Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Toàn Tập - 8 / 8 ( TòaThánh Tây Ninh )


Hội Thánh xin trích lục ra đây để cống hiến chư đạo hữu những bài thi và những lời chỉ giáo của các Ðấng Tiền Bối đã sẵn lòng giúp chúng ta xây dựng nền Ðạo.
Những bài thi ấy cho từ cuối năm Ất Sửu (1925), lúc còn "xây bàn" và đầu năm Bính Dần (1926), trước khi mở Ðạo.

Ngày mùng 6 tháng 6 năm Ất Sửu (26-07-1925), vong linh Cụ cố CAO QUỲNH TUÂN, tức là Cụ thân sinh của Ông CAO QUỲNH CƯ (Ðức Cao Thượng Phẩm) giáng cho trong cuộc "xây bàn" bài thi sau đây:
THI TẬP

THI

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.(*)
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đôi lúc đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Ký tên: Cao Quỳnh Tuân
(*) Mi tức là Ô Cư.

Ngày mùng 10 kế đó, cô Ðoàn Ngọc Quế giáng cho ba bài dưới đây:

THI

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống Tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.

Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm đình.

Người thì Ngọc mã với Kim đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.
Ký tên: Ðoàn Ngọc Quế

Bà Bát Nương giáng làm thi vấn đề "Tiễn biệt tình lang" dưới đây:

THI

Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

Bát Nương
HOẠ VẬN
Ình ình trống giục thảm trường đình,
Ðau nỗi chia phôi một chữ tình.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.

Quí Cao
Ngày 14 tháng 7 năm Ất Sửu (dl. 31-08-1925).

NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG
THI

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

Rằm tháng 7 năm Ất Sửu (dl. 01-09-1925), vì có sự thành khẩn nên Lục Nương giáng cho bài thi sau nầy:
THI

Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.

Lục Nương
Giải nghĩa hai câu thứ 5 và thứ 6 của bài thi:
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.

Trường quang: Ánh sáng mặt trời.
Kim mã là ngựa vàng tức mặt trời.
Ngọc thố là mặt trăng (Thỏ ngọc).
Có nghĩa là ngày giờ qua mau, rất lẹ.

THẤT NƯƠNG
Lừa dịp đình chơn viếng cố nhân,
Cảm tình trông đợi dạ ân cần.
Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

A Ă Â
Thu về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
Nhớ đạo nghĩa nhau T. . . xúc tình.
Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non xưa rừng bá thảm buông mành.
Phong trần thương kẻ mang thân đọa,
Bồng đảo vì ai giữ tấc thành.
Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,
Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.

BÁT NƯƠNG
Ðộng đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

QUÍ CAO
Tử sanh dĩ định tự thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Thất Nương giải nghĩa hai câu chót:
Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang Ðông gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hợp, kết làm anh em.
Như Hoành than rằng: Bắc Ngụy văn thiên thụ.
Bạch Hàm than rằng: Giang Ðông nhứt mộ vân.

Nghĩa là:
Ngó Bắc Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn,
Nhìn Giang Ðông thấy khóm mây vẽ hình anh.

VỊNH MAI
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.

9-12-1925
Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.
Xuân có tuyết mai xuân hiệp tuyết,
Tuyết mai vầy bạn xúm chào xuân.

Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch, mai giành hương.

Nhơn vô tùng thế đắc tùng Thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc hối tiền trình căn dĩ định,
Tự nhiên dĩ hậu phản như tiền.

14-10-1925
A Ă Â
Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

19-12-1925
Có cơ có thế có tinh thần.
Từ đấy Thần, Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

20-12-1925
THẤT NƯƠNG (Cho Ông Chấn)
Hồ thủy vẫy vùng đáng phận trai,
Trời chiều nay đã rạng cân đai.
Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,
Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.
Lộc nước gắng đền công chín tháng,
Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.
Qui điền có lúc phong trần rảnh,
Ðinh sắt một lòng, chí chớ lay.

21-12-1925
BÀ THIÊN HẬU
Trước có căn duyên ở ngọc cung,
Cầu con nên phải đến phân cùng.
Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc,
Nương cậy về sau khỏi não nồng.

21-12-1925
THẤT NƯƠNG
Ðã cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà lòng chẳng lảng xao.
Ðàng Ðạo càng đi càng vững bước,
Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Ðạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao Ðài.

22-12-1925
LỤC NƯƠNG
Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.

23-12-1925
BÁT NƯƠNG
Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,
Ðường Ðạo từ đây bước vững vàng.
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.

HUỆ MẠNG TRƯỜNG PHAN
Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.

Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.

23-12-1925
Huệ Mạng Trường Phan là Ông thầy chùa nhỏ trên núi Ðiện Bà.

A Ă Â
Trước vốn thương sau cũng thương,
Một lòng nhơn đức giữ cho thường.
Trông ơn Thượng Ðế tuông rời rộng,
Sum hiệp ngày sau cũng một trường.

HỚN THỌ ÐÌNH HẦU
Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,
Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

25-12-1925
A Ă Â
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

LÝ BẠCH
Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.

Noël 1925
ÐỖ MỤC TIÊN (họa Lý Bạch)
Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui Ðạo hưởng an nhàn.
Thi Thần vui hứng ngoài rừng Trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giới vui mùi đạo,
Mơi viếng kỳ sơn tối cẩm san.

LỤC NƯƠNG
Vui nhơn vui Ðạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên.
Vui bóng Cao Ðài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Ðế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui một màu thiên đóng Cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân thiên.

Noël 1925
LỤC NƯƠNG
Mừng nay đường Ðạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu cúc Bàn đào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục, phẩm chi sờn.

13-1-1926 (Cầu Kho)
THẦY
Thành tâm niệm Phật,
Tịnh, tịnh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh, là vô nhứt vật,
Thành tâm hành đạo.

14-1-1926
Ông Ðốc Bản xin chấp bút,

THẦY
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.

Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Ðôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện khí thông thương khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.

Quí Cao 16-1-1926
THẦY
Thiệt thiệt hư hư dễ biết chăng?
Hành tàng chơn đạo gọi sao rằng.
Khai Thiên lập Ðịa ai là chủ?
Thánh Phật là ai dám đón ngăn.

21-1-1926
Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết đấng Cao Ðài.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai?

21-1-1926
Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật Ðạo vốn như nhà.

23-1-1926
LỤC NƯƠNG
Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen.
Võ đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.

27-1-1926
Khai Ðàn Cao Quỳnh Cư:
THẦY
Ðã để vào Tòa một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung thành một dạ thờ Cao sắc,
Sống có Ta thác cũng có Ta.

Ðài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một Ðạo như con ở một nhà.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.

27-1-1926
LÝ BẠCH
Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Ðơn tâm khó định lấy chi mong.

21-7-1926
THẦY
Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.

28-1-1926
Thầy vui vì các con thuận hòa cùng nhau; Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.

29-1-1926
THẦY
(Khai Ðàn cho Ông Lê Văn Trung)
Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối thiên thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

31-1-1926
THẦY
Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo đời tua biết rằng đời trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.

23-2-1926
THI VĂN DẠY ÐẠO

1.

Khổ đời muốn lánh gắng tìm phương,
Giành giựt đừng mong chác thế thường.
Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau tria nét đạo nực mùi hương.
Rừng Thiền ngàn dặm Trời soi bước,
Biển khổ muôn chia khách lạc đường.
Gặp được nẻo ngay đời có mấy?
Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương.

2.

Gắng sức trau giồi một chữ tâm,
Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối Ðạo cầm.
Tâm ái nhân sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.

3.

Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc Hư toàn ngự đấng tinh anh.
Luật điều Cổ Phật không chừa tội,
Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
Chánh trực kinh oai loài giả dối,
Công bình vừa sức kẻ chơn thành.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.

4.

Màn Trời đã vẹt ngút mây trương,
Bước tới Ðài Hoa thấy tỏ tường.
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh tà đôi nẻo tua tầm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loán mùi hương.

5.

Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẳn nêu trường khảo,
Lướt khỏi, ngàn thu quả đắc thành.

6.

Ðổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,
Rưới chan cho khắp giọt hồng ân.
Rừng tòng thanh nhã say mùi Ðạo,
Bể khổ mênh mang vớt khách trần.
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.
Buồm trương lái vững chờ sông lệ,
Ðưa chiếc thuyền sen dựa đảnh Thần.

7.

Cậy kẻ dạy con cũng lẽ thường,
Cho roi cho vọt mới là thương.
Nhơn tình ví chẳng mưu thâu phục,
Thế giới mong chi phép độ lường.
Nhỏ dạy Thầy nuôi mùi Ðạo hạnh,
Lớn khôn bây xứng mặt hiền lương.
Vinh hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
Khổ cực các con chớ bỏ trường.

8.

Trau giồi giữ xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn nam nhi.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt.
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.

9.

Thiều quang nhặt thúc khuất màu xuân,
Trở bước quanh co rán liệu chừng.
Hứng giọt Ma Ha lau tục lụy,
Ngừa thuyền Bát Nhã thoát mê tân.
Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,
Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.
Phước gặp Tam Kỳ Trời cứu độ,
Gắng tu kịp buổi lướt Ðài Vân.

10.

Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa,
Phước gặp về Ta buổi đã vừa.
Nẻo hạnh làu soi gương nguyệt thấm,
Sân ngô rạng vẻ cảnh thu đưa.
Mai tàn tuyết xủ đời thay đổi,
Dữ tận hiền thăng khách lọc lừa.
Mùi Ðạo gắng giồi lòng thiện niệm,
Duyên mai tìm lại phẩm ngôi xưa.

11.

Rẽ lối non sông thấy Ðộng đào,
Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm bao.
Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,
Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.
Mùi tục lần xa, vui đạo đức,
Cõi tâm rộng mở khổ giồi trau.
Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.

12.

Cần lo học Ðạo chí đừng lơi,
Phú quí sương tan lố bóng Trời.
Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.
Làm lành sau cũng lành vay trả,
Chác dữ âu hay dữ vốn lời.
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi.

13.

Lần lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,
Ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.
Rạng nẻo chung soi đèn Bạch Ngọc,
Dò đường xúm núp bóng Hồng Quân.
Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.
Biết Ðạo khá lo trau hạnh đức,
Dữ lành đợi buổi cũng cân phân.

14.

Ngày chầy dặm thẳng gắng đưa qua,
Chịu khổ trau tâm chí mới già.
Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,
Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.
Lòng trần gội sạch noi đường chánh,
Nét Ðạo gìn thanh lánh nẻo tà.
Ðèn huệ chực soi mau tiến bước,
Nơi miền cực lạc dễ đâu xa.

15.

Ðường về muốn vẹn để công trình,
Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
Xuân hé đã hay cơn ác lố,
Ðông tàn khá biết lúc Trời chinh.
Trau tài trau phận tua trau đức,
Biết thế biết nhân mới biết mình.
Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,
Hay chi thế tục chước cầu vinh.

16.

Nhiệm mầu Tạo hóa cuộc vần xây,
Thưởng phạt cũng do một buổi nầy.
Ðức trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,
Nhân sau để dấu chí đừng lay.
Ðường mây thẳng gió hồng trương cánh,
Bước Ðạo êm chơn nguyệt rọi mày.
Dìu dắt sanh linh lo tế độ,
Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.

17.

Liễu Huệ nhuần sương Liễu Huệ tươi,
Chiều Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
Màn Trời mây khỏa muôn sao lố,
Thuyền Ðạo buồm treo một sắc phơi.
Cội trước gió đưa hơi nhắn khách,
Rừng tòng khách giục cảnh chờ người.
Lần theo bước rạng non Thần đến,
Chớ luyến phồn hoa lụy đến nơi.

18.

Vun nền đạo hạnh khá rèn lòng,
Gặp hội đành vui chữ sắc không.
Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,
Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.
Xuôi chiều đổ bến êm dòng bích,
Phải lúc nương mây chớp cánh hồng.
Nhuần gội ơn Trời âm chất vẹn,
Mau chơn ngày tháng đã qua đông.

19.

Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
Tỏ rạng gần noi bước vẹn gìn.
Ách đất rắp nhồi trường náo nhiệt,
Cửa Trời kịp mở vớt quần sinh.
Nâng đời khá gắng trau nhơn đức,
Học Ðạo tua năng luyện tánh tình.
Khổ hạnh chí mong qui nẻo chánh,
Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh.

Ấn bản năm Nhâm Tý (1972): Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
Ấn bản năm Canh Tuất (1970): Tỏ rạng gần noi bước vẹn gìn.

20.

Non chiều ác xế bóng Trời thâu,
Nẻo chánh may nương buổi đáo đầu.
Theo bước kịp thì tìm ánh sáng,
Ngừa thuyền ấy lúc lánh dòng sâu.
Soi gương hạnh đức trau lòng tục,
Hứng giọt từ bi rửa bợn sầu.
Nhặt thúc quang âm xuân đã lụn,
Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.

21.

Thìn trau đức tánh để nêu gương,
May gặp đạo mầu gắng liệu phương.
Cội Bắc chim về chiều ngã bóng,
Non Nam ác lố ánh tan sương.
Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,
Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.
Ðộ chúng cứu đời công nghiệp để,
Thiên ân hưởng trọn khá lo lường.

22.

Cành mai thơ thới đượm hơi xuân,
Dìu dắt đem nhau lại đảnh Thần.
Tích đức để lòng trau khổ hạnh,
Diệt phàm gắng chí thoát mê tân.
Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt,
Ðài ngọc khoe gương sắc rạng ngần.
Công nghiệp dồi dào âm chất đủ,
Long Hoa đợi hội hưởng Thiên ân.

23.

Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
Ác lố rọi tan lằn gió bụi,
Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.
Ðường tu ví sớm noi gương rạng,
Cội phúc mai sau hưởng quả lành.
Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.

24.

Dặm dài bước lạ nẻo chưa quen,
Tánh chất dầu trau gẫm chẳng hèn.
Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,
Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.
Nhành dương nước rưới tan lòng tục,
Nguồn Thánh đạo dìu lại cõi Tiên.
Phước gặp kỳ ba Trời dẫn độ,
Mau chơn rán lướt tới rừng thiền.

25.

Day mặt Hồng Quân ngó Ðịa hoàn,
Rưới chan vạn vật khối sinh quang.
Cõi Tiên mở rộng cung Ðâu Suất,
Nước Phật sửa an cảnh Niết Bàn.
Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,
Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.
Thần thông trói chặt Ma vương quái,
Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn.

26.

Viết thử Thiên thơ với nét trần,
Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.
Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ diệt tà gian múa bút Thần.
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
Công danh nước Việt tay đành nắm,
Mưa mốc dân sanh gắng gội nhuần.

27.

Ðường mây sẵn lối gặp may duyên,
Nâng gánh xa thơ sửa mối giềng.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
Hồn về nước cũ đời nương thế,
Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
Ðảnh Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

28.

Có hiệp đem đường nẻo mới thông,
Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.
Quanh đường chớ cậy chơn Kỳ Ký,
Ngược gió tài chi sức Hộc Hồng.
Bể khổ mênh mang lo giải khổ,
Nền công nghiêng ngửa gắng nên công.
Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.

29.

Bạch Vân nhàn lạc khỏe thân già,
Thương kẻ nặng mang nợ quốc gia.
Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,
Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.
Thiện nam gắng giữ nền nhân nghĩa,
Chơn nữ hằng ghi thuyết cộng hòa.
Trách nhiệm thiệt hành cho vẹn phận,
Hồng ân chung hưởng buổi âu ca.

30.

Trần thế hầu gây náo nhiệt trường,
Lánh nguy nguồn Ðạo vẹn tìm phương.
Vùi sầu nay gắng chung vai gánh,
Hưởng phước sau may hiệp bước đường.
Cay đắng lần soi gương trí huệ,
Chia phui chờ trải lối tang thương.
Dặn mình tua chặt trong gang tấc,
Sau trước lòng son giữ đặng thường.

31.

Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
Trường Ðời đem thử gan Anh Tuấn,
Cửa Ðạo mới ra mặt Thánh Hiền.
Ðau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
Non sông Việt chủng ngày êm lặng,
Chung sức cùng nhau đức lập quyền.

32.

Những là khổ nhọc chịu cơ đời,
Hạnh phúc thử nhìn đặng mấy mươi.
Vinh nhục đòi phen vui lẫn khóc,
Ghét thương lắm lúc giận pha cười.
Ðường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo đức gồm theo thiệt hóa chơi.
Thoát tục ví ai tìm nẻo Thánh,
Bến mê lướt sóng đến ven Trời.

33.

Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,
Ðầm ấm hơi xuân nở mặt mày.
Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,
Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.
Trường Tiên mở rộng chơn du khách,
Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài.
Lọc nước rửa đời Trời để dấu,
Riêng che Nam đảnh một cân đai.

34.

Ác lồng nhựt rạng tản sương mơi,
Gặp lối đường quanh khó tách vời.
Thuyền Ðạo đẩy đưa lằn sóng biển,
Bước đời dùn thẳng bước thang Trời.
Ðai cân mảng luyến chưa nên phận,
Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.
Nhắn nhủ phồn hoa mau thức tỉnh,
Lần lừa bỏ quá kiếp xuân thời.

35.

Lồng sương gió thoảng bặt hơi xuân,
Ðể bước tìm nơi Ðạo gội nhuần.
Sóng khỏa thuyền về còn lắc lở,
Rừng chờ khách trở buổi cân phân.
Trau gương hạnh đức pha lòng tục,
Giồi trí thanh cao giữ tánh Thần.
Thưa nhặt thoi đưa trời xế bóng,
Xét mình một khắc một mau chân.

36.

Dìu dắt tìm ra lối lạ lùng,
Bóng trời xúm xít đỡ nương chung.
Dài đường chớ ngán con Kỳ Ký,
Ngược gió đừng nao cánh Hộc Hồng.
Nhướng mắt tua dò theo kẻ trí,
Thìn lòng khá gắng đắp nền công.
Sen tàn cúc nở qua ngày tháng,
Nhặt bước đường hoa đến cội tùng.

37.

Cái kiếp hồng nhan kiếp đọa đày,
Phải làm cho gái hóa ra trai.
Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,
Mềm mỏng hình hoa ấy phép tài.
Phòng tía cất thành hình thổ võ,
Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.
Muốn đi cho tận trường sanh địa,
Phải đổi giày sen lấy thảo hài.

Ấn bản năm Nhâm Tý (1972): Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,
Ấn bản năm Canh Tuất (1970): Linh oai vẻ ngọc là gương sắc,

38.

Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.

39.

Ðào Nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.
Cung Ðẩu vít xa gươm xích quỉ,
Thiềm cung mở rộng cửa Hà ngân.
Xuân thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.

40.

Mở rộng đường mây rước khách trần,
Bao nhiêu tình gợi nhắn nguyên nhân.
Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,
Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.
Chuyển nổi Càn Khôn xây Võ Trụ,
Nhẹ nâng Nhựt Nguyệt chiếu Ðài Vân.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan trái,
Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.


1.

Nầy lúc Kỳ Ba Phổ Ðộ trần.
Mau chơn thoát khỏi chốn mê tân.
Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,
Ðạo đức sớm hôm khá vẹn cần.

2.

Nguồn đào lạc lối ấy duyên may,
Gặp Ðạo nương theo bước dặm dài.
Nắng hạ héo khô vườn bá tánh,
Dắt nhau tìm núp bóng Cao Ðài.

3.

Cao Ðài đứng chủ cả sanh linh,
Bến khổ bầu Tiên rưới thế tình.
Mở mắt tỉnh lần cơ mộng điệp,
Hữu sanh hữu khổ phải toan gìn.

4.

Gìn lòng chơn chánh chớ tà tây,
Thưởng phạt về sau cũng hội nầy.
Trước biết sửa mình tâm trí vẹn,
Sau nương cảnh tịnh mới nên hay.

5.

Hay gần đạo đức mới nên thân.
Lánh chốn phồn hoa giữ tánh thần.
Một nét vạy tà Thần Thánh chép,
Rèn lòng trong sạch thoát mê tân.

6.

Tân toan khổ hạnh phải trau giồi,
Bước tới đường dài chớ trở lui.
Công khó độ đời đừng nệ khó,
Phước dư đợi lúc hưởng ơn Trời.

7.

Ðông tàn cảnh ướm trở nên xuân,
Xuân nở vườn mai há mấy lần.
Lần lựa cho đò xa bến Thánh,
Thánh tâm mấy kẻ vẹn trau thân.

8.

Nghèo sạch rách thơm mới đáng người,
Nệ chi cực nhọc buổi xuân mơi.
Nay đà gặp lúc thiên ân rưới,
Gắng bước đường tu hưởng phước đời.

9.

Tài tuy ít, đức nên nhiều,
Nhiều đức mới tròn bước Ðạo theo.
Theo đặng bước nào gìn bước nấy,
Trở lui e vướng lúc nghiêng nghèo.

10.

Tà nguyệt vườn thu ướm trở đông,
Nhạn về đảnh Bắc tiếng qua sông.
Bền lòng thiện niệm bồi căn trước,
Trễ bước thuyền e bị ngược dòng.

11.

Lo lường nền hạnh đặng lên cao,
Cao đức nguồn Tiên mới bước vào.
Vào đặng Tam Kỳ Trời cứu khổ,
Khổ thêm gắng chịu tánh năng trau.

12.

Ðường Ðạo tìm vào mới rõ cơ,
Cơ mầu giải khổ chớ chần chờ.
Chờ cho trễ bước thuyền xa bến,
Bến tục thoát vòng hết ước mơ.

13.

Trời thương đâu nệ nhọc công trình,
Chịu nhọc vì lo đám chúng sanh.
Sanh dưỡng dưỡng sanh rồi phải độ,
Ðộ cho trở bước lại đơn đình.

14.

Giựt giành rốt cuộc cũng tay không,
Nhân quả đeo mang tội chất đồng.
Ví biết phép công cơ thưởng phạt,
Ðường tu sớm bước chí thong dong.

15.

Sáng đường nhờ có bóng trời soi,
Ðạo đức để tâm chớ đổi dời.
Công quả thìn lòng sau hưởng phước,
Dặm dài đừng nệ bước xa xôi.

16.

Gìn giữ về sau mối Ðạo mầu,
Nương theo bước trước gắng tìm châu.
Thuyền chờ bến tục buồm trương sẵn,
Ðưa đến nguồn trong rửa bợn sầu.

17.

Quanh co muốn khỏi gắng lòng thành,
Chứa đức là phương phước để dành.
Hứng giọt nhành dương lau tục lự,
Hay chi thua được bả công khanh.

18.

Công khanh xạo xự cũng vai tuồng,
Ðêm lặng rừng thiền lóng tiếng chuông.
Mê luyến hồng trần mang ách khổ,
Cơn vui qua khỏi lệ sầu tuôn.

19.

Nẻo chánh tìm theo mối đạo gìn,
Hay chi tuồng thế bước đua tranh.
Của nhiều ít đức sương trên cỏ,
Giành giựt mà chi phải lụy mình.

20.

Ðừng sợ khó, khó nên công,
Công khó may gìn chữ sắc không.
Không sắc sắc không vui đảnh hạc,
Hạc về chốn cũ dựa rừng tòng.

21.

Rừng tòng tìm đến lánh cay chua,
Ðêm lặng lóng nghe tiếng khánh chùa.
Lần gội tâm phàm vui cảnh trí,
Ðường trần lưu luyến nhọc tranh đua.

22.

Dời đổi thói đời lắm thị phi,
Trăm năm chung đỉnh có ra gì?
Tìm nguồn đạo đức tâm phàm gội,
Danh mà chi, lợi ấy mà chi?

23.

Thông biết thế thời mới gọi thông,
Thông minh học đạo vẹn trau lòng.
Lòng trần dầu muốn phong ba dứt,
Ðộ chúng tu nhơn chí nả nong.

24.

Sáng đèn cánh bướm liệng xôn xao,
Lánh họa tua gìn hạnh đức trau.
Noi dấu đường ngay Trời tế độ,
Chen chơn nguồn Thánh bước lần vào.

25.

Ức lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng là vay trả luật xưa nay.

26.

Dữ đọa hiền thăng ấy luật Trời,
Lánh đường tà vạy hưởng an vui.
Nay con phước gặp nền chơn Ðạo,
Ngọc tốt bền trau sắc rạng ngời.

27.

Suối lành đổ nước hóa sông thanh,
Ðức hạnh muốn trau vẹn tánh lành.
Trước muốn đưa chơn vào cửa Phạm,
Hỏi mình có trọn tấm lòng thành?

28.

Dối ai đâu dễ dối cùng Trời,
Biết đạo răn mình cũng hết hơi.
Từ bỏ lần hồi lầm lỗi trước,
Tự nhiên bể khổ lánh xa vời.

29.

Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa biết chơn nào vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.

30.

Ðược vàng chớ khá gọi là may,
Vàng hết tội kia chất dẫy đầy.
Bỏ đức bỏ nhân bao kiếp đọa,
Khuyên con giữ đạo đến cùng Thầy.

31.

Lối ngay nẻo chánh gắng tìm đường,
Lánh chốn thị phi đạo mới tường.
Dòng bích thuyền từ còn đợi bến,
Thu qua gặp gió cánh buồm trương.

32.

Cõi thế tìm nơi đạo đức vào,
Lòng thành Thần Thánh chứng công lao.
Nhân sanh thấy khổ đưa tay cứu,
Chẳng mất phần sau địa vị cao.

33.

Thắm thoát đời qua cuộc bể dâu,
Ham vui chỉ chác cuộc mua sầu.
Lập thân muốn tránh đường mưa gió,
Tìm Ðạo nương mình vững nghiệp sau.

34.

Rừng thiền trở gót mới thung dung,
Nhàn hạ riêng vui cảnh bá tùng.
Lao lực thế tình chi xạo xự,
Rửa tai chờ lóng nhạc năm cung.

35.

Cung đàn chờ khách cận song thu,
Năng mến Ðạo mầu chí trượng phu.
Biển khổ vớt người thuyền gặp lúc,
Ðeo đai thế sự chỉ mua sầu.

36.

Tách bến sông mê sóng tạt thuyền,
Lọc lừa nghiệp quả kẻ may duyên.
Trương buồm hạnh đức xuôi chiều gió,
Ðưa khách phồn hoa lánh nẻo phiền.

37.

Sao cho thành kỉnh Phật Trời thương,
Ðạo đức chăm lo vững mối đường.
Công nghiệp phải lo sanh chúng độ,
Ðàn sau để dấu kẻ soi gương.

38.

Mùi đời biết đặng lắm chua cay,
Cay đắng kiếp người khổ ớ ai?
Ai dám xả thân hành chánh Ðạo,
Ðạo mầu theo dõi hết trần ai.

39.

Ðồng thuyền kẻ trước dắt người sau,
Sau trước nương nhau ấy chước mầu.
Mầu nhiệm dễ chi tìm thấu đáo,
Ðáo đầu mới rõ Ðạo là cao.

40.

Ðạo đức gắng theo đỡ ít nhiều,
Ngày thâu bóng nhựt đã hầu xiêu.
Tu thân dầu khổ, thân tiên độ,
Có khó có nên nhọc phải chiều.

41.

Xử thế phải cho vẹn thế tình,
Trau tâm trau đức sạch chơn linh.
Bến mê rước khách thuyền đương đợi,
Ðưa đến đào nguyên hưởng phước lành.

42.

Dò theo đường chánh chớ sai lầm,
Biết đạo cần trau một chữ tâm.
Tiên Phật nơi mình đâu phải khó,
Khó do chẳng trọn tấm chơn thành.

43.

Ðức tánh khen con có chí thành,
Lần đường Ðạo chẳng chút cầu danh.
Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
Không quản lao đao giữ tiếng lành.

44.

Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu đạo cao thâm.

45.

Trau hạnh làm gương dắt kẻ sau,
Một nhà đạo đức khá thương nhau.
Noi theo người trước đời trông cậy,
Gắng sửa lều tranh hóa động đào.

46.

Nâu sồng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền tâm tu luyện mới là nên.

47.

Cao đê thế sự khá đinh ninh,
Một dặm xa xuôi nhọc lộ trình.
Lần lựa chỉ sầu tay gỡ rối,
Trời tây bóng nhựt đã hầu chinh.

48.

Dư phước dành sau ấy thế hay,
May chơn bước gặp bóng Cao Ðài.
Sạch lòng để dạ vun nền Ðạo,
Phủi thế an vui đợi đến ngày.

49.

Mạnh yếu rồi đây yếu được phần,
Ðược phần máy Tạo khéo cầm cân.
Cầm cân thăng thưởng răn người thế,
Người thế sao cho hạnh chói ngần.

50.

Tranh đua đã quá nửa đời người,
Thử hỏi phước phần được mấy mươi.
Mưu được phần mình thì tổn đức,
Của tiền dầu chất há an vui.

51.

Vui Ðạo vui nhân ấy thiệt vui,
Vui còn sóng sắc hại mình thôi.
Vui nơi đổ bác là vui khổ,
Vui thói tà gian lụy trọn đời.

52.

Ðời qua thắm thoát cõi nhơn gian,
Sớm nở hoa kia chiều vội tàn.
Mái tóc điểm sương chưa học Ðạo,
Họa kề dầu hối khó than van.

53.

Lắm kẻ còn xuân chẳng tiếc xuân,
Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.
Chớ quên máy Tạo nên mầu nhiệm,
Vay trả đồng cân thế chuyển luân.

54.

Chữ hiếu phải lo vẹn phận người,
Sanh thành đạo trọng há đâu chơi.
Buông trôi ví chẳng tròn nhơn đạo,
Còn có mong chi đến Ðạo Trời.

55.

Có thân có khổ, khổ vì thân,
Nào có sướng chi cái kiếp trần.
Kẻ trí phải lo phương giải khổ,
Tìm thuyền Bát Nhã lánh mê tân.

56.

Mê tân là chốn đọa con người,
Vương bá công hầu lụy mấy mươi.
Ham miếng đỉnh chung mê sắc đẹp,
Hại thân tiếng xấu để muôn đời.

57.

Thảo ngay con vẹn giữ cho bền,
Phải phận là phần đáng bậc trên.
Dìu dắt đàn em sau nối gót,
Con đường đạo đức bước càng lên.

58.

Nhiều nhân quả trước phải đền nay,
Chẳng gỡ cho kham cứ nhắc hoài.
Một tiếng than van thân cực nhọc,
Một oan chẳng chịu muốn gây hai.

59.

Cang cường quen tánh hiếp dân nghèo,
Nghe Ðạo Phật Trời cũng muốn theo.
Chẳng khác chồi non xô đại mộc,
Như sa vực thẳm khó toan trèo.

60.

Tìm vào nẻo Ðạo mới tri cơ,
Cơ Tạo huyền vi chớ hững hờ.
Tỉnh giấc mộng chờ qua biển khổ,
Thế tình vui vẻ chí đừng mơ.

61.

Say Ðạo là say bậc Thánh Hiền,
Hiền xưa sớm để bước tầm Tiên.
Tiên nguồn Thánh ngọn dò chơn đến,
Ðến đặng là phương rưới lửa phiền.

62.

Tranh đức tranh nhân mặc sức tranh,
Ðừng tranh lợi quấy khổ thân hình.
Hai đường họa phước tua lừa lọc,
Vay trả cơ Trời chớ dể khinh.

63.

Ðừng lòng kiêu hãnh cậy mình tài,
Nên nhớ chữ tài cận chữ tai.
Tài ít đức nhiều còn hữu dụng,
Tài suông thiếu đức họa nay mai.

64.

Nhơn nghĩa gắng gìn dạ sắt son,
Thờ cha kính mẹ hiếu lo tròn.
Nghèo mà trong sạch danh thơm rạng,
Phúc hậu Trời ban để cháu con.

65.

Họa phước vô môn chỉ tại người,
Thỉnh mời rồi đổ bởi nơi Trời.
Huệ ân muốn hưởng noi đường Ðạo,
Hối cải tu thân phải giữ lời.

66.

Mùi đời đã nếm biết chua cay,
Giành giựt còn mong cậy sức tài.
Nếu chẳng định tâm lo xét quấy,
Nhãn tiền báo ứng dễ đâu sai.

67.

Ðừng quá so đo việc phú bần,
Bần hàn trong sạch mới nên thân.
Thân trau khổ hạnh thân đừng nệ,
Nệ khó mong chi thoát thế trần.

68.

Thế trần mộng mị có ra chi,
Giành giựt rồi qua hỏi được gì?
Tích đức gắng gìn nhơn nghĩa trọn,
Chông gai xa lánh cảnh sầu bi.

69.

Nợ nước hai vai nặng gánh gồng,
Thần dân phận sự phải lo xong.
Gắng công đạo đức trau hằng bữa,
Chiu chít đừng quên giống Lạc Hồng.

70.

Ơn Trời cho mở Ðạo kỳ ba,
Dìu dẫn nhơn sanh lánh vạy tà.
Ví muốn tu thân nhồi quả trước,
Gắng công sau sẽ đến cùng Ta.
Home                      1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét