
Ình
ình trống giục thảm trường đình,
Ðau
nỗi chia phôi một chữ tình.
Hồng
nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng
lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vừng
trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một
mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở
phương trời người góc biển,
Lòng
thành nhắn gởi chữ khương ninh.
Quí
Cao
Ngày 14 tháng 7 năm Ất Sửu (dl. 31-08-1925).
NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG
THI
Rừng
tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng
mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu
cúc một bầu trăng gió hứng,
Non
sông dạo khắp lối đêm xuân.
Rằm tháng 7 năm Ất Sửu (dl. 01-09-1925), vì có sự
thành khẩn nên Lục Nương giáng cho bài thi sau nầy:
THI
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió
dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương
lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa
vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ
ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Non
nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn
quê cảnh úa giục cơn sầu.
Lục
Nương
Giải nghĩa hai câu thứ 5 và thứ 6 của bài thi:
Ngựa
vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ
ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Trường
quang: Ánh sáng mặt trời.
Kim mã là ngựa vàng tức mặt trời.
Ngọc thố là mặt trăng (Thỏ ngọc).
Có nghĩa là ngày giờ qua mau, rất lẹ.
THẤT NƯƠNG
Lừa
dịp đình chơn viếng cố nhân,
Cảm
tình trông đợi dạ ân cần.
Chầy
ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà
tấm lòng kia vẫn luống gần.
A Ă
Â
Thu
về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
Nhớ
đạo nghĩa nhau T. . . xúc tình.
Ðộng
cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non
xưa rừng bá thảm buông mành.
Phong
trần thương kẻ mang thân đọa,
Bồng
đảo vì ai giữ tấc thành.
Một
bóng luống chờ ngày tái ngộ,
Chơn
thần gìn đặng vẹn tinh anh.
BÁT
NƯƠNG
Ðộng
đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn
giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời
thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển
sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ
thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc
ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn
vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn
xưa tiếng nhạn luống kêu sương.
QUÍ
CAO
Tử
sanh dĩ định tự thiên kỳ,
Tái
ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc
Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang
Ðông khán thụ lụy triêm y.
Thất Nương giải nghĩa hai câu chót:
Bắc
Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang
Ðông khán thụ lụy triêm y.
Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang
Ðông gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hợp, kết làm anh em.
Như Hoành than rằng: Bắc Ngụy văn thiên thụ.
Bạch Hàm than rằng: Giang Ðông nhứt mộ vân.
Nghĩa là:
Ngó
Bắc Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn,
Nhìn
Giang Ðông thấy khóm mây vẽ hình anh.
VỊNH MAI
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết
não,
Thi không mai tuyết thế không
xuân.
9-12-1925
Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.
Xuân có tuyết mai xuân hiệp
tuyết,
Tuyết mai vầy bạn xúm chào xuân.
Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai
tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết
giành trong sạch, mai giành hương.
Nhơn
vô tùng thế đắc tùng Thiên,
Ưu
lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc
hối tiền trình căn dĩ định,
Tự
nhiên dĩ hậu phản như tiền.
14-10-1925
A Ă
Â
Mừng
thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi
đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng
mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn
lòng tu tánh chớ đơn sai.
19-12-1925
Có
cơ có thế có tinh thần.
Từ
đấy Thần, Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng
tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày
sau toại hưởng trọn Thiên ân.
20-12-1925
THẤT
NƯƠNG (Cho Ông Chấn)
Hồ
thủy vẫy vùng đáng phận trai,
Trời
chiều nay đã rạng cân đai.
Gành
Nam nêu đặng người tên tuổi,
Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.
Lộc
nước gắng đền công chín tháng,
Nợ
nhà tua vẹn gánh hai vai.
Qui
điền có lúc phong trần rảnh,
Ðinh
sắt một lòng, chí chớ lay.
21-12-1925
BÀ
THIÊN HẬU
Trước
có căn duyên ở ngọc cung,
Cầu
con nên phải đến phân cùng.
Thiên
cơ mạt lộ chờ đôi lúc,
Nương
cậy về sau khỏi não nồng.
21-12-1925
THẤT
NƯƠNG
Ðã
cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách
mặt mà lòng chẳng lảng xao.
Ðàng
Ðạo càng đi càng vững bước,
Cõi
Thiên sau ắt hội cùng nhau.
Một
nhà vầy hội rất mừng thay,
Ðạo
Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một
bước một đi đường một tới,
Lòng
thành xin trọng thấu Cao Ðài.
22-12-1925
LỤC
NƯƠNG
Cha
chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E
chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy
xa cách mặt lòng không cách,
Buồn
dở thơ hòa đọc lại ngâm.
23-12-1925
BÁT
NƯƠNG
Lửa lòng rưới tắt mượn
nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến
thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn
giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng
thương.
Mừng nay Thanh Thủy giải
dây oan,
Ðường Ðạo từ đây bước vững
vàng.
Tình ái nhành dương đem
rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên
bang.
HUỆ
MẠNG TRƯỜNG PHAN
Trước ước cùng nhau sẽ
hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm
nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền
chí,
Bồng đảo ngày nay đặng
hiệp vầy.
Tây Ninh tu luyện động
Linh Sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt
với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành
một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu
hơn.
23-12-1925
Huệ Mạng Trường Phan là Ông thầy chùa nhỏ trên núi
Ðiện Bà.
A Ă
Â
Trước vốn thương sau cũng
thương,
Một lòng nhơn đức giữ cho
thường.
Trông ơn Thượng Ðế tuông
rời rộng,
Sum hiệp ngày sau cũng một
trường.
HỚN
THỌ ÐÌNH HẦU
Tiết nghĩa trung can Hớn
đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng
ngay.
Kinh Châu thất thủ nơi
Thiên định,
Khiến Hớn vận suy mới đổi
thay.
25-12-1925
A Ă
Â
Muôn
kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui
lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo
mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn
tuổi muôn tên giữ trọn biên.
LÝ
BẠCH
Ðường
trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng
vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Ly
rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh
Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một
bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy
túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng
đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
Noël 1925
ÐỖ MỤC TIÊN (họa Lý
Bạch)
Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui Ðạo hưởng an nhàn.
Thi
Thần vui hứng ngoài rừng Trước,
Rượu
Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng
hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng
thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân
du thế giới vui mùi đạo,
Mơi
viếng kỳ sơn tối cẩm san.
LỤC
NƯƠNG
Vui
nhơn vui Ðạo lại vui thiền,
Vui
một bước đường một bước yên.
Vui
bóng Cao Ðài che khắp chốn,
Vui
gương Ngọc Ðế thấy như nhiên.
Vui
ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui
một màu thiên đóng Cửu tuyền.
Vui
vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui
Trời rưới khắp đủ ân thiên.
Noël
1925
LỤC
NƯƠNG
Mừng
nay đường Ðạo đã êm chơn,
Vàng
ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu
cúc Bàn đào chờ hội ẩm,
Thuốc
Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng
Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh
đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
Trước
chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân
phân thế tục, phẩm chi sờn.
13-1-1926 (Cầu Kho)
THẦY
Thành
tâm niệm Phật,
Tịnh,
tịnh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh, là vô nhứt vật,
Thành tâm hành đạo.
14-1-1926
Ông Ðốc Bản xin chấp bút,
THẦY
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng
công ắt đặng công mà chớ,
Buồn
bực rồi sau mới có mừng.
Tu
như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo
vốn cây che mát mẻ đường.
Một
kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Ðôi
năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có
thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện
khí thông thương khí mới tường.
Nhập
thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn
Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.
Quí
Cao 16-1-1926
THẦY
Thiệt
thiệt hư hư dễ biết chăng?
Hành
tàng chơn đạo gọi sao rằng.
Khai
Thiên lập Ðịa ai là chủ?
Thánh Phật là ai dám đón ngăn.
21-1-1926
Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết đấng Cao Ðài.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai?
21-1-1926
Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật Ðạo vốn như nhà.
23-1-1926
LỤC
NƯƠNG
Công
quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ
trần bước tục phải đua chen.
Võ
đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ
áo phồn hoa lại cảnh Thiên.
27-1-1926
Khai Ðàn Cao Quỳnh Cư:
THẦY
Ðã
để vào Tòa một sắc hoa,
Từ
đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung
thành một dạ thờ Cao sắc,
Sống
có Ta thác cũng có Ta.
Ðài
sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một
Ðạo như con ở một nhà.
Hiếu
nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ
trung Từ Phụ vốn là Ta.
27-1-1926
LÝ
BẠCH
Có
công phải biết gắng nên công,
Tu
tánh đã xong tới luyện lòng.
Kinh
sách đầy đầu chưa thoát tục,
Ðơn
tâm khó định lấy chi mong.
21-7-1926
THẦY
Một
ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên
Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện
đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa
Thiên xuất nhập cũng như nhà.
Cương
tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng
mơ oan nghiệt một đời nầy.
Hữu
duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu
niệm khuyên bền chí chớ lay.
28-1-1926
Thầy vui vì các con thuận hòa cùng nhau; Thầy muốn
cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.
29-1-1926
THẦY
(Khai
Ðàn cho Ông Lê Văn Trung)
Một
Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy
dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm
mối thiên thơ lo cứu chúng,
Ðạo
người vẹn vẻ mới thành Tiên.
31-1-1926
THẦY
Dạy
trẻ con toan trước dạy mình,
Cái
công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo
đời tua biết rằng đời trọng,
Một
điểm quang minh một điểm linh.
23-2-1926
THI
VĂN DẠY ÐẠO
1.
Khổ
đời muốn lánh gắng tìm phương,
Giành
giựt đừng mong chác thế thường.
Xạo
xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau
tria nét đạo nực mùi hương.
Rừng
Thiền ngàn dặm Trời soi bước,
Biển
khổ muôn chia khách lạc đường.
Gặp
được nẻo ngay đời có mấy?
Thìn
lòng khối ngọc tạo nên gương.
2.
Gắng
sức trau giồi một chữ tâm,
Ðạo
đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm
thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm
chánh mới mong mối Ðạo cầm.
Tâm ái nhân sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường tâm cửa Thánh dầu
chưa vẹn,
Có
buổi hoài công bước Ðạo tầm.
3.
Phải
giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc
Hư toàn ngự đấng tinh anh.
Luật
điều Cổ Phật không chừa tội,
Hình
phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
Chánh
trực kinh oai loài giả dối,
Công
bình vừa sức kẻ chơn thành.
Mũi
kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết
sợ xin khuyên cẩn thận mình.
4.
Màn
Trời đã vẹt ngút mây trương,
Bước
tới Ðài Hoa thấy tỏ tường.
Ngọc
sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối
mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh
tà đôi nẻo tua tầm chước,
Hư
thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê
tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng
thiền nô nức loán mùi hương.
5.
Tìm
Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê
mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong
ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm
chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên
cơ tuy hẳn nêu trường khảo,
Lướt
khỏi, ngàn thu quả đắc thành.
6.
Ðổi
tục về Tiên sắc đượm nhuần,
Rưới
chan cho khắp giọt hồng ân.
Rừng tòng thanh nhã say mùi Ðạo,
Bể khổ mênh mang vớt khách trần.
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh
luân nặng túi ấy nguồn nhân.
Buồm
trương lái vững chờ sông lệ,
Ðưa
chiếc thuyền sen dựa đảnh Thần.
7.
Cậy
kẻ dạy con cũng lẽ thường,
Cho
roi cho vọt mới là thương.
Nhơn
tình ví chẳng mưu thâu phục,
Thế
giới mong chi phép độ lường.
Nhỏ
dạy Thầy nuôi mùi Ðạo hạnh,
Lớn
khôn bây xứng mặt hiền lương.
Vinh
hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
Khổ
cực các con chớ bỏ trường.
8.
Trau
giồi giữ xứng phận nga mi,
Tấn
thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh
sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng
ân chi kém bạn nam nhi.
Lọc
lừa chớ để đen pha trắng,
Lui
tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh
đức điểm tô non nước Việt.
Muôn
năm bia tạc tiếng còn ghi.
9.
Thiều
quang nhặt thúc khuất màu xuân,
Trở
bước quanh co rán liệu chừng.
Hứng
giọt Ma Ha lau tục lụy,
Ngừa
thuyền Bát Nhã thoát mê tân.
Trau
tâm hiệp sức vun nền Thánh,
Dưỡng
tánh chờ khi sạch bợn trần.
Phước
gặp Tam Kỳ Trời cứu độ,
Gắng
tu kịp buổi lướt Ðài Vân.
10.
Rừng
thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa,
Phước
gặp về Ta buổi đã vừa.
Nẻo
hạnh làu soi gương nguyệt thấm,
Sân
ngô rạng vẻ cảnh thu đưa.
Mai
tàn tuyết xủ đời thay đổi,
Dữ
tận hiền thăng khách lọc lừa.
Mùi
Ðạo gắng giồi lòng thiện niệm,
Duyên
mai tìm lại phẩm ngôi xưa.
11.
Rẽ
lối non sông thấy Ðộng đào,
Bừng
con mắt tỉnh giấc chiêm bao.
Ðường
gai gốc gắng lần qua khỏi,
Cảnh
rạng ngần tua rán bước vào.
Mùi
tục lần xa, vui đạo đức,
Cõi
tâm rộng mở khổ giồi trau.
Nước
dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ
giác nương theo nguyệt rọi làu.
12.
Cần
lo học Ðạo chí đừng lơi,
Phú
quí sương tan lố bóng Trời.
Lợi
lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa
nhơn tích trữ để muôn đời.
Làm
lành sau cũng lành vay trả,
Chác
dữ âu hay dữ vốn lời.
Mấy
kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân
danh bể khổ mặc buông trôi.
13.
Lần
lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,
Ướm
chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.
Rạng
nẻo chung soi đèn Bạch Ngọc,
Dò
đường xúm núp bóng Hồng Quân.
Hồi
chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
Tiếng
trống giác mê nhặt đỉnh Thần.
Biết
Ðạo khá lo trau hạnh đức,
Dữ
lành đợi buổi cũng cân phân.
14.
Ngày
chầy dặm thẳng gắng đưa qua,
Chịu
khổ trau tâm chí mới già.
Vẹt
ngút mây xanh Trời tỏ rõ,
Quét
lằn bụi đỏ thế phui pha.
Lòng
trần gội sạch noi đường chánh,
Nét
Ðạo gìn thanh lánh nẻo tà.
Ðèn huệ chực soi mau tiến bước,
Nơi
miền cực lạc dễ đâu xa.
15.
Ðường
về muốn vẹn để công trình,
Bóng
nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
Xuân
hé đã hay cơn ác lố,
Ðông
tàn khá biết lúc Trời chinh.
Trau tài trau phận tua trau đức,
Biết thế biết nhân mới biết mình.
Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,
Hay chi thế tục chước cầu vinh.
16.
Nhiệm
mầu Tạo hóa cuộc vần xây,
Thưởng
phạt cũng do một buổi nầy.
Ðức
trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,
Nhân
sau để dấu chí đừng lay.
Ðường
mây thẳng gió hồng trương cánh,
Bước
Ðạo êm chơn nguyệt rọi mày.
Dìu
dắt sanh linh lo tế độ,
Thiên
niên danh tạc chốn Vân Ðài.
17.
Liễu
Huệ nhuần sương Liễu Huệ tươi,
Chiều
Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
Màn
Trời mây khỏa muôn sao lố,
Thuyền
Ðạo buồm treo một sắc phơi.
Cội
trước gió đưa hơi nhắn khách,
Rừng
tòng khách giục cảnh chờ người.
Lần
theo bước rạng non Thần đến,
Chớ
luyến phồn hoa lụy đến nơi.
18.
Vun
nền đạo hạnh khá rèn lòng,
Gặp
hội đành vui chữ sắc không.
Cúc
rải đường qua vang tiếng nhạn,
Rừng
tà bóng khuất vẳng hơi thung.
Xuôi
chiều đổ bến êm dòng bích,
Phải
lúc nương mây chớp cánh hồng.
Nhuần
gội ơn Trời âm chất vẹn,
Mau
chơn ngày tháng đã qua đông.
19.
Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
Tỏ rạng gần noi bước vẹn gìn.
Ách đất rắp nhồi trường náo nhiệt,
Cửa Trời kịp mở vớt quần sinh.
Nâng đời khá gắng trau nhơn đức,
Học Ðạo tua năng luyện tánh tình.
Khổ hạnh chí mong qui nẻo chánh,
Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh.
Ấn bản năm Nhâm Tý (1972): Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
Ấn bản năm Canh Tuất (1970): Tỏ rạng gần noi bước vẹn gìn.
20.
Non
chiều ác xế bóng Trời thâu,
Nẻo chánh may nương buổi đáo đầu.
Theo
bước kịp thì tìm ánh sáng,
Ngừa
thuyền ấy lúc lánh dòng sâu.
Soi
gương hạnh đức trau lòng tục,
Hứng
giọt từ bi rửa bợn sầu.
Nhặt
thúc quang âm xuân đã lụn,
Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.
21.
Thìn trau đức tánh để nêu gương,
May
gặp đạo mầu gắng liệu phương.
Cội
Bắc chim về chiều ngã bóng,
Non
Nam ác lố ánh tan sương.
Thuyền
từ sông lệ buồm trương cánh,
Cảnh
trí rừng thung khách lướt đường.
Ðộ
chúng cứu đời công nghiệp để,
Thiên
ân hưởng trọn khá lo lường.
22.
Cành
mai thơ thới đượm hơi xuân,
Dìu
dắt đem nhau lại đảnh Thần.
Tích
đức để lòng trau khổ hạnh,
Diệt
phàm gắng chí thoát mê tân.
Lừng
Trời vẹt ngút mây xây mịt,
Ðài
ngọc khoe gương sắc rạng ngần.
Công
nghiệp dồi dào âm chất đủ,
Long
Hoa đợi hội hưởng Thiên ân.
23.
Ðã
nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc
xác lao tâm hỏi có thành?
Ác
lố rọi tan lằn gió bụi,
Nguyệt
lờ soi gượng bước công khanh.
Ðường
tu ví sớm noi gương rạng,
Cội
phúc mai sau hưởng quả lành.
Mộng
ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa
qua cửa sổ cuộc tan tành.
24.
Dặm
dài bước lạ nẻo chưa quen,
Tánh
chất dầu trau gẫm chẳng hèn.
Bóng
trải diềm dà xuân đợi chúa,
Tiết
nồng thơ thới hạ khoe sen.
Nhành
dương nước rưới tan lòng tục,
Nguồn
Thánh đạo dìu lại cõi Tiên.
Phước
gặp kỳ ba Trời dẫn độ,
Mau
chơn rán lướt tới rừng thiền.
25.
Day
mặt Hồng Quân ngó Ðịa hoàn,
Rưới
chan vạn vật khối sinh quang.
Cõi
Tiên mở rộng cung Ðâu Suất,
Nước
Phật sửa an cảnh Niết Bàn.
Cứu
thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,
Ðộ
đời cố tạo phước nhơn gian.
Thần
thông trói chặt Ma vương quái,
Dìu
bước vạn linh đến cảnh nhàn.
26.
Viết
thử Thiên thơ với nét trần,
Hầu
sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.
Chuyển
luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ
diệt tà gian múa bút Thần.
Kìa
lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy
xem nước Lỗ biến hình lân.
Công
danh nước Việt tay đành nắm,
Mưa
mốc dân sanh gắng gội nhuần.
27.
Ðường
mây sẵn lối gặp may duyên,
Nâng
gánh xa thơ sửa mối giềng.
Anh
tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy
linh Trời giữ tạc đài liên.
Hồn
về nước cũ đời nương thế,
Hạc
lại tùng xưa đức lập quyền.
Ðảnh
Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn
năm tỏ rạng mối chơn truyền.
28.
Có
hiệp đem đường nẻo mới thông,
Phân
chia cội Ðạo uổng vun trồng.
Quanh
đường chớ cậy chơn Kỳ Ký,
Ngược
gió tài chi sức Hộc Hồng.
Bể
khổ mênh mang lo giải khổ,
Nền
công nghiêng ngửa gắng nên công.
Phong
ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ
bởi chung nhau kết dải đồng.
29.
Bạch
Vân nhàn lạc khỏe thân già,
Thương
kẻ nặng mang nợ quốc gia.
Ðời
rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,
Ðạo
thành vạn đại chiếu sơn hà.
Thiện
nam gắng giữ nền nhân nghĩa,
Chơn
nữ hằng ghi thuyết cộng hòa.
Trách
nhiệm thiệt hành cho vẹn phận,
Hồng ân chung hưởng buổi âu ca.
30.
Trần
thế hầu gây náo nhiệt trường,
Lánh
nguy nguồn Ðạo vẹn tìm phương.
Vùi
sầu nay gắng chung vai gánh,
Hưởng
phước sau may hiệp bước đường.
Cay
đắng lần soi gương trí huệ,
Chia
phui chờ trải lối tang thương.
Dặn
mình tua chặt trong gang tấc,
Sau
trước lòng son giữ đặng thường.
31.
Biến
chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
Trường Ðời đem thử gan Anh Tuấn,
Cửa Ðạo mới ra mặt Thánh Hiền.
Ðau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,
Tang
thương chờ hưởng huệ ân riêng.
Non
sông Việt chủng ngày êm lặng,
Chung
sức cùng nhau đức lập quyền.
32.
Những
là khổ nhọc chịu cơ đời,
Hạnh
phúc thử nhìn đặng mấy mươi.
Vinh
nhục đòi phen vui lẫn khóc,
Ghét
thương lắm lúc giận pha cười.
Ðường
tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo
đức gồm theo thiệt hóa chơi.
Thoát
tục ví ai tìm nẻo Thánh,
Bến
mê lướt sóng đến ven Trời.
33.
Bóng
dương tỏ rạng lố chơn mây,
Ðầm
ấm hơi xuân nở mặt mày.
Tranh
thế bớt pha lằn bợn trược,
Cuộc
đời thêm rạng vẻ thanh bai.
Trường
Tiên mở rộng chơn du khách,
Nẻo
hoạn buông khơi trí đặc tài.
Lọc
nước rửa đời Trời để dấu,
Riêng
che Nam đảnh một cân đai.
34.
Ác
lồng nhựt rạng tản sương mơi,
Gặp
lối đường quanh khó tách vời.
Thuyền
Ðạo đẩy đưa lằn sóng biển,
Bước
đời dùn thẳng bước thang Trời.
Ðai
cân mảng luyến chưa nên phận,
Danh
lợi ham giành khó vẹn ngôi.
Nhắn
nhủ phồn hoa mau thức tỉnh,
Lần
lừa bỏ quá kiếp xuân thời.
35.
Lồng
sương gió thoảng bặt hơi xuân,
Ðể
bước tìm nơi Ðạo gội nhuần.
Sóng
khỏa thuyền về còn lắc lở,
Rừng
chờ khách trở buổi cân phân.
Trau
gương hạnh đức pha lòng tục,
Giồi
trí thanh cao giữ tánh Thần.
Thưa
nhặt thoi đưa trời xế bóng,
Xét
mình một khắc một mau chân.
36.
Dìu
dắt tìm ra lối lạ lùng,
Bóng
trời xúm xít đỡ nương chung.
Dài
đường chớ ngán con Kỳ Ký,
Ngược
gió đừng nao cánh Hộc Hồng.
Nhướng
mắt tua dò theo kẻ trí,
Thìn
lòng khá gắng đắp nền công.
Sen
tàn cúc nở qua ngày tháng,
Nhặt
bước đường hoa đến cội tùng.
37.
Cái
kiếp hồng nhan kiếp đọa đày,
Phải
làm cho gái hóa ra trai.
Linh
oai vẻ ngọc là gươm sắc,
Mềm
mỏng hình hoa ấy phép tài.
Phòng
tía cất thành hình thổ võ,
Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.
Muốn đi cho tận trường sanh địa,
Phải đổi giày sen lấy thảo hài.
Ấn bản năm Nhâm Tý
(1972): Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,
Ấn bản năm Canh Tuất (1970): Linh oai vẻ ngọc là gương sắc,
38.
Bắt
ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc
Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu
Trùng không kế an thiên hạ,
Phải
để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành
pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên
công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền
hành từ đấy về tay nắm,
Phải
sửa cho nên đáng thế thì.
39.
Ðào
Nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai
ngỡ Việt Thường đã thấy lân.
Cung
Ðẩu vít xa gươm xích quỉ,
Thiềm
cung mở rộng cửa Hà ngân.
Xuân
thu định vững ngôi lương tể,
Phất
chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi
khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở
đường quốc thể định phong vân.
40.
Mở
rộng đường mây rước khách trần,
Bao
nhiêu tình gợi nhắn nguyên nhân.
Biển
mê cầu ngọc liên phàm tục,
Cõi
thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.
Chuyển
nổi Càn Khôn xây Võ Trụ,
Nhẹ
nâng Nhựt Nguyệt chiếu Ðài Vân.
Cầm
gươm huệ chặt tiêu oan trái,
Dìu
độ quần sanh diệt quả nhân.
1.
Nầy
lúc Kỳ Ba Phổ Ðộ trần.
Mau
chơn thoát khỏi chốn mê tân.
Ðường
gai gốc gắng lần qua khỏi,
Ðạo
đức sớm hôm khá vẹn cần.
2.
Nguồn
đào lạc lối ấy duyên may,
Gặp
Ðạo nương theo bước dặm dài.
Nắng
hạ héo khô vườn bá tánh,
Dắt
nhau tìm núp bóng Cao Ðài.
3.
Cao
Ðài đứng chủ cả sanh linh,
Bến
khổ bầu Tiên rưới thế tình.
Mở
mắt tỉnh lần cơ mộng điệp,
Hữu
sanh hữu khổ phải toan gìn.
4.
Gìn
lòng chơn chánh chớ tà tây,
Thưởng
phạt về sau cũng hội nầy.
Trước
biết sửa mình tâm trí vẹn,
Sau
nương cảnh tịnh mới nên hay.
5.
Hay
gần đạo đức mới nên thân.
Lánh
chốn phồn hoa giữ tánh thần.
Một
nét vạy tà Thần Thánh chép,
Rèn
lòng trong sạch thoát mê tân.
6.
Tân
toan khổ hạnh phải trau giồi,
Bước
tới đường dài chớ trở lui.
Công
khó độ đời đừng nệ khó,
Phước
dư đợi lúc hưởng ơn Trời.
7.
Ðông
tàn cảnh ướm trở nên xuân,
Xuân
nở vườn mai há mấy lần.
Lần
lựa cho đò xa bến Thánh,
Thánh
tâm mấy kẻ vẹn trau thân.
8.
Nghèo
sạch rách thơm mới đáng người,
Nệ
chi cực nhọc buổi xuân mơi.
Nay
đà gặp lúc thiên ân rưới,
Gắng
bước đường tu hưởng phước đời.
9.
Tài
tuy ít, đức nên nhiều,
Nhiều
đức mới tròn bước Ðạo theo.
Theo
đặng bước nào gìn bước nấy,
Trở
lui e vướng lúc nghiêng nghèo.
10.
Tà
nguyệt vườn thu ướm trở đông,
Nhạn
về đảnh Bắc tiếng qua sông.
Bền
lòng thiện niệm bồi căn trước,
Trễ
bước thuyền e bị ngược dòng.
11.
Lo
lường nền hạnh đặng lên cao,
Cao
đức nguồn Tiên mới bước vào.
Vào
đặng Tam Kỳ Trời cứu khổ,
Khổ
thêm gắng chịu tánh năng trau.
12.
Ðường
Ðạo tìm vào mới rõ cơ,
Cơ
mầu giải khổ chớ chần chờ.
Chờ
cho trễ bước thuyền xa bến,
Bến
tục thoát vòng hết ước mơ.
13.
Trời
thương đâu nệ nhọc công trình,
Chịu
nhọc vì lo đám chúng sanh.
Sanh
dưỡng dưỡng sanh rồi phải độ,
Ðộ
cho trở bước lại đơn đình.
14.
Giựt
giành rốt cuộc cũng tay không,
Nhân
quả đeo mang tội chất đồng.
Ví
biết phép công cơ thưởng phạt,
Ðường
tu sớm bước chí thong dong.
15.
Sáng
đường nhờ có bóng trời soi,
Ðạo
đức để tâm chớ đổi dời.
Công
quả thìn lòng sau hưởng phước,
Dặm
dài đừng nệ bước xa xôi.
16.
Gìn
giữ về sau mối Ðạo mầu,
Nương
theo bước trước gắng tìm châu.
Thuyền
chờ bến tục buồm trương sẵn,
Ðưa
đến nguồn trong rửa bợn sầu.
17.
Quanh
co muốn khỏi gắng lòng thành,
Chứa đức là phương phước để
dành.
Hứng
giọt nhành dương lau tục lự,
Hay
chi thua được bả công khanh.
18.
Công
khanh xạo xự cũng vai tuồng,
Ðêm
lặng rừng thiền lóng tiếng chuông.
Mê
luyến hồng trần mang ách khổ,
Cơn
vui qua khỏi lệ sầu tuôn.
19.
Nẻo
chánh tìm theo mối đạo gìn,
Hay
chi tuồng thế bước đua tranh.
Của
nhiều ít đức sương trên cỏ,
Giành
giựt mà chi phải lụy mình.
20.
Ðừng
sợ khó, khó nên công,
Công
khó may gìn chữ sắc không.
Không
sắc sắc không vui đảnh hạc,
Hạc
về chốn cũ dựa rừng tòng.
21.
Rừng
tòng tìm đến lánh cay chua,
Ðêm
lặng lóng nghe tiếng khánh chùa.
Lần
gội tâm phàm vui cảnh trí,
Ðường
trần lưu luyến nhọc tranh đua.
22.
Dời
đổi thói đời lắm thị phi,
Trăm
năm chung đỉnh có ra gì?
Tìm
nguồn đạo đức tâm phàm gội,
Danh
mà chi, lợi ấy mà chi?
23.
Thông
biết thế thời mới gọi thông,
Thông
minh học đạo vẹn trau lòng.
Lòng trần dầu muốn phong ba dứt,
Ðộ chúng tu nhơn chí nả nong.
24.
Sáng
đèn cánh bướm liệng xôn xao,
Lánh
họa tua gìn hạnh đức trau.
Noi
dấu đường ngay Trời tế độ,
Chen
chơn nguồn Thánh bước lần vào.
25.
Ức
lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền
đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão
nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng
là vay trả luật xưa nay.
26.
Dữ
đọa hiền thăng ấy luật Trời,
Lánh
đường tà vạy hưởng an vui.
Nay
con phước gặp nền chơn Ðạo,
Ngọc
tốt bền trau sắc rạng ngời.
27.
Suối
lành đổ nước hóa sông thanh,
Ðức
hạnh muốn trau vẹn tánh lành.
Trước
muốn đưa chơn vào cửa Phạm,
Hỏi
mình có trọn tấm lòng thành?
28.
Dối
ai đâu dễ dối cùng Trời,
Biết
đạo răn mình cũng hết hơi.
Từ
bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự
nhiên bể khổ lánh xa vời.
29.
Bá
tước công khanh ý vị gì?
Mà
đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương
chơn chưa biết chơn nào vững,
Níu
thử cân đai thấy nặng trì.
30.
Ðược
vàng chớ khá gọi là may,
Vàng
hết tội kia chất dẫy đầy.
Bỏ
đức bỏ nhân bao kiếp đọa,
Khuyên
con giữ đạo đến cùng Thầy.
31.
Lối
ngay nẻo chánh gắng tìm đường,
Lánh
chốn thị phi đạo mới tường.
Dòng
bích thuyền từ còn đợi bến,
Thu
qua gặp gió cánh buồm trương.
32.
Cõi
thế tìm nơi đạo đức vào,
Lòng
thành Thần Thánh chứng công lao.
Nhân
sanh thấy khổ đưa tay cứu,
Chẳng
mất phần sau địa vị cao.
33.
Thắm
thoát đời qua cuộc bể dâu,
Ham
vui chỉ chác cuộc mua sầu.
Lập
thân muốn tránh đường mưa gió,
Tìm
Ðạo nương mình vững nghiệp sau.
34.
Rừng thiền trở gót mới thung dung,
Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.
Lao lực thế tình chi xạo xự,
Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.
35.
Cung đàn chờ khách cận song thu,
Năng mến Ðạo mầu chí trượng phu.
Biển
khổ vớt người thuyền gặp lúc,
Ðeo
đai thế sự chỉ mua sầu.
36.
Tách
bến sông mê sóng tạt thuyền,
Lọc
lừa nghiệp quả kẻ may duyên.
Trương
buồm hạnh đức xuôi chiều gió,
Ðưa
khách phồn hoa lánh nẻo phiền.
37.
Sao
cho thành kỉnh Phật Trời thương,
Ðạo
đức chăm lo vững mối đường.
Công
nghiệp phải lo sanh chúng độ,
Ðàn
sau để dấu kẻ soi gương.
38.
Mùi
đời biết đặng lắm chua cay,
Cay
đắng kiếp người khổ ớ ai?
Ai
dám xả thân hành chánh Ðạo,
Ðạo
mầu theo dõi hết trần ai.
39.
Ðồng
thuyền kẻ trước dắt người sau,
Sau
trước nương nhau ấy chước mầu.
Mầu
nhiệm dễ chi tìm thấu đáo,
Ðáo
đầu mới rõ Ðạo là cao.
40.
Ðạo
đức gắng theo đỡ ít nhiều,
Ngày
thâu bóng nhựt đã hầu xiêu.
Tu
thân dầu khổ, thân tiên độ,
Có
khó có nên nhọc phải chiều.
41.
Xử
thế phải cho vẹn thế tình,
Trau
tâm trau đức sạch chơn linh.
Bến
mê rước khách thuyền đương đợi,
Ðưa
đến đào nguyên hưởng phước lành.
42.
Dò
theo đường chánh chớ sai lầm,
Biết
đạo cần trau một chữ tâm.
Tiên
Phật nơi mình đâu phải khó,
Khó
do chẳng trọn tấm chơn thành.
43.
Ðức
tánh khen con có chí thành,
Lần
đường Ðạo chẳng chút cầu danh.
Ghe
phen cửa rách hiên nhà lủng,
Không
quản lao đao giữ tiếng lành.
44.
Dọn
mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ
chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng
bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự
nhiên rõ thấu đạo cao thâm.
45.
Trau
hạnh làm gương dắt kẻ sau,
Một
nhà đạo đức khá thương nhau.
Noi
theo người trước đời trông cậy,
Gắng
sửa lều tranh hóa động đào.
46.
Nâu
sồng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như
bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng
chí tập lần thân cực nhọc,
Bền
tâm tu luyện mới là nên.
47.
Cao
đê thế sự khá đinh ninh,
Một
dặm xa xuôi nhọc lộ trình.
Lần
lựa chỉ sầu tay gỡ rối,
Trời
tây bóng nhựt đã hầu chinh.
48.
Dư
phước dành sau ấy thế hay,
May
chơn bước gặp bóng Cao Ðài.
Sạch lòng để dạ vun nền Ðạo,
Phủi thế an vui đợi đến ngày.
49.
Mạnh yếu rồi đây yếu được phần,
Ðược phần máy Tạo khéo cầm
cân.
Cầm
cân thăng thưởng răn người thế,
Người
thế sao cho hạnh chói ngần.
50.
Tranh
đua đã quá nửa đời người,
Thử
hỏi phước phần được mấy mươi.
Mưu
được phần mình thì tổn đức,
Của
tiền dầu chất há an vui.
51.
Vui
Ðạo vui nhân ấy thiệt vui,
Vui
còn sóng sắc hại mình thôi.
Vui nơi đổ bác là vui khổ,
Vui
thói tà gian lụy trọn đời.
52.
Ðời
qua thắm thoát cõi nhơn gian,
Sớm
nở hoa kia chiều vội tàn.
Mái
tóc điểm sương chưa học Ðạo,
Họa kề dầu hối khó than van.
53.
Lắm kẻ còn xuân chẳng tiếc xuân,
Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.
Chớ quên máy Tạo nên mầu nhiệm,
Vay trả đồng cân thế chuyển luân.
54.
Chữ hiếu phải lo vẹn phận người,
Sanh thành đạo trọng há đâu chơi.
Buông trôi ví chẳng tròn nhơn đạo,
Còn có mong chi đến Ðạo Trời.
55.
Có thân có khổ, khổ vì thân,
Nào có sướng chi cái kiếp trần.
Kẻ
trí phải lo phương giải khổ,
Tìm
thuyền Bát Nhã lánh mê tân.
56.
Mê tân là chốn đọa con người,
Vương bá công hầu lụy mấy mươi.
Ham miếng đỉnh chung mê sắc đẹp,
Hại thân tiếng xấu để muôn đời.
57.
Thảo ngay con vẹn giữ cho bền,
Phải phận là phần đáng bậc trên.
Dìu dắt đàn em sau nối gót,
Con đường đạo đức bước càng lên.
58.
Nhiều nhân quả trước phải đền nay,
Chẳng
gỡ cho kham cứ nhắc hoài.
Một
tiếng than van thân cực nhọc,
Một
oan chẳng chịu muốn gây hai.
59.
Cang
cường quen tánh hiếp dân nghèo,
Nghe
Ðạo Phật Trời cũng muốn theo.
Chẳng
khác chồi non xô đại mộc,
Như
sa vực thẳm khó toan trèo.
60.
Tìm
vào nẻo Ðạo mới tri cơ,
Cơ
Tạo huyền vi chớ hững hờ.
Tỉnh
giấc mộng chờ qua biển khổ,
Thế
tình vui vẻ chí đừng mơ.
61.
Say Ðạo là say bậc Thánh Hiền,
Hiền xưa sớm để bước tầm Tiên.
Tiên
nguồn Thánh ngọn dò chơn đến,
Ðến
đặng là phương rưới lửa phiền.
62.
Tranh
đức tranh nhân mặc sức tranh,
Ðừng
tranh lợi quấy khổ thân hình.
Hai
đường họa phước tua lừa lọc,
Vay
trả cơ Trời chớ dể khinh.
63.
Ðừng
lòng kiêu hãnh cậy mình tài,
Nên
nhớ chữ tài cận chữ tai.
Tài
ít đức nhiều còn hữu dụng,
Tài
suông thiếu đức họa nay mai.
64.
Nhơn
nghĩa gắng gìn dạ sắt son,
Thờ
cha kính mẹ hiếu lo tròn.
Nghèo mà trong sạch danh thơm rạng,
Phúc
hậu Trời ban để cháu con.
65.
Họa
phước vô môn chỉ tại người,
Thỉnh
mời rồi đổ bởi nơi Trời.
Huệ
ân muốn hưởng noi đường Ðạo,
Hối cải tu thân phải giữ lời.
66.
Mùi đời đã nếm biết chua cay,
Giành giựt còn mong cậy sức tài.
Nếu chẳng định tâm lo xét quấy,
Nhãn tiền báo ứng dễ đâu sai.
67.
Ðừng quá so đo việc phú bần,
Bần hàn trong sạch mới nên thân.
Thân trau khổ hạnh thân đừng nệ,
Nệ khó mong chi thoát thế trần.
68.
Thế trần mộng mị có ra chi,
Giành giựt rồi qua hỏi được gì?
Tích đức gắng gìn nhơn nghĩa trọn,
Chông
gai xa lánh cảnh sầu bi.
69.
Nợ
nước hai vai nặng gánh gồng,
Thần
dân phận sự phải lo xong.
Gắng
công đạo đức trau hằng bữa,
Chiu
chít đừng quên giống Lạc Hồng.
70.
Ơn
Trời cho mở Ðạo kỳ ba,
Dìu
dẫn nhơn sanh lánh vạy tà.
Ví
muốn tu thân nhồi quả trước,
Gắng
công sau sẽ đến cùng Ta.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét