Thánh Ngôn Sưu Tập - 1 / 20 (HT. Nguyễn Văn Hồng)


Ý HƯỚNG: Ngoài những bài Thánh Ngôn và Thi Văn Dạy Đạo trong THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN do Hội Thánh ấn hành thì còn có rất nhiều bài Thánh Ngôn và Thi Văn khác của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng giáng cơ dạy Đạo, chưa được tập hợp in thành sách để lưu truyền và phổ biến trong bổn Đạo.
Trong ý hướng bảo tồn và lưu truyền các lời vàng ngọc dạy bảo đạo đức của Đức Chí Tôn,
Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng, chúng tôi cố gắng sưu tầm, chọn lựa và sắp xếp các bài Thánh Ngôn cũng như các bài Thi Văn theo thứ tự thời gian giáng cơ, tạo thành nhiều tập sách gọi là THÁNH NGÔN SƯU TẬP (viết tắt TNST).

Chúng tôi dự kiến làm thành 4 phần THÁNH NGÔN SƯU TẬP, tương ứng với 4 giai đoạn lịch sử quan trọng của Đạo Cao Đài, kể ra :
* TNST  Phần  I: T  năm1925 đến 1934.
Trong thời gian 10 năm đầu tiên, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cầm quyền nền Đạo về mặt hữu hình. Năm 1934 (Giáp Tuất) thì Ngài qui Thiên.
* TNST Phần II: Từ năm 1935 đến 1941. Trong thời gian 7 năm nầy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, cầm quyền nền Đạo.
Năm 1941 (Tân Tỵ) là năm Đức Phạm Hộ Pháp bị bắt đồ lưu hải ngoại.
* TNST Phần III: Từ năm 1946 đến 1956. Năm 1946 (Bính Tuất) là năm Đức Phạm Hộ Pháp trở về Tòa Thánh tái thủ quyền hành, và năm 1956 (Bính Thân) là năm Đức Ngài lưu vong sang Nam Vang nước Cao Miên.
* TNST  Phần  IV: Từ năm 1957 đến 1971.
Trong thời gian 15 năm nầy, Đức Cao Thượng Sanh về Tòa Thánh Tây Ninh cầm quyền nền Đạo. Năm 1971 (Tân Hợi) là năm Đức Cao Thượng Sanh đăng Tiên.

VIỆC THỰC HIỆN :
Chúng tôi sưu tầm được :
· Quyển Thánh Ngôn Chép tay của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu gồm 81 trang, chép các bài Thánh Ngôn từ năm 1926 đến 1957.
· Quyển Thánh Ngôn Chép tay của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, gồm 921 trang, chép các bài Thánh Ngôn từ năm 1926 đến 1928.
· Quyển Thánh Ngôn Chép tay của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, gồm 2 tập cahier được 202 trang, chép các bài Thánh Ngôn từ năm 1926 đến 1930.
· Quyển Thánh giáo Pháp văn Chép tay  (Messages  Spirites) 1930 - 1935.
· Hai quyển Đạo Sử  I và 2 (đánh máy quay ronéo) của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
· Một số rất nhiều bài Thánh Ngôn và Thi Văn rời, đánh máy hay chép tay.
Chúng tôi lựa chọn các bài Thánh Ngôn và Thi Văn trong các tài liệu kể trên, không trùng các bài trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, để làm thành các quyển Thánh Ngôn Sưu Tập.
Chắc chắn trong giai đoạn nầy, còn nhiều bài Thánh Ngôn mà chúng tôi chưa tìm thấy được.
Ước mong quí Chức sắc và quí Đồng đạo còn cất giữ những bài Thánh Ngôn ấy, xin cho chúng tôi mượn photo để bổ sung vào quyển TNST. I cho đầy đủ hơn và đưa vào các quyển TNST tiếp theo.
Ngoài ra, những bài Thánh Ngôn và Thi Văn trong các quyển TNST chưa hẳn là chính xác.
Ước mong quí Chức sắc, quí Đồng đạo nêu ra những chỗ ấy để chúng tôi sửa chữa, hầu không làm sai lạc ý nghĩa lời dạy bảo của các Đấng.
Các quyển TNST nầy, khi hoàn thành, chúng tôi xin hiến dâng cho Hội Thánh toàn quyền sử dụng. Đó là tâm nguyện của chúng tôi.
Kính.
Hiền Tài  NGUYỄN VĂN HỒNG

1. Thứ bảy, 8-8-1925 (âl 19-6-Ất Sửu).

THẤT NƯƠNG
(tá danh Đoàn Ngọc Quế)

Một buổi tối thứ bảy, nhằm tối thượng tuần tháng Aouât 1925, ba ông (Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang) hiệp nhau chơi, còn ông Cao Quỳnh Diêu vì mắc việc nên vắng mặt.

Bữa ấy có Cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, đàm luận một hồi, rồi ba ông xin kết anh em với Cô. Cô bằng lòng, bèn kỉnh :
-  Ông Cư là Trưởng Ca,
-  Ông Tắc là Nhị Ca,
- Ông Sang là Tam Ca,
- Phần Cô  thì Tứ Muội.

Ba ông nghi Cô trá tên nên năn nỉ hỏi Cô cho đến cùng. Cô liệu khó giấu nên tỏ thiệt là : V.T.L. (Vương Thị Leã).”
(Theo ĐĐTrN. 10)
*
*          *
2. Ngày 28-8-1925 (âl 10-7-Ất Sửu).

Đấng  A Ă Â

Nhớ lại lối trung tuần tháng 7 năm Ất Sửu (10-7-Ất Sửu, dl 28-8-1925), ba ông (Cư, Tắc, Sang) thỉnh bàn ra (lúc nầy in như say Đạo), tính xây bàn cầu Cô Đoàn Ngọc Quế (tá danh của Thất Nương Vương Thị Lễ) về dạy học văn thi.

Ba ông để tay thì bàn dở lên, bỗng có một Ông giáng, ông Cư hỏi tên gì, thật rất lạ, xưng là AĂÂ, gõ bàn cho một bài thi dưới đây :

               THI :
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn  bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Ông Phạm Công Tắc nghe dứt câu liền nói với ông Cao Quỳnh Cư rằng :
- Thôi anh, ai đâu mà nói tiếng gì khó nghe quá ! Sao lại không có tên mà xưng là AĂÂ.
Ông Cư nói : - Ậy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.
Ông Cư  hỏi  Ông AĂÂ mấy chục tuổi ?
Ông AĂÂ gõ bàn, đếm hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Liền đó ông Cư  ngưng lại không dám hỏi nữa và  kiếm  hiểu Ông nầy    trển chắc lớn lắm.

Từ đó về sau, có vị nào giáng cho thi thì ba ông cầu Đấng AĂÂ xin giải nghĩa." (Theo ĐS. I. 5)
Ghi thêm :
Khoảng đầu tháng 9 năm Ất Sửu, Đấng AĂ  giáng bàn phân rằng :
"Muốn cho Bần đạo đến thường, xin chư vị nạp mấy lời yêu cầu của Bần đạo như sau đây :
. Một là đừng kiếm biết Bần đạo là ai.
. Hai là đừng hỏi đến quốc sự.
. Ba là đừng hỏi đến Thiên cơ."

Quí vị xây bàn đều hứa giữ ba điều ấy.
*
*          *
3 . Đêm 1-10-1925 (âl 14-8-Ất Sửu).

HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG

Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất Nương cho biết về Diêu Trì Cung :
"Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương."

Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương dạy cách cầu Đức Cửu Thiên Nương Nương.
Thất Nương nói :
- Ba anh muốn cầu thì phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có ngọc cơ cầu mới đặng.
Nhơn vào ngày đó, Đấng AĂÂ bảo ba ông (Cư, Tắc, Sang) làm một cái tiệc chay đãi Mười Đấng Vô hình gồm : Đức Cửu Thiên Nương Nương và Chín vị Tiên Nương.

Đúng vào đêm Trung Thu, 14-8-Ất Sửu (dl 1-10-1925), tại nhà ông Cư (134 Bourdais Sàigòn, nay là đường Calmette),đúng giờ Tý, cả thảy đều đủ mặt.

Ông Cư đã sắp đặt một cái bàn dài, rải bông lá xung quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một cái ghế mây lớn, và nối theo là chín cái ghế mây nhỏ hơn đặt chung quanh bàn, trên bàn chưng dọn những bình bông và trái cây tươi tốt, đặt  trước mỗi  cái  ghế là một tách trà, một ly rượu, một cái chén cùng với muỗng, đũa. Ông Cư đốt hương xông trầm, trang hoàng rất tinh khiết. Ông Cư lên nhang đèn, cả thảy đều quì lạy, khấn vái.

Xong, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ ra cầu.
Đức Cửu Thiên Nương Nương và Cửu vị Tiên Nương giáng ngọc cơ để lời chào mừng quí ông.
Thất Nương yêu cầu ba ông (Cư, Tắc, Sang) đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình (đã làm sẵn do Thất Nương dặn trước) để hiến lễ.
Chừng nhập tiệc, Thất Nương mời ba ông ngồi vào bàn cho vui. Ba ông không thể chối từ, nên đem thêm ba cái ghế, sắp sau lưng chín cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống.

Bà Hiếu (bạn đời của ông Cư) sắp đặt đồ ăn chay sẵn, đi vòng quanh bàn dài, gắp thức ăn đặt vào chén của Mười Đấng, rồi rót rượu và rót nước trà, đãi Mười Đấng Vô hình, giống như đãi người hữu hình vậy.
Cách chừng nửa giờ sau, như là tan tiệc, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ tái cầu.
Lịnh Nương Nương và Chín Tiên Cô để lời cảm tạ,  nói rằng :
- Từ đây có ngọc cơ rồi thì tiện cho Diêu Trì Cung đến dạy việc.
Xong mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm:

CỬU THIÊN NƯƠNG NƯƠNG :
"Cửu kiếp  Hiên Viên  thọ  sắc Thiên,
Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.
Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,
Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên."

Nhứt Nương :
"HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đông về.
Non sông trải cánh Tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau."

Nhị  Nương :
"CẨM tú văn chương hà khách đạo ?
Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh Tiên còn mến, cõi trần anh thư."

Tam  Nương :
"TUYẾN đức năng thành đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắt lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông."

Tứ  Nương :
"GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa.
Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi."

Ngũ  Nương :
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót  phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

Lục  Nương :
"HUỆ  ngào ngạt  đưa  hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu Diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên."

Thất  Nương :
"LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên."

Bát  Nương :
"Hồ HỚN HOA SEN TRẮNG nở ngày,
Càng  gần hơi đẹp lại  càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật đài thêm hoa."

Cửu  Nương :
"KHIẾT sạch  duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi đạo, Phật Trời cũng thương."

Sau khi các Đấng ở Diêu Trì Cung thăng hết rồi thì kế Đấng AĂÂ đến nhập cơ.
Ông Cư và ông Tắc tọc mạch hỏi :
- Khi nãy, Diêu Trì Cung đến, có Ngài ở đó không ?

Ông AĂÂ đáp :
- Có chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu Trì Cung đến không ?
- Có chớ, chính mình Ta tiếp đãi.

Ông Cư hỏi :
- Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không ?
- Không ngó thấy.
- Sao vậy ?
- Ta dùng phép ẩn thân.

Ông Tắc tọc mạch hỏi tiếp :
- Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì Cung có thể đạt đạo đặng chăng ?
- Đạt đặng chớ.

Ông Cư hỏi : 
- Phải làm sao ?
- Phải tu, bằng không tu thì chẳng đạt đặng.

Ông Tắc hỏi :
- Tu chừng bao lâu mới đạt đặng ?

Ngài làm thinh không đáp.
Ông Tắc hỏi :
-  Một năm, năm năm, một trăm năm, một ngàn  năm, một vạn  năm . . . . . . .
Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng.
Đêm ấy, quí ông thức tới 3 giờ sáng.

*
*          *
4. Ngày 16-12-1925 (âl 1-11-Ất Sửu).

VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO

Ngày 27-10-Ất Sửu (dl  12-12-1925),  Đức Cửu Thiên Huyền Nữ (Cửu Thiên Nương Nương) giáng mách bảo rằng : " Mùng 1 tháng 11 nầy, tam vị đạo hữu Vọng Thiên Cầu Đạo."
Ba ông hợp nhau bàn giải, không hiểu cầu đạo là gì mà Bà dạy, để cầu hỏi mấy em.

Ngày sau, ba ông cầu Thất Nương hỏi :
- Thất Nương dạy giùm, cầu đạo là gì ?

Thất Nương nói : - Không phải phận sự của em, xin hỏi Ông AĂÂ.
Ngày sau nữa, có các Đấng giáng, ba ông hỏi thì các Đấng cũng nói : - Không phải phận sự của tôi, xin hỏi  Ông AĂÂ.

Ngày 30-10-Ất Sửu (dl 15-12-1925), ba ông cầu Đấng AĂÂ thì  Đấng AĂÂ giáng dạy rằng :
- Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (dl 16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo. Ba vị tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa Trời, mỗi vị cầm 9 cây nhang mà vái rằng :
" Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh."

Nhớ lời  Ông AĂÂ dạy, tối hôm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu, ba ông mặc áo dài đen, quần trắng, đầu đội khăn đóng, đặt một cái bàn nhỏ và thấp ngoài sân, trước nhà ông Cư, đồng quì xuống, chống tay lên bàn, mỗi người cầm 9 cây nhang đốt cháy, đưa lên vái : " Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh."

Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm, vái đúng như lời của Đấng AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài sân cỏ, dựa đường đi, có kẻ qua người lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, lớp thì  đi  coi hát về, họ dừng chân lại coi ba ông nầy cúng vái ai mà lại quì ngoài sân cỏ như vậy. Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì đó cầu khẩn, van vái cho tàn hết 9 cây nhang.

Cúng vái xong, ba  ông vào nhà, đem  ngọc cơ  ra  cầu.
Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng, viết chữ Nho, cho 4 câu Hán văn, chép ra sau đây :
 (. . . . . . )
"Vọng  niệm phân kỳ sự sự phi,
Cá lý Thiên tâm thường thế nhẫn.
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu.
Quân vấn Thiên tâm mạc tri tường."

Ba Ông không hiểu chi cả.
Khi Đấng Cao Đài Thượng Đế thăng rồi, ba ông mới thỉnh bàn ra, cầu Ông AĂÂ xin giải nghĩa 4 câu Hán văn của Đức Cao Đài Thượng Đế trên đây.
Đấng AĂÂ giáng, giải nghĩa như sau :
"Cầu ước, phần thửa, việc việc, chẳng phải,
Mỗi, lẽ, Trời, lòng, thường, thế, nhịn.
Trời, lòng, tua, ngó theo, mỗi, giữa, khẩn,
Bây, hỏi, Trời, lòng, chẳng, biết rõ."

Nghĩa xuôi :
"Việc cầu ước đều chẳng phải,
Mỗi lẽ do lòng Trời, phải đợi lịnh.
Lòng Trời tua ngó theo mỗi việc đều cầu khẩn,
Bây hỏi lương tâm chưa biết rõ sao ?"
Lòng Trời : Conscience.

Đấng AĂÂ nói :
- Đấng Cao Đài Thượng Đế nói tam vị chưa đủ đức tin về Ngài nên hỏi gạn lại. Tam vị phải nghĩ cho thấu.

Đấng AĂÂ cho bài thi :
"Cứ níu theo phan Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng đạo nhàn."
*
*          *

5. Đêm Noel, 24-12-1925 (âl 9-11-Ất Sửu).

Thất Nương giáng cơ truyền phải chỉnh đàn cho nghiêm trang hầu tiếp giá.
Nghe vậy, ba ông Cư, Tắc, Sang, nửa mừng nửa sợ, lật đật sắm hương đăng hoa trà tửu quả, chỉnh đàn có nghi tiết, rồi hai ông Cư và Tắc ngồi chấp cơ.
Cơ giáng :

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương

"Muôn  kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên."

Đêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy (nhà của ông Cư) sẽ đầy ơn Ta.

Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
Bấy lâu Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy mà khai Đạo.

Các con có thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa ?
Các con nên bắt chước Thầy trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức.
 (Trích Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp, trang 14)

Ghi thêm :
Đầu tháng 12 năm 1925, Đấng AĂÂ giáng bàn phân với ba ông Cư, Tắc, Sang rằng :
-  Muốn cho Ta tận tâm truyền Đạo, các vị phải gọi Ta bằng THẦY cho tiện bề đối đãi.

Ba ông vui lòng vưng chịu.
Từ đây, giữ nghĩa Thầy trò, tình giao thiệp càng thêm mật thiết.
 (Trích Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp, trang 13)

*
*          *
6. Ngày 31-12-1925 (âl 16-11-Ất Sửu).

A Ă Â
Ba con thương Thầy lắm há ?
Con thấy đặng sự hạ mình của A Ă Â thế nào chưa ? Con có thấu đáo cái huyền năng của Thầy chưa ? Người quyền thế lớn nhứt như vậy có thể hạ mình bằng A Ă Â chăng ? A à   là Thầy.

Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không ?
Cao Quỳnh Cư bạch : - Thấy nhơn sanh chưa rõ sự huyền diệu của Thầy, họ nói phạm thượng, ba con binh vực Thầy, ba con cãi vã với họ.

- Thầy biết . . .   Cười  . . .
Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.
Sự cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy mún gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy.
Sự nhân đức của Nhất Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học nhân đức của Nhất Nương.
Tình nghĩa yêu mến của con có bằng Bát Nương không ? Phải học. Sự kính nhượng, ba con bằng Cửu Nương chăng ? Phải học.
Phải học tình nhơn ái, trung tín, cứu giúp.
Ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương chăng ?  Phải học gương.                                            
(ĐS. I. 34)
*
*          *
7. Ngày 1-1-1926 (âl 17-11-Ất Sửu)

Thánh  PIERRE
"Thiên  đàng  giữ  cửa  góc Trời  tây,
Truyền Đạo cho dân  biết mặt Thầy.
Cứu  chuộc  đã  gần  hai  ngàn tuổi,
CAO ĐÀI  phú  thác  dắt  dìu  bây."
*
*          *

THẦY
Con hiểu Jésus là ai chăng ?
Trước Ta đã đổ máu cho loài người vì thương yêu. Nay Ta đến cứu loài người cũng vì thương yêu.
Bây đủ thương yêu Ta dường ấy chăng ?
Ta cần bây biết ăn năn hầu cứu chữa bây.
 (ĐS. I. 35)
*
*          *
8. Ngày 2-1-1926 (âl 18-11-Ất Sửu).

THẦY

Cư, Tắc !  Hai con đừng lấy làm việc chơi nhé !
Thầy dặn hai con một điều, nhứt nhứt phải đợi lịnh  Thầy,  chẳng nên lấy  tứ  riêng mà phán đoán nghe !

Phận sự hai con, trách nhậm hai con, Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy  nghe !
Từ  đây, Thầy khởi sự dạy Đạo cho.
(ĐS. I. 36)
*
*          *
9. Ngày 16-1-1926 (âl 3-12-Ất Sửu).
QUÍ  CAO

Đã lâu không dám nói, vì Em còn phải tu như hai Anh vậy, không dám nói vì hai Anh có Thầy. Em không dám lộng quyền.
Tu như cỏ úa gặp mù sương.
Đạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Đôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.

Phương là hướng, là đường đi. Tường là lành. Bường là bình. Tịnh mẫn là êm sáng. Nhập thể là đem Thần sáng vào mình đặng êm sáng.

Từ đây, xin nhị huynh hỏi Thầy, đừng hỏi Em, Em nói mà phạm tội.  Em xin kiếu.

TÁI CẦU :
QUÍ  CAO
Ngũ Kỵ  :  Hành, Tỏi, Sản, Ớt, Tiêu.
Theo Phật giáo thì kỵ, Tiên giáo thì không.
Phật vì tích Thanh Đề Mục Liên gọi là uế vật, là phi. Tiên đạo cho dùng các thảo mộc, chẳng kỵ vật chi.
(ĐS. I. 40)
*
*          *
10. Ngày 27-1-1926 (âl 14-12-Ất Sửu)

THẤT  NƯƠNG
Em chào ba Anh và Đại tỷ.
Hèn lâu, Em không chuyện vãn cùng ba Anh. Em xin ba Anh coi  lại  thế đời là dường nào ?

Cái bông phù dung sớm còn tối mất, còn hơn một kiếp con người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi, chung qui ngó lại, dầu sống trăm tuổi chưa được một điều đắc chí, chết là hết. Cái đời tạm nầy, sách Phật gọi là khổ hải.

Em xin ba Anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn, nỡ  bỏ  đi, Em chỉ tiếc giùm đó thôi.
Đã vào đường chánh, cứ do đó bước tới hoài thì  trở về cựu vị  đặng.
Ông  Lê Văn Trung hỏi :
-  Có duyên luyện Đạo cùng chăng ?  Xin Em mách giùm.
- Đã gặp Đạo tức có duyên phần. Ráng tu luyện, siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính, một ngày qua, một ngày chết, đừng dụ dự.  Em xin kiếu.
 (ĐS. I. 43)
*
*          *
11. Ngày 12-2-1926 (âl 30-12-Ất Sửu).

Hiệp với ông NGÔ VĂN CHIÊU :

Cách đây ít ngày, Thượng Đế giáng cơ dạy mấy ông: Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức  phải hiệp với ông Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo.
Ngài lại dạy rằng, mỗi mỗi phải do nơi ông Chiêu là Anh Cả.
Lúc nầy trong Đạo kể được 13 người :
1. Ngô Văn Chiêu 
2. Lê Văn Trung
3. Vương Quan Kỳ
4. Nguyễn Văn Hoài
5. Đoàn Văn Bản   
6. Võ Văn Sang
7. Lê Văn Giảng    
8.  Lý Trọng Quí
9. Cao Quỳnh Cư      
10. Phạm Công Tắc
11. Cao Hoài Sang     
12. Nguyễn Trung Hậu
13. Trương Hữu Đức.

Đến đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu (dl 12-2-1926), Đấng Thượng Đế giáng cơ cho mỗi người một bài thi như vầy : (1)
*  Bài thi cho ông Võ Văn Sang :
Tân dân  hỷ  kiến  đắc Tân niên,
Phổ  Độ Tam  Kỳ    thế  hiền.
Nhứt  tịnh  chủ tâm  chơn đạo lý,
Thăng Thiên huợt địa chỉ  như Thiên.
(1) : Đêm nay, hai ông Trương hữu Đức và Cao hoài Sang vắng mặt.

*  Bài thi cho ông Cao Quỳnh Cư :
"Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu cái dạy ấy là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu  dạ  thương."
Cư, trong năm mới nầy, Thầy trông mong con rõ thấu đạo đức hơn nữa. Gắng chí nghe !

*  Bài thi cho ông Vương Quan Kỳ :
"Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề đạo dữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề đạo tối tân."

*  Bài thi cho ông Lê Văn Giảng :
"Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Đại Đạo ráng nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy luôn."

* Bài cho ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Đức :
"Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
Đức hóa thường lao mạc vị danh.
Hậu  thế lưu truyền gia pháp quí,
Giáo dân bất lậu tán thời manh."

*  Bài thi cho ông Nguyễn Văn Hoài :
"Vô vi tối hiếu đạo đương cầu,
Đệ tử tâm  thành bất viễn ưu.
Thế sự vô  duyên, vô thế sự,
Tiêu tư bất xuất ngoại gian đầu."

* Bài thi cho ông Phạm Công Tắc :
"Ngao ngáo không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp  út quá buồn lòng.
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng."
Nghe con ! Ráng học Đạo, không Thầy biểu Chiêu  đánh.

*  Bài thi cho ông Đoàn Văn Bản :
"Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận  không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành."

*  Bài thi cho ông Lý Trọng Quí :
" Lỡ một buổi lướt một ngày,
Một lòng thành thật chớ đơn sai.
Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lấp lửng đừng làm tội bữa nay."

*  Bài thi cho ông Lê Văn Trung :
"Đã thấy ven mây lố mặt dương.
Cùng nhau xúm xít  dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường."

TÁI CẦU :  (nhằm 11 giờ khuya, giờ Tý, Tết Bính Dần).

ĐẤNG THƯỢNG ĐẾ dạy rằng :
" Chư đệ tử nghe: Chiêu buổi trước hứa lời truyền Đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt cho Ta mà dạy dỗ chúng nó."

Ông Chiêu hỏi :
- Qua đến năm 1933 thì Đạo mới lập thành ?            
-  Phải.
"Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo.
Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.
Đức tập cơ, Hậu tập cơ, sau theo mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo."

Ấy là lời Thánh giáo đầu tiên, kỷ niệm ngày KHAI ĐẠO mồng 1 giờ Tý, Tết năm Bính Dần vậy.
 (Trích Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp, trang 15)

*
*          *
12. Ngày 9-3-1926 (âl 25-1-Bính Dần).

THẦY
"Mắt ! Nghe dạy :
Trước vốn Hỏa Thần ở Ngọc Cung,
Giúp Nam không đặng phận tôi cùng.
Nước đời lắm nỗi chua cay bấy,
Còn đợi chi mong thế vẫy vùng."

Ngươi muốn biết đặng Cha ngươi thế nào, hỏi nơi ngươi. Hễ tu thì cứu đặng Cửu Huyền Thất Tổ. Ngươi là hiếu hạnh, chẳng lẽ để cha mẹ chịu đọa A-Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối. THĂNG.

TÁI CẦU :
CAO  ĐÀI

"Mắt ! Ngươi muốn hiểu Cha ngươi thể nào, ấy là hiếu hạnh. Ta khen đó.
Ngươi làm tội chớ Cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà bị tội giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên can đó mà thôi, phải ở tại ngục Nguơn Tiêu mà đợi ngươi đến.
Ngươi phải ăn năn, khuyến thiện và tu tâm dưỡng tánh đặng độ nó và ngày sau đặng qui vị mà khỏi đọa luân hồi.
Nghe và tuân lịnh dạy.
Tâm thành của ngươi mới đặng mà thôi.
Ngươi muốn vậy, làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại cho ngươi biết."
(TNCT. TTT. 136)
*
*          *
Mắt: Ông Tư Mắt, chữ Hán là Mục, tên giấy tờ là Nguyễn Phát Trước, sau được Đức Chí Tôn phong là : Phụ Đạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân.
*
*          *
13. Ngày 13-3-1926 (âl 29-1-Bính Dần).
Khai Đàn Huỳnh Văn Đáng

CAO  ĐÀI
Đại hỷ chư môn đệ.
Đức !  Nghe dạy :
"Thiên đàng quí hóa đáng bao lăm,
Chẳng tốn bấy công, gắng chí tầm.
Đã  biết vào vòng tua lấn bước,
Cái công kết quả chẳng bao lăm."

Đức ! Cái công quả của con là chấp cơ truyền Đạo. Nghe Thầy dạy điều thiếu sót.
Như trước khi muốn thủ cơ thì phải lo diệt trần, là đừng để vào trí  của con một ý muốn riêng chi hết.

Cầm cơ thì trí não thanh tịnh, đừng sắm sửa vào trí  chi hết, vì là phần riêng của con thì Thầy lấy chi mà ứng vào đó cho đặng. Con phải giữ trí tỉnh táo, khi cơ lên thì Thầy ứng câu gì vào trí, con viết ra câu ấy. Thầy giáng tâm của con. Như trí con choán hết ý tứ Thầy thì  đâu đặng linh nghiệm.

Kỳ dư như Cư, Tắc, Sang, Quí, Giảng, Thạnh, thì Thầy giáng thủ, một đôi khi cũng giáng tâm.
Phải nhớ đặng chấp cơ mới ứng nghiệm.
Nghe và tuân theo.  THĂNG.
(TNCT. TTT. 142)

14. Ngày 18-4-1926 (âl 7-3-Bính Dần)

THẦY
Trung, Cư, Tắc, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng, có chữ Càn thêu bằng chỉ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy.
Hiếu, lại phải nhọc công nữa. Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm phải    nghe con.
Hiếu, lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.

Bà Hiếu bạch Thầy: Mytre.
- Mão nầy là mão Giáo Tông. Trước ngực ngay trán phải để chữ cung Càn, chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.
Nghe và tuân theo nghe con.
Trung, đêm nay đừng cầu Thầy nghe con.

TÁI CẦU :
Mừng sắp con.
Hiếu quì bạch Thầy chỉ dạy may áo Đức Giáo Tông, bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào ?
-  Thầy sẽ nhứt định mọi việc.
Thầy dạy : Mão bề cao 3 tấc 3 phân 3 ly thước lang sa, may giáp mối lại thì thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp. Hiếu  biết mà.
Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài,  một mí vắn, mí dài 3 tấc.
Giáo Tông, thảo hài.

TÁI CẦU :
 (Có tạo đỡ một cái mão bằng giấy dưng lên cho Thầy xem)
Cười . . . . . . . . .
Đặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ  hai  mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo.

Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra, nghe con. Con giỏi lắm Hiếu ! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang, phải vậy rồi.
Cư, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may mão Giáo Tông).  . . . . . . . . . . .
Hiếu dâng mão Giáo Tông may xong rồi cho Thầy xem.
- Trúng, mà ai đội con phòng lật đật.
(Đức Chí Tôn biết là Ông Chiêu không lãnh chức Giáo Tông nên mới có câu nầy.)
(ĐS. I. 106)

*
*          *

15. Sài gòn, ngày 22-4-1926 (âl 11-3-Bính Dần).
(Hộ Pháp chấp bút)
THẦY

Cười . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tắc ! Khí nộ xung lên, động lung lay Huỳnh Kim Khuyết  của Thầy đa !

Con hiểu, Khổng Phu Tử xưa truyền ra Nhơn đạo khó dễ là dường nào ! Qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị  phế, qua Triệu bị  đuổi, biết bao phen bị người bắt, kẻ kia buộc, ăn vạc nằm sương, nhọc nhằn biết mấy, song chưa có một tiếng than cùng Thầy, còn con  thì  phiền.
Con biết Lão Tử khi truyền Đại Đạo là thế nào chăng ? Người đời ấy chê Lão điên, còn con thì giận.
Con hiểu khi Thích Ca truyền Đạo, khổ hạnh là dường nào chăng ?  Còn  con  thì  than.
Con biết Jésus de Nazareth truyền đạo Thánh ra cho các môn đệ bị  tử đạo là dường nào chăng ? Còn con  thì  sợ  nhục.   Cười . . . . . . . . . . .
Thầy đã nói trước, Tắc, con ôi ! Nếu kẻ nào khác hơn con, dầu đứng chín phẩm Thần Tiên, Thầy cũng cho  bị  đọa, còn con thì Thầy quá thương.
THĂNG.                                                           
(TNR)

*
*          *

16. Tháng 5 năm 1926 (âl tháng 4 Bính Dần).

THẦY
Các con,
Thiện Minh, con há !  Mầng con.
Con ôi ! Khi Thầy giáng sanh lập đạo Thánh, Thầy phải đổ máu mà rửa tội cho chúng sanh, đến đỗi phải lấy Thần làm của tế, mà cầu khẩn cho chúng sanh. Hai ngàn năm chưa qua, giọt máu Thầy đã trôi hết.

Nay con vì ma khảo, phải đổ máu mà rửa tội cho phái Thái. Chưa vì sự vinh diệu con trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã đặng so sánh cùng Thầy rồi.  Cười . . . . . . . .
Con phải lấy hiệu Thiên ân là THÁI MINH TINH, làm Đầu Sư  đạo Thiền.
Con phải trông cậy pháp luật vô biên của Thầy.
THĂNG.
(TNCT. HH. 82)
*
*          *
Thiện Minh : Hòa Thượng Thích Thiện Minh, thế danh Nguyễn Văn Giáp (1883-1947), học trò của Hòa Thượng Như Nhãn (Thích Từ Phong).

*
*          *
Ngày 13-7-1926 (âl mùng 4-6-Bính Dần)
(Tại nhà Ông Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Định).

THẦY
Trung,  bình thân.
Thơ,  con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau .
"Thiên  ân  thử  nhựt tứ thành hôn,
Mãn thế bất ly thể dữ hồn.
Đạo đức nhứt tâm tu đáo cáo,
Chủ trung thị Ngã chí Thiên Tôn."
Dạy con hiểu hà.
 Ngài Nguyễn Ngọc Thơ viết ra Hán văn :
 (. . . . )
 (TNCT. TTT. 216)
*
*          *
18. Ngày 3-8-1926 (Âl 25-6-Bính Dần)
(Đàn Tân Định, tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo Đạo Nam Phương
Chư môn đệ nghe dạy :
Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có : Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Đồ đệ, chưởng quản thâu Tam Giáo hiệp nhứt.

Chiêu, thiệt là Nhứt Phật đó.
Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo Tông cho nó thì Chúa Quỉ sai Tam thập lục Động Địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy, và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng Ta.

Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó.
Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó, mà phải để cho Tam thập lục Động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.

Rủi thay ! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy ! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục Động khảo nữa thì mới liệu sao ?

Ta phải giáng cơ biểu nó.
Con Thơ, con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe đến. Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng ?

Chư môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của Thầy.
Thầy thăng.
(TNCT. TTT. 237)

(Bài Thánh Ngôn nầy, Đức Chí Tôn cho biết :
Tại sao Ngài Ngô Văn Chiêu mất chức Giáo Tông ?
Lý do: Không phải Ngài Ngô Văn Chiêu dám cãi lịnh Đức Chí Tôn, mà vì Ngài Chiêu bị Quỉ Vương thử thách và Ngài không thắng được Quỉ Vương).
*
*          *
19. Ngày 4-8-1926 (âl 26-6-Bính Dần)
Đàn Tân Định (tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ).

THẦY
Con Thơ,
Con ráng tập chấp bút cho Thầy chỉ vẽ cho.
Thơ nghe :
Khi con ngồi mà tập thì Thần con cho tỉnh, chẳng nhớ chi hết. Khi Thầy giáng thì làm cho con khó chịu một chút, rồi Thầy dạy con viết, mường tượng như con đặt ra vậy, mà không phải con đặt đâu. Thầy đưa Thần con theo Thầy lên không đặng Thầy dạy nó viết chữ  chi thì  nó cứ viết theo, chớ nó không biết gì hết.

Khi ấy con có hơi khó chịu, như điển dính tay con vậy. Ấy là Thầy giáng, song con đừng có lòng sợ thì Thầy mới dễ giáng.
Đãi ! Con lấy 9 cây nhang đặng Thầy làm phép trấn Thần  cho  nó.
THĂNG
(TNCT. TTT. 243)
*
*          *
20. Ngày 6-8-1926 (âl 28-6-Bính Dần).
(Ngài Nguyễn Ngọc Thơ chấp bút)

HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
giáo đạo Nam phương
Thầy đến đây đặng cho hội hiệp xum vầy ba ngôi đoàn tụ đó, bớ mấy con ! Nghĩa là : Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh đã đủ mặt ngày nay rồi, thì phải lo thi hành bổn phận cho chóng.

Bởi ngày giờ đã muộn, ráng mà làm bia cho đời sau noi dấu đến bảy chục muôn năm đó con, chớ chẳng phải là cuộc nhỏ mọn đâu con, phải ráng mà đồng công cộng sự mới đặng, trong thì có Thầy giúp sức, ngoài  thì  ba con phụ lực mới thành công.
Ngày hôm nay là đầu giờ khai mối Đạo. Từ đây có việc chi thì ba con phải tương thương cộng sự đặng mà điều đình môn đệ của ba con.    . . . . .
 THĂNG.

TÁI CẦU :
Cái trách nhậm của ba con rất quan hệ trong việc Đạo, nhứt là Thơ, con đã hưởng chán mùi trần, con đã đủ biết điều hay điều dở ở đời nầy ra làm sao.

Con phải riêng nghĩ lại tiền căn mà đừng mến hồng trần, vì  là chốn khổ hải đó con ôi !

Thơ, như con không chê việc phò cơ thì Thầy cho chấp cơ với Hậu những lúc có đàn tại nhà con. Còn bạn phò loan của Hậu  còn lâu gặp. Thầy đã cho phép nó kiếm tập rồi.

Con khá nghe lời Thầy, việc bút cơ là việc lớn trong Đạo, nên khi nào phò cơ chấp bút, phải diệt tận phàm tâm, đừng lo lượng điều chi trong trí của con. Phải biết dùng cái chí Thánh chí Phật của con mà làm cho xứng đáng cái vai tuồng mà Thầy đã định.

Con ôi ! Cái bả vinh hoa, con đã thấy tường tận rồi, nào có ra chi, chi bằng biết Đạo hết lòng độ vớt chúng sanh, trẻ thơ trông cậy nơi con nhiều đó con à ! Cái công quả ấy, nếu con làm được thì con hưởng nhãn tiền, vì con làm nghĩa cho nhơn sanh thì con được toại chí, rồi cái đạo tâm của con nó nở như tòa sen. Con sẽ thấy ấn chứng nhãn tiền, chớ không phải đợi sau mới thấy đâu.
Con đã hiểu ý Thầy chưa ?
Tự  ý  con muốn định sao, Thầy cho vậy.
Lịch,  con truyền Đạo cho Thơ  rõ.
THĂNG
(TNCT. TTT. 251-253)
*
*          *
21. Tân định, ngày 13-8-1926 (âl 6-7-Bính Dần).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, hỉ  các đẳng nhơn sanh.
Thầy dạy : Lâm Ái Nữ, Đường Ái Nữ vào trong. Chư môn đệ đứng dậy.
Huệ con, Lâm thị con, khá nghe lời dạy. Con ôi !
" Thế sự như đêm tăm tối,
Đạo như giữa lối gặp đèn,
Biết bao Thánh đức tâm hèn,
Trời đã buộc lắm phen cứu độ.
Bình lời hiếm kẻ vô biển khổ,
Mắc phải vòng ám mộ lợi danh,
Bỏ trần gian nhiều kẻ chẳng đành,
Ham phú quí  công danh đành phải đọa.
Tội  trần  kiếp tội dư đã quá,
Phận công phu nhân quả đã chưa rồi,
Mượn bồ đề quày quả thế thôi,
Chẳng phải kệ với kinh năng đúc Phật.
Âm chất vốn là điều thứ nhất,
Âm chất nhiều mới dứt  cõi trầm luân,
Phận liễu mai phải mang kiếp hồng trần,
Thầy lắm lúc bâng khuâng thương trẻ dại.
Ngồi vắng vẻ càng  thêm luyến ái,
Muốn toan đem trẻ dại đến đường tu,
Cảm thương con cũng lắm công phu,
Thầy phải liệu vận trù chước thế.
Đường Tây vức từ  khi  bị  bế,
Tiếng Phật tông đổi lệ thay thoàn,
Giữa trần ai ai có mắt  tàng,
Phòng hiểu thấu mối mang chơn giả.
Thầy không định vì lòng tự quá,
Mới khởi đem chánh quả một đường,
Tam Kỳ mong độ chúng tai ương,
Lại quyết mở Tây phương khai Đại Đạo.
Con vốn thật là tay chơn Lão,
Phái nữ nhi  bọc bảo giúp công Thầy,
Cùng Tỷ nương Đường thị con đây,
Lo phương thế đỡ day trong mối Đạo.
Đừng tưởng Lão chẳng vì lòng thảo,
Cậy con rồi trở tráo chối công đâu.
Cười . . . Khó việc chi cũng tại  buổi đầu,
Con ra sức mới thâu toàn Nữ phái.
Cực thân ấy, trẻ đừng ái ngại,
Muôn việc con Thầy lại sớt chia,
Chẳng phải cần đá tạc danh bia,
Tên tuổi trẻ nước kia còn khép mặt.
Lợi danh khá để lòng sắp đặt,
Trên thuận hòa ắt dưới tùy tùng,
Môn đệ Thầy để dạ lo chung,
Thương nghèo khó lao lung con giúp đỡ.
Trong môn đệ nhiều tay quá dở,
Tiền bạc nghèo Thầy khó đỡ đặng nào,
Khuyên con nhìn biết Lão đớn đau,
Tình đồng đạo yêu nhau bằng ruột thịt.
Tập hòa huỡn tánh không xích mích,
Tự nhiên dầu có nghịch cũng đầu,
Con  là đâu ma ø Lão lại đâu,
Quyền thế lớn ai thâu con ái ngại.
Thương dìu dắt lấy đoàn em dại,
Đạo đức ngoan phải trái con thấy rồi,
Niệm Nam mô hai chữ thấy thôi thôi,
Lo cứu thế mới rồi  lẽ chánh.
Tưởng hai trẻ chẳng lòng sanh nạnh,
Gắng chung lo mạnh Đạo nhà mình,
Lòng hiếu con thấu động Thiên đình,
Mẹ trẻ đó Thầy quyết tình cứu độ.
Con khá dắt em  con đi một ngõ,
Biểu nó rằng phải bỏ dối theo chơn,
Vậy con tua liệu thiệt lo hơn,
Thấy trước mắt chớ khờn thân nhọc."

Nghe ! Đọc lại. Lâm thị Ái Nữ, hiểu con há !
Một ngôi con, Thầy sắm sẵn gia tài, Thầy gìn giữ để trọn quyền con làm thế nào của phù du ấy ra âm  chất thì con làm.

Huệ ! Con phải ráng lo dạy dỗ Nữ phái nghe !
Thơ ! Vô  quì  nghe :
Thầy dạy may Thiên phục : Khăn áo màu vàng, mà cho thiệt tốt, khăn  9 lớp, áo gài 3 dải.

Con Lâm thị Ái Nữ  lo giùm cho Thầy 5 cái áo mão cho Lịch, Trung, Tương, Trang, Thơ, mão ấy Thầy sẽ vẽ, còn áo Thơ thì  Ái Nữ  thêu Con Mắt ở giữa, chung quanh có 6 chữ cổ tự đề Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ngay trước ngực và sau lưng, như miếng bố tử, chạy 2 vòng vô vi  bao  chung quanh nghe !

Tái cầu Thầy chỉ làm mão.
Thơ, Trung, Trang, Tương, Thầy muốn các con để tóc và râu như Lịchvậy hết.Thầy ban phước cho các con. Tái cầu. THĂNG.

TÁI CẦU :
CAO  ĐÀI
Đem nước phấn  ra đây Thầy vẽ mão.

Tám khía, ngó nghiêng thì vọng, ngó ngay thì như vầy : 8 khía, hai khía trước thêu chữ vàng Càn Khôn, còn sáu khía kia thì để thế nào cũng đặng, thêu chánh chữ cổ tự, nhung hay là hàng, tùy sắc phục mỗi đứa, cao 3 tấc 3 phân tây hai khía trước, còn mấy khía sau, làm sao cho lài lài trước cao sau thấp thì làm coi cho đặng. Giữa kín, phải cứng cho nó đứng, chớ con bồi bằng vải  càng tốt hơn.  THĂNG.
(TNCT. TTT. 257-261)

22. Sài gòn, Thứ bảy, 14-8-1926 (âl 7-7-Bính Dần)

THẦY
Các con nghe dạy,
Vẫn từ ngày Đại Đạo bế lại, Chánh quyền đều vào một tay Chúa Quỉ.  Cười . . . . . .

Khi Ngọc Hư Cung và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu nhiệm  ấy và hiểu rõ rằng Tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến, nó đã hiểu rõ rằng bề nào Thầy cũng phải chiếu  y Thánh ý, Tam giáo qui nhứt mà dùng danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT, nên chúng đã dùng chữ  CAO ĐÀI trước Thầy mà lập  Tả Đạo Bàng Môn.

Thầy hỏi các con : Vậy chớ Tà quái nhận tên ấy là chủ  ý gì ?
- Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy, để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Thánh giáo như đàn Cái Khế vậy.
Nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy,  tiện dụng làm một vị Tiên Ông mà thôi.
Cười . . . . . .  Vậy, các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu Tà mị. Các con nghe và tuân theo.  THĂNG.
(TNCT. TTT. 263)  (ĐS. II. 236)
*
*          *

23. Vạn Phước Tự (Hốc Môn), 22-8-1926 (âl 15-7-B.Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương
Hỷ chư môn đệ, chư chúng sanh.
Nhung, môn đệ rất yêu dấu ôi ! Nếu cả môn đệ Thầy biết kính mến Thầy như con, biết sợ luật lệ như con, chẳng kể chức phận như con, thì Đạo Thầy mới truyền bá kịp mà cứu vớt nhơn sanh.

Thầy khen con đó. Từ đây con phải lấy Thiên ân là Thái Nhung Thanh, phái Thái. Con sẽ ở trong một phái Thái rất lớn. Con phải mặc Đạo phục như Thơ, song đội mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng, có thêu Con Mắt Thầy hai bên. Con nghe há !

Soâ, vô hầu nghe dạy :
"Huỳnh lương  một giấc cuộc đời in,
Có trí có mưu phải xét mình.
Phú quí lớn là giành với giựt,
Lợi danh cao bởi mượn và xin.
Trăm năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,
Một  kiếp đeo đai mối nợ tình.
Biết số, biết căn tua biết phận,
Đường xưa để bước lại Thiên đình."

Cư đọc Thánh Ngôn, Tắc tụng Nhơn Quả.
Tái cầu.  THĂNG.
(TNCT. TTT. 274)
*
*          *
24. Ngày 23-8-1926 (âl 16-7-Bính Dần).

THÍCH CA MÂU NI PHẬT tá danh
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương
Như Nhãn  hiền đồ, nghe dạy :
Vốn từ Đạo bị bế lại thì phần nhiều hữu công tu mà thành thì ít thành, Ta rất yêu thương.
Hiền đồ có lòng giữ gìn Phật tông Chánh pháp, cái địa vị cao thượng của Ta ban cho hiền đồ từ thử là cốt để đợi cho tới ngày khởi định lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, cho hiền đồ có đủ quyền thế mà hành chánh với Ta.

Thiên cơ khó lậu, nếu tỏ tường chơn pháp của Lôi Âm Tự và Bạch Ngọc Kinh ra thì chưa ắt ngày nào Đạo đặng mở, Tam giáo qui nhứt.

Hiền đồ cũng hằng trông mong cho Đạo đặng vậy.
Hiền đồ đủ hiểu, Thánh đạo gọi Gia Tô lập đạo sau hết mà Thánh quyền cao thượng là chừng nào chưa ? mà tiếc cho Tiên đạo và Phật đạo là mối Đại Đạo đã khai từ  mới tạo Thiên lập Địa.

Mỗi sự chi cũng hữu chung hữu thỉ, cái tận tất là đến cuối cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt thì phải qui nguyên lại trước, nên gọi là tuần hoàn.
Ngày nay là buổi tuần hoàn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng khai, Ta trông công hiền đồ mà lập thành cho nước Nam làm chủ nền Chơn đạo của Ta.

Nơi đây là Thánh địa, Ta lập Thánh Thất. Hiền đồ có lòng giúp Ta chăng ?
Chỉ hiệp làm một mà thôi, vì Ta đã nhứt định đến với huyền diệu đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn. Hiền đồ đừng ái ngại.
  khá đọc Thánh Ngôn cho Như Nhãn hiền đồ nghe.
Tắc tụng Nhơn Quả cho chúng sanh nghe.
Tái cầu. THĂNG.
(TNCT.  TTT. 286)
*
*          *
25. Chúa nhựt, 5-9-1926 (âl 29-7-Bính Dần)
Thiền Lâm Tự, Gò Kén, Tây Ninh.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾviết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Cười . . .
Thơ lên trễ làm cho vắng mặt phái Thái buổi Thiên phong Như Nhãn hiền đồ, song chẳng hề chi, chờ chiều nay hai vợ chồng nó đến thì cũng đủ phái vậy.

Trung, Tương, Trang, ba con phải tuân mạng lịnh nghe.
Như Nhãn hiền đồ ! Thầy không muốn nói với con bằng tiếng Hớn ngôn, vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh tự đặng lập Đạo của Thầy, nên buộc phải nói rõ ràng với con.

Thời kỳ giấu giếm Thiên cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con là : Quản Pháp Thiền Sư Thích Đạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Đạo Sĩ, con vừa lòng chăng?
Con đã giúp Thầy gìn giữ Thích đạo nguyên luật từ thử, nay mới còn đặng như vầy, không thì đã ra Bàng Môn Tả Đạo rồi.
Con phải biết Thầy ngày nay trông công con mà lập thành Tân Luật Thích giáo. Con phải đại tịnh kể từ  tháng  9  cho  tới  Rằm tháng 10,  Thầy  không muốn cho con lo lắng điều gì khác hơn là xét xem kinh điển lại.

Con biết Ngũ Chi : Minh Đường, Minh Sư, Minh Tân, Minh Lý, Minh Thiện, cũng đều do nơi Phật  pháp mà ra, duy  giáo lý của các Chi  ấy thì có : Tiểu Học, Đại Học, Trung Dung và Tứ Thơ là kinh điển mà thôi.

Còn phái Lão duy có Đạo Đức Kinh và Huỳnh Đình Kinh là căn bổn.
Con phải xem xét hết lại mà lập  Tân Luật.
Thầy nhứt định giao Thánh Thất nầy lại cho Thơ lo lắng thế cho con, song sự thờ phượng phải có thay đổi chút ít, sau Thầy sẽ dạy chư Đạo hữu con định liệu.

Rằm tháng 10 nầy, Thầy xin con hội cả chư Hòa Thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân Luật. Ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị Hòa Thượng phò loan, đặng có điều chi bợ ngợ thì cầu Thầy mà thôi.

Thầy phú thác một trách nhậm nặng nề cho con, nhưng mà con đừng ái ngại. Danh giá con, Thánh đạo Thầy trong ấy, con khá hết lòng.

Con phải hiểu rằng, hội chư Hòa Thượng trọn đôi ba tháng thì là hao tốn, song chẳng hề chi, để Thầy định liệu. Tuy vân, Thầy biết sức một mình con  cũng  đủ  lập  Tân  Luật,  nhưng    Thầy  muốn có Hòa Thượng đặng cho khỏi trành tròn, lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục Thích đạo.

Thầy cậy con một điều là đòi Minh, vì nó là môn đệ của con, đặng giao chức Thái Đầu Sư cho nó đi phổ độ nhơn sanh. Cái trách nhậm ấy đáng lẽ về phần con, song con tuổi đã cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à !
Thầy để con trọn quyền mà Thầy xin con an lòng, Thầy lo chung cùng con, Thầy trông cậy nơi con lắm đó !
THĂNG.
(ĐS. II. 238)
*
*          *
Trung : Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung)
Tương : Ngài Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh.
Trang : Ngài Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh.

Như Nhãn : Hòa Thượng Như Nhãn, pháp danh là Thích Từ Phong, thế danh là Nguyễn Văn Tường (1874-1938), trụ trì tại chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn, nên Ngài còn được gọi là Hòa Thượng Giác Hải. Ngài có gom tiền trong bổn đạo mua đất cất chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén, Tây Ninh.
Ngài được Đức Chí Tôn phong là Thái Chưởng Pháp.
Từ Lâm Tự , thường được gọi là chùa Gò Kén, còn có tên là Thiền Lâm Tự.
Minh : Hòa Thượng Thích Thiện Minh, học trò của Hòa Thượng Như Nhãn. Ngài Thiện Minh được Đức Chí Tôn phong chức Thái Đầu Sư  Thánh danh: Thái Minh Tinh.

26. Sài gòn, ngày 12-9-1926 (âl 6-8-Bính Dần).
Phò loan : Thượng Sanh -Bảo Văn Pháp Quân

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ kim viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Mầng mấy con.
Mỹ Ngọc, từ đây việc nhà con an ổn, dầu điều chi, nhớ để  ý rằng có Thầy bên con luôn.

Đặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi chớ vội buồn, vì sự buồn vui và sự buồn tủi thường pha lẫn mà kế cận nhau. Còn sự gì phải đến cho con, ấy là tại nó phải vậy, chớ nên cượng cầu mà nghịch Thánh ý Thầy.
Hãy dò theo đây mà day trở trong bước đường Đạo:
"Mối Đạo từ  đây ráng vẹn gìn,
Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.
Lòng thành một tấm Trời soi xét,
Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.
Gai gốc lần đường công trước gắng,
Thảnh thơi có lúc  buổi sau dành.
Dòng  trần chìm nổi từ đây dứt,
Công quả tua bền độ chúng sanh."

Thầy sẽ cho Xuất Bộ Tinh Quân đến nhập cơ.
THĂNG.   
 (Bài 32 TNHT hợp nhứt)

Tái cầu :
CAO QUỲNH TUÂN
Mừng mấy con và mấy cháu.
Diêu ! Từ đây thầy lấy làm vui mà thấy con đặng để bước vào đường Thánh đạo. Vậy hãy ráng tu hạnh hầu phục hồi cựu vị.
Thầy rất vui thấy Cư và con đã đem tấm nhiệt thành mà cứu độ nhơn sanh khỏi dòng khổ hải. Ấy cũng là số phận rất may mắn của lịnh Ngọc Hoàng đã định cho con    Cư, Tắc, Sang.

Vậy thầy có mấy lời thiết yếu cùng con sau đây:
"Cựu vị ngày xưa đã có rồi,
Đường về chớ bỏ há con ôi.
Công trình chớ nệ xây nền Đạo,
Phước mỏng đâu hay bởi tứ Trời.
Đức trước hưởng rồi tua trả đức,
Ngôi sau gìn ắt đặng an ngôi.
Từ  đây son sắt vì sanh chúng,
Cảnh tịnh mai sau cũng đặng ngồi."

Thầy đã an lòng cho con và Cư, còn Đức, An, Thân, thì có lịnh Thượng Đế định phần cho chúng nó. Lượng từ đây phải ở nơi Lôi Âm Tự chầu Phật Như Lai và nghe lịnh, chừng có lịnh Thượng Đế đòi sai trấn thì nó sẽ về cùng con đặng. Thầy kiếu mấy con.
(TNR)
(Đức : Cao Quỳnh Đức; Thân : Huệ Chương; Lượng : Cao Quỳnh Lượng. Đức, Thân, Lượng đều là con của Ngài Cao Quỳnh Diêu.   An : Cao Quỳnh An, con của Ngài Cư).

*
*          *
27. Ngày 17-9-1926 (âl 11-8-Bính Dần).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾviết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương

Thơ ! Con mời Trần Phu nhân và Lâm thị Ái Nữ.
Lão chào Phu nhân.
Xin nghe phân giải một đôi điều:
"Cuộc trần thế khó phân chơn giả,
Tánh linh hư dầu quả cũng để ngờ.
Thanh bạch hai lẽ chẳng đủ thờ,
Quán thế phải tri cơ Tạo hóa.
May một kiếp đủ thành chánh quả,
Rủi ngàn đời cũng lạ Thần Tiên.
Thượng nhơn sanh trần tục xuống miền,"

Thâu chúng đệ nghiệp khiên mang tội chướng.

Vinh sang đã kiếp căn để hưởng,
Của mình chẳng vay mượn của ai,
Ngự một ngôi đã sẵn cõi Bồng Lai,
Tâm tích đức kế hay con đã rõ.
Món chung đỉnh con hằng muốn bỏ,
Tu Phật căn cứu độ lắm sanh linh,
Lập chùa chiền Phật giáo kệ kinh,

Thay tăng chúng khai minh đường đạo hạnh.

Thành tâm giáo thuận lòng chí Thánh,
Mong sao cho rành rạnh Phật tông,
Nghĩa khai quang công đã dày công,
Lòng ái chúng trọn lòng đức hạnh.
Vì công quả thật còn phải thạnh,
Luôn gia đình chẳng rảnh công tu,
Thầy mở mang Tam giáo gồm thâu,
Chuyển Phật giáo cho hiệp câu Phổ Độ.
Mười ngàn chẳn năm nay đủ số,
Luật Ngọc Kinh chưng trợ Lôi Âm.
Độ nhơn gian nhập Thánh siêu phàm,
May mắn ấy còn ham chi thế cuộc.
Cần tu ắt phải thành đã thuộc,
Con ngó coi thế đã chuốc trau mình.
Mượn Di-Đà mà làm mối lợi danh,
Làm Chánh giáo đã đành thành Tả đạo.
Như Nhãn cũng một lòng với Lão,
Mở luật tu khuyên bảo chúng tăng.
Tuy quyền Thầy chí Thánh mà rằng,
Không hạ thế, xác thân đâu chiếu dụ.
Dụng huyền diệu lời cơ tỏ dấu,
Rằng chưa hồi niệm Phật thấu vì kinh,
Nhờ lương sanh mà cứu vớt quần sanh,
Con cũng hiểu rõ tình Tà Chánh.

Cuộc Chánh giáo Thầy toan hiệp nhánh,
Qui Ngũ Chi: Tiên, Phật, Thánh, Thần, Nhơn,

Thầy khuyên con trọn đạo vi nhơn,
Con thấy đó đủ phân Tà Chánh.
Nghe chi  tiếng vô nhân đạo thính,
Mà để lòng bán tín bán nghi.
Việc nước nhà con có biết chi,
Trên Chánh khí phải vì phải kính.
Huyền diệu Lão nếu ra một lịnh,         
Thì thuận tình đâu dính tới thân con.
Phận tuổi cao lo lắng lắm hao mòn,
Việc nhà nước khuyên con lòng khó liệu.
Lâm thị vốn nên con có hiếu,
Thầy khuyên con chớ biểu nó đừng tu.
Người đời như kẻ điếc người mù,
Cơ Tạo hóa rất sâu nên khó hiểu.
Khánh Bạch Ngọc nhiều phen kêu biểu,
Tỉnh mê đồ lo liệu lại ngôi xưa.
Thân trần ai đã lắm cay chua,
Xin khá gắng đừng thua Tiên, Phật.
Thầy cậy mượn ai không lòng vụ tất,
Mà làm công đoạt phẩm trật mình.
Sổ ghi công đã chất Thiên đình,
Con gắng chí cho toàn pháp diệu."

Lâm thị Ái Nữ, Quan Âm sẽ giáng cơ mà chuyện vãn cùng con.
Thầy chào phu nhân.
(TNCT. TTT. 20-21-22)
*
*          *


Chương chưa


Thánh Ngôn Sưu Tập - 2 / 28 (HT. Nguyễn Văn Hồng)
28. Thứ sáu, 22-9-1926 (âl 16-8-Bính Dần).

THẦY

Các con, Thơ !  Con đã nghe Thánh ngôn hồi trưa nầy chưa ?  Vậy thì Đạo phổ độ trễ đã đành, con lo lập Thánh Thất, rồi đi khắp Lục Tỉnh đặng phổ độ.
Con lập Luật, Thầy nhứt định chẳng cần hội Hòa Thượng, tam vị  Chưởng Pháp đủ sức lập thành.
Các con xin Chánh phủ Lang sa Khai Đạo thì cực chẳng đã Thầy ép lòng chịu vậy cho tùng Thiên cơ. Thầy rất đau lòng mà phải chịu vậy chớ biết sao !

Con phô lời cho cả môn đệ Thầy thâu thập vào phái Thái cho chúng nó hiểu, còn Thánh Thất con phải chăm nom tới ngày rằm cho rồi đặng hội Tam giáo lập Luật, chừng ấy buộc chúng nó phải theo.
Các con biết rằng, chẳng thế nào mà sái Thánh ý Thầy đặng, chi chi trong năm Dậu cũng cho rồi đặng phổ thông ngoại quốc, nghe à. Chừng đi phổ độ, các con có sẵn huyền diệu của Thầy.

Hội chư Thánh là hội cả Chức sắc Thiên phong, còn công quả nơi các con mà nên, hoặc nơi các con mà hư, vậy mới đáng công tạo Tân Thế giới.

Nếu Thầy dùng phép Chí Tôn mà lập thành thì các con có công chi.
Nghe con Lịch, tại con chẳng tận tâm mà ra đến nỗi, nghe à.                                         
(ĐS.  II. 240)


Chương chưa



Thánh Ngôn Sưu Tập - 3 / 28 (HT. Nguyễn Văn Hồng)
29. Thứ hai, 27-9-1926 (âl 21-8-Bính Dần)

THẦY
Các con,
Thầy dặn các con, từ đây ai nói chi tùy ý, cứ nghe một Thầy thì  khỏi lầm lạc.
Con Trung cứ lo khai Đạo, món binh khí tà quái vì  đó mà tiêu diệt.
Nước Nam có một chủ mà thôi  là Thầy.
Từ trước vì  nhiều Đạo trong nước mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc dân  nên nước phải yếu, dân phải hèn. Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm chủ.

Thầy vì thất lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương, tức là thay mặt Càn Khôn Thế giới mà qui  chánh truyền nhơn loại.

Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng : Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ, vì Ta mà làm chủ nhơn loại, các con hiểu à !

Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng ai dám ngồi. Tất cả sáu ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ  giết chết, nghe à !
Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu.
Còn Nhạc Lễ là phép nhà Nam, Thầy muốn giữ gìn sao cho trọn vẹn, các con hiểu.
Các con hơi nào nghe lời thế sự, một điều nào cũng chưa quyết đoán cho cùng phải quấy.
Khi Thích Ca truyền Đạo, dân Brahma cho là Bàng môn vì  khác Thánh giáo Phật đạo.
Khi Lão Tử truyền Đạo thì  đời  cho là phép mê  hoặc.
Khi Chúa Jésus truyền Đạo thì nhà Israel gọi là  cải  Chánh đạo, đến  đỗi  bắt  giết.
Các con muốn vừa lòng Thiên hạ thì là giỏi hơn Thầy rồi.
Thầy khuyên đừng nao núng, các con ngó Thầy trước, các con coi  bước Thầy đi trước, các con cứ  đi  theo sau Thầy là đủ.
Cười . . . . . . . . . . . .
THĂNG
(ĐS. II. 242)

30. Ngày 1-10-1926 (âl 25-8-Bính Dần).
THẦY
Các con,
Lâm thị con ôi ! Thầy chẳng có phương chi để vào lòng con sự thương yêu con và cũng không thế nào làm cho con hiểu rõ quyền Chí Tôn của Thầy đặng.

Con trông cậy nơi Thầy, phú thác thân con cho Thầy. Nầy con ôi, nếu mắt phàm thấy rõ thì con sẽ kinh khủng quyền hành Thầy thế nào.

Ngay giữa điện kìa, trên đầu các con, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu chực kìa, họ đều cúi đầu lặng lẽ đặng nghe Thầy nói với  con.

Kìa, Quan Âm Bồ Tát đang châu mày đổ lụy mà cầu nguyện cho con, cầm sẵn tờ hịch chiếu cầu rỗi cho mẹ con, con thấy đâu các Đấng ấy, vì vậy nên Thầy không chấp. Con nên thật lòng trông cậy nơi Thầy.

Con ôi ! Bao nhiêu của thế gian con đã đổ đặng cầu siêu rỗi cho mẹ con mà chẳng đặng, duy nhờ  từ ngày con biết thờ phượng Thầy mà mẹ con đã vào Bạch Thiên Cung Án, con đâu thấy điều ấy cho đặng, tự nơi con, bởi công con  mà Cửu Huyền Thất Tổ  con  đặng  rỗi.

Con phải hiểu biết, vì hiếu của con mà Thầy càng thêm luyến ái.

Thầy khuyên con một điều là phải bỏ phận vinh hoa  mà cam nâu sồng khổ hạnh. Ngày vinh hiển thiệt của con chẳng phải nơi chốn hồng trần vô vị  nầy.

Con thương Thầy, con tưởng lấy con, lo độ rỗi cho Thầy lập thành Nữ phái.
Thầy trông cậy nơi con, cũng như con trông cậy nơi Thầy. Cha con hiệp đồng thì đủ quyền thế mà cải số Nam Tào chánh thức, con hiểu à !

Con an tâm. Thầy đủ quyền hành đặng làm cho con đắc thành chánh quả đặng độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ con, con tưởng chắc vậy chăng ?

Thầy đã nói nó vào Bạch Thiên Cung Án, mà còn tội  lỗi    con.

Con có chức, Thầy sẽ ban, ráng đợi con nghe. Con cứ  đi phổ độ, chừng nào Nữ phái  đặng đúng 200 người thì Thầy ban Tịch và phong sắc con nghe.
Có Thánh kinh đó, con phải đọc Thánh kinh cho thường cho chị con nghe, mỗi tuần phải đọc riêng cho chị  con ba lần như vậy. Nghe và tuân theo.
Thầy ban ơn cho các con.
(TNCT. TTT. 47-48)
*
*          *

31. Ngày 13-10-1926 (âl 7-9-Bính Dần).

THẦY
Các con,
Mấy đứa nhỏ bỏ thói kiêu ngạo nghe !
Vĩnh ! Đọc PHỔ CÁO CHÚNG SANH, đợi Thầy sửa nghe. Hễ Thầy hạ cơ thì ngừng đọc. (1) . . . . . . . . . . . . . . . .
Các con nghe,
Thầy chẳng buổi nào mà đành lòng cho các con hạ mình trước mặt ai hết, song ngày nay buộc phải vậy. Các con  tức cấp  lo phổ độ.

Kể từ ngày mồng 10 tháng nầy, mấy đứa phò loan phải xin phép nghỉ  29 ngày hết nghe. Thầy dặn các con phải phân nhau mà đi cho khắp.

Đạo Quang, ngày thứ bảy, Thầy sẽ phân việc. Thầy trông cho mau lập Tân Luật.
Con Trung, con phải nói với Le Fol cho con giấy chứng Khai Đạo. Mai con lên nó, có Thầy.

Con phải nhớ viết một cái thơ cho em con là Lâm thị, nó đương sầu thảm, giờ nầy nó đương ngồi nơi phòng mà khóc. Con phải khuyên lơn nó, nhắc nó nhớ lời Thầy dặn.

Trang, con nếu biết thương em con, con cũng nên đi Vũng Liêm, con đi mới hữu ích nghe. Thầy nói ít, con hiểu nhiều.

Từ đây, hai con lại để  ý gìn giữ hai đứa nó kẻo nó ngã lòng mà tổn bớt công quả của chúng nó, tội nghiệp. Thầy giao cho hai con chăm nom cả em út  các con,  nghe  à !

Thầy còn dạy nhiều việc, nhưng hai đứa nhỏ (2) đã mệt. Thầy dặn các con đừng dùng tiếng “Đồng” mà kêu mấy đứa nhỏ, nó giận không muốn phò loan    tại  vậy.

Thơ, biểu nó viết chữ tựa lơn lớn một chút, còn  Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai Đạo, con cứ làm, Thầy cho phép. Có vậy mới nhẹ bớt công phổ độ. Còn tờ Nhựt trình, thỉnh thoảng sẽ tính.
Thầy ban ơn cho các con.
Đặng nhiều càng tốt. Chữ quốc âm  mà thôi.
THĂNG
(TNCT. TTT. 76-77)
*
*          *
(1)  Xem  PHỔ CÁO CHÚNG SANH nơi phần Phụ Lục.
(2)  Hai đứa nhỏ : Ý Đức Chí Tôn nói hai vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài làm đồng tử  phò cơ (phò loan).
*
*          *
32. Sài gòn, ngày 30-10-1926 (âl 24-9-Bính Dần).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương

Hỷ chư môn đệ, hỷ chư nhu, hỷ chư ái nữ.
Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con lên kêu Nhiều (bạn đời của Ngài Phạm Công Tắc)  đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà.

Hiếu, Nhiều,  hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh.  Từ đây, Cư, Tắc phải lo Đạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái  Thầy.  Thầy lấy làm chua xót, mà Đạo là trọng, mới biết liệu sao ?
Hiếu  bạch: Thưa Thầy con vâng. (*)
-  Nhiều, sao con ?
Nhiều bạch Thầy: Còn mẹ già.
- Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy, con cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho con.
Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con nghe.
*
*          *
(*)  Tôi vâng sắc lịnh Thầy trên đây, tôi về chùa Từ Lâm Tự,  Gò Kén Tây Ninh nhằm ngày Khai Đạo, quí anh lớn về, tôi đi chung một đoàn xe, về tới chùa đúng 5 giờ chiều ngày 14-10- Bính Dần (dl 18-11-1926)  [Lời ghi chú của Bà Hiếu]
(ĐS. I. 103)
*
*          *
33. Thứ ba, 16-11-1926 (âl 12-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Lập lễ Thánh Thất
Phải làm một Nghi án trước Điện day mặt vô Bảy Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp, nơi ấy phải kín, bốn phía ra vô có màn. Thầy giáng cơ tại  án ấy, nghe à !
Lễ Thánh Thất, chia ra làm : Lễ, Khách, Xuất, Thâu.
Vậy Thầy nói về Lễ trước.

* VỀ LỄ : Thầy giao Chánh sự cho Trang, Phó sự cho Nhung, Phụ sự có Ý, nghe à. Như YÙ không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì Chánh sự là Trang làm đầu. Thầy lại thêm ba vị nữa cho các con rộng dùng : Mùi, Vân, Đạt.

Thầy lại hỏi thêm mười hai đứa nữa, ai tình nguyện ?
Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài, Nghĩa, Nguyễn Xuân Quang, Sơn, Lê Thế Vĩnh, Huờn, Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.

* VỀ KHÁCH : Khách thì Tương là Chánh sự, Luật là Phó sự, Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch ?  Voi là Phụ sự, Lại, Son, Thành là giúp Thầy.
 Hỏi mười hai đứa tình nguyện :
Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp, Trò, Giảng, Học, Kỳ, Tường, Hơn, Kính, Đơn.
* VỀ THÂU : thì Thơ, Như Nhãn, Đạo Quang.
Thầy hỏi hai đứa ký lục : Châu, Tuấn.
* VIỆC XUẤT : Xuất  thì Lịch, Xài, Hóa (Phủ Hóa Cần Đước). Thầy hỏi 2 đứa ký lục : Kiều, Vĩnh.
Nghe hành lễ, con Trang :
Chưởng Pháp, Đầu Sư : Thầy định ba ngôi Chưởng Pháp, ba ngôi Đầu Sư  đều có vị.
Phối Sư : Còn Phối Sư thì là Trang, Tương, Thơ, là Chánh, còn 33 vị nữa thì tùy theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.
Giáo Sư : Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.
Giáo Hữu: Kế nữa là 3000 Giáo Hữu, cũng tùy Thiên phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.

Phò loan: Tiếp nối theo sau, ngay chính giữa, nơi Bàn Hộ Pháp thì: Đức, Hậu, Tràng, Nghĩa.
Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên.
Bên trái thì: Đãi, Kim, Tươi, Chương.

Hộ Pháp: Con lại để dựa bên Bàn Hộ Pháp hai cái ghế, rồi làm hai cây phướn đề : Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng Phẩm : Bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.
Thượng Sanh : Bên trái Hộ Pháp là Thượng Sanh.
Đưa cây Phướn Thượng Phẩm cho Mùi, cây Phướn Thượng Sanh cho Vĩnh cầm, đứng hầu hai bên.
Trấn cờ Ngũ phương: Tại Đông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương, lựa 12 đứa đồng nhi cầm cờ, còn ở giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Đức.

Lịch, hiểu à ! Khi hành Đại lễ cho Thầy rồi thì Lễ sanh (1) xướng : "Thiên phong quán tẩy" : Cả thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng : "Chỉnh túc y quan" thì cả thảy phải thay Thiên phục.
Lễ sanh xướng : "Lập vị" thì đứng theo hàng ngũ cũ như trước.
Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch.

*
*          *
(1) Lễ sanh, ở đây không phải là phẩm vị Chức sắc, mà là người xướng lễ và điện lễ, nên sau nầy, Đức Lý Thái Bạch đổi lại gọi các vị ấy là Lễ sĩ cho phân biệt.
Còn Nữ phái thì đều phải mặc đồ trắng trước khi hành lễ.
Thiên phong Nữ phái: thì Cư, Tắc, phải vào nghi án phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập Tịch Đạo luôn nữa nghe.
Trấn Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần mỗi người và nơi mình của chư Thiên phong, rồi mới hành lễ.
Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế, chớ không đặng lộn xộn.
Hành lễ : Còn bao nhiêu môn đệ thì đứng tiếp theo sau. Thầy dặn : Hành lễ rồi thì phải biểu Lễ sanh xướng : "Thiên phong phò loan" đặng Thầy lập Phật Truyền Chánh Pháp.
Cư, Tắc phải để Thiên phục vậy mà phò cơ nghe.
Thầy sẽ giao Nhạc cho Mỹ Ngọc, và Lễ cho Nhơn.
(ĐS. II. 13-15) & (TNCT. HH. 101-103)
*
*          *
34. Thứ tư, 17-11-1926 (âl 13-10-Bính Dần)
(Trước Đại lễ Khai Đạo 2 ngày, nối tiếp Bài 33)

THẦY

Khi chư môn đệ mặc đồ thường vào, con cũng phải sắp đặt địa vị  chúng nó.
Tụng kinh hành lễ thường vừa rồi, con biểu Cư, Tắc rửa mặt rửa tay cho tinh khiết, biểu chúng nó vào nghi án cho Thầy phong sắc chư môn đệ lục tỉnh, xong kế Nữ phái.
Con phải giúp em con là Đường thị, Lâm thị, với  Ca thị, lập vị  bên Nữ phái cho trang hoàng.
Chừng Thầy thăng, biểu hai đứa nhỏ ra đứng nơi Bàn Hộ Pháp như cũ.
Chừng Lễ sanh xướng : "Chỉnh túc y quan" thì biểu 12 đứa Phò loan sắp ba hàng kế đó, biểu Đạt đi. Kế đó là Tắc; Cư, Sang đi hai bên; kế nữa thì 3 vị Chưởng Pháp (biểu Nhàn theo hộ Thuï), kế nữa thì 3 vị Đầu Sư  (biểu Tạ theo Trung, còn Hoằng theo Thiện Minh), kế nữa 3 vị Chánh Phối Sư, kế nữa Chức sắc đi 3 đứa, 3 đứa ra thay đồ Thiên phục.

Khi đặng nửa giờ, phải đổ chuông ba hiệp, chờ tới hiệp chót, biểu Lễ sanh xướng :”Lập vị” thì lại đi như nãy mà trở vào. Nhớ biểu hai đứa cầm Phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư  và Sang.

Vào lập vị hành Đại lễ như buổi Vĩnh Nguyên Tự, nghe Lịch à . . . là đã hết một đêm đầu rồi.
Kế đêm sau, là đêm Thiên phong cho cả chư môn đệ và là đêm các con phải thành tâm trai giới cho Thầy lập Pháp Chánh Truyền.

Đêm thứ ba, các con cũng lập vị cúng thường  ngày, xong hai đứa nhỏ mặc Thiên phục vào nghi  án cho Thầy giáng.
Rồi việc Lễ.

* KHÁCH : Còn việc Khách thì : Tương, con phải chia mười hai đứa phụ sự ra làm ba ban. Một ban bốn đứa đãi bọn Thượng lưu và Lang sa; một ban đãi bọn Trung lưu; một ban đãi bọn Hạ lưu, song phải cắt ba vị Phó phụ sự ra ba ban đặng cai quản. Còn con thì lo việc tiếp các quan Lang sa.
Về phòng trù, con cũng nên sắp đặt, nhứt là đừng khiếm lễ cùng ai hết.

VỀ VIỆC XUẤT : Tới việc xuất thì ba vị chấp sự,  mỗi đều ký giấy tử tế cho đủ ba người, mới cho xuất tiền.  Cười . . . Thầy làm như vậy đặng dự phòng lãng phí, nghe à !

VỀ VIỆC THÂU : Còn sự thâu, Trang con khéo tính lắm, Thầy khen và cám ơn con, song phải lo thu xếp cho em Thơ con cho nó bớt tốn, kẻo tội nghiệp nghe con.
(ĐS. II. 16)  &  (TNCT. HH. 105-106)
*
*          *
35. Thứ hai, 6-12-1926 (âl 2-11-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương

Hỷ chư môn đệ, chư  ái nữ, chư nhu, chư tín nữ.
Trung : - Bạch Thầy xin cho đình lại, qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp Luật cho Thầy phê chuẩn.
- Phải  ở luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập Luật sẵn.
Nghe Thầy dạy :
* Khởi đầu lập Luật tu gọi là : Tịnh Thất Luật,
* kế nữa là lập Luật trị, gọi là Đạo Pháp Luật,
* ba là lập Luật đời gọi là Thế Luật.

Các con hiểu à !  . . . . . . .
(ĐS. II. 71)
*
*          *
36. Tân định, ngày 9-12-1926 (âl 5-11-Bính Dần).

THẦY
Con  Thơ,
Con hỏi việc chỉnh luật, vậy phải à con.
Còn mai nầy, các Đạo hữu của con chờ con về, mà không sao, cứ đại tịnh lo làm Luật cho xong rồi sẽ về, đó con. Phải chờ chỉnh đốn Điều luật cho oai nghi đặng vạn quốc hưởng nhờ bảy chục muôn năm đó con. Ráng làm cho hoàn tất, rồi cầu Thầy sửa cho.

Phải mời Trần Lương Phu nhân chỉ biểu, và Hương Thanh phụ bút.
Kinh luật Tam giáo là cả thể lắm con. Việc quan hệ trong thế giới, chẳng phải tầm thường đâu. Còn như chuẩn Luật rồi, thiên hạ chúng sanh hưởng nhờ vô lượng công đức đó con.
Anh Trung và các Đạo hữu nhắc con hoài.
Thôi  Thầy thăng.
(TNCT. TTT. 464)
*
*          *
37. Ngày 9-12-1926 (âl 5-11-Bính Dần).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương

Hỷ chư môn đệ, chư nhu, chư tín nữ.
Các con nghe, chư nhu nghe.
Thầy vì Tam Kỳ Phổ Độ, tùng nhơn nguyện, cho nên muốn khuấy rối bao nhiêu, Đạo lại càng phát mau bấy nhiêu. Trước Thiên ý chẳng đồng nhơn trí nên không thế nào chuyển đặng, Đạo cao nay nhơn tâm đồng hiệp, cảm thấu  Thiên đình.

Thiên tùng nhơn nguyện cũng như đồng thinh vậy, nên Đạo mới dễ chuyển hơn. Các con hiểu à !
Ấy vậy, hễ biết đến nguồn Đạo thì phải nhứt tâm đợi ngày thành tựu thì các con sẽ thấy sự tối cao tối trọng của nền Chánh giáo của Thầy đem ban cho các con mà lập thành Quốc Đạo.
Thầy cho thượng sớ cầu Đạo.
Trong môn đệ, chi chi đã có Thầy định đoạt rồi.
(TNCT. TTT. 533)
*
*          *

38. Thứ bảy, 11-12-1926 (âl 7-11-Bính Dần).

THẦY
Các con,
Diêu  đợi nghe.
Trung, Lịch  ! Hai con phải dụng đại lễ mà an táng Tương nghe.
Thầy ngặt một lẽ, chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó nơi Đông Đại Bộ Châu mà chờ Tòa Tam Giáo phát đạt.

Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến.

Các con nghe à !
Vậy trong hịch văn sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.

Lịch  bạch Thầy về sự đại lễ . . .
Không con . . .  Đại lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe. Trung, Lịch đứng tên.
Diêu ! Con chưa đặng định thần khi Thầy giáng há ? Những lời Thầy dạy con, phải sắp đặt phần nhơn đạo, rồi lấy hồn xác con mà dùng về việc

Đạo, nghĩa là con phải cho xong phận sự làm người rồi  lo  hành Đạo mà thôi, con à !
Thầy còn dạy con nhiều nữa, Diêu !
Trung, Lịch ! Lễ ấy phải khởi đầu giờ Tý nghe.
Thầy ban ơn cho các con.
THĂNG.
(ĐS. II. 85)
*
*          *
Tương : Ngài Nguyễn Văn Tương, tu theo đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, sau nhập qua ĐĐTKPĐ, được Đức Chí Tôn phong Thượng Chưởng Pháp. Ngài đăng Tiên tại làng Hữu Đạo, Mỹ Tho, ngày 5-11-Bính Dần (dl 9-12-1926)  hưởng 48 tuổi.

Lưu ý : Còn một Chức sắc Đại Thiên phong có tên là TƯƠNG (Nguyễn Ngọc Tương) làm Đốc phủ, Chủ quận Cần Giuộc, nhập môn vào Đạo Cao Đài, được Đức Chí Tôn phong là Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh. Sau nầy, Ngài tách ra lập Chi phái Bến Tre.

Diêu : Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu.
Trung : Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê văn Trung)
Lịch : Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (Lê Văn Lịch).
*
*          *
39. Thứ hai, 14-12-1926 (âl 10-11-Bính Dần).

  THÁI  BẠCH
Đại hỷ.
Thánh Thất đã an, chư hiền hữu lo chỉnh nghi cho tinh tấn.
Thầy dạy Thượng Trung Nhựt hiền hữu lo sắp đặt thế nào cho ra nghi tiết thì sắp đặt.
Sau lưng bàn thờ Hộ Pháp, phải để một miếng nỉ dài, ngang một thước rưỡi,  cao ba thước, thêu chữ bùa Lão vẽ đây. (Bùa chữ  KHÍ)
Như có thế làm một cái bàn thờ ba nấc, giữa cao, hai bên bằng, cho Thượng Phẩm, Thượng Sanh đứng.
Chư Đạo hữu chỉnh đàn cho Thầy ngự. Ai chẳng y quan tử  tế xuất ngoại.
Nghe và tuân mạng.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Thầy dặn con Trung,
Lý Bạch phiền Tương vì trong Sổ không nhiều công quả, Người mới để cho nó chết. Con dặn cả môn đệ coi gương Tương mà giữ mình.

Ráng phấn chí lập thành Chánh giáo, chẳng bao lâu đây, Thầy sẽ cho một phương pháp rất trọng để cho các con cứu độ nhơn sanh.
(TNCT. TTT. 553)

Trung,
Con biểu Mắt phải chịu khó cúng Tứ thời và nhìn Thiên Nhãn cho thường. Mỗi lần cúng cho được lâu, lâu đặng cảm lòng giáng hỏa thì hết đau mắt.

 Luôn dịp, Thầy nói cho các con biết :
 Cúng Tứ thời có ích cho các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu cúng được thường thì lòng dạ nở nang, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi  tật  bịnh  tiêu  diệt.
 Các con nên biết việc cúng Tứ thời nghe.
Thầy ban ơn cho các con.
THĂNG
(TNCT. TTT. 567)
*
*          *
40. Thứ bảy, 18-12-1926 (âl 14-11-Bính Dần)

THÁI BẠCH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội.
Thượng Trung Nhựt, hiền hữu nghe dạy :
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng : Buổi lập Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút. Lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá Chơn đạo rõ lý hơn.

Vậy ngày Đại lễ Thánh giáo Giáng sinh, phải có mặt tại đây cho đủ và nạp Luật cho kịp ngày ấy.
Làm lễ xong, qua ngày kế thì chư Thánh mặc Đại phục, vào Đại điện bái, rồi Hiền hữu biểu sắp ghế vòng theo Đại điện. Hiền hữu và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận chư Thánh mà ngồi vòng hai bên như lúc hiền hữu còn tại Thượng Nghị Viện, đặng cãi luật đó vậy.
Hiền hữu chưởng quản làm chủ Hội, mỗi vị Thánh đều đặng quyền  cãi  lẽ, nghe à !
Phải giữ phép, kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ : phái Thái trước, phái Thượng giữa, phái Ngọc chót.
Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp Luật cho kịp một lượt với Thơ, nghe à ! . . .

41. Thứ bảy, 25-12-1926 (âl 21-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Frère Latapie,

Je vous nomme Evêque d’équipe Française, c’est au rang des Giáo Sư que vous êtes placé.
Vous direz aux Français que le MAIÂTRE ne vient pas aujourd’hui. J’ai à régler quelques organisations intérieures du Sacerdoce. J’aurais  duâ  recourir  à  vos  aides,  si votre  équipe  était  formée.

Thượng Trung Nhựt !  Hiền hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân Luật, nếu Thầy để cho Lão, nội trong 2 giờ thì hoàn thành tất cả, ngặt một điều là nếu Lão lập Luật, chẳng một ai trong hàng Đạo hữu hành đạo đặng.
Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Đạo hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn lực vào đó chút ít, rồi  lấy huyền diệu làm ra Thiên lực, ấy là một hạnh công bình đó.

Vậy Lão giao ba Bộ Luật hiệp một cho Thái Thơ Thanh trước, nội trong một tuần lễ, phải hiệp thế nào cho ba Bộ ba phái chung vô làm một, qua tuần nữa tới Thượng Tương Thanh, kế một tuần nữa tới Ngọc Trang Thanh, nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi Luật lệ, đem về Thánh Thất đặng cãi  lại  nữa.                                                
(ĐS. II. 120)
*
*          *
42. Thứ hai, 27-12-1926 (âl 23-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội, chư chúng sanh.
Thượng Trung Nhựt, Đạo hữu khá khuyên những kẻ đến đây chẳng lòng thật tình kỉnh lạy Chí Tôn, nên xuất ngoại nghe.
Chỉnh đàn cho Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương

Trung !  Con nên cho kẻ môn đệ yêu dấu của Thầy hầu nội hết.
Không cần nói chúng nó cũng hiểu, Thầy rất vui mừng. Vậy Thầy dặn con, mỗi khi chúng nó đến, phải tiếp rước trọng hậu, nghe à !

Chư nhu thượng sớ.
Bốn Ông Lục và chín người đàn thổ, thâu hết.
Kỳ  :  - Xin đi cúng nơi các nhà đặng khai đàn cho chư Đạo hữu trong các làng hạt Tây Ninh.
- Ấy là phận sự của nó.
Trung : - Xin về việc Chánh phủ . . .
- Phải.
Lịch :  Xin cúng cơm cho ông lão.
- Đặng. Cười . . . Nếu Thầy định thì Thầy sẽ dạy con đừng cúng kiếng chi hết, vì Chơn Nhơn chẳng còn hưởng của phàm bao giờ. Con làm tiệc đãi, chớ chẳng nên gọi cúng.
 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thầy dặn rằng : Thầy đến chẳng phải lập một nền Đạo mới, mà đến đặng nhắc các con rằng : Ngày Tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ vương sắp đến.

Thánh ngôn các Đạo đã khai từ thuở tạo Thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến sanh, Thiên tai rấp đến.
Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng : Ngày Tận Thế đã đến.
Thầy đã tạo Thánh giáo trọn đủ Pháp luật.
Thầy đến chỉ độ kẻ vô đạo chớ không phải sửa đạo.  Con hiểu à !
(ĐS. II. 123 -125)
*
*          *
43. Thứ tư, ngày 29-12-1926 (âl 25-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH KIM TINH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội, chư chúngsanh.
Cười . . .  Huờn,  nghe Lão.
Việc cơ bút, hiền hữu tuy chưa rõ thấu huyền diệu cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hiểu biết chút đỉnh. Chẳng phải ai cầm cơ mà đều đặng huyền diệu hết.
Lão giải nghĩa : Có ba phẩm đồng tử phò loan :
- Một là Giáng tâm,
- Hai là Mê,
- Ba là Giáng thủ.

Tây phương gọi là : Intuitif, Semi-intuitif,  Automatique.
Thầy đã cho hiền hữu chấp cơ một đôi khi quả có huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân hiền hữu nó lại choán lấy hết Thiên ý mà dịch trật, vì vậy mà hiền hữu nhiều phen thất chí, nhứt là khi thai bào con hiền hữu, hiểu à !
Thầy dạy hiền hữu cùng Phước Sanh chọn kẻ khác cầu Thầy, hầu truyền bá Đạo nơi tỉnh Biên Hòa, nghe à ! THĂNG. (ĐS. II. 127)

 [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  [ 17 ]  [ 18 ]  [ 19 ]  [ 20 ] 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét