
ÐIẾU VĂN của HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN
Ðọc trước Bửu Tháp
Ðức THƯỢNG SANH
ngày 6/4/Tân Hợi
(dl. 30/4/1971)
Kính bạch Hội Thánh Hiệp
Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính Quý Quan khách,
Kính Quý Ðại diện các Tôn
Giáo,
Kính chư Chức sắc và toàn
Ðạo Nam Nữ,
Ô hô!
Thiên
tải vân du du.
Tam kỳ
phong cấp cấp.
Lôi Âm
Cổ vang rền nơi Thánh Ðiện,
Giục
người về kịp buổi Triều
Thiên.
Bạch Ngọc Chung chấn động cõi Trần ai,
Rước khách đến nhập cung Bạch Ngọc.
Sớm, đất Thánh giăng giăng mưa bụi,
Lướt thướt mảnh khăn sô.
Chiều, Trời Tây thảm thảm mây mù,
Lê thê màu tang tóc.
Nhớ Linh xưa!
Mấy mươi năm ngược xuôi miền hoạn lộ,
Ðủ kinh bang xây dựng quê hương.
Trọn một đời chen rắp chốn phồn hoa,
Dư tế thế chiêu an chủng tộc.
Nhất kiên Minh nguyệt quằn gánh đồ thơ,
Lưỡng tụ Thanh phong nặng bồ văn học.
Sanh gặp thời rối loạn thuần phong,
Sống phải lúc dẫy tràn bại tục.
Ngao ngán nhẻ, vết hồng trần cấu,
Vui mệnh Trời vui kệ vui kinh.
Nặng nề thay, đỉnh bạc lộc quan,
Buồn vận nước, buồn nghiên buồn bút.
Ô Hô!
Sông núi Tiên Rồng vẫn đó!
Nhơn sanh nhà cửa điêu tàn.
Cơ đồ Ðại Ðạo còn đây!
Ðền Ðiện nếp tòa ngang dọc.
Ngài bao nỡ!
Nương Ðài sen thẳng chốn Ðào nguyên.
Kỵ Long Mã dạo miền Tây vức.
Hay giận kẻ bất thành bất tín,
Lên Thiên tiên luyện phép trường sinh.
Hay ghét phường vô đức vô nhân,
Về Bạch Ngọc tấu trình quốc sự.
Hoặc buồn điều kiết hung họa phúc,
Luật huyền vi chưa thấy xử phân.
Hoặc hờn năm Hợi, Tuất, Dậu, Thân,
Quỉ chinh chiến vẫn còn thống ngự.
Mà Ngài vội!
Xếp đồ thơ bặt dấu trần ai;
Ném huệ kiếm đoạn trang Ðạo sử.
Ôi!
Nỗi bi thảm nhơn sanh khôn diễn bằng ngôn ngữ.
Mối ai hoài Chức sắc khó gợi hết thi thơ.
Thôi từ đây Tiên, Tục ngăn bờ,
Lã chã tuôn đôi giòng lụy cảm.
Âu hẳn đó tử, sanh gieo thảm,
Thắt quặn tan vạn mảnh lòng son.
Chữ nghĩa nhân chưa được vuông tròn.
Ðường Ðạo Ðức biết ai dìu dắt.
Thơ năm vận dở dang bình trắc.
Ðờn bốn dây nức nở cung thương.
Giòng Ngọc Tuyền ngan ngát hơi hương,
Phượng hoàng bay vút cánh!
Dãy Nho lâm tờ mờ phong cảnh,
Long Mã thảm lê chân.
Khách nguyên nhân vui nước trí non nhân.
Hồn linh hiển cầu xin về chứng giám.
Kính dâng một vần thơ:
Thoang thoảng nòi hương tập Ðại thành,
Loang trong Trần cấu hóa tinh anh.
Vạn mùi tục lụy xa Trung giới,
Tứ khổ trầm luân biệt THƯỢNG SANH.
Hoa vướng hài Tiên, vân diểm diểm,
Liễu vờn suối ngọc, thủy thanh thanh.
Hồn thơ nay lắng niềm u uất,
Thoang thoảng nòi hương tập Ðại thành.
Hởi Ôi!
Thương thay! Tiếc
thay!
Chưởng Quản HỘI
THÁNH PHƯỚC THIỆN
CHƠN NHƠN
(Ký tên đóng dấu)
LÊ VĂN TRUNG
ÐIỆN VĂN PHÂN ƯU
CỦA TỔNG THỐNG
VIỆT NAM CỘNG HÒA
-ÐƯỢC TIN ÐỨC
THƯỢNG SANH VỪA TỪ TRẦN,
TÔI VÔ CÙNG CẢM XÚC
VÀ XIN CHUYỂN ÐẾN
QUÍ VỊ CHỨC SẮC
TÒA THÁNH CÙNG TÍN HỮU
LỜI THÀNH THẬT
CHIA BUỒN CỦA TÔI VÀ CỦA CHÁNH PHỦ.
KÝ TÊN:
TỔNG THỐNG NGUYỄN
VĂN THIỆU
VĂN TẾ ÐỨC THƯỢNG
SANH
của TUYẾT VÂN Mặc
Khách
thay mặt MINH
THIỆN ÐẠO và DIÊU TRÌ PHÁI (Sài Gòn)
Hỡi ôi!
Chòm mây bạc bao trùm chót đỉnh,
Trận giông tuôn, mây chập chùng bay;
Ðám sương mù che phủ cội cây,
Ánh nắng tỏa, mây tan tác rả,
Bóng quang âm vãng lai thắm thoát,
Kiếp phong trần nhìn rất đau lòng;
Vầng nhựt, nguyệt xoay chuyển không ngừng,
Kiếp phù thế nghĩ càng não dạ!
Công xây dựng, phô trương cũng lắm,
Khó lướt qua mầu nhiệm Trời cao;
Cuộc tạo gầy, tô điểm đã nhiều,
Nào qua khỏi diệu huyền Tạo hóa?
Những tưởng may mắn vui
mừng nhìn Bạch Mai rực rỡ cảnh Ðông Xuân,
Nào dè lại rủi ro, thống
thiết thấy Huỳnh Cúc phai tàn kỳ Thu, Hạ,
Ðời chinh nghiêng, người
nhiệt thành, thiện chí sao bổng lìa thế tình cờ?
Ðạo rời rạc, bậc chơn
thành, từ tâm lại đành tách trần vội vã.
Nhớ Linh xưa!
Nho nhã thái độ đáng gương,
Ðậm đà tác phong cao giá!
Lễ, Nghĩa tròn, tánh chất hể hồ trong,
Trí, Nhơn
vẹn, tâm trung dường biển cả.
Trong gia đình, kỷ cương
vẹn vẻ, đối thê nhi trọn hạnh lương nhơn,
Ngoài xã hội, trật tự điều
hòa, cùng bằng hữu nêu gương tín giã
Giòng gia đạo, cang thường
tròn xử, thương thê nhi giáo hóa bền lòng,
Mối xã giao, luân lý vẹn
gìn, mến đạo hữu, tiếp giao thật dạ
Mùi vật chất, lưỡi kia
từng trải nếm, ngán cuộc đời ít sự chơn thành,
Khối tinh thần, lòng nọ
đẳng đeo mang, buồn tình thế nhiều cơn lộng giả.
Ngày qua, tháng lại, bước
thênh thang tìm thú thanh nhàn,
Nay nhục, mai vinh, lòng
phóng khoáng tránh vòng cương tỏa.
Lòng mộ Ðạo, đã kỉnh tin
Ðại Ðạo, tụng Chơn Kinh Di Lạc, lẽ thật vẫn suy tầm,
Dạ thương đời sùng bái
Ngọc Hoàng, nghiệm Hiệp Tuyển Thánh Ngôn, lý mầu hằng khám phá,
Lòng mến Ðạo, quyết bồi
xong căn quả, trước Thiên Ðài đã thọ sắc Cha Trời.
Dạ chán Ðời, lo dứt sạch
nghiệp duyên, nơi Toà Thánh quyết khuếch trương Ðạo cả.
Chiều kinh, sớm kệ, quyết
cận kề Ðạo chánh, lý chơn,
Nay nhục, mai vinh, cam xa
lánh danh cương lợi tỏa.
Ðạo thanh tịnh càng hòa
trí tuệ, ẩn rừng thiền nương cội Từ bi,
Ðời phồn hoa không hạp tâm
linh, lìa bể hoạn, lánh vòng xa mã.
Phế nhơn sự treo gương
thanh bạch, tỉnh quần linh thoát cảnh Ái hà,
Tùng Ðạo Trời, chiếu ánh
quang minh, đưa sanh chúng lên thuyền Bát Nhã.
Góp tư tưởng Ðại Ðồng thực
hiện, Ðạo Cao Ðài tận tụy bao nài,
Ðem đức tin chơn giáo khai
thông, Cơ Di Lặc lao công chi sá.
Ðời đương lúc phân vân
Tâm, Vật, hiện tại mất THƯỢNG SANH biện bác sự thực, hư.
Ðạo gặp cơn nan giải Lý,
Tình, tương lai không THƯỢNG SANH phân minh điều cao, hạ.
Tình tri kỷ, THƯỢNG SANH
hằng biểu lộ, quyết liên tình mong cơ Ðạo hoát khai,
Nghĩa Ðại Ðồng, Bần Ðạo
vẫn tạc ghi, đương hiệp chí, bổng kiếp đời tàn tạ!
Chơn truyền Minh Ðức phổ
thông Ðạo lý, THƯỢNG SANH tán thành để làm sách khai thông,
Nhơn đạo thực hành truyền
bá Nho Tông, Bần Ðạo hiệp dâng, hầu tạo nguồn thanh nhã.
Tai Chung Tử chực lắng
tiếng diệu huyền, trầm mặc, giọng từ bi rất khoan nhặc êm đềm;
Ðờn Bá Nha khéo lên dây
Lưu thủy, cao sơn, hơi bác ái càng dịu dàng tao nhã.
Bần Ðạo quyết giải bày ý
kiến, nguồn Minh Ðức quyết đem truyền bá, rung chuông cảnh tỉnh, cố duy trì Ðạo
Ðức nhơn sanh,
THƯỢNG SANH toan chấn
chỉnh cơ quan, mối Tân Dân hằng cố bảo tồn, gióng trống giác mê toan thức tỉnh
tinh thần thức giã
Nhưng hôm nay:
Bóng Nguyệt thố khuyết mờ,
Cánh Liên hoa rời rã!
Gia đình đó, thê nhi còn
đó, THƯỢNG SANH đành xa lìa để hiu quạnh gia trung,
Toà Thánh kia, Ðạo hữu còn
đây, THƯỢNG SANH vội rời tách bỏ lặng tờ Ðạo xá.
Truyền Ðạo lý, chương
trình kia chưa kết liễu, THƯỢNG SANH sao đành bỏ dở cuộc thức tỉnh Ðời tàn?
Tạo Qui nguyên, công cuộc
nọ sắp khởi đoan, THƯỢNG SANH sao nỡ buông lơi việc phổ thông Ðạo cả?
Ðạo sắp thành, nhân tài
cần thắng số, sao bậc chí thành lại xa Ðạo lẹ làng?
Ðời chưa định, Hiền sĩ
phải tăng gia, mà người chánh trực đành lìa đời nhanh quá!
THƯỢNG SANH còn đó, chỉnh
giềng sửa mối, chốn Tổ đình phần Ðạo hữu vững vàng,
THƯỢNG SANH tách đi, ủ
cội, yếu nguồn, nơi Giáo hội số môn sanh buồn bã!
Buồm Phổ tế, dây lèo ai
nắm, giữ cho tròn nghĩa vụ chấn hưng,
Thuyền độ điều, tay lái ai
nâng? làm đặng vẹn công trình cao nhã.
Ôi!
Nước chảy hoa trôi,
Gió tuôn, mây rả!
Trời Ðiện Bà, mây u buồn,
vần vũ, Trời phủ che hồn phách bậc tâm trung,
Ðất Tây Ninh, cảnh hiu
quạnh, im lìm, Ðất vội lấp mảnh hình người chí cả.
Nhà còn đó, vợ con còn đó,
THƯỢNG SANH đành nhẹ bước đường Tiên,
Cảnh còn đây, dâu, rể vẫn
còn đây, THƯỢNG SANH lại vội xa chơi cảnh lạ.
Bóng quang âm vi vút, trăm
năm ôm hận biệt ly,
Hồn kim cổ mơ màng, gang
tấc, không phương xướng hoạ.
Lầu Huỳnh Hạc, giọng Tiên
đã đứt, ngón tơ đồng thôi trổi khúc tri âm,
Khe Bạch Nhàn, tiếng én nỉ
non, duyên kim cải hết bày lòng thân giả.
Tiếc là tiếc buổi phong
đồi, tục mỵ, vắng chuông ngân cảnh tỉnh cuộc mê say,
Hờn là hờn cơn Ðạo trể,
Ðời suy, rơi bút sắt phê bình điều cao hạ.
Ðời đương cảnh phân vân
Tâm, Vật, sao mà bớt người biện bạch thực hư;
Ðạo giữa cơn nan giải Lý,
Tình, bổng lại mất bậc phân minh chơn giả.
Những ngỡ sống nhiều năm
thêm nữa, để làm gương cho nghĩa bạn mến thương,
Nào hay vương một phút phi
thường, đành biệt thế, để tình người não dạ.
Gia môn dạ tiệc, chén rượu
đưa đường ly biệt, nghĩa chia phôi, người ra đi chơn bước ngập ngừng!
Ðạo xá trường đình, cành
liễu tiển dặm quan hà, đành đoạn dứt, kẻ ở lại lệ rơi tầm tả!!
Nơi Tòa Thánh hoa sầu cỏ
ủ, tuồng thê lương như hoài cảm THƯỢNG SANH mờ dạng đường xa,
Chốn Tổ đình mõ sớm,
chuông chiều, cảnh buồn tẻ, dường cảm thông THƯỢNG SANH biệt hình cõi lạ.
Tiếng dế sầu đêm vắng
tiếng não nùng như khóc điếu HỘ PHÁP ÐƯỜNG xưa, vì THƯỢNG SANH chẳng còn bước
đến Thánh Tòa,
Hơi gió rít ngày buồn, hơi
thảm thiết tợ than sầu HỘ PHÁP ÐƯỜNG cũ, bởi THƯỢNG SANH đã dứt sang qua bờ Ðạo
xá,
Hay là lánh thế đồ khắc
khổ, tròn quả công, xác thân vùi Thánh địa đời đời,
Chắc là tìm Lạc cảnh tiêu
diêu, dứt sứ mạng, Chơn linh đáo Thiên đàng vội vã.
Nơi Kim Khuyết hầu trình
Từ Phụ, cầu rỗi dùm Ðạo hữu kiếp căn,
Chốn Phật Ðài bái yết Như
Lai, minh biện hộ nhơn sanh nghiệp quả,
Ba chung rượu cầu hồn về
tịnh độ, vái chơn linh trực đáo cảnh tiêu diêu,
Một nén hương vái vía được
siêu thăng, vái phách quế qui hồi miền Thiên xá.
Hỡi ôi! Thương
thay!
Phục duy thượng
hưởng.
Thay mặt MINH
THIỆN ÐẠO
và DIÊU TRÌ PHÁI
(Sài Gòn)
Huy lụy kỉnh điếu.
ÐÔI LỜI TRI NIỆM
của GIÁO HỘI CAO ÐÀI
THỐNG NHẤT TRUNG
ƯƠNG
Ðọc trước LIÊN ÐÀI
ÐỨC THƯỢNG SANH
ngày 5/4 /Tân Hợi
KÍNH THƯA: Linh hồn ÐỨC
THƯỢNG SANH,
Kiêm CHƯỞNG QUẢN HIỆP
THIÊN ÐÀI ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH.
Thưa Hội Thánh và tang
quyến.
Giáo Hội CAO ÐÀI THỐNG
NHẤT TRUNG ƯƠNG. Nhân danh Phó Chưởng quản đặc trách Hiệp Thiên Ðài, đứng trước
Linh sàn nghiêng mình tỏ đôi lời hoài niệm, trong khi Linh hồn của Ðức Ngài đã
trở về ngôi vị.
THƯA ÐỨC NGÀI: CHƯỞNG QUẢN
HIỆP THIÊN ÐÀI.
Thuyền Ðại Ðạo sắp đến bến
qui nguyên, Ðức Ngài là người Anh Cả tiếp tục đầy sáng suốt hiện thân Ðức Ðông
phương tại thế, để tiếp xúc huyền linh mà lập nền Chánh pháp, hầu bảo tồn cơ
phổ hóa. Vì có câu:
HỄ ÐẠO CÒN THÌ HIỆP THIÊN
ÐÀI VẪN CÒN.
Nay Ðức Ngài đã tròn xong
sứ mạng, phục vị Tiên bang, chúng em lấy làm vui mừng, tạo lễ mọn đến đây để
tưởng niệm và tiển đưa phần xác thịt của Ðức Ngài về nghỉ an nơi lòng đất.
Nay Ðức Ngài đi, chúng em
nguyện một lòng nối chí người Thiên mạng, bởi còn xác thịt tại trần quyết noi
gương tiếp tục sự nghiệp H.T.Ð., do nơi Ðức Ngài trước kia đào tạo lưu tồn, hầu
làm một kỷ niệm bất di, do Ðức Ngài đã dày công di sản.
Trên mảnh đất nầy vùi lấp
biết bao xác thân bậc vĩ nhân, đã từng xướng minh nhiều Giáo lý. Xác thân người
đã chết, nhưng phần linh hồn, theo lịch sử mãi sống còn trên thế gian, như
trong cửa Ðạo./.
KÍNH DÂNG.
Sài Gòn, ngày 5/4
/Tân Hợi (29/4/1971)
HUỆ ÐĂNG
HỘI THÁNH TIÊN THIÊN
Tòa Thánh Châu Minh, Tiên
Thủy, Kiến Hòa
Số:__/HT/TT.
TIÊN THIÊN ÐẠI ÐẠO TAM KỲ
PHỔ ÐỘ
Năm Ðạo thứ 46
Công Bình Từ Bi Bác Ái
Tòa Thánh, ngày 2/4/Tân
Hợi (dl. 26/4/1971)
DIỄN TỪ đọc trước Cửu Trùng
Thiên, ngày Thánh Lễ Ðức THƯỢNG SANH, 5/4/Tân Hợi tại Tòa Thánh Tây Ninh
Kính thưa Quý Hội Thánh
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh.
Kính thưa Quý Quan khách,
Kính thưa Quý Ban Tổ chức
Thánh lễ CAO THƯỢNG SANH.
Thưa Quý vị,
Ngày giờ nầy, trước Cửu
Trùng Thiên, trước Liên Ðài Anh lớn CAO THƯỢNG SANH, chúng tôi Phái đoàn đại
diện Hội Thánh Tiên Thiên Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đồng chung bước đến đây cùng
phân ưu với Quý Hội Thánh ngày Anh lớn CAO THƯỢNG SANH qui Thiên...! Hội Thánh
Tòa Thánh Tây Ninh mất một phẩm tước Hiệp Thiên Ðài cao trọng, toàn thể Tín hữu
Cao Ðài mất một người Anh lớn quí mến; cơ lập giáo CHÍ TÔN tại trần đã khuyết
đi một Tông đồ THƯỢNG ÐẾ gắn liền với lịch sử Ðại Ðạo từ buổi sơ khai.
Và ngày giờ Anh lớn cố
THƯỢNG SANH cao thăng Thiên vị, nhân danh phái đoàn đại diện Hội Thánh Tiên
Thiên, thay mặt toàn thể Tín hữu Tiên Thiên, đồng đốt nén hương bái nguyện
trước Liên Ðài để tỏ chút tình quí mến người Anh đã tròn Thiên mạng và đổi cảnh
lãnh phần vô vi chuyển hóa hộ trì Hội Thánh hữu hình đài, chuyển cơ tâm mọi
phận sự đồng tinh tấn cơ qui nguyên Thống Nhất Ðại Ðạo.
Kính bạch Anh lớn CAO
THƯỢNG SANH,
26 tháng 3 ngày lành tháng
tốt, Hội Thánh Tiên Thiên chúng em y lịnh phục hồi Tòa Thánh Tiên Thiên Châu
Minh, ngày đánh dấu giai đoạn mới, chúng em đang vui mừng hòa hợp, đồng quyết
phát huy cơ Ðạo Tiên Thiên hầu tròn sứ mạng Thiêng liêng giao phó một Chi Phái
Ðạo Trời. Bỗng nhiên nghe tin Anh lớn qui hồi Thiên vị thì hàng hàng lớp lớp
nhơn sanh Tiên Thiên đều trầm ngâm ứa lệ vì cảm xúc, và trong cảm nghĩ mọi
người lần lượt nói lên lời luyến tiếc người Anh trong hàng Thập nhị môn đồ CHÍ
TÔN buổi khai Ðạo; mối tình thiêng liêng ấy, ai là người vì Thầy vì Ðạo lại
không kính mến nhớ ơn...Hơn nữa, là người Anh đã dầy công giúp Ðạo, gầy dựng cơ
đồ điểm tô đại nghiệp, từng bước hành trình đều gắn liền lịch sử Cao Ðài; một
Thiên tướng Ngọc Kinh tá trần đã làm sáng danh hàng lãnh đạo tinh thần Tân Tôn
giáo Cao Ðài trước quốc dân và quốc tế, đã từng chịu trách nhiệm bảo thủ Ðền
Thánh duy nhứt tại Thánh Ðịa, buổi Tam Kỳ bao trùm đại nghiệp Ðạo... của toàn
thể Tín hữu Cao Ðài (không phân biệt Chi phái) đồng góp công của mua sắm tạo
nên từ thuở.
Giờ đây, không biết nói
chi hơn, Phái đoàn đại diện Hội Thánh Tiên Thiên nguyện cầu Ðại Từ Phụ ban hồng
ân, ban lịnh cho Anh lớn đắc kỳ sở nguyện hằng tá cơ dạy đạo, hộ độ chúng em
hành tròn Thiên mạng nối chí tiền nhân, và phần vô vi chuyển hóa hộ trì vạn
linh, Anh lớn hãy chuyển cơ tâm tất cả đồng ý thức được ngày qui nguyên thống
nhất Ðạo Trời, sớm chung bước lập công phát huy Tân Tôn giáo buổi Tam Kỳ Phổ Ðộ
hoằng hóa Ngũ châu để được nền Hòa bình thế giới sớm vãn hồi hầu thể hiện đầy
đủ ý nghĩa hai câu liễn buổi khai Ðạo trước Ðền Thánh.
Ðược vậy, Cao Ðài giáo mới
tròn câu phổ độ.
Lòng luyến tiếc rất nhiều,
công trình Anh lớn kể sao cho xiết, mà ngày giờ có hạn, Trước Liên Ðài khói
hương nghi ngút, chúng em đồng đẳng đốt nén hương tâm nguyện người Anh quá cố
hãy chứng tri.
Ðồng lễ bái./.
PHÁI ÐOÀN ÐẠI DIỆN GIÁO
HỘI TIÊN THIÊN
PHẦN THỨ NHỨT: Tiểu Sử Ðức
Thượng Sanh Cao Hoài Sang
Việt Nam Cộng Hòa
Tỉnh Kiến Phong
Cao Lãnh, ngày 22 tháng 4 dl năm 1971
Số: 3005VP/3
TỈNH TRƯỞNG KIẾN PHONG
Kính gởi Ông Khâm Châu Ðạo
Cao Ðài tỉnh Kiến Phong.
Thưa Ông Khâm Châu,
Tôi rất lấy làm đau đớn
nhận được tin Ðức THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG đã qui Tiên tại Tòa Thánh ngày 21
tháng 4 năm 1971.
Thay mặt toàn thể Quân,
Dân, Cán, Chính các cấp tỉnh Kiến Phong, tôi xin thành thật chia buồn cùng Ông
Khâm Châu và toàn thể Ðạo hữu.
Xin Ông Khâm Châu chuyển
lời thành kính phân ưu về Tòa Thánh với lòng mến tiếc vô biên của tôi./.
Trân trọng kính chào.
(ấn ký)
Trung Tá TRẦN THANH NHIÊN
KHÓC ÐỨC THƯỢNG
SANH
THI thố ân ban vẹn cuộc đời,
NHÓM truyền đạo lý, trí không ngơi.
KHÓC than chủng tộc tranh hư vị,
ÐỨC bố nhân sinh gọi cạn lời.
THƯỢNG lệnh CHÍ TÔN đà định quyết,
SANH quyền Phật Mẫu hẳn thu hồi.
QUI nguyên tam phẩm nơi cung ngọc,
THIÊN địa u sầu, lệ thảm rơi!
THI NHÓM PHỤNG SỰ
ÐẠI ÐẠO
(Cao Lãnh - Kiến
Phong)
KÍNH CHÚC HƯƠNG
HỒN CỤ THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG Tiêu diêu miền lạc cảnh
Cụ đã soi gương sáng sự lành
THƯỢNG tên Ðại Ðạo được nêu danh
SANH ra cõi thế đời oanh liệt
CAO đức hy sinh chí nhiệt thành
HOÀI vọng nhân loài qua bến giác
SANG sông phổ độ đến quang vinh
ÐẮC công lưu để nghìn thu rạng
QUẢ đạt vẹn toàn tạc sử xanh
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG VIỆT NAM
(đóng dấu)
Tu sĩ NGUYỄN TẤN
ÐẶT
KHÓC NGÀI THƯỢNG
SANH QUI THIÊN
Tin đâu đưa đến nỗi đau lòng,
Muôn sự giờ đây đã hóa không.
THƯỢNG ÐẾ sẳn dành ngôi Thánh vị,
SANH linh tiếc mất bậc Thiên phong.
Hai mươi mấy tuổi từng Khai Ðạo, (1)
Bốn sáu năm trời lập Ðại Công. (2)
Khóc tiển Ngài về cung Bạch Ngọc,
Ngậm ngùi ghi lại một tang chung.
HOÀI TÂN
(thay mặt gia đình cố Bảo Pháp)
* (1) và (2)
bốn chữ nầy ghi trên tấm trướng phúng điếu của gia đình cố Bảo Pháp./.
ÐẠI ÐẠO TAM
KỲ PHỔ ÐỘ
Năm thứ 46
KÍNH VIẾNG
GIÁC LINH ANH LỚN THƯỢNG SANH
- Ðất nước cảnh loạn ly,
cơ đời khi biến động, Anh Lớn vội qui Tiên, nguồn phổ độ, đất Tây Ninh, rạng rỡ
ngàn năm, ngui ngút tiền nhân công sáng tạo.
- Ðạo Trời cơ khảo thí,
vận hội buổi sơ khai, ân dày từng giáo huấn, kẻ hậu sinh, nền Giáo thuyết, vun
bồi một thuở, ngậm ngùi thế hệ bậc tiền phong.
Sài Gòn, cuối Xuân Tân Hợi
HỘI VĂN HÓA CAO ÐÀI KÍNH
ÐIẾU
KÍNH ÐIẾU GIÁC
LINH CAO HOÀI SANG
Hiền hữu
Sét đâu bổng đánh, lụy rưng rưng!
Tin báo xem qua những ngập ngừng.
Bút ngọc dây đồng ngơ ngẩn ngón,
Ðài sen cánh hạc vội vàng chưn.
Ðàn tao đã bặt tay hòa xướng,
Nền đạo còn mong bậc đỡ nưng.
Hai cõi dầu nay đành cách trở,
Bên mình như vẫn hiện âm dung.
THUẦN PHONG
CẢM TẠ
HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO
TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY
NINH,
chân thành cảm tạ:
- Tổng Thống VIỆT NAM CỘNG
HÒA và Phu nhân,
- Phó Tổng Thống VIỆT NAM
CỘNG HÒA và Phu nhân
- Ðại Tướng DƯƠNG VĂN MINH
và Phu nhân, cùng Phái đoàn,
- Chủ Tịch Tối cao Pháp
diện và Phái đoàn,
- Chủ Tịch Thượng nghị
viện và Phái đoàn,
- Chủ Tịch Hạ Nghị viện và
Phái đoàn,
- Thủ Tướng Phu nhân và
Phái đoàn,
- Quý Ðại diện Ngoại giao
đoàn,
- Quý Quốc vụ khanh và
Phái đoàn,
- Quý vị Tổng Bộ Trưởng
Chánh phủ và Phái đoàn,
- Trung Tướng Tư Lịnh Quân
Ðoàn 3, và Quý Tướng Lãnh trong Phái Ðoàn,
- Quý Ðại Tá, Trung Tá
Tỉnh trưởng thuộc Quân khu 3,
- Quý Thượng Tọa Phái đoàn
Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt (Ấn Quang)
- Ðức Tăng Trưởng Lâm Em,
- Hòa Thượng Viện trưởng
Viện Hóa Ðạo Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt, (Việt Nam Quốc Tự),
- Thượng Tọa Trưởng giáo
Théravada,
- Cụ Phó Hội trưởng Trung
ương và Phái đoàn Phật giáo Hòa Hảo,
- Hòa Thượng Pháp chủ và
Quý Thượng Tọa Tổng giáo hội Phật Giáo Việt Nam,
- Quý Linh Mục Phái đoàn
Công giáo Việt Nam,
- Hội Ðồng Tôn giáo Trung
ương,
- Ngài Giáo chủ Bửu Sơn Kỳ
Hương và Phái đoàn,
- Quý Hội Thánh các Chi
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ,
- Ông Chánh Án Tây Ninh và
Phái đoàn,
- Trung Tá Tỉnh Trưởng,
Hội đồng tỉnh, Quận Trưởng và các Trưởng Ty, Sở tỉnh Tây Ninh,
- Quý Ðại diện các đoàn
thể Chánh trị,
-Quý Thân hào, Nhân sĩ,
Luật sư, Bác sĩ, Kỹ sư và Quý Hiệp hội Công, Thương, Kỹ nghệ gia,
- Quý Ðại diện Báo chí và
Nhiếp ảnh,
- Quý Thân hữu thuộc 28
Quốc gia bạn, cùng 184 Thân hữu ở Quốc nội đã có Ðiện tín phân ưu,
Hội Thánh và Tang quyến vô
cùng cảm động tri ân Quý vị đã đến phúng điếu và tiển đưa Liên Ðài Ðức THƯỢNG
SANH chúng tôi vào Bửu Tháp.
Trong 9 ngày cử hành Thánh
Lễ, toàn cả chư Tín hữu và Hội Thánh chúng tôi đa đoan thọ lễ đại tang. Nếu có
điều chi sơ xuất xin Quý vị niệm tình miển cố./.
HỘI THÁNH
PHẦN THỨ HAI:
Các Bài Thuyết Ðạo, Huấn
Từ và Diễn Văn của Ðức Thượng Sanh
LỜI THUYẾT MINH
CỦA ÐỨC THƯỢNG
SANH
TẠI TÒA THÁNH ÐÊM
14 RẠNG 15 THÁNG 4 ÐINH DẬU (13-14/5/1957)
Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông
Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
Thưa ba vị Chánh Phối Sư,
Thưa toàn thể Chức sắc
Nam-Nữ,
Thưa chư Ðạo Hữu Lưỡng
phái,
Chúng tôi, Thượng Sanh và
Chư vị Thời quân, Bảo Quân HTÐ. Hôm nay lấy làm vui mừng về đến Tổ đình hội
hiệp với chư quí hiền huynh, hiền tỷ để được cùng nhau chung gánh nhiệm vụ
thiêng liêng đối với ÐỨC CHÍ TÔN, với ÐẠO và với nhơn sanh.
Cái nhà chung này, trên
vùng Thánh địa tạo thành bởi bao nhiêu tâm trí của chức sắc và lao lực của nhơn
sanh, giờ này đã gom góp lại hầu hết những người của HTÐ mà lúc ban sơ ÐỨC CHÍ
TÔN đã giao phó trách nhiệm lập Ðạo.
Vậy chúng tôi có lời chào
thân mật toàn cả chức sắc Nam Nữ và chư Ðạo Hữu lưỡng phái.
Theo quý vị đã biết, ngày
nay tôi và chư vị thời quân HTÐ về Tòa Thánh đãm đương trách nhiệm cầm giềng
mối Ðạo, một là vì có sự thỏa thuận của các cơ quan trong Hội Thánh, hai là vì
thấy tình thế của Ðạo đã đến lúc cực kỳ nghiêm trọng nên chẳng đành tỏa quan
thành bại. Cái nguyên do làm cho nhân tâm ly tán nền Ðạo chinh nghiêng, chúng
tôi xin miễn nhắc đến, đó là dĩ vãng.
Ðiều chúng tôi cần quan
tâm là hiện tại của Ðạo, Ðạo đã bị nguy nan, chúng ta cần phải lo cứu vãn.
Ngày nay toàn thể chức sắc
lưỡng phái đã tín nhiệm chức sắc HTÐ và triệt để tuân theo mạng lệnh HTÐ điều
khiển việc Ðạo, hai bên HT và CT phải đồng tâm chung trí để lo xây dựng lại nền
chánh giáo, sửa đương cho có trật tự điều hòa làm cho lộ rõ nét bác ái từ bi,
nhơn sanh mới phấn khởi bước tới lo về tu niệm. Ngày giờ này chẳng phải ngày
giờ nói nhiều nữa. Phải làm việc nhiều hơn nói và làm việc một cách minh bạch
theo lẽ công, biết lo cho cái nên, biết sợ cái hư, dứt bỏ hết bản ngã ra ngoài,
thì cả tư tưởng và hành động mới được thanh cao trong sạch.
Hôm nay chúng tôi về đây
để gánh lấy cực nhọc khổ tâm để phụng sự Ðạo, phụng sự nhơn sanh chớ chẳng phải
để tranh quyền cố vị.
Trong cửa Ðạo nhơn sanh đã
lắm thống khổ, chúng ta hãy quên mình chia sớt cái thống khổ ấy, trong khi
chúng ta tận tâm dìu bước Ðạo và trông mong đi đến con đường êm ấm hơn, toàn
diện hơn.
Ðiều chúng tôi chú ý là
hành vi của tất cả chức sắc phải hoàn toàn ở trong mặt Ðạo, do khuôn viên luật
pháp của Ðạo. Có vậy chúng ta mới cộng tác trong tình thân ái thiệt mặt để tâm
dìu dắt nhau, nương nhờ nhau, sức thiêng liêng mới trợ giúp đưa chúng ta đến
cứu cánh hoàn hảo.
Chúng ta mang nặng xác
phàm, tức phải có điều sơ sót. Vì đó một người mà nắm trọn quyền thống nhất
trong tay thế nào tránh khỏi lạm quyền và độc đoán là điều tối kỵ đối với Ðạo.
Ngày nay về đảm đương việc
Ðạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái
con thuyền Ðạo giữa cơn sóng gió bão bùng. Phàm một sắc lịnh hay một quyết nghị
nào sẽ đem ra ban hành là khi đã được phần đông chức sắc Hiệp Thiên Ðài chấp
thuận.
Với tinh thần ấy, thêm vào
thiện chí của chúng tôi, nếu có sơ sót, thiết tưởng sự sơ sót ấy không đến nỗi
nào. Huống chi, yêu cầu sửa đổi lại là quyền của quý ngài đó vậy!
Thưa quý vị, chúng tôi
mong rằng sau hồi sóng lặn gió êm, trời quang mây tạnh, chúng ta sẽ hiệp nhau
phát họa một chương trình gồm cả các điều cần thiết trong lúc này để phục vụ
đắc lực nhơn sanh trong cả hai phương diện vật chất và tinh thần đạo đức.
Trước khi dứt lời, xin quý
vị cùng chúng tôi hằng ngày cầu nguyện Ơn Trên trợ giúp chúng ta làm tròn thiên
chức.
Nam Mô Cao Ðài
Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
Thay mặt HIỆP
THIÊN ÐÀI
(ký tên)
CAO THƯỢNG SANH
LƯƠNG TÂM·
Viết để tưởng nhớ hai Ðấng
Hiền Triết của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ:
ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG VÀ ÐỨC
CAO THƯỢNG PHẨM
TÂM hay là LƯƠNG TÂM là
một vấn đề mà về mặt Ðạo người ta đã có nhiều bàn luận đến, nhưng lý thuyết thì
vẫn có mà thực hành ít ai để ý đến. TÂM là chi?
Tâm là một nguồn sáng
Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Ðức Chí Tôn ban bố cho con người để
khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Ðạo của mỗi
cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hóa nhơn
được hoặc qui hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật
Thiên Ðiều.
Dầu cho Thần Thánh Tiên
Phật khi xuống thế mang xác phàm thì buổi chung qui được hay phạt, thăng hay
đọa đều do nơi Tâm cả, và nếu người được tánh linh hơn muôn vật là nhờ có LƯƠNG
TÂM vậy.
Nên để ý là trong các đẳng
nhơn sanh, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay thường nhân, cái tâm của
Thiêng Liêng ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch.
Vì lẽ đó, nếu mỗi người ai
cũng theo thiên lý mà tu dưỡng mà hành động thì không ai hơn ai cả. Xưa Thành
Nghiễn bảo Tề Cảnh Công rằng: Thánh Hiền là Trượng phu, ta cũng là Trượng phu
ta sợ gì không được như Thánh Hiền. Nhan Hồi cũng đã nói: Vua Thuấn là người
nào, ta là người nào, ai theo Ðạo mà làm thì cũng thế cả.
TÂM được sáng suốt thêm
hay trở nên mờ tối là do nơi con người biết nuôi nấng, nâng cao nó lên hay là
đàn áp làm cho nó bị che lấp mất.
TÂM ở nơi con người cũng
như một vị quốc sư ở cạnh một đấng cầm quyền thống trị thiên hạ. Trong khi ta
đang ngẩn ngơ trước một sắc đẹp mỹ nhơn hoặc ta đương dùng thẳng trước một món
lợi lớn của người đem hiến cho ta đặng dục ta làm chuyện phi pháp, thì một
tiếng nói văng vẳng bên tai ta, nghe dịu dàng, chơn chánh và siêu kỳ:
"Không, người không
nên động đến sắc đẹp ấy, vì sắc đẹp ấy đã có chủ (hoặc) sắc đẹp ấy là một thứ
trái cấm bất khả xâm phạm. Ðộng chạm đến ắt tai họa sẽ đến cho ngươi." Hay
là "món lợi ấy là của phi nghĩa, ngươi không có quyền thâu dụng mà làm
chuyện bất công. Thâu dụng của ấy, ắt tai họa chẳng nhỏ và danh dự ngươi sẽ bị
tổn thương chẳng ít".
Tiếng nói thân yêu ấy là
chi? Ðó là tiếng nói thiêng liêng, tiếng nói của lương tâm vậy.
Nhưng khi tiếng nói ấy dứt
thì một tiếng nói khác tiếp theo, tiếng nói sau này chẳng phải dịu dàng. Khác
với tiếng nói của lẽ phải. Ấy là tiếng kêu gào của xác thịt, của dục vọng, tức
là của tà thần.
Tiếng nói ấy lừng lên đánh
đổ tiếng nói trước kia: "Mi dại gì mà chẳng nhận món tiền ấy, mi chỉ ra
chút công mọn mà đặng lấp đầy những chỗ thiếu thốn của mi. Mi sẽ được ăn mặc
sang trọng thiên hạ sẽ thù phụng mi và mi chẳng còn khổ cực nữa".
Hay là: "Hương trời,
sắc nước là của chung, dại gì mà chẳng hưởng. Thanh xuân bất tái, nếu bỏ qua
chẳng còn dịp nào hay hơn nữa".
Tiếng nói của lương tâm
lại nhỏ nhẹ khuyên can nữa và tiếng nói của dục vọng phản đối chẳng vừa.
Rốt cuộc lương tâm thắng
dục vọng, đó là Thánh Ðức thắng phàm tâm.
Ta thắng được là nhờ tiếng
nói của lương tâm được thích tùng, nhờ ta biết cân phân lẽ phải của đạo lý với
sự dục hư của tà thần.
Nếu ta nhu nhược để cho
vật dục lôi cuốn đánh đổ cả chơn lý của lương tâm, tất nhiên ta phải bị sa ngã
vào đường tội lỗi. Ấy là tinh thần chịu khuất phục vật chất.
Một lần sa ngã cũng chưa
phải hại lớn, ngặc nỗi cái sa ngã này lôi cuốn cái sa ngã khác, thất tình lục
dục thay phiên nhau đưa đẩy ta đi đến mức đường cùng ; tối tăm ô trược, tức là
ta bị đắm đuối giữa vực thẳm hang sâu. Là vì cái sáng suốt thiêng liêng ở nơi
mình không khêu lên lại làm cho nó bị lu mờ và bị vùi lấp cho đến chỗ bế tắc.
Thì con người lúc ấy đã mất hẳn ánh sáng thiêng liêng và kiếp sống như thế trở
nên nguy hiểm cho xã hội.
Trái lại cái tâm được nuôi
nấng, được nâng cao, cái tâm của các bậc phi thường như ÐỊCH NHƠN KIỆT đời
ÐƯỜNG, QUAN CÔNG HẦU đời HỚN là tâm làm cho những đấng ấy danh vọng xa bay,
tiếng tăm lừng lẫy. Họ xem sắc đẹp như cây khô, thị tiền tài như dép rách, đời
trong sạch thanh bai từng làm cho kẻ thù nghịch phải khép nép cúi đầu. Vì vậy
mà được danh tạc sử xanh, thiên hạ sùng bái. Những câu:
Mỹ sắc nhơn gian tối lạc xuân
Ngã dâm nhân phụ, phụ dâm nhân
Nhược tương mỹ sắc tu vong phụ
Biến thể thơ toàn diệt sắc tâm.
Và gương Trung, Can,
Nghĩa, Khí há chẳng còn được ca tụng đến nay đó sao?
Những bậc vĩ nhân siêu
phàm của non nước Việt như PHAN THANH GIẢN, LÊ VĂN DUYỆT, HƯNG ÐẠO VƯƠNG, NGÔ
TÙNG CHÂU, VÕ TÁNH..v..v.... Ngày nay được danh tạc sử xanh là nhờ nơi khí
phách anh hùng tâm linh cao thượng, lòng trung quân ái quốc đến thác chẳng dời
đổi, mặc thời thế đổi thay, mặc bao nhiêu sóng gió.
Về mặt Ðạo, đối với người
đã tầm được lý tưởng cao siêu, cái tâm cần phải giữ cho trong sạch thanh cao.
Vì tôn chỉ Ðạo là khêu ngọn đuốc thiêng liêng để dìu đời cho sáng suốt, chẳng
khác chi chiếc thuyền từ vớt khách giữa sông mê, đưa người qua biển khổ.
Bên trong đã sẳn cái lý
toàn nhiên nơi tâm, bên ngoài nhờ giáo lý cao siêu của Ðạo, người hành đạo có
đủ tài liệu phương chước sửa mình và trau giồi hầu treo gương sáng cho người
đời noi bước.
Trước khi nhập Ðạo, ta đã
từng quan sát, kiếm hiểu lẽ mầu nhiệm sâu sa, cân phân điều chánh lẽ tà, rõ
biết rồi ta dọn mình, lập ý cho thành, tâm cho định, mới đến khắc kỹ tu thân,
khi ấy người hành Ðạo đã có sẳn chí hướng, đi từ bước một, mỗi bước mỗi dè dặt
cân phân và nên mãi đinh ninh rằng người nơi cửa Ðạo phải làm sao cho thoát
khỏi thường tình, phải đi ngược với thế sự.
Ðời chuộng sang vinh, Ðạo
chuộng khổ hạnh, Ðời ham trược phú, Ðạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn
phồn hoa là cảnh áo bả hài gai nơi tịnh xá, tương dưa thanh đạm chốn thiền môn,
để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục. Giữ được bao nhiêu đức tính ấy
người hành đạo bước được vững vàng không dục vọng nào lôi cuốn nỗi.
THÍCH GIÁO: Theo THÍCH
GIÁO, con đường đi đến thành chánh quả là: MINH TÂM KIẾN TÁNH. Nghĩa là phải
trau giồi bản tâm cho sáng suốt đặng kiến tánh.
KIẾN TÁNH tức là cùng PHẬT
đồng tánh thấy sáng đạo nhiệm mầu, các điều vọng niệm thảy đều tiêu tan, sống ở
chơn tâm hoàn toàn giải thoát.
Bậc đã được kiến tánh, giữ
cõi lòng thật thanh tịnh trở lại với bản tánh thiên nhiên tức là lúc mắt tuy
thấy thiên hình vạn trạng trí tưởng nghìn muôn pháp, nhưng tâm vẫn yên tịnh
dường như không gì xao xuyến. Lúc ấy bậc kiến tánh được thấy ngọn đèn chơn lý
đột nhiên đưa đến sáng rạng lạ thường để chỉ đường dẫn lối đưa đến cõi tâm giới
nhiệm mầu.
Ví bằng bản tâm để cho mờ
ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu biết bao giờ kiến tánh mà
tầm lối giải thoát.
Vậy mê là chúng sanh, ngộ
là PHẬT.
Vì đó PHẬT HỌC cho cái tâm
là cái rất nông nỗi, lại đặt cho tâm cái tên là giặc (tâm vi tặc). Phật học dạy
xóa bỏ vọng tâm thường lôi cuốn con người vào đường tội lỗi. Nếu không bỏ vọng
tâm thì chân tâm diệu minh không hiện phát ra được. Xóa bỏ vọng tâm tức là để
cho chơn tâm phát hiện, người tu hành mới thoát khỏi thất tình lục dục hiểu thấu
chơn lý và thắng được mọi sự khổ.
THÂN NGHIỆP, Ý NGHIỆP,
KHẨU NGHIỆP gọi là tam nghiệp làm cho con người luân hồi từ kiếp này đến kiếp
khác. Cứ nghiệp trước tàn, nghiệp sau nối kế tiếp không ngừng, đó là do nơi tâm
tạo. Vì tâm động là phát ra tư tưởng, có tư tưởng rồi mới có nói và làm theo.
Thế thì tâm là nguồn gốc
sanh điều lành việc dữ, cái máy tạo thành họa phước Thánh phàm, nên Thánh Hiền
có dạy rằng:
Tam điểm như tinh tượng
Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng thủ đắc
Tổ Phật dã do tha.
Nghĩa là: Trên ba điểm như
ba ngôi sao, dưới một vòng câu như hình nguyệt xế, cánh lông theo ấy được,
thành Phật do bởi gì?
LÃO GIÁO: Theo triết học
của Ðạo Giáo, Lão Tử rất chú ý đến việc tu thân để cho mình có đủ đức tính kéo
lại những lỗi lầm sa ngã của quần chúng.
Ngài nói: Ta sở dĩ có điều
lo lớn là vì ta có cái thân, nếu ta không có cái thân thì ta có lo gì?. Có thân
tức là có cái tâm, có cái tâm không dễ gì điều khiển và giữ gìn cho trong sạch.
Theo thuyết của Ngài cái
thân đáng quý là khi đem nó ra phụng sự cho thiên hạ, khi phụng sự cho thiên hạ
cái tâm không còn gì xao xuyến ích kỷ để lo cho mình nữa. Vì lẽ cái tâm hay lừa
đảo, hay làm cho con người sa ngã nên theo phép tu thân của Lão giáo, ta phải
dứt bỏ những điều ham muốn, những tư tưởng ngông cuồng có thể hại đến tâm tính.
Giữ lòng được phẳng lặng bình tĩnh để trông rõ những sự huyền diệu thiêng
liêng, tức là lấy cái tâm đè nén cái khí để nuôi nấng tinh thần được cao siêu
thoát tục, đó là con đường dẫn đến cơ đắc đạo.
TU TÂM, LUYỆN TÁNH là
thuyết của LÃO GIÁO dạy người mộ đạo muốn tầm tiên lánh tục.
LÃO TỬ coi danh lợi là thù
của thân, không lấy cái sống vật chất làm hạnh phúc, nên khuyên người đời chỉ
nên chú trọng tinh thần. Phương pháp giáo hóa của Ngài không giống các bậc hiền
triết khác, vì lẽ ngài không thích chen vai với đời để lấy sự hiểu biết khuyên
dạy quần chúng.
Người lý tưởng của Ngài là
người sống trong cảnh tịch mịch, cách biệt vời người đời, đóng cửa, rấp ngỏ
không giao thiệp với ai, để rèn luyện tâm tánh, trụ vững tinh thần như thế mới
gần gũi được với thiên nhiên, quan năng trực giác mới được sáng suốt, tuy không
ra khỏi ngỏ cũng hiểu được thiên hạ, không ngó qua cửa sổ cũng biết được thiên
đạo.
Người ấy LÃO TỮ gọi là
Thánh nhơn.
Trái lại, người chung đụng
với thế gian bị tranh đấu về danh lợi, làm cho tâm tánh vọng động càng đi xa
càng bị sóng đời lôi cuốn, bản tâm rối loạn, thiên tính càng lu mờ, đó là tự
mình tìm lối diệt vong vậy.
Người ta cho LÃO TỮ có tư
tưởng yếm thế tiêu cực, hoặc tư tưởng của Ngài là độc thiện kỳ thân hay cá nhân
chủ nghĩa. Nhưng xét ra, người học Ðạo nên tùy theo đẳng cấp và trí thức của
mình, chọn lọc thuyết nào thuận tiện thi hành cho tâm tánh được nâng cao, tinh
thần được cứng rắn. Ngoài ra phương pháp nào quá cao siêu ta chưa với tới được
thì để lại cho bậc có quan niệm cao thượng hơn ta thực hành.
KHỔNG GIÁO: Khổng Giáo cho
rằng tâm là thần minh của Trời phú cho, nên tâm của ta với Trời là một thể.
Mạnh Tử lại cho Tánh là cái bản nguyên thiêng liêng, đối với Tâm vẫn có một. Hễ
biết rõ tâm thì ta biết rõ tánh, biết rõ tánh tức là biết rõ trời đất vạn vật.
"TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH" là giữ cho mình
còn cái tâm hư linh; nghĩa là đừng để cho tự ý che lấp mất và nuôi cho cái tánh
được sáng suốt toàn hảo như của Trời đã ban cho ta, tức là biết có Trời và thờ
Trời một cách chơn thật.
Cái bản tâm giữ được còn
mới thật là lương tâm. Có lương tâm mới có lương năng và lương tri, tức là cái
giỏi biết rất tự nhiên, rất mẫn tuệ (người không học mà giỏi gọi là lương năng,
không suy nghĩ mà biết gọi là lương tri. Cũng như đứa trẻ con còn ẳm trên tay,
không đứa nào là không biết yêu mến cha mẹ, chỉ vì lương tâm còn nguyên vẹn
thuần túy).
Theo thuyết KHỔNG GIÁO,
người ta ở đời phân biệt nhau ở nơi quân tử hay tiểu nhơn, hiền hay ngu là do
người ta giữ cho còn cái tâm hay để cho mất cái tâm. Giữ cho còn cái tâm là
đáng bậc Thánh Hiền, bỏ mất cái tâm con người vẫn là một cây thịt biết đi biết
chạy mà thôi.
Thầy MẠNH TỬ chú ý nhứt về
chỗ tìm lại cái tâm của mình đã để sổ ra mất, vì lẽ người ta để con gà, con chó
sổ ra còn biết đi tìm, há đâu để món báu thiêng liêng là cái tâm của mình sổ ra
lại không đi tìm hay sao?
Tìm lại cái tâm đã mất tức
là sửa mình đó.
Từ bậc vua chúa dĩ chí thứ
dân, ai cũng lấy sự học để sửa mình làm gốc. Muốn sửa mình cho ra người có đức
hạnh hoàn toàn, trước phải giữ gìn cái tâm cho chính, cái ý cho thành, sau mới
cách vật trí tri, nghĩa là tìm hiểu rõ các sự vật và biết đến cho cùng cực của
sự biết.
Muốn giữ cái tâm cho
chính, sự sợ hãi, sự vui say, sự ưu hoạn, làm cho cái tâm ta chênh lệch xao
xuyến vì một khi tâm bị loạn thì mắt không trông thấy, tai nghe không hiểu, ăn
không biết mùi, tất nhiên ta chẳng còn phân biệt được tà chánh ngay gian mà xử
sự đúng theo đạo lý.
Khi tâm đã chánh, ý đã
thành, cái lương tri lương năng của ta trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng
hiểu rõ đến chỗ nhiệm mầu sâu xa dầu đối phó với cảnh ngộ nào cũng điều hòa và
hợp với lẽ phải.
Chừng đó con đường đã dọn
sẵn, sự sáng suốt của tâm đã đủ sức dìu dắt ta trong bước tu thân, có còn chi
trở ngại nữa.
Việc tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ cũng do nơi con đường đó mà đạt thành.
Ngày nay ÐỨC CHÍ TÔN khai
nền ÐẠI ÐẠO tại VIỆT NAM để cứu vớt nhân loại lần cuối cùng qui tam giáo, hiệp
ngũ chi đem chủ nghĩa từ bi bác ái lập nền tảng đại đồng hòa bình.
Ðức Chí Tôn từng dạy chúng
ta lập tâm chí thanh cao và noi theo đức háo sanh của Ngài mà phổ độ sanh
chúng.
Lúc mới khai Ðạo (1926),
mỗi đêm những chức sắc lớn phải đi đến nhà các đạo hữu mới nhập môn đặng làm lễ
khai đàn. Một hôm nhiều chức sắc đến khai đàn tại nhà một đạo hữu ở trong một
túp lều tranh nơi xóm dân lao động. Ðường đi trong ngõ hẽm trơn trợt vì gặp
phải mùa mưa, phần đông chức sắc than phiền dường như rất bực lòng đi đến chỗ
không xứng đáng.
Lúc khai đàn, Ðức Chí Tôn
giáng cơ ban khen Vị Ðạo Hữu chủ đàn và rầy cả chức sắc sao không hiểu nghĩa vụ
của mình đối với Ðạo, nhơn sanh.
Bài thi cho cả chức sắc
hiện diện như sau đây:
Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Há cần hạ giới dụng cao ngôi?
Hèn
sang trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy
tòa sen của Lão ngồi.
Từ ấy các chức sắc đi chứng lễ khai đàn nơi tư gia, tỏ ý sốt sắng và không dám câu nệ nữa. Ðức Chí Tôn
thường
nói với các môn đệ:
"TÂM các con vừa động Thầy đã biết
rõ, vì TÂM các con là một phần thiêng liêng của Thầy ban cho, vậy tư tưởng các con Thầy đều biết, khá tìm
hiểu."
Do đó chúng ta biết DÂN TÂM tức là THIÊN Ý và
theo thể pháp của Ðạo, duy có quyền Vạn linh đối với quyền Chí Tôn mà thôi.
Lúc ÐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG còn tại thế, Ngài có
tiếp một bài thi của Ðức Chí Tôn như sau đây:
Nghiêng vai gánh vác đạo nhà Nam,
Gắng khổ chìu tâm độ tánh phàm.
Khổ ấy về sau danh phận xứng,
Chăm lo trách nhậm mới gìn kham.
Ngài thường nói với các
chức sắc gần gũi với Ngài: "Tuy qua
đi hành đạo vất vả cực nhọc nhưng qua vẫn vui lòng, vì đối với Thầy, tâm qua
được trong sạch, đối với nhơn sanh tâm qua được thơ thới an vui vì làm tròn
nhiệm vụ. Ngoài đời người ta được thưởng công bằng tiền bạc, trong cửa đạo
chúng ta được thưởng công bằng sự ban khen phủ ủy của lương tâm.
Những tiếng ban khen ấy đối với qua không lấy vật chi
quí báu của đời mua được".
Quí hóa thay lời nói của
người Anh cả chúng ta. Ngày nay bậc cao khiết ấy đã về với Thầy rồi, lời nói
trên đây còn văng vẳng bên tai của kẻ viết bài này.
Bức tranh xã hội thường
ngày vẽ cho chúng ta thấy nhiều chuyện trớ trêu khúc mắc và chỉ cho chúng ta
biết rằng đời hiện tại là đời mạt kiếp, nên cang thường đảo ngược, luân lý suy
đồi. Người ta đua nhau lăn xả vào vòng trụy lạc, sống một đời vật chất vô
nghĩa, vô nhân, vô tâm, vô đạo. Nào con giết cha, vợ giết chồng, nào anh em làm
loạn luân thường, nào mẹ bán con vì mối lợi thừa, chồng hiến vợ cho kẻ có quyền
để cậy thân dựa thế. Người ta dám giết lẫn nhau vì số tiền một vài trăm đồng
hoặc tạo cảnh nồi da xáo thịt vì bát cơm manh áo.
Ðức PHẬT THÍCH CA có giáng
cơ như vầy:
Lộ vô nhân hành,
Ðiền vô nhân canh,
Ðạo vô nhân thức,
Ta hồ tận chúng sanh!
Ðiền là tâm điền, chỉ
nghĩa tâm người ta như miếng ruộng, cần phải cày cấy, gieo giống tốt mới nở
bông sanh trái, bằng để u trệ không lo săn sóc, ruộng sẽ bị cỏ chạ cây rừng
loán mọc, thành đất hoang vu, chứa những độc trùng hiểm nguy không ít.
Thường ta thấy nơi trường
đời người ta mượn cái lốt bề ngoài để lòe quần chúng để che khuất cái tâm khô
khan cằn cổi bên trong, đặng chờ dịp lừa phỉnh nhau và sát hại nhau.
TÂM bất chánh trong phạm
vi eo hẹp thì làm rối loạn gia đình, tâm bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây
ác cảm, chác oán thù, tâm bất chánh loán vào xã hội tạo giây oan nghiệt, đưa
đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẵm.
Gặp được mối Ðạo mầu,
chúng ta rất hữu phước được Ðức Chí Tôn dìu dắt và giáo hóa, chúng ta nên gắng
công trau giồi tâm chí hầu nâng cao danh thể Ðạo và thức tỉnh những kẻ sai bước
lạc đường.
Ðức Chí Tôn cầm quyền cả
càn khôn thế giới, đã từng hạ mình làm hồn ma đặng dìu dắt các môn đệ lúc ban
sơ, ta há vì tự trọng tấm thân mà không noi gương của Ngài trong muôn một hay
sao?
Có tài thì cái tài rất hữu
dụng, mà đức lại càng qúi hơn. Diêu Trì Cung Bát Nương có khuyên dạy về hai chữ
tài và đức như sau đây:
Tài lấn đức tài mau diệt tận,
Ðức đồng tài, tài phấn khởi thêm.
Mênh mông biển khổ con thuyền,
Ðạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.
Ỹ tài sức cậy thân dựa thế,
Tài càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài kia tai nọ luôn vần,
Ðức tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm năm một cuộc bể dâu!
Tố Như Tiên sanh là cụ
Nguyễn Du dạy đời hai câu bất hủ nầy:
"Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài."
Nơi cửa Ðạo, người hành
đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái
"bản ngã" thường tình. Trừ bỏ được bịnh chỉ biết có mình, hành vi nào
cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ. Trong cảnh hèn sang,
vui khổ, phải chia sớt với tất cả bạn đồng hành, sự tương thân, tương ái mới
được trọn vẹn.
Lưu Hướng Liệt Nữ truyện
Trung Hoa có chép một truyện như sau đây:
"Lúc Xuân Thu, nước
Tề cữ binh phạt nước Lỗ. Khi đến chỗ giáp giới, viên tướng chỉ huy binh Tề
trông thấy một người đàn bà một tay bồng đứa bé, tay kia dắt một đứa bé nữa.
Quân tràn tới, người đàn bà vội bỏ đứa bé đang bồng trên tay xuống, xốc đứa bé
đang dắt, rồi hơ hãi chạy trốn vào rừng. Ðứa bé bị bỏ, chạy theo la khóc, người
đàn bà cứ lo chạy không ngó lại.
Viên tướng Tề sai quân bắt
lại và hỏi:
"Ðứa bé nàng bồng chạy là con ai, đứa bé bỏ lại
là con ai?"
- Thưa, đứa tôi bế chạy là
con của anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Vì không thể bảo toàn cả hai
đứa, nên tôi phải bỏ con tôi.
- Tướng Tề nói: "Tình mẹ con không đau xót sao?- Ai nở
bỏ con mình để cứu lấy con của anh là thế nào?"
- Con của tôi là tình
riêng, con của anh tôi là "nghĩa
công", bỏ con đẻ tuy đau xót, nhưng muốn làm tròn nghĩa công, tôi phải
lìa nó mà cứu con anh tôi. Tôi không thể nào mang tiếng "vô nghĩa" mà sống ở nước tôi được.
Viên tướng Tề dừng binh
lại, đợi vua Tề đi tới quì tâu: "Nước
Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới tới biên giới, đã thấy một kẻ phụ nhơn ở xó
rừng góc núi còn biết chẳng vì tình riêng mà hại nghĩa công huống chi là những
bậc quan lại sĩ phu trong nước. Vậy xin kéo binh về là hay hơn."
Vua Tề cho là phải.
Nhờ vậy người đàn bà bảo
toàn cả hai đứa bé và sau được Vua nước Lỗ thưởng một trăm tấm lụa và tặng hai
chữ "nghĩa cô".
Ðó là tâm lý xử nghĩa của
một người đàn bà ở tận góc núi ven rừng nơi trường đời.
Khi người ta bỏ được
thuyết "bản ngã" ra ngoài
hành động trông ra chánh đáng và cao thượng làm sao!
Nơi cửa Ðạo, chủ nghĩa
giác thế độ đời lại cao cả hơn nữa. Nếu tâm vẫn còn chịu khổ để lo cái "của mình" còn hay mất, được
hay thua, thêm hay bớt thì phận sự Ðạo làm sao cho trọn?
Ðức CAO THƯỢNG PHẨM có
giáng cơ dạy rằng: "Phải giữ thân
thể khỏi sa ngã vào sự ràng buộc nào phải cực trí lao thần. Tâm được trong sạch
thanh cao, Thần được nhẹ nhàng thơ thới, người hành đạo mới thành hữu dụng cho
Ðạo Ðời.
Còn mang lấy xác thân là
còn trách nhiệm cho đến ngày thở hơi cuối cùng. Phải tự nuôi tâm chí cho cao
thượng, tự bảo đãm cái trách nhậm ấy đặng tự tạo con đường "sống còn" hầu giải thoát cho những kẻ đương "sống mất".
Than ôi! Họ "sống mất" không biết bao
nhiêu, thành ra đời loạn, chúng ta có đành chịu kiếp sống mất chăng?
Dưới đây là một bài thi
giáng cơ của Ðức Nhàn Âm Ðạo Trưởng:
"Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Giong rủi đường tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẵn nêu trường khảo,
Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành."
Thánh Giáo của Ðức Diêu
Trì Kim Mẫu:
"Ðời hay Ðạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự
thái bình, phải cần lập tâm chơn chánh đỉnh đạt để gieo sự hòa nhã yêu đương
rồi mới gia tề quốc trị."
Thiếu nhân kém đức, tâm
chí nông nỗi, chủ hướng mơ màng, chẳng qua tạo cảnh khổ cho nhơn sanh mà thôi.
Vậy các con nên trao giồi chữ tâm cho lắm.
Mẹ để ít lời dưới đây cho
các con làm chuẩn thằng trong bước Ðạo.
"Gắng sức trau giồi một chữ TÂM,
Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đoạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường tâm cửa Thánh
dù chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm."
Mấy bài Thánh Giáo trích
lục chúng ta đã được đọc qua là những lời châu ngọc, chúng ta nên cố gắng nhớ
để làm kinh nhựt tụng.
Trong bước đường tu, dưới
bóng từ bi bác ái của Ðức Chí Tôn, ước mong những lời dạy bảo ấy sẽ giúp ích
mãy may cho những đạo hữu ham tìm ánh sáng của chơn lý.
MÙA THU NĂM MẬU TUẤT
(Septembre 1958)
DIỄN VĂN
CHÚC TẾT XUÂN MẬU TUẤT
Sau buổi lễ Chung Niên - Tháng Chạp Ðinh Dậu
Thưa chư Chức sắc lưỡng phái,
Thưa chư Chức việc và Ðạo
hữu Nam Nữ,
Năm Ðinh Dậu hầu mãn, xuân
Mậu Tuất sắp đến, ngày tháng như thoi đưa, không mấy hôm nữa chúng ta sẽ bước
qua mùa xuân vui tươi đẹp đẽ, để cho đời và Ðạo phấn khởi trên đường tiến triển
về hình thức lẫn tinh thần.
Một năm đã qua, khác hơn
ngoài mặt đời, Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị
tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời, mùa màng được hay thất mà chỉ cân phân về
hạnh đức sánh với năm trước có được tiến triển chăng? Công quả có được xứng
đáng hơn chăng? Sau nữa hành Ðạo có được ổn định và hoàn mỹ hơn chăng?
Sự so sánh ấy hầu đem lại
một bằng chứng hơn hay kém, chúng ta cũng cứ gắng sức nhiều hơn nữa, đặng cho
tinh thần đạo đức càng được nâng cao thêm mãi, chúng ta mới có thể dìu cơ phổ
độ hầu cứu vớt nhơn sanh cho kịp kỳ theo Thiên ý của Ðức CHÍ-TÔN mong mỏi.
Cần nhứt là chúng ta nên
lưu tâm sự nhận định tình thế của Ðạo chẳng căn cứ theo bề ngoài mà phải căn cứ
theo tinh thần thiệt mặt của Ðạo là cái căn bản của ÐẠO ÐỨC VÔ HÌNH đã được un
đúc từ buổi ban sơ, và nhờ thế Thánh Thể nơi mặt thế của Ðức CHÍ-TÔN mới cảm
hóa nhơn tâm và bảo tồn nghiệp Ðạo...
Chức sắc Hiệp Thiên Ðài về
đảm đương việc Ðạo được hơn chín tháng nay. Chúng tôi không dám tự hào cho là
đủ tài, đủ đức để làm tròn nhiệm vụ nặng nề, nhưng đã chịu sứ mạng Thiêng
liêng, chúng tôi cứ tin nơi sự trợ giúp của Ơn Trên, quyết để tâm trí làm việc
chung sức với toàn thể Chức sắc đặng xoay chiều đổi hướng thế nào cho được
thuận với đời, hiệp với Ðạo, tránh cái hư, tìm cái nên, gắng sức làm tôi tớ cho
Ðức CHÍ-TÔN mong thực hành chủ nghĩa độ đời và gieo sự thương yêu trong cửa
Ðạo.
Hằng ngày chúng tôi vẫn
cầu nguyện với Ðại Từ Phụ bố trí chúng tôi đặng sáng suốt để làm tròn phận sự,
một phận sự mà chúng tôi tự biết là quá sức của chúng tôi.
Vì vậy chúng tôi vẫn canh
cánh bên lòng nỗi lo lắng về tiền đồ của nghiệp Ðạo. Chúng tôi ước mong toàn
thể Chức sắc, Chức việc thông cảm nỗi ưu tư ấy, để tâm giúp đỡ lẫn nhau, hầu
đem chiếc thuyền từ đến chỗ thuận nẻo êm dòng, đưa con cái của Ðại Từ Phụ cho
đến tận bên bờ giác.
Thưa chư Chức sắc lưỡng
phái, chúng ta mang nặng xác phàm thì dầu cho ai cũng không tránh khỏi sơ sót.
Cũng may là chúng ta đã làm việc trong tinh thần tập thể, hiệp tâm chung trí,
nghe nhau, chìu nhau, ai cũng quyết chí làm nên cho Ðạo.
Nhờ vậy, dầu có sơ sót,
thiết tưởng sự sơ sót cũng chẳng đến nỗi nào.
Ngoài ra, chúng tôi không
ham lảnh lấy lời khen mà thiếu thành thực, trái lại chúng tôi muốn nghe những
lời cải sửa đúng đắn mà không có ác ý và cũng đồng một quan niệm, chúng ta nên
thành thật cải sửa lẫn nhau chúng ta mới mau tiến triển trên đường đạo đức.
Năm cũ sắp tàn, thời gian
trôi qua thấm thoát, tuổi chẳng chờ người mà phận sự còn bộn bề chưa biết đâu
là cứu cánh.
Một đại thi gia ngày xưa
của Việt Nam đã tiếc thời gian trôi qua mà không nên việc trong hai câu:
"Vô thành vãng nhựt tư nan tích,
Dĩ lão đương xuân sấm mạc sầu."
Thích nôm:
"Ngày qua đáng tiếc chưa nên việc,
Già đến đừng phiền với chút xuân."
Công việc chúng tôi đã
thực hành trong năm kể từ ngày Rằm tháng tư, tuy đem lại một kết quả chưa gọi
là hoàn toàn tốt đẹp theo ý muốn, nhưng chúng tôi đã gắng sức làm việc đã có
giúp ích phần nào cho đời cho Ðạo, thì những ngày trôi qua cũng không phải đáng
tiếc.
Ðối với Ðạo, năm Ðinh Dậu
là năm đáng buồn nhứt mà cũng đáng vui nhứt.
Buồn là vì có biến chuyển
xảy ra trong lúc đầu năm làm cho con cái của Ðạo phải chịu thống khổ, nhân tâm
ly tán tình thế đảo điên.
Vui là vì nhờ quyền năng
vô đối của Ơn Trên mà cơ phục hưng lần hồi thực hiện, để cho toàn Ðạo vững tâm
lo bề tu niệm, Hội Thánh tiếp tục điều khiển việc Ðạo và phục vụ nhơn sanh.
Trong cửa Ðạo về phần vật
chất, nhơn sanh còn lắm vất vả, nhưng cũng vẫn hy sinh chịu khổ hạnh đủ mọi
phương diện để giúp phần xây dựng cho nền chánh giáo.
Chúng tôi không khỏi ngậm
ngùi khi mà Hội Thánh thấy chưa có thể lấp bằng những chỗ thiếu thốn của bao
nhiêu đạo hữu hiến thân cho Ðạo, mặc dầu chúng tôi đã cố gắng cải thiện phần nào
tình trạng ấy.
Chúng tôi vẫn lưu tâm lo
tìm phương chước đem lại cho đời sống của bổn Ðạo một sự an ủi thiết thực, cần
yếu và chúng tôi tin chắc rằng trong sự cộng tác thành thật của lưỡng đài Hiệp
Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài, chúng ta hy vọng một tương lai vui tươi tốt đẹp
hơn.
Hiện giờ cùng chung chịu
cảnh thanh bần của Ðạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Ðạo hết sức cân
phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta
không có quyền phung phí vô lối. Chúng tôi nhận thấy toàn thể Hội Thánh đã gắng
công phần nào về mặt tiết kiệm. Vậy chúng ta cố gắng thêm mãi và tin tưởng nơi
tình yêu thương cao cả của Ðại Từ Phụ, chúng ta nên bằng lòng với cái chi chúng
ta đương có, để tâm lo tròn nhiệm vụ đối với Ðạo.
Ðó là điều cần yếu trước
nhất, chúng ta chỉ vì lo không nhất tâm nhất trí mà phải phụ lòng tin cậy của
Ðại Từ Phụ mà thôi.
Vậy cúng buổi lễ chung
niên, chúng ta kính cẩn dâng lên Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu tấm lòng chơn thật,
thương Ðạo mến Thầy. Cầu xin hai Ðấng Tạo Ðoan tối cao hỉ xả tất cả cái gì còn
thô sơ thiếu kém và trợ giúp chúng ta đi đến chỗ thành công mỹ mãn.
Hôm nay nhân buổi lễ nầy,
thay mặt cho Chức sắc Hiệp Thiên Ðài, tôi có lời cầu chúc toàn thể Chức sắc,
Chức việc lưỡng phái Hành Chánh và Phước Thiện cùng chư Thiện nam Tín nữ được
đầy đủ sức khỏe, gia đình hòa hiệp đầm ấm vui tươi và ngưỡng xin Ðức CHÍ-TÔN và
Ðức PHẬT-MẪU ban đầy ân huệ cho toàn Ðạo, sau nữa dìu dắt cả anh chị em vững
bước trên đường thiện niệm để cùng nhau chung lo giữ gìn đại nghiệp của Ðạo.
TM. Toàn thể Chức sắc Hiệp
Thiên Ðài
Thượng Sanh
ÐIẾU VĂN
ÐỌC TRƯỚC LIÊN ÐÀI
CỦA NGÀI BẢO VĂN
PHÁP QUÂN CAO QUỲNH DIÊU
Ngày 6 tháng 9 năm
Mậu Tuất (dl. 18/10/1958)
Kính thưa chư quí Quan
Chức,
Kính thưa chư quí Khách
quan,
Kính thưa quí Ông, quí Bà,
Thay mặt cho Hội Thánh
Hiệp Thiên Ðài tôi xin thành thật để lời cảm ơn quí vị không nệï xa xôi khó
nhọc có lòng chiếu cố đến dự lễ an tọa liên đài của Ðạo huynh chúng tôi là ngài
Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu một vị trong hàng Thập Nhị Bảo Quân Hiệp Thiên
Ðài.
Thưa Hội Thánh và toàn Ðạo
hữu lưỡng phái, trước liên đài tôi xin nhắc lại công nghiệp của ngài Bảo Văn
Pháp Quân đã hết lòng tận tụy với sứ mạng thiêng liêng và đã trải qua bao nhiêu
khổ đau cực nhọc để góp phần xây dựng nền Ðại Ðạo trong lúc ban sơ.
Hưởng thọ 73 tuổi, ngài
Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, Tổng Hàm Ninh Thượng thuộc
tỉnh Tây Ninh, trong một gia đình thế phiệt Nho phong. Cụ thân sinh của Ngài có
3 người con trai mà Ngài là anh cả và kế ngài là Ðức Cao Thượng Phẩm của Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ngài là một vị trong những
Chức sắc Hiệp Thiên Ðài mà buổi Ðạo mới khai, Ðức CHÍ-TÔN và các Ðấng Thiêng
Liêng đã đến dìu dắt trước nhứt để giao phó cho sứ mạng thiêng liêng sử dụng cơ
bút đặng độ nhơn sanh nhập vào cửa Ðại Ðạo.
Ðầu năm 1926, tức là năm
Bính Dần, một lượt với chư vị Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài, Ngài đắc lịnh
nâng loan, hiệp cùng Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt lúc còn đương phẩm
Ðầu Sư và các vị Ðại Thiên Phong Cửu Trùng Ðài đi phổ độ khắp các tỉnh, nhứt là
các tỉnh trung ương và Miền Tây Nam Việt.
Mặc dù còn giúp việc cho
một hãng tư, ngài không nệ cực nhọc gắng làm tròn nhiệm vụ trong hai năm Bính
Dần và Ðinh Mão (1926-1927) là hai năm mà Ðức CHÍ-TÔN cho huyền diệu cơ bút
thâu nhập môn gần một triệu tín đồ, đem lại cho nền Ðại Ðạo một thắng lợi vẻ
vang về mặt tinh thần cũng như về mặt phổ thông chơn Ðạo.
Ngài thọ phong Tiếp Lễ
Nhạc Quân năm Ðinh Mão (1927). Qua năm Kỷ Tỵ (1929) lối tháng mười, mặc dầu
hưởng lương bổng trọng hậu, Ngài phế đời về Tòa Thánh hiến thân lo Ðạo, giúp
Hội Thánh sắp đặt nội bộ và nhất là góp công trong việc nâng loan cho Ðức
CHÍ-TÔN và các Ðấng dạy truyền giáo lý.
Ðầu năm Canh Ngọ (1930),
được đắc phẩm Bảo Văn Pháp Quân, Ngài cố tâm chấn chỉnh lễ nhạc, ra công dạy
nhạc cho Ban Nhạc sĩ tại Tòa Thánh, từ điệu nghệ cầm roi trống cho tới bài bản
âm nhạc. Ðến cuối năm Canh Ngũ, ngài rủi bị nạn hỏa tai, cả nhà cửa sự nghiệp
bị thiêu hủy, nên vì sinh kế Ngài trở về Phú Nhuận (Gia Ðịnh).
Kế một thời gian qua, Ngài
hiệp với mấy bạn Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài để gầy dựng cơ quan tái lập
tại Thất Từ Vân nơi Phú Nhuận, lo chú giải Tân Luật Pháp Chánh Truyền và lập
điều lệ phụ thuộc để sau nầy giúp cho Chức sắc dễ thi hành phận sự. Mãi đến năm
Canh Dần (1950), Ngài trở về Tòa Thánh quyết lòng cộng tác với Chức sắc cao cấp
Hiệp Thiên Ðài lo làm phận sự.
Nhưng từ ngày ấy đến sau,
vì tuổi cao sức yếu Ngài không thể đảm đương nhiệm vụ chung lo với Hội Thánh.
Hơn nữa, Ngài phế cả sự nghiệp vì chủ nghĩa của Ðạo và bởi đó, ngài lắm chịu vất
vả về mặt vật chất, xác thân càng ngày thêm tiều tụy hao mòn.
Vừa rồi Ngài ngọa bịnh
không mấy ngày, bỗng phút vĩnh biệt cố thân, xa miền dương thế. Hôm nay Ngài
Bảo Văn Pháp Quân đã ra người thiên cổ. Tuy đã biết nợ Ðạo rồi xong, tuồng đời
chấm dứt, Ngài đã trả xác trần lại cho gió bụi để trở về với Ðức CHÍ-TÔN Ðại Từ
Phụ, và rồi đây chúng tôi có thể tiếp xúc với Ngài bằng huyền cơ diệu bút,
nhưng trước cảnh từ biệt kẻ mất người còn, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi, mến
tiếc khi nhớ đến bạn đồng thuyền đã cùng chúng tôi chia sớt ấm lạnh, mặn nồng
và chung lưng đâu cật trót hơn mấy mươi năm để mưu cầu hạnh phúc của nhơn loại.
Vậy nơi đây là nơi Ngài an
nghỉ giấc ngàn thu, chúng tôi thành kính nghiêng mình để bái biệt liên đài lần
cuối cùng và xin thành tâm cầu nguyện cho Ngài được hưởng đầy đủ ân huệ của Ðức
CHÍ-TÔN và Ðức PHẬT-MẪU nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
TM. Hội Thánh Hiệp
Thiên Ðài
Cao Thượng Sanh


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét