
Ý
HƯỚNG: Ngoài những bài Thánh Ngôn và Thi Văn Dạy Đạo trong THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN
do Hội Thánh ấn hành thì còn có rất nhiều bài Thánh Ngôn và Thi Văn khác của
Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng giáng cơ dạy Đạo, chưa được
tập hợp in thành sách để lưu truyền và phổ biến trong bổn Đạo.
Trong ý hướng bảo tồn và lưu truyền các lời vàng
ngọc dạy bảo đạo đức của Đức Chí Tôn,
Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng, chúng tôi cố gắng sưu tầm, chọn lựa và sắp xếp các bài Thánh Ngôn cũng như các bài Thi Văn theo thứ tự thời gian giáng cơ, tạo thành nhiều tập sách gọi là THÁNH NGÔN SƯU TẬP (viết tắt TNST).
Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng, chúng tôi cố gắng sưu tầm, chọn lựa và sắp xếp các bài Thánh Ngôn cũng như các bài Thi Văn theo thứ tự thời gian giáng cơ, tạo thành nhiều tập sách gọi là THÁNH NGÔN SƯU TẬP (viết tắt TNST).
Chúng tôi dự kiến làm thành 4 phần THÁNH NGÔN SƯU
TẬP, tương ứng với 4 giai đoạn lịch sử quan trọng của Đạo Cao Đài, kể ra :
* TNST Phần I: Từ năm1925
đến 1934.
Trong thời gian 10 năm đầu tiên, Đức Quyền Giáo
Tông Lê Văn Trung cầm quyền nền Đạo về mặt hữu hình. Năm 1934 (Giáp Tuất) thì
Ngài qui Thiên.
* TNST Phần II:
Từ năm 1935 đến 1941. Trong thời gian 7 năm nầy, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, cầm quyền nền Đạo.
Năm 1941 (Tân Tỵ) là năm Đức Phạm Hộ Pháp bị bắt đồ
lưu hải ngoại.
* TNST Phần
III: Từ năm 1946 đến 1956. Năm 1946 (Bính Tuất) là năm Đức Phạm Hộ Pháp trở
về Tòa Thánh tái thủ quyền hành, và năm 1956 (Bính Thân) là năm Đức Ngài lưu
vong sang Nam Vang nước Cao Miên.
* TNST Phần
IV: Từ năm 1957 đến 1971.
Trong thời gian 15 năm nầy, Đức Cao Thượng Sanh về
Tòa Thánh Tây Ninh cầm quyền nền Đạo. Năm 1971 (Tân Hợi) là năm Đức Cao Thượng
Sanh đăng Tiên.
VIỆC THỰC HIỆN :
Chúng tôi sưu tầm được :
· Quyển Thánh Ngôn Chép tay của Ngài Bảo Pháp
Nguyễn Trung Hậu gồm 81 trang, chép các bài Thánh Ngôn từ năm 1926 đến 1957.
· Quyển Thánh Ngôn Chép tay của Ngài Đầu Sư Thái
Thơ Thanh, gồm 921 trang, chép các bài Thánh Ngôn từ năm 1926 đến 1928.
· Quyển Thánh Ngôn Chép tay của Bà Nữ Đầu Sư Hương
Hiếu, gồm 2 tập cahier được 202 trang, chép các bài Thánh Ngôn từ năm 1926 đến
1930.
· Quyển Thánh giáo Pháp văn Chép tay (Messages
Spirites) 1930 - 1935.
· Hai quyển Đạo Sử
I và 2 (đánh máy quay ronéo) của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
· Một số rất nhiều bài Thánh Ngôn và Thi Văn rời,
đánh máy hay chép tay.
Chúng tôi lựa chọn các bài Thánh Ngôn và Thi Văn
trong các tài liệu kể trên, không trùng các bài trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, để
làm thành các quyển Thánh Ngôn Sưu Tập.
Chắc chắn trong giai đoạn nầy, còn nhiều bài Thánh
Ngôn mà chúng tôi chưa tìm thấy được.
Ước mong quí Chức sắc và quí Đồng đạo còn cất giữ
những bài Thánh Ngôn ấy, xin cho chúng tôi mượn photo để bổ sung vào quyển
TNST. I cho đầy đủ hơn và đưa vào các quyển TNST tiếp theo.
Ngoài ra, những bài Thánh Ngôn và Thi Văn trong các
quyển TNST chưa hẳn là chính xác.
Ước mong quí Chức sắc, quí Đồng đạo nêu ra những
chỗ ấy để chúng tôi sửa chữa, hầu không làm sai lạc ý nghĩa lời dạy bảo của các
Đấng.
Các quyển TNST nầy, khi hoàn thành, chúng tôi xin
hiến dâng cho Hội Thánh toàn quyền sử dụng. Đó là tâm nguyện của chúng tôi.
Kính.
Hiền Tài NGUYỄN VĂN HỒNG
1. Thứ bảy, 8-8-1925 (âl 19-6-Ất Sửu).
THẤT NƯƠNG
(tá danh Đoàn Ngọc Quế)
Một buổi tối thứ bảy,
nhằm tối thượng tuần tháng Aouât 1925, ba ông (Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài
Sang) hiệp nhau chơi, còn ông Cao Quỳnh Diêu vì mắc việc nên vắng mặt.
Bữa ấy có Cô Đoàn Ngọc
Quế giáng bàn, đàm luận một hồi, rồi ba ông xin kết anh em với Cô. Cô bằng
lòng, bèn kỉnh :
- Ông Cư là Trưởng Ca,
- Ông Tắc là Nhị Ca,
- Ông
Sang là Tam Ca,
- Phần
Cô thì Tứ Muội.
Ba ông nghi Cô trá tên nên năn nỉ hỏi Cô cho đến
cùng. Cô liệu khó giấu nên tỏ thiệt là : V.T.L. (Vương Thị Leã).”
(Theo ĐĐTrN. 10)
*
* *
2. Ngày 28-8-1925 (âl 10-7-Ất Sửu).
Đấng A Ă Â
Nhớ lại lối trung tuần
tháng 7 năm Ất Sửu (10-7-Ất Sửu, dl 28-8-1925), ba ông (Cư, Tắc, Sang) thỉnh
bàn ra (lúc nầy in như say Đạo), tính xây bàn cầu Cô Đoàn Ngọc Quế (tá danh
của Thất Nương Vương Thị Lễ) về dạy học văn thi.
Ba ông để tay thì bàn dở lên, bỗng có một Ông
giáng, ông Cư hỏi tên gì, thật rất lạ, xưng là AĂÂ, gõ bàn cho một bài thi dưới
đây :
THI :
Ớt
cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối
mặn ba năm muối mặn dai.
Túng
lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.
Ông Phạm Công Tắc nghe dứt câu liền nói với ông Cao
Quỳnh Cư rằng :
-
Thôi anh, ai đâu mà nói tiếng gì khó nghe quá ! Sao lại không có tên mà xưng là
AĂÂ.
Ông
Cư nói : - Ậy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị
nầy không phải tầm thường đâu em.
Ông
Cư hỏi
Ông AĂÂ mấy chục tuổi ?
Ông
AĂÂ gõ bàn, đếm hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Liền
đó ông Cư ngưng lại không dám hỏi nữa
và kiếm
hiểu Ông nầy ở trển chắc lớn lắm.
Từ
đó về sau, có vị nào giáng cho thi thì ba ông cầu Đấng AĂÂ xin giải nghĩa." (Theo ĐS. I. 5)
Ghi thêm :
Khoảng đầu tháng 9 năm Ất Sửu, Đấng AĂÂ giáng bàn phân rằng :
"Muốn
cho Bần đạo đến thường, xin chư vị nạp mấy lời yêu cầu của Bần đạo như sau đây
:
.
Một là đừng kiếm biết Bần đạo là ai.
.
Hai là đừng hỏi đến quốc sự.
. Ba
là đừng hỏi đến Thiên cơ."
Quí vị xây bàn đều hứa giữ ba điều ấy.
*
* *
3 . Đêm 1-10-1925 (âl
14-8-Ất Sửu).
HỘI
YẾN DIÊU TRÌ CUNG
Lối thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), Thất
Nương cho biết về Diêu Trì Cung :
"Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Chín
Tiên Nương mà Cô là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương."
Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương dạy cách cầu
Đức Cửu Thiên Nương Nương.
Thất Nương nói :
- Ba
anh muốn cầu thì phải ăn chay trước ba ngày và cầu vào đêm Trung Thu, phải có
ngọc cơ cầu mới đặng.
Nhơn vào ngày đó, Đấng AĂÂ bảo ba ông (Cư, Tắc,
Sang) làm một cái tiệc chay đãi Mười Đấng Vô hình gồm : Đức Cửu Thiên Nương
Nương và Chín vị Tiên Nương.
Đúng vào đêm Trung Thu, 14-8-Ất Sửu (dl 1-10-1925),
tại nhà ông Cư (134 Bourdais Sàigòn, nay là đường Calmette),đúng giờ Tý, cả
thảy đều đủ mặt.
Ông Cư đã sắp đặt một cái bàn dài, rải bông lá xung
quanh, phía trong bàn, ngay chính giữa, để một cái ghế mây lớn, và nối theo là
chín cái ghế mây nhỏ hơn đặt chung quanh bàn, trên bàn chưng dọn những bình
bông và trái cây tươi tốt, đặt trước
mỗi cái
ghế là một tách trà, một ly rượu, một cái chén cùng với muỗng, đũa. Ông
Cư đốt hương xông trầm, trang hoàng rất tinh khiết. Ông Cư lên nhang đèn, cả
thảy đều quì lạy, khấn vái.
Xong, hai ông Cư và Tắc đem ngọc cơ ra cầu.
Đức Cửu Thiên Nương Nương và Cửu vị Tiên Nương
giáng ngọc cơ để lời chào mừng quí ông.
Thất Nương yêu cầu ba ông (Cư, Tắc, Sang) đờn, rồi
mỗi người ngâm bài thi của mình (đã làm sẵn do Thất Nương dặn trước) để hiến
lễ.
Chừng nhập tiệc, Thất Nương mời ba ông ngồi vào bàn
cho vui. Ba ông không thể chối từ, nên đem thêm ba cái ghế, sắp sau lưng chín
cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống.
Bà Hiếu (bạn đời của ông Cư) sắp đặt đồ ăn chay
sẵn, đi vòng quanh bàn dài, gắp thức ăn đặt vào chén của Mười Đấng, rồi rót
rượu và rót nước trà, đãi Mười Đấng Vô hình, giống như đãi người hữu hình vậy.
Cách chừng nửa giờ sau, như là tan tiệc, hai ông Cư
và Tắc đem ngọc cơ tái cầu.
Lịnh Nương Nương và Chín Tiên Cô để lời cảm
tạ, nói rằng :
- Từ
đây có ngọc cơ rồi thì tiện cho Diêu Trì Cung đến dạy việc.
Xong mỗi vị cho một bài thi 4 câu làm kỷ niệm:
CỬU
THIÊN NƯƠNG NƯƠNG :
"Cửu kiếp Hiên
Viên thọ
sắc Thiên,
Thiên
Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.
Huyền
hư tác thế Thần Tiên Nữ,
Nữ
hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên."
Nhứt
Nương :
"HOA
thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa
thu ba e tuyết đông về.
Non
sông trải cánh Tiên lòe,
Mượn
câu thi hứng vui đề chào nhau."
Nhị Nương :
"CẨM
tú văn chương hà khách đạo ?
Thi
Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?
Tuy
mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh
Tiên còn mến, cõi trần anh thư."
Tam Nương :
"TUYẾN
đức năng thành đạo,
Quảng
trí đắc cao huyền.
Biển
mê lắt lẻo con thuyền,
Chở
che khách tục, cửu tuyền ngăn sông."
Tứ Nương :
"GẤM
lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng
treo nhà ít học không ưa.
Đợi
trông nho sĩ tài vừa,
Đằng
giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi."
Ngũ Nương :
LIỄU
yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa
hương.
Lục Nương :
"HUỆ
ngào ngạt đưa
hơi vò dịu,
Đứng
tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương
mây như thả cánh hồng,
Tiêu
Diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên."
Thất Nương :
"LỄ
bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân
từ tái thế tử vô ưu.
Ngày
xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm
duyên phước tục khó bù buồn Tiên."
Bát Nương :
"Hồ
HỚN HOA SEN TRẮNG nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu
trăng hằng thói dấu mày,
Cợt
mây tranh chức Phật đài thêm hoa."
Cửu Nương :
"KHIẾT
sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc
Liêu ngôi cũ còn lời.
Chính
chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương
người noi đạo, Phật Trời cũng thương."
Sau khi các Đấng ở Diêu Trì Cung thăng hết rồi thì
kế Đấng AĂÂ đến nhập cơ.
Ông Cư và ông Tắc tọc mạch hỏi :
-
Khi nãy, Diêu Trì Cung đến, có Ngài ở đó không ?
Ông AĂÂ đáp :
- Có
chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.
- Ngài
có thấy Diêu Trì Cung đến không ?
- Có
chớ, chính mình Ta tiếp đãi.
Ông Cư hỏi :
-
Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không ?
- Không
ngó thấy.
-
Sao vậy ?
- Ta dùng phép ẩn thân.
Ông Tắc tọc mạch hỏi tiếp :
- Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì Cung
có thể đạt đạo đặng chăng ?
- Đạt đặng chớ.
Ông Cư hỏi :
- Phải làm sao ?
- Phải tu, bằng không tu thì
chẳng đạt đặng.
Ông Tắc hỏi :
- Tu chừng bao lâu mới đạt đặng ?
Ngài làm thinh không
đáp.
Ông Tắc hỏi :
- Một năm, năm năm, một trăm năm,
một ngàn năm, một vạn năm . . . . . . .
Ngài cũng làm thinh,
rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng.
Đêm ấy, quí ông thức tới 3 giờ sáng.
*
* *
4.
Ngày 16-12-1925 (âl 1-11-Ất Sửu).
VỌNG
THIÊN CẦU ĐẠO
Ngày 27-10-Ất Sửu (dl 12-12-1925),
Đức Cửu Thiên Huyền Nữ (Cửu Thiên Nương Nương) giáng mách bảo rằng : " Mùng 1 tháng 11 nầy, tam vị đạo hữu Vọng Thiên Cầu
Đạo."
Ba ông hợp nhau bàn giải, không hiểu cầu đạo là gì
mà Bà dạy, để cầu hỏi mấy em.
Ngày sau, ba ông cầu Thất Nương hỏi :
-
Thất Nương dạy giùm, cầu đạo là gì ?
Thất Nương nói : - Không phải phận sự của em, xin hỏi Ông AĂÂ.
Ngày sau nữa, có các Đấng giáng, ba ông hỏi thì các
Đấng cũng nói : - Không phải phận sự của
tôi, xin hỏi Ông AĂÂ.
Ngày
30-10-Ất Sửu (dl 15-12-1925), ba ông cầu Đấng AĂÂ thì Đấng AĂÂ giáng dạy rằng :
-
Ngày mùng 1 tháng 11 nầy (dl 16-12-1925), tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo. Ba vị
tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa Trời, mỗi vị cầm 9 cây nhang mà vái rằng :
"
Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng
Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh."
Nhớ lời Ông
AĂÂ dạy, tối hôm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu, ba ông mặc áo dài đen, quần trắng,
đầu đội khăn đóng, đặt một cái bàn nhỏ và thấp ngoài sân, trước nhà ông Cư,
đồng quì xuống, chống tay lên bàn, mỗi người cầm 9 cây nhang đốt cháy, đưa lên
vái : " Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm
Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn đủ phúc lành cho ba
tôi cải tà qui chánh."
Ba ông cứ tịnh tâm mặc niệm, vái đúng như lời của
Đấng AĂÂ dạy, không nhớ tới cái vụ quì ngoài sân cỏ, dựa đường đi, có kẻ qua
người lại dập dìu, lớp thì xe cộ họ đi chơi, lớp thì đi coi
hát về, họ dừng chân lại coi ba ông nầy cúng vái ai mà lại quì ngoài sân cỏ như
vậy. Ai coi mặc ai, ba ông cứ quì đó cầu khẩn, van vái cho tàn hết 9 cây nhang.
Cúng vái xong, ba
ông vào nhà, đem ngọc cơ ra
cầu.
Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng, viết chữ Nho, cho 4
câu Hán văn, chép ra sau đây :
(. . . . . .
)
"Vọng niệm phân kỳ sự sự phi,
Cá
lý Thiên tâm thường thế nhẫn.
Thiên
tâm tu hướng cá trung cầu.
Quân
vấn Thiên tâm mạc tri tường."
Ba Ông không hiểu chi cả.
Khi Đấng Cao Đài Thượng Đế thăng rồi, ba ông mới
thỉnh bàn ra, cầu Ông AĂÂ xin giải nghĩa 4 câu Hán văn của Đức Cao Đài Thượng
Đế trên đây.
Đấng AĂÂ giáng, giải nghĩa như sau :
"Cầu ước, phần thửa, việc việc, chẳng phải,
Mỗi,
lẽ, Trời, lòng, thường, thế, nhịn.
Trời,
lòng, tua, ngó theo, mỗi, giữa, khẩn,
Bây,
hỏi, Trời, lòng, chẳng, biết rõ."
Nghĩa xuôi :
"Việc
cầu ước đều chẳng phải,
Mỗi
lẽ do lòng Trời, phải đợi lịnh.
Lòng
Trời tua ngó theo mỗi việc đều cầu khẩn,
Bây
hỏi lương tâm chưa biết rõ sao ?"
Lòng Trời : Conscience.
Đấng AĂÂ nói :
- Đấng Cao Đài Thượng Đế nói tam vị chưa đủ đức tin
về Ngài nên hỏi gạn lại. Tam vị phải nghĩ cho thấu.
Đấng AĂÂ cho bài thi :
"Cứ níu theo phan Đức
Thượng Hoàng,
Tự
nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt
hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn
lấy nhành dương hưởng đạo nhàn."
*
* *
5.
Đêm Noel, 24-12-1925 (âl 9-11-Ất Sửu).
Thất Nương giáng cơ truyền phải chỉnh đàn cho
nghiêm trang hầu tiếp giá.
Nghe vậy, ba ông Cư, Tắc, Sang, nửa mừng nửa sợ,
lật đật sắm hương đăng hoa trà tửu quả, chỉnh đàn có nghi tiết, rồi hai ông Cư
và Tắc ngồi chấp cơ.
Cơ giáng :
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết
CAO
ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương
"Muôn kiếp có Ta
nắm chủ quyền,
Vui
lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo
mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn
tuổi muôn tên giữ trọn biên."
Đêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta đã xuống trần
dạy Đạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta
như vậy. Nhà nầy (nhà của ông Cư) sẽ đầy ơn Ta.
Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn
nữa.
Bấy lâu Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các
con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy mà khai
Đạo.
Các con có thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa
?
Các con nên bắt chước Thầy trong mảy mún thì mới
xứng đáng là người đạo đức.
(Trích Đại
Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp, trang 14)
Ghi
thêm :
Đầu tháng 12 năm 1925, Đấng AĂÂ giáng bàn phân với
ba ông Cư, Tắc, Sang rằng :
- Muốn cho
Ta tận tâm truyền Đạo, các vị phải gọi Ta bằng THẦY cho tiện bề đối đãi.
Ba ông vui lòng vưng chịu.
Từ đây, giữ nghĩa Thầy trò, tình giao thiệp càng
thêm mật thiết.
(Trích Đại
Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp, trang 13)
*
* *
6.
Ngày 31-12-1925 (âl 16-11-Ất Sửu).
A Ă
Â
Ba con thương Thầy lắm há ?
Con thấy đặng sự hạ mình của A Ă Â thế nào chưa ?
Con có thấu đáo cái huyền năng của Thầy chưa ? Người quyền thế lớn nhứt như vậy
có thể hạ mình bằng A Ă Â chăng ? A Ă Â
là Thầy.
Thầy đến con thế ấy, con thương Thầy không ?
Cao Quỳnh Cư bạch : - Thấy nhơn sanh chưa rõ sự huyền diệu của Thầy, họ nói phạm thượng, ba
con binh vực Thầy, ba con cãi vã với họ.
- Thầy biết . . .
Cười . . .
Sự
nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy mún gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.
Sự
cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy mún gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy.
Sự
nhân đức của Nhất Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học nhân đức của Nhất
Nương.
Tình
nghĩa yêu mến của con có bằng Bát Nương không ? Phải học. Sự kính nhượng, ba
con bằng Cửu Nương chăng ? Phải học.
Phải
học tình nhơn ái, trung tín, cứu giúp.
Ba
con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương chăng ?
Phải học gương.
(ĐS. I. 34)
*
* *
7.
Ngày 1-1-1926 (âl 17-11-Ất Sửu)
Thánh PIERRE
"Thiên đàng giữ
cửa góc Trời tây,
Truyền
Đạo cho dân biết mặt Thầy.
Cứu chuộc
đã gần hai
ngàn tuổi,
CAO
ĐÀI phú
thác dắt dìu
bây."
*
* *
THẦY
Con hiểu Jésus là ai chăng ?
Trước Ta đã đổ máu cho loài người vì
thương
yêu. Nay Ta đến cứu loài người cũng vì thương yêu.
Bây đủ thương yêu Ta dường ấy chăng ?
Ta cần bây biết ăn năn hầu cứu chữa bây.
(ĐS. I. 35)
*
* *
8.
Ngày 2-1-1926 (âl 18-11-Ất Sửu).
THẦY
Cư, Tắc !
Hai con đừng lấy làm việc chơi nhé !
Thầy dặn hai con một điều, nhứt nhứt phải đợi
lịnh Thầy, chẳng nên lấy
tứ riêng mà phán đoán nghe !
Phận sự hai con, trách nhậm hai con, Thầy đã định
trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy nghe !
Từ đây, Thầy
khởi sự dạy Đạo cho.
(ĐS. I. 36)
*
* *
9.
Ngày 16-1-1926 (âl 3-12-Ất Sửu).
QUÍ CAO
Đã lâu không dám nói, vì Em còn phải tu như hai Anh
vậy, không dám nói vì hai Anh có Thầy. Em không dám lộng quyền.
Tu
như cỏ úa gặp mù sương.
Đạo
vốn cây che mát mẻ đường.
Một
kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Đôi
năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có
Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện
Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập
thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn
Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.
Phương là hướng, là đường đi. Tường là lành. Bường
là bình. Tịnh mẫn là êm sáng. Nhập
thể là đem Thần sáng vào mình đặng êm sáng.
Từ đây, xin nhị huynh hỏi Thầy, đừng hỏi Em, Em nói mà phạm tội. Em xin kiếu.
TÁI CẦU :
QUÍ CAO
Ngũ Kỵ : Hành, Tỏi, Sản, Ớt, Tiêu.
Theo Phật giáo thì kỵ, Tiên giáo thì không.
Phật vì tích Thanh Đề Mục Liên gọi là uế vật, là phi. Tiên đạo cho dùng các
thảo mộc, chẳng kỵ vật chi.
(ĐS. I. 40)
*
* *
10. Ngày 27-1-1926 (âl 14-12-Ất
Sửu)
THẤT NƯƠNG
Em chào ba Anh và Đại tỷ.
Hèn lâu, Em không chuyện vãn cùng ba Anh. Em xin ba
Anh coi lại thế đời là dường nào ?
Cái bông phù dung sớm còn tối mất, còn hơn một kiếp
con người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sống còn có cái sắc,
chớ đời người sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi, chung qui ngó lại, dầu sống trăm
tuổi chưa được một điều đắc chí, chết là hết. Cái đời tạm nầy, sách Phật gọi là
khổ hải.
Em xin ba Anh coi sự trường sanh của mình làm
trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn, nỡ bỏ đi,
Em chỉ tiếc giùm đó thôi.
Đã vào đường chánh, cứ do đó bước tới hoài thì trở về cựu vị
đặng.
Ông Lê Văn Trung hỏi :
- Có duyên luyện Đạo cùng chăng
? Xin Em mách giùm.
- Đã gặp Đạo tức có duyên phần. Ráng tu luyện, siêng thì thành, biếng thì
đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính, một ngày qua, một ngày chết, đừng dụ
dự. Em xin kiếu.
(ĐS. I. 43)
*
* *
11. Ngày 12-2-1926 (âl 30-12-Ất Sửu).
Hiệp với ông NGÔ VĂN CHIÊU :
Cách đây ít ngày, Thượng Đế giáng cơ
dạy mấy ông: Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức
phải hiệp với ông Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo.
Ngài lại dạy rằng, mỗi mỗi phải do nơi ông Chiêu là
Anh Cả.
Lúc nầy trong Đạo kể được 13 người :
1. Ngô Văn Chiêu
2. Lê Văn Trung
3. Vương Quan Kỳ
4. Nguyễn Văn Hoài
5. Đoàn Văn Bản
6. Võ Văn Sang
7. Lê Văn Giảng
8. Lý Trọng
Quí
9. Cao Quỳnh Cư
10. Phạm Công Tắc
11. Cao Hoài Sang
12. Nguyễn Trung Hậu
13. Trương Hữu Đức.
Đến
đêm 30 tháng chạp năm Ất Sửu (dl 12-2-1926), Đấng Thượng Đế giáng cơ
cho mỗi người một bài thi như vầy : (1)
* Bài thi cho ông Võ Văn Sang :
Tân
dân hỷ
kiến đắc Tân niên,
Phổ Độ Tam
Kỳ bá thế
hiền.
Nhứt tịnh
chủ tâm chơn đạo lý,
Thăng
Thiên huợt địa chỉ như Thiên.
(1) : Đêm nay, hai ông Trương hữu Đức và Cao hoài
Sang vắng mặt.
* Bài thi cho ông Cao Quỳnh Cư :
"Sắp
út thương hơn cũng thế thường,
Cái
yêu cái dạy ấy là thương.
Thương
không nghiêm trị là thương dối,
Dối
dạ vì chưng yếu dạ thương."
Cư, trong năm mới nầy, Thầy trông mong con rõ thấu
đạo đức hơn nữa. Gắng chí nghe !
* Bài thi cho ông Vương Quan Kỳ :
"Nhựt
nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên
đáo tân hề đạo dữ tân.
Vô
lao công quả tu đương tác,
Niên
quá niên hề đạo tối tân."
* Bài thi cho ông Lê Văn Giảng :
"Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe
nơi Đại Đạo ráng nghe luôn.
Ở
trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách
nạn chi chi cũng chảy luôn."
* Bài
cho ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Đức :
"Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
Đức
hóa thường lao mạc vị danh.
Hậu thế lưu truyền gia pháp quí,
Giáo
dân bất lậu tán thời manh."
* Bài thi cho ông Nguyễn Văn Hoài :
"Vô vi tối hiếu đạo đương cầu,
Đệ
tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế
sự vô duyên, vô thế sự,
Tiêu
tư bất xuất ngoại gian đầu."
*
Bài thi cho ông Phạm Công Tắc :
"Ngao ngáo không phân lẽ thiệt không,
Thấy
thằng áp út quá buồn lòng.
Muốn
giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái
của cái công phải trả đồng."
Nghe con ! Ráng học Đạo, không Thầy biểu Chiêu đánh.
* Bài thi cho ông Đoàn Văn Bản :
"Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành."
* Bài thi cho ông Lý Trọng Quí :
" Lỡ một buổi lướt một ngày,
Một
lòng thành thật chớ đơn sai.
Lôi
thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lấp
lửng đừng làm tội bữa nay."
* Bài thi cho ông Lê Văn Trung :
"Đã thấy ven mây lố mặt dương.
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo
cao phó có tay cao độ,
Gần
gũi sau ra vạn dặm trường."
TÁI
CẦU : (nhằm 11 giờ khuya, giờ Tý, Tết
Bính Dần).
ĐẤNG
THƯỢNG ĐẾ dạy rằng :
"
Chư đệ tử nghe: Chiêu buổi trước hứa lời truyền Đạo, cứu vớt chúng sanh, nay
phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó
lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt cho Ta mà dạy dỗ chúng nó."
Ông Chiêu hỏi :
-
Qua đến năm 1933 thì Đạo mới lập thành ?
- Phải.
"Trung,
Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo.
Bản,
Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và
tuân theo.
Đức
tập cơ, Hậu tập cơ, sau theo mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo."
Ấy là lời Thánh giáo đầu tiên, kỷ niệm ngày KHAI ĐẠO
mồng 1 giờ Tý, Tết năm Bính Dần vậy.
(Trích Đại
Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp, trang 15)
*
* *
12. Ngày 9-3-1926 (âl 25-1-Bính
Dần).
THẦY
"Mắt ! Nghe dạy :
Trước
vốn Hỏa Thần ở Ngọc Cung,
Giúp
Nam không đặng phận tôi cùng.
Nước
đời lắm nỗi chua cay bấy,
Còn đợi chi mong thế vẫy vùng."
Ngươi muốn biết đặng Cha
ngươi thế nào, hỏi nơi ngươi. Hễ tu thì cứu đặng Cửu Huyền Thất Tổ. Ngươi là
hiếu hạnh, chẳng lẽ để cha mẹ chịu đọa A-Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối. THĂNG.
TÁI
CẦU :
CAO ĐÀI
"Mắt ! Ngươi muốn hiểu Cha ngươi thể nào, ấy là hiếu
hạnh. Ta khen đó.
Ngươi
làm tội chớ Cha ngươi là trung hiếu lưỡng toàn, hay thương yêu đồng chủng, mà
bị tội giáo tử bất nghiêm, để đến đỗi hại sanh linh đã lắm lúc nên bị tội liên
can đó mà thôi, phải ở tại ngục Nguơn Tiêu mà đợi ngươi đến.
Ngươi
phải ăn năn, khuyến thiện và tu tâm dưỡng tánh đặng độ nó và ngày sau đặng qui
vị mà khỏi đọa luân hồi.
Nghe
và tuân lịnh dạy.
Tâm
thành của ngươi mới đặng mà thôi.
Ngươi
muốn vậy, làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại
cho ngươi biết."
(TNCT. TTT. 136)
*
* *
Mắt: Ông Tư Mắt, chữ Hán là Mục, tên giấy tờ là
Nguyễn Phát Trước, sau được Đức Chí Tôn phong là : Phụ Đạo Chưởng Nghiêm Pháp
Quân.
*
* *
13.
Ngày 13-3-1926 (âl 29-1-Bính Dần).
Khai Đàn Huỳnh Văn Đáng
CAO ĐÀI
Đại hỷ chư môn đệ.
Đức
! Nghe dạy :
"Thiên
đàng quí hóa đáng bao lăm,
Chẳng
tốn bấy công, gắng chí tầm.
Đã biết vào vòng tua lấn bước,
Cái
công kết quả chẳng bao lăm."
Đức ! Cái công quả của con là chấp cơ truyền Đạo.
Nghe Thầy dạy điều thiếu sót.
Như trước khi muốn thủ cơ thì phải lo diệt trần, là
đừng để vào trí của con một ý muốn riêng
chi hết.
Cầm cơ thì trí não thanh tịnh, đừng sắm sửa vào
trí chi hết, vì là phần riêng của con
thì Thầy lấy chi mà ứng vào đó cho đặng. Con phải giữ trí tỉnh táo, khi cơ lên
thì Thầy ứng câu gì vào trí, con viết ra câu ấy. Thầy giáng tâm của con. Như
trí con choán hết ý tứ Thầy thì đâu đặng
linh nghiệm.
Kỳ dư như Cư,
Tắc, Sang, Quí, Giảng, Thạnh, thì Thầy giáng thủ, một đôi khi cũng giáng
tâm.
Phải nhớ đặng chấp cơ mới ứng nghiệm.
Nghe và tuân theo. THĂNG.
(TNCT. TTT. 142)
14. Ngày 18-4-1926 (âl 7-3-Bính Dần)
THẦY
Trung, Cư, Tắc, ba con lập
tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng, trên đầu
chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng, có chữ Càn thêu bằng chỉ vàng. Dặn nó
mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy.
Hiếu, lại phải nhọc
công nữa. Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm phải có
nghe con.
Hiếu, lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ
kiểu mão cho con coi.
Bà Hiếu bạch Thầy: Mytre.
- Mão nầy là mão Giáo
Tông. Trước ngực ngay trán phải để chữ cung Càn, chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo,
con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.
Nghe và tuân theo nghe
con.
Trung, đêm nay đừng cầu
Thầy nghe con.
TÁI CẦU :
Mừng sắp con.
Hiếu quì bạch Thầy chỉ
dạy may áo Đức Giáo Tông, bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào ?
- Thầy sẽ nhứt định mọi việc.
Thầy dạy : Mão bề cao 3
tấc 3 phân 3 ly thước lang sa, may giáp mối lại thì thế nào cho có trước một ngạnh, sau một
ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp. Hiếu biết mà.
Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có 2 dải thòng
xuống một mí dài, một mí vắn, mí dài 3
tấc.
Giáo Tông, thảo hài.
TÁI
CẦU :
(Có tạo đỡ
một cái mão bằng giấy dưng lên cho Thầy xem)
Cười . . . . . . . . .
Đặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí
giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo.
Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra, nghe
con. Con giỏi lắm Hiếu ! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang,
phải vậy rồi.
Cư, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may mão Giáo
Tông). . . . . . . . . . . .
Hiếu dâng mão Giáo Tông may xong rồi cho Thầy xem.
- Trúng, mà ai đội con phòng lật đật.
(Đức Chí Tôn biết là Ông Chiêu không lãnh chức Giáo
Tông nên mới có câu nầy.)
(ĐS. I. 106)
*
* *
15. Sài gòn, ngày 22-4-1926 (âl 11-3-Bính Dần).
(Hộ Pháp chấp bút)
THẦY
Cười . . . . . . . . . . .
. . . . . .
Tắc ! Khí nộ xung lên, động lung lay Huỳnh Kim
Khuyết của Thầy đa !
Con hiểu, Khổng Phu Tử xưa truyền ra Nhơn đạo khó
dễ là dường nào ! Qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị
phế, qua Triệu bị đuổi, biết bao
phen bị người bắt, kẻ kia buộc, ăn vạc nằm sương, nhọc nhằn biết mấy, song chưa
có một tiếng than cùng Thầy, còn con
thì phiền.
Con biết Lão Tử khi truyền Đại Đạo là thế nào chăng
? Người đời ấy chê Lão điên, còn con thì giận.
Con hiểu khi Thích Ca truyền Đạo, khổ hạnh là dường
nào chăng ? Còn con
thì than.
Con biết Jésus de Nazareth truyền đạo Thánh ra cho
các môn đệ bị tử đạo là dường nào chăng
? Còn con thì sợ
nhục. Cười . . . . . . . . . . .
Thầy đã nói trước, Tắc, con ôi ! Nếu kẻ nào khác
hơn con, dầu đứng chín phẩm Thần Tiên, Thầy cũng cho bị
đọa, còn con thì Thầy quá thương.
THĂNG.
(TNR)
*
* *
16.
Tháng 5 năm 1926 (âl tháng 4 Bính Dần).
THẦY
Các con,
Thiện Minh, con há ! Mầng con.
Con ôi ! Khi Thầy giáng sanh lập đạo Thánh, Thầy
phải đổ máu mà rửa tội cho chúng sanh, đến đỗi phải lấy Thần làm của tế, mà cầu
khẩn cho chúng sanh. Hai ngàn năm chưa qua, giọt máu Thầy đã trôi hết.
Nay con vì ma khảo, phải đổ máu mà rửa tội cho phái
Thái. Chưa vì sự vinh diệu con trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã đặng
so sánh cùng Thầy rồi. Cười . . . . . .
. .
Con phải lấy hiệu Thiên ân là THÁI MINH TINH, làm
Đầu Sư đạo Thiền.
Con phải trông cậy pháp luật vô biên của Thầy.
THĂNG.
(TNCT. HH. 82)
*
* *
Thiện Minh : Hòa Thượng Thích Thiện Minh, thế danh
Nguyễn Văn Giáp (1883-1947), học trò của Hòa Thượng Như Nhãn (Thích Từ Phong).
*
* *
Ngày
13-7-1926 (âl mùng 4-6-Bính Dần)
(Tại nhà Ông Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Định).
THẦY
Trung, bình
thân.
Thơ, con với
vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau .
"Thiên ân thử nhựt tứ thành hôn,
Mãn
thế bất ly thể dữ hồn.
Đạo
đức nhứt tâm tu đáo cáo,
Chủ
trung thị Ngã chí Thiên Tôn."
Dạy con hiểu hà.
Ngài Nguyễn
Ngọc Thơ viết ra Hán văn :
(. . . . )
(TNCT. TTT.
216)
*
* *
18.
Ngày 3-8-1926 (Âl 25-6-Bính Dần)
(Đàn Tân Định, tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ).
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo Đạo Nam Phương
Chư môn đệ nghe dạy :
Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền
Chánh giáo phải có : Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị
Hiền, Tam thiên Đồ đệ, chưởng quản thâu Tam Giáo hiệp nhứt.
Chiêu, thiệt là Nhứt Phật đó.
Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức
Giáo Tông cho nó thì Chúa Quỉ sai Tam thập lục Động Địa giái kêu nài với Ta
rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy, và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ
phượng Ta.
Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta
nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó.
Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó, mà phải để cho Tam
thập lục Động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.
Rủi thay ! Đau đớn thay!
Buổi khảo nó phải bị tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ,
nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy ! Ta phải dùng
quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại
bị Tam thập lục Động khảo nữa thì mới liệu sao ?
Ta phải giáng cơ biểu nó.
Con Thơ, con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi
Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe đến. Kẻ bị tù còn có thế
rỗi ai chăng ?
Chư môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm
đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của Thầy.
Thầy thăng.
(TNCT. TTT. 237)
(Bài Thánh Ngôn nầy, Đức Chí Tôn cho biết :
Tại sao Ngài Ngô Văn Chiêu mất chức Giáo Tông ?
Lý do: Không phải Ngài Ngô Văn Chiêu dám cãi lịnh
Đức Chí Tôn, mà vì Ngài Chiêu bị Quỉ Vương thử thách và Ngài không thắng được
Quỉ Vương).
*
* *
19.
Ngày 4-8-1926 (âl 26-6-Bính Dần)
Đàn Tân Định (tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ).
THẦY
Con Thơ,
Con ráng tập chấp bút cho Thầy chỉ vẽ cho.
Thơ nghe :
Khi con ngồi mà tập thì Thần con cho tỉnh, chẳng
nhớ chi hết. Khi Thầy giáng thì làm cho con khó chịu một chút, rồi Thầy dạy con
viết, mường tượng như con đặt ra vậy, mà không phải con đặt đâu. Thầy đưa Thần
con theo Thầy lên không đặng Thầy dạy nó viết chữ chi thì
nó cứ viết theo, chớ nó không biết gì hết.
Khi ấy con có hơi khó chịu, như điển dính tay con
vậy. Ấy là Thầy giáng, song con đừng có lòng sợ thì Thầy mới dễ giáng.
Đãi ! Con lấy 9 cây nhang đặng Thầy làm phép trấn
Thần cho
nó.
THĂNG
(TNCT. TTT. 243)
*
* *
20. Ngày 6-8-1926 (âl 28-6-Bính Dần).
(Ngài Nguyễn Ngọc Thơ chấp bút)
HUYỀN
KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
giáo đạo Nam phương
Thầy đến đây đặng cho hội hiệp xum vầy ba ngôi đoàn
tụ đó, bớ mấy con ! Nghĩa là : Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh đã đủ mặt
ngày nay rồi, thì phải lo thi hành bổn phận cho chóng.
Bởi ngày giờ đã muộn, ráng mà làm bia cho đời sau
noi dấu đến bảy chục muôn năm đó con, chớ chẳng phải là cuộc nhỏ mọn đâu con,
phải ráng mà đồng công cộng sự mới đặng, trong thì có Thầy giúp sức, ngoài thì ba
con phụ lực mới thành công.
Ngày hôm nay là đầu giờ khai mối Đạo. Từ đây có
việc chi thì ba con phải tương thương cộng sự đặng mà điều đình môn đệ của ba
con. . . . . .
THĂNG.
TÁI
CẦU :
Cái trách nhậm của ba con rất quan hệ trong việc
Đạo, nhứt là Thơ, con đã hưởng chán mùi trần, con đã đủ biết điều hay điều dở ở
đời nầy ra làm sao.
Con phải riêng nghĩ lại tiền căn mà đừng mến hồng
trần, vì là chốn khổ hải đó con ôi !
Thơ, như con không chê việc phò cơ thì Thầy cho chấp
cơ với Hậu những lúc có đàn tại nhà con. Còn bạn phò loan của Hậu còn lâu gặp. Thầy đã cho phép nó kiếm tập
rồi.
Con khá nghe lời Thầy, việc bút cơ là việc lớn
trong Đạo, nên khi nào phò cơ chấp bút, phải diệt tận phàm tâm, đừng lo lượng
điều chi trong trí của con. Phải biết dùng cái chí Thánh chí Phật của con mà
làm cho xứng đáng cái vai tuồng mà Thầy đã định.
Con ôi ! Cái bả vinh hoa, con đã thấy tường tận
rồi, nào có ra chi, chi bằng biết Đạo hết lòng độ vớt chúng sanh, trẻ thơ trông
cậy nơi con nhiều đó con à ! Cái công quả ấy, nếu con làm được thì con hưởng
nhãn tiền, vì con làm nghĩa cho nhơn sanh thì con được toại chí, rồi cái đạo
tâm của con nó nở như tòa sen. Con sẽ thấy ấn chứng nhãn tiền, chớ không phải
đợi sau mới thấy đâu.
Con đã hiểu ý Thầy chưa ?
Tự ý con muốn định sao, Thầy cho vậy.
Lịch, con truyền Đạo cho Thơ rõ.
THĂNG
(TNCT. TTT. 251-253)
*
* *
21. Tân định, ngày 13-8-1926 (âl 6-7-Bính Dần).
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO
ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, hỉ
các đẳng nhơn sanh.
Thầy dạy : Lâm Ái Nữ, Đường Ái Nữ vào trong. Chư
môn đệ đứng dậy.
Huệ con, Lâm thị con, khá nghe lời dạy. Con ôi !
"
Thế sự như đêm tăm tối,
Đạo
như giữa lối gặp đèn,
Biết
bao Thánh đức tâm hèn,
Trời
đã buộc lắm phen cứu độ.
Bình
lời hiếm kẻ vô biển khổ,
Mắc
phải vòng ám mộ lợi danh,
Bỏ
trần gian nhiều kẻ chẳng đành,
Ham
phú quí công danh đành phải đọa.
Tội trần kiếp tội dư đã quá,
Phận
công phu nhân quả đã chưa rồi,
Mượn
bồ đề quày quả thế thôi,
Chẳng
phải kệ với kinh năng đúc Phật.
Âm
chất vốn là điều thứ nhất,
Âm
chất nhiều mới dứt cõi trầm luân,
Phận
liễu mai phải mang kiếp hồng trần,
Thầy
lắm lúc bâng khuâng thương trẻ dại.
Ngồi
vắng vẻ càng thêm luyến ái,
Muốn
toan đem trẻ dại đến đường tu,
Cảm
thương con cũng lắm công phu,
Thầy
phải liệu vận trù chước thế.
Đường
Tây vức từ khi bị bế,
Tiếng
Phật tông đổi lệ thay thoàn,
Giữa
trần ai ai có mắt tàng,
Phòng
hiểu thấu mối mang chơn giả.
Thầy
không định vì lòng tự quá,
Mới
khởi đem chánh quả một đường,
Tam
Kỳ mong độ chúng tai ương,
Lại
quyết mở Tây phương khai Đại Đạo.
Con
vốn thật là tay chơn Lão,
Phái
nữ nhi bọc bảo giúp công Thầy,
Cùng
Tỷ nương Đường thị con đây,
Lo
phương thế đỡ day trong mối Đạo.
Đừng
tưởng Lão chẳng vì lòng thảo,
Cậy
con rồi trở tráo chối công đâu.
Cười
. . . Khó việc chi cũng tại buổi đầu,
Con
ra sức mới thâu toàn Nữ phái.
Cực
thân ấy, trẻ đừng ái ngại,
Muôn việc con Thầy lại sớt chia,
Chẳng phải cần đá tạc danh bia,
Tên tuổi trẻ nước kia còn khép mặt.
Lợi danh khá để lòng sắp đặt,
Trên thuận hòa ắt dưới tùy tùng,
Môn
đệ Thầy để dạ lo chung,
Thương
nghèo khó lao lung con giúp đỡ.
Trong
môn đệ nhiều tay quá dở,
Tiền
bạc nghèo Thầy khó đỡ đặng nào,
Khuyên
con nhìn biết Lão đớn đau,
Tình
đồng đạo yêu nhau bằng ruột thịt.
Tập
hòa huỡn tánh không xích mích,
Tự
nhiên dầu có nghịch cũng đầu,
Con là đâu ma ø Lão lại đâu,
Quyền thế lớn ai thâu con ái
ngại.
Thương dìu dắt lấy đoàn em dại,
Đạo đức ngoan phải trái con thấy
rồi,
Niệm Nam mô hai chữ thấy thôi
thôi,
Lo cứu thế mới rồi lẽ chánh.
Tưởng hai trẻ chẳng lòng sanh
nạnh,
Gắng chung lo mạnh Đạo nhà mình,
Lòng hiếu con thấu động Thiên đình,
Mẹ trẻ đó Thầy quyết tình cứu độ.
Con khá dắt em con đi một ngõ,
Biểu nó rằng phải bỏ dối theo chơn,
Vậy
con tua liệu thiệt lo hơn,
Thấy
trước mắt chớ khờn thân nhọc."
Nghe ! Đọc
lại. Lâm thị Ái Nữ, hiểu con há !
Một ngôi con, Thầy sắm sẵn gia tài, Thầy gìn giữ để
trọn quyền con làm thế nào của phù du ấy ra âm
chất thì con làm.
Huệ ! Con phải ráng
lo dạy dỗ Nữ phái nghe !
Thơ ! Vô quì
nghe :
Thầy dạy may Thiên phục : Khăn áo màu vàng, mà cho
thiệt tốt, khăn 9 lớp, áo gài 3 dải.
Con Lâm thị Ái Nữ
lo giùm cho Thầy 5 cái áo mão cho Lịch, Trung, Tương, Trang, Thơ, mão ấy
Thầy sẽ vẽ, còn áo Thơ thì Ái Nữ thêu Con Mắt ở giữa, chung quanh có 6 chữ cổ
tự đề Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ngay trước ngực và sau lưng, như miếng bố tử, chạy
2 vòng vô vi bao chung quanh nghe !
Tái
cầu Thầy chỉ làm mão.
Thơ, Trung, Trang, Tương, Thầy muốn các con để tóc
và râu như Lịchvậy hết.Thầy ban phước cho các con. Tái cầu. THĂNG.
TÁI
CẦU :
CAO ĐÀI
Đem nước phấn ra đây Thầy vẽ mão.
Tám khía, ngó nghiêng thì vọng, ngó ngay thì như
vầy : 8 khía, hai khía trước thêu chữ vàng Càn Khôn, còn sáu khía kia thì để
thế nào cũng đặng, thêu chánh chữ cổ tự, nhung hay là hàng, tùy sắc phục mỗi
đứa, cao 3 tấc 3 phân tây hai khía trước, còn mấy khía sau, làm sao cho lài lài
trước cao sau thấp thì làm coi cho đặng. Giữa kín, phải cứng cho nó đứng, chớ
con bồi bằng vải càng tốt hơn. THĂNG.
(TNCT. TTT. 257-261)
22.
Sài gòn, Thứ bảy, 14-8-1926 (âl 7-7-Bính Dần)
THẦY
Các con nghe dạy,
Vẫn từ ngày Đại Đạo bế
lại, Chánh quyền đều vào một tay Chúa Quỉ.
Cười . . . . . .
Khi Ngọc Hư Cung và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ
Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu nhiệm ấy và
hiểu rõ rằng Tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến, nó đã hiểu rõ rằng bề nào
Thầy cũng phải chiếu y Thánh ý, Tam giáo
qui nhứt mà dùng danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT, nên chúng đã dùng
chữ CAO ĐÀI trước Thầy mà lập Tả Đạo Bàng Môn.
Thầy hỏi các con : Vậy chớ Tà quái nhận tên ấy là
chủ ý gì ?
- Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy, để cho các con
nghi ngờ mà lánh xa Thánh giáo như đàn Cái Khế vậy.
Nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai
Thầy, tiện dụng làm một vị Tiên Ông mà
thôi.
Cười . . . . . .
Vậy, các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội tin
mà lầm mưu Tà mị. Các con nghe và tuân theo.
THĂNG.
(TNCT. TTT. 263)
(ĐS. II. 236)
*
* *
23.
Vạn Phước Tự (Hốc Môn), 22-8-1926 (âl 15-7-B.Dần)
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO
ĐÀI
TIÊN
ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương
Hỷ chư môn đệ, chư chúng sanh.
Nhung, môn đệ rất yêu dấu ôi ! Nếu cả môn đệ Thầy
biết kính mến Thầy như con, biết sợ luật lệ như con, chẳng kể chức phận như
con, thì Đạo Thầy mới truyền bá kịp mà cứu vớt nhơn sanh.
Thầy khen con đó. Từ đây con phải lấy Thiên ân là Thái
Nhung Thanh, phái Thái. Con sẽ ở trong một phái Thái rất lớn. Con phải mặc Đạo
phục như Thơ, song đội mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng, có thêu Con Mắt Thầy hai
bên. Con nghe há !
Soâ, vô hầu nghe dạy :
"Huỳnh
lương một giấc cuộc đời in,
Có
trí có mưu phải xét mình.
Phú
quí lớn là giành với giựt,
Lợi
danh cao bởi mượn và xin.
Trăm
năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,
Một kiếp đeo đai mối nợ tình.
Biết
số, biết căn tua biết phận,
Đường
xưa để bước lại Thiên đình."
Cư đọc Thánh Ngôn, Tắc tụng Nhơn Quả.
Tái cầu.
THĂNG.
(TNCT. TTT. 274)
*
* *
24.
Ngày 23-8-1926 (âl 16-7-Bính Dần).
THÍCH
CA MÂU NI PHẬT tá danh
CAO
ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
giáo đạo Nam phương
Như Nhãn
hiền đồ, nghe dạy :
Vốn từ Đạo bị bế lại thì phần nhiều hữu công tu mà
thành thì ít thành, Ta rất yêu thương.
Hiền đồ có lòng giữ gìn Phật tông Chánh pháp, cái
địa vị cao thượng của Ta ban cho hiền đồ từ thử là cốt để đợi cho tới ngày khởi
định lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, cho hiền đồ có đủ quyền thế mà hành chánh với Ta.
Thiên cơ khó lậu, nếu tỏ tường chơn pháp của Lôi Âm
Tự và Bạch Ngọc Kinh ra thì chưa ắt ngày nào Đạo đặng mở, Tam giáo qui nhứt.
Hiền đồ cũng hằng trông mong cho Đạo đặng vậy.
Hiền đồ đủ hiểu, Thánh đạo gọi Gia Tô lập đạo sau
hết mà Thánh quyền cao thượng là chừng nào chưa ? mà tiếc cho Tiên đạo và Phật
đạo là mối Đại Đạo đã khai từ mới tạo
Thiên lập Địa.
Mỗi sự chi cũng hữu chung hữu thỉ, cái tận tất là
đến cuối cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt thì phải qui nguyên lại trước, nên gọi
là tuần hoàn.
Ngày nay là buổi tuần hoàn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng
khai, Ta trông công hiền đồ mà lập thành cho nước Nam làm chủ nền Chơn đạo của
Ta.
Nơi đây là Thánh địa, Ta lập Thánh Thất. Hiền đồ có
lòng giúp Ta chăng ?
Chỉ hiệp làm một mà thôi, vì Ta đã nhứt định đến
với huyền diệu đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn. Hiền đồ đừng ái ngại.
Cư khá đọc
Thánh Ngôn cho Như Nhãn hiền đồ nghe.
Tắc tụng Nhơn Quả cho chúng sanh nghe.
Tái cầu. THĂNG.
(TNCT. TTT.
286)
*
* *
25.
Chúa nhựt, 5-9-1926 (âl 29-7-Bính Dần)
Thiền Lâm Tự, Gò Kén, Tây Ninh.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾviết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Cười . . .
Thơ lên trễ làm cho vắng mặt phái Thái buổi Thiên
phong Như Nhãn hiền đồ, song chẳng hề chi, chờ chiều nay hai vợ chồng nó đến
thì cũng đủ phái vậy.
Trung, Tương, Trang, ba con phải tuân mạng lịnh
nghe.
Như Nhãn hiền đồ ! Thầy không muốn nói với con bằng
tiếng Hớn ngôn, vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh tự đặng lập Đạo của
Thầy, nên buộc phải nói rõ ràng với con.
Thời kỳ giấu giếm Thiên cơ đã qua rồi, Thầy phong
cho con là : Quản Pháp Thiền Sư Thích Đạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Đạo Sĩ, con vừa
lòng chăng?
Con đã giúp Thầy gìn giữ Thích đạo nguyên luật từ
thử, nay mới còn đặng như vầy, không thì đã ra Bàng Môn Tả Đạo rồi.
Con phải biết Thầy ngày nay trông công con mà lập
thành Tân Luật Thích giáo. Con phải đại tịnh kể từ tháng
9 cho tới
Rằm tháng 10, Thầy không muốn cho con lo lắng điều gì khác hơn
là xét xem kinh điển lại.
Con biết Ngũ Chi : Minh Đường, Minh Sư, Minh Tân,
Minh Lý, Minh Thiện, cũng đều do nơi Phật
pháp mà ra, duy giáo lý của các
Chi ấy thì có : Tiểu Học, Đại Học, Trung
Dung và Tứ Thơ là kinh điển mà thôi.
Còn phái Lão duy có Đạo Đức Kinh và Huỳnh Đình Kinh
là căn bổn.
Con phải xem xét hết lại mà lập Tân Luật.
Thầy nhứt định giao Thánh Thất nầy lại cho Thơ lo
lắng thế cho con, song sự thờ phượng phải có thay đổi chút ít, sau Thầy sẽ dạy
chư Đạo hữu con định liệu.
Rằm tháng 10 nầy, Thầy xin con hội cả chư Hòa
Thượng tại Thánh Thất đây chung lo lập Tân Luật. Ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị
Hòa Thượng phò loan, đặng có điều chi bợ ngợ thì cầu Thầy mà thôi.
Thầy phú thác một trách nhậm nặng nề cho con, nhưng
mà con đừng ái ngại. Danh giá con, Thánh đạo Thầy trong ấy, con khá hết lòng.
Con phải hiểu rằng, hội chư Hòa Thượng trọn đôi ba
tháng thì là hao tốn, song chẳng hề chi, để Thầy định liệu. Tuy vân, Thầy biết
sức một mình con cũng đủ
lập Tân Luật,
nhưng mà Thầy
muốn có Hòa Thượng đặng cho khỏi trành tròn, lại còn làm tay chơn Thầy
để thâu phục Thích đạo.
Thầy cậy con một điều là đòi Minh, vì nó là môn đệ
của con, đặng giao chức Thái Đầu Sư cho nó đi phổ độ nhơn sanh. Cái trách nhậm
ấy đáng lẽ về phần con, song con tuổi đã cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à !
Thầy để con trọn quyền mà Thầy xin con an lòng,
Thầy lo chung cùng con, Thầy trông cậy nơi con lắm đó !
THĂNG.
(ĐS. II. 238)
*
* *
Trung : Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn
Trung)
Tương : Ngài Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh.
Trang : Ngài Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh.
Như Nhãn : Hòa Thượng Như Nhãn, pháp danh là Thích
Từ Phong, thế danh là Nguyễn Văn Tường (1874-1938), trụ trì tại chùa Giác Hải ở
Phú Lâm, Chợ Lớn, nên Ngài còn được gọi là Hòa Thượng Giác Hải. Ngài có gom
tiền trong bổn đạo mua đất cất chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén, Tây Ninh.
Ngài được Đức Chí Tôn phong là Thái Chưởng Pháp.
Từ Lâm Tự , thường được gọi là chùa Gò Kén, còn có
tên là Thiền Lâm Tự.
Minh : Hòa Thượng Thích Thiện Minh, học trò của Hòa
Thượng Như Nhãn. Ngài Thiện Minh được Đức Chí Tôn phong chức Thái Đầu Sư Thánh danh: Thái Minh Tinh.
26.
Sài gòn, ngày 12-9-1926 (âl 6-8-Bính Dần).
Phò loan : Thượng Sanh -Bảo Văn
Pháp Quân
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ kim viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Mầng mấy con.
Mỹ Ngọc, từ đây việc nhà con an ổn, dầu điều chi,
nhớ để ý rằng có Thầy bên con luôn.
Đặng một việc chi chớ vội mừng, thất một việc chi
chớ vội buồn, vì sự buồn vui và sự buồn tủi thường pha lẫn mà kế cận nhau. Còn
sự gì phải đến cho con, ấy là tại nó phải vậy, chớ nên cượng cầu mà nghịch
Thánh ý Thầy.
Hãy dò theo đây mà day trở trong bước đường Đạo:
"Mối
Đạo từ đây ráng vẹn gìn,
Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.
Lòng thành một tấm Trời soi xét,
Gương
rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.
Gai gốc lần đường công trước
gắng,
Thảnh thơi có lúc buổi sau dành.
Dòng trần chìm nổi từ đây dứt,
Công quả tua bền độ chúng sanh."
Thầy sẽ cho Xuất Bộ Tinh Quân đến nhập cơ.
THĂNG.
(Bài 32 TNHT hợp nhứt)
Tái cầu :
CAO QUỲNH TUÂN
Mừng mấy con và mấy cháu.
Diêu ! Từ đây thầy lấy làm vui mà thấy con đặng để bước vào đường Thánh
đạo. Vậy hãy ráng tu hạnh hầu phục hồi cựu vị.
Thầy rất vui thấy Cư và con đã đem tấm nhiệt thành mà cứu độ nhơn sanh khỏi dòng khổ hải. Ấy cũng là số
phận rất may mắn của lịnh Ngọc Hoàng đã định cho con và Cư, Tắc, Sang.
Vậy thầy có mấy lời thiết yếu cùng con sau đây:
"Cựu
vị ngày xưa đã có rồi,
Đường
về chớ bỏ há con ôi.
Công
trình chớ nệ xây nền Đạo,
Phước
mỏng đâu hay bởi tứ Trời.
Đức
trước hưởng rồi tua trả đức,
Ngôi sau gìn ắt đặng an ngôi.
Từ đây son sắt vì sanh chúng,
Cảnh tịnh mai sau cũng đặng ngồi."
Thầy đã an lòng cho con
và Cư,
còn Đức, An, Thân, thì có lịnh Thượng Đế định phần cho chúng nó. Lượng từ đây phải ở
nơi Lôi Âm Tự chầu Phật Như Lai và nghe lịnh, chừng có lịnh Thượng Đế đòi sai
trấn thì nó sẽ về cùng con đặng. Thầy kiếu mấy con.
(TNR)
(Đức : Cao Quỳnh Đức; Thân : Huệ Chương; Lượng :
Cao Quỳnh Lượng. Đức, Thân, Lượng đều là con của Ngài Cao Quỳnh Diêu. An : Cao Quỳnh An, con của Ngài Cư).
*
* *
27.
Ngày 17-9-1926 (âl 11-8-Bính Dần).
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾviết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Thơ ! Con mời Trần Phu nhân và Lâm thị Ái Nữ.
Lão chào Phu nhân.
Xin nghe phân giải một đôi điều:
"Cuộc
trần thế khó phân chơn giả,
Tánh
linh hư dầu quả cũng để ngờ.
Thanh
bạch hai lẽ chẳng đủ thờ,
Quán
thế phải tri cơ Tạo hóa.
May
một kiếp đủ thành chánh quả,
Rủi
ngàn đời cũng lạ Thần Tiên.
Thượng
nhơn sanh trần tục xuống miền,"
Thâu
chúng đệ nghiệp khiên mang tội chướng.
Vinh
sang đã kiếp căn để hưởng,
Của
mình chẳng vay mượn của ai,
Ngự
một ngôi đã sẵn cõi Bồng Lai,
Tâm
tích đức kế hay con đã rõ.
Món chung đỉnh con hằng muốn bỏ,
Tu Phật căn cứu độ lắm sanh linh,
Lập chùa chiền Phật giáo kệ kinh,
Thay tăng chúng khai minh đường đạo hạnh.
Thành tâm giáo thuận lòng chí Thánh,
Mong sao cho rành rạnh Phật tông,
Nghĩa khai quang công đã dày công,
Lòng ái chúng trọn lòng đức hạnh.
Vì công quả thật còn phải thạnh,
Luôn gia đình chẳng rảnh công tu,
Thầy mở mang Tam giáo gồm thâu,
Chuyển Phật giáo cho hiệp câu Phổ Độ.
Mười ngàn chẳn năm nay đủ số,
Luật Ngọc Kinh chưng trợ Lôi Âm.
Độ nhơn gian nhập Thánh siêu phàm,
May mắn ấy còn ham chi thế cuộc.
Cần tu ắt phải thành đã thuộc,
Con ngó coi thế đã chuốc trau mình.
Mượn Di-Đà mà làm mối lợi
danh,
Làm
Chánh giáo đã đành thành Tả đạo.
Như
Nhãn cũng một lòng với Lão,
Mở
luật tu khuyên bảo chúng tăng.
Tuy
quyền Thầy chí Thánh mà rằng,
Không
hạ thế, xác thân đâu chiếu dụ.
Dụng
huyền diệu lời cơ tỏ dấu,
Rằng
chưa hồi niệm Phật thấu vì kinh,
Nhờ
lương sanh mà cứu vớt quần sanh,
Con
cũng hiểu rõ tình Tà Chánh.
Cuộc
Chánh giáo Thầy toan hiệp nhánh,
Qui
Ngũ Chi: Tiên, Phật, Thánh, Thần, Nhơn,
Thầy
khuyên con trọn đạo vi nhơn,
Con
thấy đó đủ phân Tà Chánh.
Nghe
chi tiếng vô nhân đạo thính,
Mà
để lòng bán tín bán nghi.
Việc
nước nhà con có biết chi,
Trên
Chánh khí phải vì phải kính.
Huyền
diệu Lão nếu ra một lịnh,
Thì
thuận tình đâu dính tới thân con.
Phận
tuổi cao lo lắng lắm hao mòn,
Việc
nhà nước khuyên con lòng khó liệu.
Lâm
thị vốn nên con có hiếu,
Thầy
khuyên con chớ biểu nó đừng tu.
Người
đời như kẻ điếc người mù,
Cơ
Tạo hóa rất sâu nên khó hiểu.
Khánh
Bạch Ngọc nhiều phen kêu biểu,
Tỉnh
mê đồ lo liệu lại ngôi xưa.
Thân
trần ai đã lắm cay chua,
Xin
khá gắng đừng thua Tiên, Phật.
Thầy
cậy mượn ai không lòng vụ tất,
Mà
làm công đoạt phẩm trật mình.
Sổ ghi
công đã chất Thiên đình,
Con
gắng chí cho toàn pháp diệu."
Lâm thị Ái Nữ, Quan Âm sẽ giáng cơ mà chuyện vãn
cùng con.
Thầy chào phu nhân.
(TNCT. TTT. 20-21-22)
*
* *
Chương chưa
Thánh Ngôn Sưu Tập - 2 / 28 (HT. Nguyễn Văn Hồng)
28.
Thứ sáu, 22-9-1926 (âl 16-8-Bính Dần).
THẦY
Các con, Thơ !
Con đã nghe Thánh ngôn hồi trưa nầy chưa ? Vậy thì Đạo phổ độ trễ đã đành, con lo lập
Thánh Thất, rồi đi khắp Lục Tỉnh đặng phổ độ.
Con lập Luật, Thầy nhứt định chẳng cần hội Hòa
Thượng, tam vị Chưởng Pháp đủ sức lập
thành.
Các con xin Chánh phủ Lang sa Khai Đạo thì cực
chẳng đã Thầy ép lòng chịu vậy cho tùng Thiên cơ. Thầy rất đau lòng mà phải
chịu vậy chớ biết sao !
Con phô lời cho cả môn đệ Thầy thâu thập vào phái
Thái cho chúng nó hiểu, còn Thánh Thất con phải chăm nom tới ngày rằm cho rồi
đặng hội Tam giáo lập Luật, chừng ấy buộc chúng nó phải theo.
Các con biết rằng, chẳng thế nào mà sái Thánh ý
Thầy đặng, chi chi trong năm Dậu cũng cho rồi đặng phổ thông ngoại quốc, nghe
à. Chừng đi phổ độ, các con có sẵn huyền diệu của Thầy.
Hội chư Thánh là hội cả Chức sắc Thiên phong, còn
công quả nơi các con mà nên, hoặc nơi các con mà hư, vậy mới đáng công tạo Tân
Thế giới.
Nếu Thầy dùng phép Chí Tôn mà lập thành thì các con
có công chi.
Nghe con Lịch, tại con chẳng tận tâm mà ra đến nỗi,
nghe à.
(ĐS. II. 240)
Chương chưa
Thánh Ngôn Sưu Tập - 3 / 28 (HT. Nguyễn Văn Hồng)
29. Thứ hai, 27-9-1926 (âl 21-8-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Thầy dặn các con, từ
đây ai nói chi tùy ý, cứ nghe một Thầy thì
khỏi lầm lạc.
Con Trung cứ lo khai
Đạo, món binh khí tà quái vì đó mà tiêu
diệt.
Nước Nam có một chủ mà thôi là Thầy.
Từ trước vì
nhiều Đạo trong nước mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc
dân nên nước phải yếu, dân phải hèn. Dân
tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm chủ.
Thầy vì thất lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng
trần lập Đạo tại Nam phương, tức là thay mặt Càn Khôn Thế giới mà qui chánh truyền nhơn loại.
Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri
rằng : Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ, vì Ta mà làm chủ nhơn loại,
các con hiểu à !
Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng
ai dám ngồi. Tất cả sáu ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ giết chết, nghe à !
Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không
dùng huyền diệu.
Còn Nhạc Lễ là phép nhà Nam, Thầy muốn giữ gìn sao
cho trọn vẹn, các con hiểu.
Các con hơi nào nghe lời thế sự, một điều nào cũng
chưa quyết đoán cho cùng phải quấy.
Khi Thích Ca truyền Đạo, dân Brahma cho là Bàng môn
vì khác Thánh giáo Phật đạo.
Khi Lão Tử truyền Đạo thì đời
cho là phép mê hoặc.
Khi Chúa Jésus truyền Đạo thì nhà Israel gọi
là cải
Chánh đạo, đến đỗi bắt
giết.
Các con muốn vừa lòng Thiên hạ thì là giỏi hơn Thầy
rồi.
Thầy khuyên đừng nao núng, các con ngó Thầy trước,
các con coi bước Thầy đi trước, các con
cứ đi
theo sau Thầy là đủ.
Cười . . . . . . . . . . . .
THĂNG
(ĐS. II. 242)
30.
Ngày 1-10-1926 (âl 25-8-Bính Dần).
THẦY
Các con,
Lâm thị con ôi ! Thầy chẳng có phương chi để vào
lòng con sự thương yêu con và cũng không thế nào làm cho con hiểu rõ quyền Chí
Tôn của Thầy đặng.
Con trông cậy nơi Thầy, phú thác thân con cho Thầy.
Nầy con ôi, nếu mắt phàm thấy rõ thì con sẽ kinh khủng quyền hành Thầy thế nào.
Ngay giữa điện kìa, trên đầu các con, chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật chầu chực kìa, họ đều cúi đầu lặng lẽ đặng nghe Thầy nói
với con.
Kìa, Quan Âm Bồ Tát đang châu mày đổ lụy mà cầu
nguyện cho con, cầm sẵn tờ hịch chiếu cầu rỗi cho mẹ con, con thấy đâu các Đấng
ấy, vì vậy nên Thầy không chấp. Con nên thật lòng trông cậy nơi Thầy.
Con ôi ! Bao nhiêu của thế gian con đã đổ đặng cầu
siêu rỗi cho mẹ con mà chẳng đặng, duy nhờ
từ ngày con biết thờ phượng Thầy mà mẹ con đã vào Bạch Thiên Cung Án,
con đâu thấy điều ấy cho đặng, tự nơi con, bởi công con mà Cửu Huyền Thất Tổ con
đặng rỗi.
Con phải hiểu biết, vì hiếu của con mà Thầy càng
thêm luyến ái.
Thầy khuyên con một điều là phải bỏ phận vinh
hoa mà cam nâu sồng khổ hạnh. Ngày vinh
hiển thiệt của con chẳng phải nơi chốn hồng trần vô vị nầy.
Con thương Thầy, con tưởng lấy con, lo độ rỗi cho
Thầy lập thành Nữ phái.
Thầy trông cậy nơi con, cũng như con trông cậy nơi
Thầy. Cha con hiệp đồng thì đủ quyền thế mà cải số Nam Tào chánh thức, con hiểu
à !
Con an tâm. Thầy đủ quyền hành đặng làm cho con đắc
thành chánh quả đặng độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ con, con tưởng chắc vậy chăng ?
Thầy đã nói nó vào Bạch Thiên Cung Án, mà còn
tội lỗi
gì con.
Con có chức, Thầy sẽ ban, ráng đợi con nghe. Con
cứ đi phổ độ, chừng nào Nữ phái đặng đúng 200 người thì Thầy ban Tịch và
phong sắc con nghe.
Có Thánh kinh đó, con phải đọc Thánh kinh cho
thường cho chị con nghe, mỗi tuần phải đọc riêng cho chị con ba lần như vậy. Nghe và tuân theo.
Thầy ban ơn cho các con.
(TNCT. TTT. 47-48)
*
* *
31.
Ngày 13-10-1926 (âl 7-9-Bính Dần).
THẦY
Các con,
Mấy đứa nhỏ bỏ thói kiêu ngạo nghe !
Vĩnh ! Đọc PHỔ
CÁO CHÚNG SANH, đợi Thầy sửa nghe. Hễ Thầy hạ cơ thì ngừng đọc. (1) . . . . . . . . . . . . . . . .
Các con nghe,
Thầy chẳng buổi nào mà đành lòng cho các con hạ
mình trước mặt ai hết, song ngày nay buộc phải vậy. Các con tức cấp
lo phổ độ.
Kể từ ngày mồng 10 tháng nầy, mấy đứa phò loan phải
xin phép nghỉ 29 ngày hết nghe. Thầy dặn
các con phải phân nhau mà đi cho khắp.
Đạo Quang, ngày thứ bảy, Thầy sẽ phân việc. Thầy
trông cho mau lập Tân Luật.
Con Trung, con phải nói với Le Fol cho con giấy
chứng Khai Đạo. Mai con lên nó, có
Thầy.
Con phải nhớ viết một cái thơ cho em con là Lâm thị, nó đương sầu thảm, giờ nầy
nó đương ngồi nơi phòng mà khóc.
Con phải khuyên lơn nó, nhắc nó nhớ lời Thầy dặn.
Trang, con nếu biết thương em con, con cũng nên đi
Vũng Liêm, con đi mới hữu ích nghe. Thầy nói ít, con hiểu nhiều.
Từ đây, hai con lại để ý gìn giữ hai đứa nó kẻo nó ngã lòng mà tổn
bớt công quả của chúng nó, tội nghiệp. Thầy giao cho hai con chăm nom cả em
út các con, nghe à
!
Thầy còn dạy nhiều việc, nhưng hai đứa nhỏ (2) đã
mệt. Thầy dặn các con đừng dùng tiếng “Đồng” mà kêu mấy đứa nhỏ, nó giận không
muốn phò loan là tại
vậy.
Thơ, biểu nó viết chữ tựa lơn lớn một chút,
còn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh và Tờ Khai
Đạo, con cứ làm, Thầy cho phép. Có vậy mới nhẹ bớt công phổ độ. Còn tờ Nhựt
trình, thỉnh thoảng sẽ tính.
Thầy ban ơn cho các con.
Đặng nhiều càng tốt. Chữ quốc âm mà thôi.
THĂNG
(TNCT. TTT. 76-77)
*
* *
(1) Xem PHỔ CÁO CHÚNG SANH nơi phần Phụ Lục.
(2) Hai đứa
nhỏ : Ý Đức Chí Tôn nói hai vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài làm đồng tử phò cơ (phò loan).
*
* *
32.
Sài gòn, ngày 30-10-1926 (âl 24-9-Bính Dần).
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Hỷ chư môn đệ, hỷ chư nhu, hỷ chư ái nữ.
Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con
lên kêu Nhiều (bạn đời của Ngài Phạm Công Tắc)
đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà.
Hiếu, Nhiều,
hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh. Từ đây, Cư, Tắc phải lo Đạo, các con phải
đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy.
Thầy lấy làm chua xót, mà Đạo là trọng, mới biết liệu sao ?
Hiếu bạch: Thưa
Thầy con vâng. (*)
- Nhiều, sao
con ?
Nhiều bạch Thầy: Còn mẹ già.
- Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy, con
cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho con.
Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con nghe.
*
* *
(*) Tôi vâng
sắc lịnh Thầy trên đây, tôi về chùa Từ Lâm Tự,
Gò Kén Tây Ninh nhằm ngày Khai Đạo, quí anh lớn về, tôi đi chung một
đoàn xe, về tới chùa đúng 5 giờ chiều ngày 14-10- Bính Dần (dl 18-11-1926) [Lời ghi chú của Bà Hiếu]
(ĐS. I. 103)
*
* *
33. Thứ ba, 16-11-1926 (âl 12-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO
ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Lập lễ Thánh Thất
Phải làm một Nghi án trước Điện day mặt vô Bảy
Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp, nơi ấy phải
kín, bốn phía ra vô có màn. Thầy giáng cơ tại
án ấy, nghe à !
Lễ Thánh Thất, chia ra làm : Lễ, Khách, Xuất, Thâu.
Vậy Thầy nói về Lễ trước.
* VỀ LỄ
: Thầy giao Chánh sự cho Trang, Phó sự cho Nhung, Phụ sự có Ý, nghe à. Như YÙ
không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì Chánh sự là Trang làm đầu. Thầy lại thêm
ba vị nữa cho các con rộng dùng : Mùi, Vân, Đạt.
Thầy lại hỏi thêm mười hai đứa nữa, ai tình nguyện
?
Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài, Nghĩa, Nguyễn Xuân
Quang, Sơn, Lê Thế Vĩnh, Huờn, Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.
* VỀ KHÁCH
: Khách thì Tương là Chánh sự, Luật là Phó sự, Thầy muốn đem Hoài vô đặng không
Lịch ? Voi là Phụ sự, Lại, Son, Thành là
giúp Thầy.
Hỏi mười hai
đứa tình nguyện :
Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp, Trò, Giảng, Học, Kỳ, Tường,
Hơn, Kính, Đơn.
* VỀ THÂU
: thì Thơ, Như Nhãn, Đạo Quang.
Thầy hỏi hai đứa ký lục : Châu, Tuấn.
* VIỆC XUẤT
: Xuất thì Lịch, Xài, Hóa (Phủ Hóa Cần
Đước). Thầy hỏi 2 đứa ký lục : Kiều, Vĩnh.
Nghe hành lễ, con Trang :
Chưởng
Pháp, Đầu Sư : Thầy định ba ngôi Chưởng Pháp, ba ngôi Đầu Sư đều có vị.
Phối
Sư : Còn Phối Sư thì là Trang, Tương, Thơ, là Chánh, còn 33 vị nữa thì tùy
theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.
Giáo
Sư : Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.
Giáo
Hữu: Kế nữa là 3000 Giáo Hữu, cũng tùy Thiên phong mà đứng theo hàng ngũ phái
Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.
Phò
loan: Tiếp nối theo sau, ngay chính giữa, nơi Bàn Hộ Pháp thì: Đức, Hậu, Tràng,
Nghĩa.
Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên.
Bên trái thì: Đãi, Kim, Tươi, Chương.
Hộ
Pháp: Con lại để dựa bên Bàn Hộ Pháp hai cái ghế, rồi làm hai cây phướn đề :
Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng
Phẩm : Bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.
Thượng
Sanh : Bên trái Hộ Pháp là Thượng Sanh.
Đưa cây Phướn Thượng Phẩm cho Mùi, cây Phướn Thượng
Sanh cho Vĩnh cầm, đứng hầu hai bên.
Trấn
cờ Ngũ phương: Tại Đông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương, lựa 12 đứa đồng nhi
cầm cờ, còn ở giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Đức.
Lịch, hiểu à ! Khi hành Đại lễ cho Thầy rồi thì Lễ
sanh (1) xướng : "Thiên phong quán
tẩy" : Cả thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng : "Chỉnh túc y quan" thì cả thảy phải
thay Thiên phục.
Lễ sanh xướng : "Lập
vị" thì đứng theo hàng ngũ cũ như trước.
Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch.
*
* *
(1) Lễ sanh, ở đây không phải là phẩm vị Chức sắc,
mà là người xướng lễ và điện lễ, nên sau nầy, Đức Lý Thái Bạch đổi lại gọi các
vị ấy là Lễ sĩ cho phân biệt.
Còn Nữ phái thì đều phải mặc đồ trắng trước khi
hành lễ.
Thiên
phong Nữ phái: thì Cư, Tắc, phải vào nghi án phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và
lập Tịch Đạo luôn nữa nghe.
Trấn
Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần
mỗi người và nơi mình của chư Thiên phong, rồi mới hành lễ.
Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên
tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế, chớ không
đặng lộn xộn.
Hành
lễ : Còn bao nhiêu môn đệ thì đứng tiếp theo sau. Thầy dặn : Hành lễ rồi thì
phải biểu Lễ sanh xướng : "Thiên
phong phò loan" đặng Thầy lập Phật Truyền Chánh Pháp.
Cư, Tắc phải để Thiên phục vậy mà phò cơ nghe.
Thầy sẽ giao Nhạc cho Mỹ Ngọc, và Lễ cho Nhơn.
(ĐS. II. 13-15) & (TNCT. HH. 101-103)
*
* *
34.
Thứ tư, 17-11-1926 (âl 13-10-Bính Dần)
(Trước Đại lễ Khai Đạo 2 ngày, nối tiếp Bài 33)
THẦY
Khi chư môn đệ mặc đồ thường vào, con cũng phải sắp
đặt địa vị chúng nó.
Tụng kinh hành lễ thường vừa rồi, con biểu Cư, Tắc
rửa mặt rửa tay cho tinh khiết, biểu chúng nó vào nghi án cho Thầy phong sắc
chư môn đệ lục tỉnh, xong kế Nữ phái.
Con phải giúp em con là Đường thị, Lâm thị,
với Ca thị, lập vị bên Nữ phái cho trang hoàng.
Chừng Thầy thăng, biểu hai đứa nhỏ ra đứng nơi Bàn
Hộ Pháp như cũ.
Chừng Lễ sanh xướng : "Chỉnh túc y quan" thì biểu 12 đứa Phò loan sắp ba hàng
kế đó, biểu Đạt đi. Kế đó là Tắc; Cư, Sang đi hai bên; kế nữa thì 3 vị Chưởng
Pháp (biểu Nhàn theo hộ Thuï), kế nữa thì 3 vị Đầu Sư (biểu Tạ theo Trung, còn Hoằng theo Thiện
Minh), kế nữa 3 vị Chánh Phối Sư, kế nữa Chức sắc đi 3 đứa, 3 đứa ra thay đồ
Thiên phục.
Khi đặng nửa giờ, phải đổ chuông ba hiệp, chờ tới
hiệp chót, biểu Lễ sanh xướng :”Lập vị” thì lại đi như nãy mà trở vào. Nhớ biểu
hai đứa cầm Phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư và Sang.
Vào lập vị hành Đại lễ như buổi Vĩnh Nguyên Tự,
nghe Lịch à . . . là đã hết một đêm đầu rồi.
Kế đêm sau, là đêm Thiên phong cho cả chư môn đệ và
là đêm các con phải thành tâm trai giới cho Thầy lập Pháp Chánh Truyền.
Đêm thứ ba, các con cũng lập vị cúng thường ngày, xong hai đứa nhỏ mặc Thiên phục vào
nghi án cho Thầy giáng.
Rồi việc Lễ.
* KHÁCH :
Còn việc Khách thì : Tương, con phải chia mười hai đứa phụ sự ra làm ba ban.
Một ban bốn đứa đãi bọn Thượng lưu và Lang sa; một ban đãi bọn Trung lưu; một
ban đãi bọn Hạ lưu, song phải cắt ba vị Phó phụ sự ra ba ban đặng cai quản. Còn con thì lo việc tiếp các quan Lang sa.
Về phòng trù, con cũng nên sắp đặt, nhứt là đừng khiếm lễ cùng ai hết.
VỀ VIỆC XUẤT : Tới việc xuất thì ba vị chấp sự, mỗi đều ký giấy tử tế cho đủ ba người, mới
cho xuất tiền. Cười . . . Thầy làm như vậy đặng dự phòng lãng phí, nghe à !
VỀ VIỆC THÂU : Còn sự thâu, Trang con khéo tính lắm, Thầy
khen và cám ơn con, song phải lo thu xếp cho em Thơ con cho nó bớt tốn, kẻo tội nghiệp
nghe con.
(ĐS. II. 16)
& (TNCT. HH. 105-106)
*
* *
35.
Thứ hai, 6-12-1926 (âl 2-11-Bính Dần)
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Hỷ chư môn đệ, chư
ái nữ, chư nhu, chư tín nữ.
Trung : - Bạch Thầy xin cho đình lại, qua ngày thứ
bảy tới sẽ nạp Luật cho Thầy phê chuẩn.
- Phải ở
luôn luôn nơi Thánh Thất đặng lập Luật sẵn.
Nghe Thầy dạy :
* Khởi đầu lập Luật tu gọi là : Tịnh Thất Luật,
* kế nữa là lập Luật trị, gọi là Đạo Pháp Luật,
* ba là lập Luật đời gọi là Thế Luật.
Các con hiểu à !
. . . . . . .
(ĐS. II. 71)
*
* *
36.
Tân định, ngày 9-12-1926 (âl 5-11-Bính Dần).
THẦY
Con Thơ,
Con hỏi việc chỉnh luật, vậy phải à con.
Còn mai nầy, các Đạo hữu của con chờ con về, mà
không sao, cứ đại tịnh lo làm Luật cho xong rồi sẽ về, đó con. Phải chờ chỉnh
đốn Điều luật cho oai nghi đặng vạn quốc hưởng nhờ bảy chục muôn năm đó con.
Ráng làm cho hoàn tất, rồi cầu Thầy sửa cho.
Phải mời Trần Lương Phu nhân chỉ biểu, và Hương
Thanh phụ bút.
Kinh luật Tam giáo là cả thể lắm con. Việc quan hệ
trong thế giới, chẳng phải tầm thường đâu. Còn như chuẩn Luật rồi, thiên hạ
chúng sanh hưởng nhờ vô lượng công đức đó con.
Anh Trung và các Đạo hữu nhắc con hoài.
Thôi Thầy
thăng.
(TNCT. TTT. 464)
*
* *
37.
Ngày 9-12-1926 (âl 5-11-Bính Dần).
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Hỷ chư môn đệ, chư nhu, chư tín nữ.
Các con nghe, chư nhu nghe.
Thầy vì Tam Kỳ Phổ Độ, tùng nhơn nguyện, cho nên
muốn khuấy rối bao nhiêu, Đạo lại càng phát mau bấy nhiêu. Trước Thiên ý chẳng
đồng nhơn trí nên không thế nào chuyển đặng, Đạo cao nay nhơn tâm đồng hiệp,
cảm thấu Thiên đình.
Thiên tùng nhơn nguyện cũng như đồng thinh vậy, nên
Đạo mới dễ chuyển hơn. Các con hiểu à !
Ấy vậy, hễ biết đến nguồn Đạo thì phải nhứt tâm đợi
ngày thành tựu thì các con sẽ thấy sự tối cao tối trọng của nền Chánh giáo của
Thầy đem ban cho các con mà lập thành Quốc Đạo.
Thầy cho thượng sớ cầu Đạo.
Trong môn đệ, chi chi đã có Thầy định đoạt rồi.
(TNCT. TTT. 533)
*
* *
38. Thứ bảy, 11-12-1926 (âl 7-11-Bính Dần).
THẦY
Các con,
Diêu đợi nghe.
Trung, Lịch ! Hai con phải dụng đại lễ mà an táng Tương nghe.
Thầy ngặt một lẽ, chẳng thế nào đem Tương vào Tam
thập lục Thiên, phải để nó nơi Đông Đại Bộ Châu mà chờ Tòa Tam Giáo phát đạt.
Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi,
nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải
lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến.
Các con nghe à !
Vậy trong hịch văn sớ tấu, các con phải thượng nơi
Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con
hiểu.
Lịch bạch
Thầy về sự đại lễ . . .
Không con . . .
Đại lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe. Trung, Lịch
đứng tên.
Diêu ! Con chưa đặng định thần khi Thầy giáng há ?
Những lời Thầy dạy con, phải sắp đặt phần nhơn đạo, rồi lấy hồn xác con mà dùng
về việc
Đạo, nghĩa là con phải cho xong phận sự làm người
rồi lo
hành Đạo mà thôi, con à !
Thầy còn dạy con nhiều nữa, Diêu !
Trung, Lịch ! Lễ ấy phải khởi đầu giờ Tý nghe.
Thầy ban ơn cho các
con.
THĂNG.
(ĐS. II. 85)
*
* *
Tương : Ngài Nguyễn Văn
Tương, tu theo đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, sau nhập qua ĐĐTKPĐ,
được Đức Chí Tôn phong Thượng Chưởng Pháp. Ngài đăng Tiên tại làng Hữu Đạo, Mỹ
Tho, ngày 5-11-Bính Dần (dl 9-12-1926)
hưởng 48 tuổi.
Lưu ý : Còn một Chức sắc Đại Thiên phong có tên là
TƯƠNG (Nguyễn Ngọc Tương) làm Đốc phủ, Chủ quận Cần Giuộc, nhập môn vào Đạo Cao
Đài, được Đức Chí Tôn phong là Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh. Sau
nầy, Ngài tách ra lập Chi phái Bến Tre.
Diêu : Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu.
Trung : Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê văn
Trung)
Lịch : Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (Lê Văn Lịch).
*
* *
39.
Thứ hai, 14-12-1926 (âl 10-11-Bính Dần).
LÝ THÁI
BẠCH
Đại hỷ.
Thánh Thất đã an, chư hiền hữu lo chỉnh nghi cho
tinh tấn.
Thầy dạy Thượng Trung Nhựt hiền hữu lo sắp đặt thế
nào cho ra nghi tiết thì sắp đặt.
Sau lưng bàn thờ Hộ Pháp, phải để một miếng nỉ dài,
ngang một thước rưỡi, cao ba thước, thêu
chữ bùa Lão vẽ đây. (Bùa chữ KHÍ)
Như có thế làm một cái bàn thờ ba nấc, giữa cao,
hai bên bằng, cho Thượng Phẩm, Thượng Sanh đứng.
Chư Đạo hữu chỉnh đàn cho Thầy ngự. Ai chẳng y quan
tử tế xuất ngoại.
Nghe và tuân mạng.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Thầy dặn con Trung,
Lý Bạch phiền Tương vì trong Sổ không nhiều công
quả, Người mới để cho nó chết. Con dặn cả môn đệ coi gương Tương mà giữ mình.
Ráng phấn chí lập thành Chánh giáo, chẳng bao lâu
đây, Thầy sẽ cho một phương pháp rất trọng để cho các con cứu độ nhơn sanh.
(TNCT. TTT. 553)
Trung,
Con biểu Mắt phải chịu khó cúng Tứ thời và nhìn
Thiên Nhãn cho thường. Mỗi lần cúng cho được lâu, lâu đặng cảm lòng giáng hỏa
thì hết đau mắt.
Luôn dịp,
Thầy nói cho các con biết :
Cúng Tứ thời
có ích cho các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu cúng được thường
thì lòng dạ nở nang, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi tật
bịnh tiêu diệt.
Các con nên
biết việc cúng Tứ thời nghe.
Thầy ban ơn cho các con.
THĂNG
(TNCT. TTT. 567)
*
* *
40.
Thứ bảy, 18-12-1926 (âl 14-11-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội.
Thượng Trung Nhựt, hiền hữu nghe dạy :
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng : Buổi lập
Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút. Lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá
Chơn đạo rõ lý hơn.
Vậy ngày Đại lễ Thánh giáo Giáng sinh, phải có mặt
tại đây cho đủ và nạp Luật cho kịp ngày ấy.
Làm lễ xong, qua ngày kế thì chư Thánh mặc Đại
phục, vào Đại điện bái, rồi Hiền hữu biểu sắp ghế vòng theo Đại điện. Hiền hữu
và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận chư Thánh mà ngồi vòng
hai bên như lúc hiền hữu còn tại Thượng Nghị Viện, đặng cãi luật đó vậy.
Hiền hữu chưởng quản làm chủ Hội, mỗi vị Thánh đều
đặng quyền cãi lẽ, nghe à !
Phải giữ phép, kẻ trước người sau, tùy phiên nhau
cho có lễ : phái Thái trước, phái Thượng giữa, phái Ngọc chót.
Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp Luật cho kịp
một lượt với Thơ, nghe à ! . . .
41. Thứ bảy, 25-12-1926 (âl
21-11-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Frère Latapie,
Je vous nomme Evêque d’équipe Française, c’est au rang des Giáo Sư que vous êtes
placé.
Vous direz aux Français que le MAIÂTRE ne vient pas
aujourd’hui. J’ai à régler quelques organisations intérieures du Sacerdoce. J’aurais duâ
recourir à vos
aides, si votre équipe
était formée.
Thượng Trung Nhựt !
Hiền hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành
Tân Luật, nếu Thầy để cho Lão, nội trong 2 giờ thì hoàn thành tất cả, ngặt một
điều là nếu Lão lập Luật, chẳng một ai trong hàng Đạo hữu hành đạo đặng.
Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Đạo hữu lập
thành là chủ ý để phần nhơn lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền diệu làm ra Thiên lực, ấy là một
hạnh công bình đó.
Vậy Lão giao ba Bộ Luật hiệp một cho Thái Thơ Thanh
trước, nội trong một tuần lễ, phải hiệp thế nào cho ba Bộ ba phái chung vô làm
một, qua tuần nữa tới Thượng Tương Thanh, kế một tuần nữa tới Ngọc Trang Thanh,
nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi Luật lệ, đem về Thánh Thất
đặng cãi lại nữa.
(ĐS. II. 120)
*
* *
42. Thứ hai, 27-12-1926 (âl 23-11-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo
muội, chư chúng sanh.
Thượng Trung Nhựt, Đạo
hữu khá khuyên những kẻ đến đây chẳng lòng thật tình kỉnh lạy Chí Tôn, nên xuất
ngoại nghe.
Chỉnh đàn cho Thầy ngự.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO
ĐÀI
giáo đạo Nam phương
Trung ! Con
nên cho kẻ môn đệ yêu dấu của Thầy hầu nội hết.
Không cần nói chúng nó cũng hiểu, Thầy rất vui
mừng. Vậy Thầy dặn con, mỗi khi chúng nó đến, phải tiếp rước trọng hậu, nghe à
!
Chư nhu thượng sớ.
Bốn Ông Lục và chín người đàn thổ, thâu hết.
Kỳ : - Xin đi cúng nơi các nhà đặng khai đàn cho
chư Đạo hữu trong các làng hạt Tây Ninh.
- Ấy là phận sự của nó.
Trung : - Xin về việc Chánh phủ . . .
- Phải.
Lịch : Xin
cúng cơm cho ông lão.
- Đặng. Cười . . . Nếu Thầy định thì Thầy sẽ dạy
con đừng cúng kiếng chi hết, vì Chơn Nhơn chẳng còn hưởng của phàm bao giờ. Con
làm tiệc đãi, chớ chẳng nên gọi cúng.
. . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thầy dặn rằng : Thầy đến chẳng phải lập một nền Đạo
mới, mà đến đặng nhắc các con rằng : Ngày Tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ vương sắp
đến.
Thánh ngôn các Đạo đã khai từ thuở tạo Thiên không
đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn
loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến sanh, Thiên tai rấp
đến.
Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng : Ngày Tận
Thế đã đến.
Thầy đã tạo Thánh giáo trọn đủ Pháp luật.
Thầy đến chỉ độ kẻ vô đạo chớ không phải sửa
đạo. Con hiểu à !
(ĐS. II. 123 -125)
*
* *
43. Thứ tư, ngày 29-12-1926 (âl
25-11-Bính Dần).
THÁI BẠCH KIM TINH
Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội, chư chúngsanh.
Cười . . .
Huờn, nghe Lão.
Việc cơ bút, hiền hữu tuy chưa rõ thấu huyền diệu
cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hiểu biết chút đỉnh. Chẳng phải ai cầm
cơ mà đều đặng huyền diệu hết.
Lão giải nghĩa : Có ba phẩm đồng tử phò loan :
- Một là Giáng tâm,
- Hai là Mê,
- Ba là Giáng thủ.
Tây phương gọi là : Intuitif, Semi-intuitif,
Automatique.
Thầy đã cho hiền hữu chấp cơ một đôi khi quả có
huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân hiền hữu nó lại choán lấy hết
Thiên ý mà dịch trật, vì vậy mà hiền hữu nhiều phen thất chí, nhứt là khi thai
bào con hiền hữu, hiểu à !
Thầy dạy hiền hữu cùng Phước Sanh chọn kẻ khác cầu
Thầy, hầu truyền bá Đạo nơi tỉnh Biên Hòa, nghe à ! THĂNG. (ĐS. II. 127)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét