Tiểu Sử và Lời Thuyết Ðạo Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang - 5 / 8


LÒNG NHÂN ÁI
(Ðức Thượng Sanh thuyết tại Ðền Thánh
đêm 14 tháng 10 năm Bính Ngọ)

Hôm nay nhân dịp cúng Lễ Hạ Ngươn, tôi xin nói về "LÒNG NHÂN ÁI".

Những nhơn vật trong hàng trí thức nếu đã thâm nhiểm triết lý của Thánh Hiền và hiểu bổn
phận làm người thì ai cũng cố gắng trau giồi học vấn và đức tính để kịp tiến hóa cho đến chí thiện, chí mỹ.

Muốn đạt đến cái mục đích ấy thì phải lấy chí vị tha, dụng công phu mà sáng tạo ra những sự vật có sức linh hoạt khả dĩ giúp ích cho đời về mặt tinh thần hay vật chất. Thí dụ: Nhà Tôn giáo tìm ra một lý thuyết giúp nhân loại tránh việc cạnh tranh sát phạt; nhà triết học phát huy cái tư tưởng cao xa; nhà văn chương làm ra quyển sách kiệt tác hay nhà khoa học tìm ra cái cơ khí tinh xảo, đều là hợp với cái đức sinh hóa của trời đất cả.
Nhập Bửu Tháp ngày 06-04-Tân Hợi Dl 30-4-1971.

Vậy hợp với cái đức sinh hóa của Trời Ðất là Thiện, trái với cái đức sinh hóa là ác.
Người có học Ðạo thì ai cũng theo thiên lý mà bồi bổ cho sự sinh hóa thiên nhiên. Sự bồi bổ đó gốc ở Ðạo NHÂN mà ra vậy.

Thực hành được Ðạo NHÂN thì sự sống ở đời mới có ý nghĩa cao xa mà cái cảnh thú cuộc đời mới trở nên vui vẻ thanh thoát.

Sanh đứng làm người được có tánh linh hơn muôn vật là nhờ Trời phú cho có LƯƠNG TÂM, có trí xét đoán, biết phân biệt điều phải lẽ quấy, điều chánh, lẽ tà thì đáng lẽ ai cũng đều có LÒNG NHÂN mới phải.

Vả lại, con người khi mới sanh ra đều có tính thiện cả, vì cái thiên tính của Trời ban cho được còn nguyên vẹn chưa bị sự cám dỗ của mặt đời làm cho mất căn bản thiêng liêng của nó.

Nói như thế nghĩa là nếu con người từ nhỏ cho tới lớn được dạy dỗ trong khuôn viên đạo đức và chỉ có gần với kẻ thiện thì cái lòng nhân còn giữ y nguyên có lẽ còn được gia tăng thêm nữa.

Ngặt nỗi con người tùy theo hoàn cảnh gia đình, tùy theo địa vị xã hội của cha mẹ, tùy theo người lân la kết bạn, tùy theo sự hữu học hay vô học nên phần nhiều bị biến đổi, lôi cuốn trở nên khác hẳn với con người toàn thiện của Trời sanh.

Vì đó mới có kẻ hay, người dở, kẻ chánh, người tà, kẻ hiền người dữ, Thánh hiền mới phân biệt hạng người có nhân và hạng người bất nhân.

Chữ nhân vẫn hàm súc luôn cái nghĩa của chữ Ái, có nhân mới có ái, có ái mới có lòng thương người yêu vật, muốn cho vạn vật bao giờ cũng có sự yên vui trong kiếp sống.

Bởi có lòng nhân nên người ta mới kết nên đoàn thể với nhau, coi nhau như anh em một nhà, xem cả đoàn thể như một châu thân, cả võ trụ đồng nhứt thể. Hễ có một người đau khổ tức là một chỗ trong châu thân bị đau thì toàn thân nhận thấy khó chịu, phải tìm phương thế làm cho chỗ đau được êm dịu.

Trái lại, người bất nhân không có ích lợi gì cho ai, nho học cho rằng người bất nhân ở trong xã hội cũng như người có bệnh tê vậy, ai đau khổ mặc ai, ai bị tai nạn thế nào cũng cứ dửng dưng không hề có chút cảm động.

Hơn nữa họ vì từ tâm, từ tri, nghĩa là vì bản ngã mà thành ra mờ ám, mất hết trực giác rồi cứ chìu theo lòng ích kỷ mà làm những điều trái hẳn với lẽ phải và đạo đức.

Xưa Ðức KHỔNG TỬ chú ý nhất là về ÐẠO NHÂN. Ngài nói: "Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác, tiểu nhân phản thị" nghĩa là: Người quân tử gây thành cái hay cho người, không gây thành cái ác cho người, tiểu nhân thì không thế.

Lòng người quân tử vốn hậu mà cái sở kiến chỉ ở sự thiện cho nên thấy ai làm điều hay thì khuyến khích cho người ta cố gắng làm hay hơn nữa, hoặc thấy ai làm điều ác thì can ngăn không để cho làm điều ác được. Còn kẻ tiểu nhân thì cái sở kiến chỉ ở điều ác cho nên thấy ai làm ác thì xúi giục thêm hoặc thấy ai làm điều thiện thì lại ghen ghét, kiếm cách ngăn trở.

Theo ý của Ngài thì đạo nhân vô cùng, vô tận; học đạo nhân tức là phải sửa mình luôn và lập chí theo cho đến cùng dầu thấy chết cũng không bỏ. Ngài dạy rằng: "Chí sĩ nhân nhân vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát nhân dĩ thành nhân" nghĩa là: bậc chí sĩ thì ai cũng không ham sống để bỏ mất nhân, thà liều thác để giữ trọn đạo nhân.

Thầy NHAN TỬ hỏi về nhân, Ngài nói rằng: "Khắc kỷ phục lễ vi nhân": sửa mình theo lễ là nhân vì theo lễ tức là theo thiên lý bỏ hết lòng tư dục, mà bỏ lòng tư dục tức là biết thương người.

PHÀN TRÌ hỏi nhân, ngài nói rằng: Ái nhân tức là phải thương tất cả mọi người. Thầy Trọng Cung hỏi nhân, Ngài nói rằng: "Xuất môn như kiến đại tân, xử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân", nghĩa là: Ra cửa phải như tiếp khách lớn, trị dân phải làm tế lễ lớn, điều gì mình không muốn ai làm cho mình thì mình đừng làm cho ai. Chúng ta phải hiểu thêm rằng: mình nên làm cho kẻ khác điều gì mình muốn cho người ta làm cho mình. Thí dụ: nếu mình muốn có người giúp đỡ mình lúc đau khổ thì mình phải biết thương và giúp đỡ người khi cần đến.

Sau Ðức Khổng Tử, một nhà đại hiền triết là Thầy Mạnh Tử đem học thuyết Khổng Giáo làm cho sáng tỏ hơn nữa, theo thuyết của Thầy Mạnh thì Ðạo làm người quí nhất là NHƠN với NGHĨA; dầu đến bậc vua chúa mà thiếu Nhơn với Nghĩa cũng bị khinh thường. Cho nên kẻ nhân giả không thấy người sang giàu mà ham muốn, không thấy mình nghèo hèn mà sợ, vì kẻ kia cậy ở cái giàu của nó, ta đây cậy ở cái nghĩa của ta, ta có điều gì bất mãn đâu?

Thầy Mạnh Tử thường nói rằng: "Sinh diệc ngả sở dục giả, nghĩa diệc giả sở dục giả, nhị giả bất khả đắc kiêm xá sinh nhi thủ nghĩa giả giả". Nghĩa là cái sống ta cũng muốn, điều nghĩa ta cũng muốn, giá ta không thể giữ được cả hai thì ta bỏ cái sống mà giữ lấy điều nghĩa vậy.

Lão Giáo trọng thiên về chủ nghĩa Vô Vi, nhưng về mặt xử thế, Ðức Lão Tử cũng có cái chí vị tha, chung thân phụng sự cho Ðời cho đến lúc công thành sự toại rồi mới thối lui. Cái hay của thuyết Lão Tử là chỗ công toại thân thoái: công toại rồi lui bước.

Ngài nói: thân mình là một cái không đáng quí nhứt, vì nó thường là mối lo cho con người.
Ðáng yêu quí nhứt là lúc người ta đem thân phụng sự cho Thiên hạ.
Kinh Cảm Ứng của Ðức Thái Thượng có dạy: "Tích đức ủy công, từ tâm ư vật", chứa đức bồi công lòng thương cho đến súc vật, sao gọi là chứa đức bồi công?

Ðiều lành còn ở trong lòng thì gọi là Ðức, khi đem ra thi hành thì gọi là công. Thường tu đức, thường lập công thì Ðạo tâm mới vững, lòng nhân ái mới đầy đủ. Lập thành Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Chí Tôn muốn cứu vớt cả nhơn sanh thoát nơi khổ hải. Sự thương yêu là phương pháp duy nhất để độ đời, người hành Ðạo phải phô lòng nhân ái dìu dắt con cái Ðức Chí Tôn qui chánh cải tà để tiến bước trên đường thiện niệm.

Vì đó, lòng nhân ái là cái vốn vô hình của người hành Ðạo, cái vốn đó rất cần thiết, vì người tu hành mà thiếu cái vốn nhân ái thì cũng như người muốn đi buôn mà trong tay không có sẳn tiền, người muốn làm ruộng mà không có sẳn hạt giống, người muốn đi biển mà không có sẳn ghe...

Có cái vốn nhân ái rồi, người hành Ðạo mới khởi công làm phận sự, trước cho nhơn sanh trong cửa Ðạo hưởng nhờ, sau mới phô trương đạo đức nơi mặt đời để cứu nhân độ thế.

Ðức Chí Tôn có dạy: Thầy thường nói với các con rằng: "Thầy là cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành thế giới và sanh dưỡng các con. Vậy thì các con sản xuất nơi sự thương yêu. Ðã sản xuất nơi sự thương yêu, các con tức là cơ thể của sự thương yêu.

Ấy vậy sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giái. Bởi thương yêu mà vạn loại hòa bình, Càn khôn an tịnh mới không thù nghịch nhau, không thù nghịch nhau mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa.

Còn kẻ nghịch cơ sanh hóa là ai?
Là quỉ vương đó. Quỉ vương vốn là tay diệt hóa, cũng như có sống của Thầy ắt phải có chết của quỉ vương. Quỉ vương lấy cơ thể nào mà tàn hại các con?

Ấy là sự ghét.
Vì ghét nhau vạn loại mới nghịch lẫn nhau. Nghịch lẫn nhau mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế.
Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau."

Ðức Chí Tôn đã phân tách rõ ràng sự thương và sự ghét: Hễ biết thương là con đường chánh của Trời, còn chứa sự oán ghét tức là làm tôi tớ cho Quỉ vương, mà làm tôi tớ cho Quỉ vương thì há còn trông mong làm con cái Ðấng Chí Tôn được sao?

Nếu con người trên thế gian thực thi đầy đủ nhân nghĩa, bỏ sự oán ghét tư hiềm, bỏ sự vì mình hại chúng, thương người khác thể thương thân, giúp đỡ lẫn nhau trong khi khốn khó thì trong xã hội đâu còn thấy cảnh ngang trái đau lòng, mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, làm cho thế sự đầy dẫy tuồng đau khổ.

                       Có câu ca dao:
"Nước còn quyện cát làm voi,
Huống chi ta chẳng tài bồi lẫn nhau."
Nếu ai ai cũng quan niệm con người sanh ra nơi cõi thế đều cùng một nguồn gốc siêu hình mà ra và Ðấng Thượng Ðế là Cha Thiêng Liêng chung của nhơn loại thì sự xử kỷ tiếp vật của mỗi cá nhân chắc hẳn sẽ được tốt đẹp hơn hiện tại bội phần. Sự đối đãi lẫn nhau cứ tiến triển mãi trong cảm tình chơn thật và trong niềm hòa khí thân yêu, con người sẽ đi lần tới mức Huynh Ðệ Ðại Ðồng không bao lâu. Ngày đó thiên hạ sẽ cùng nhau trong cảnh Thiên đàng tại thế vậy. Rất mong thay!
Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát

HUẤN DỤ
Nhân Lễ Bế Mạc Khóa Huấn Luyện Lễ Sanh tại Hạnh Ðường
Năm Bính Ngọ (Ngày 25 tháng 10 năm 1966)

Kính HỘI-THÁNH,
Kính Chư Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Chư Ðạo Hữu, Ðạo Muội,
Khóa Huấn luyện Lễ Sanh nơi Hạnh Ðường đã chấm dứt. Hôm nay là buổi lễ Bế Mạc niên học Bính Ngọ để rồi một ngày gần đây các sinh viên sẽ dự cuộc thi lãnh cấp bằng Hạnh Ðường.

Một niên học đã qua, HỘI-THÁNH đã gắng lo đào tạo chức sắc cho hiểu thông Ðạo lý và khả năng hầu một ngày kia có thể thay mặt HỘI-THÁNH để dìu dắt tín hữu nơi các địa phương.

Ðó là một nhiệm vụ rất quan trọng mà mỗi chức sắc đều phải đảm đương để được thi thố trí tài hầu lập nên địa vị xứng đáng.

HỘI-THÁNH đã làm xong phận sự giáo hóa, Ban Giám Ðốc và quý Giảng Viên đã tận tâm với nhiệm vụ. Cái kết quả tốt đẹp hay không là tùy nơi sanh viên tự liệu. Nói cách khác là thầy đã gắng công dạy dỗ, học trò được nên người hay không là tự nơi nó.

Hôm nay khóa học đã chấm dứt, các em sinh viên thử cân nhắc lại sự hiểu biết của mình khi chưa học với sự hiểu biết khi mãn khóa học để coi sự khác biệt là thế nào và sự học trong năm có đem lại cho mình một sự tiến triển nào về mặt Ðạo đức cũng như về mặt trí dục hay không?

Nếu các em nhìn nhận sau khóa học, các em được hiểu thông Ðạo lý và kiến thức được mở rộng hơn thì đó mới thật là chẳng uổng công phu đèn sách.

Vả lại, cái chí hướng của người học Ðạo là trau mình cho được sáng hầu giúp cho kẻ khác cũng được sáng như mình, tức là tự giác nhi giác tha. Ðó là phương pháp độ mình và độ người của hạng tu sĩ.

Nếu thấy mình chưa được sáng tỏ, tức là sự học Ðạo còn nhiều thiếu sót, phải gắng công trau giồi thêm nữa, khoản nào chưa thông hiểu tột lý thì cứ việc trình hỏi cho rõ ràng, vì sự hiểu biết mập mờ chỉ có hại chớ không có ích lợi.

Ðời sống của người hành Ðạo là một đời học tập không ngừng. Không phải vì mãn khóa học mà các em sanh viên chấm dứt hẳn sự học, người ta chẳng những học nơi nhà trường mà còn phải học nơi kinh sách của Thánh Hiền, học theo gương sáng của đấng Vĩ nhân, học với bậc cao thấp của thế thái nhân tình, học theo đức tính ôn nhu của người thân hữu.

Các em sinh viên đã nương vào cửa Ðạo thì sẵn có Thánh giáo của Ðức CHÍ TÔN và các Ðấng Thiêng Liêng, sẵn có sách Ðạo của các bậc đàn anh ra công biên soạn, lại thêm có nhiều dịp nghe lời giảng dạy của cấp trên thì các em có đủ phương châm để ôn cố tri tân, trau giồi tâm trí.

Mỗi ngày các em phải dành ít lắm hai tiếng đồng hồ để học qua các kinh sách Ðạo. Ðức CHÍ-TÔN mở Ðạo để qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi thì sách nào thuộc về Tam Giáo các em đều phải xem qua và tìm hiểu ít nhiều triết lý căn bản của mỗi Ðạo giáo. Những tài liệu các em thu thập được sẽ giúp các em về mặt giáo hóa nhơn sanh khi các em lãnh phận sự Ðạo.

Lẽ tự nhiên là ngọc có giồi thì ngọc mới sáng, người có học mới rõ thông Ðạo lý. Trên đường Ðời cũng như trong cửa Ðạo, nhờ có sự bền chí kiên tâm, người hiếu học mới đi đến mức thành công mỹ mãn.

Nếu biết là sự học hỏi không có phạm vi giới hạn, trí huệ càng mở mang thì sự học càng tiến thêm mãi và nếu được lãnh hội mau chóng là nhờ có suy nghĩ nhiều. Có suy nghĩ nhiều người tự học mới đạt đến chỗ uyên thâm của vấn đề chuyên học.

Ðức Khổng có nói: "Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi", nghĩa là học mà chẳng suy nghĩ thì sự học chỉ lờ mờ, suy nghĩ mà không có công học thành ra suy nghĩ vẫn vơ không lấy gì làm căn bản. Thành thử phải đủ cả công học hành và suy nghĩ cái kết quả mới tốt đẹp.

Xưa kia Khổng Tử là người rất hiếu học, mặc dù Ðức Ngài là bậc Thánh bất cứ điều gì Ðức Ngài cũng cố ý nghe, suy nghĩ và tìm hiểu, Ðức Ngài nói rằng: "Ba người cùng đi với nhau tất có một người là thầy ta, ta chọn người thiện mà bắt chước, ngừơi bất thiện thì so sánh mà sửa mình".

Do theo gương của Ðức Ngài, những bậc trí thức ngày xưa mặc dù có tài học lỗi lạc, thường hay nhún nhường, khiêm tốn chớ không hề tỏ vẻ tự đắc.

Trong cửa Ðạo, người có sứ mạng nơi mình lại càng phải dè đặt, khiêm tốn nhiều hơn nữa, vì với thái độ ôn hòa nhã nhặn, người tu sĩ sẽ gây được nhiều thiện cảm đối với mặt đời và nhờ đó mà hoàn thành nhiệm vụ dễ dàng, đem thắng lợi về cho Ðạo.

Quý anh em sinh viên Lễ Sanh nam nữ,
Rồi đây các em sẽ dự thí lãnh bằng tốt nghiệp Hạnh Ðường và sẽ lần lượt được giao phó phận sự Ðầu Tộc Ðạo nơi các địa phương. Các em sẽ thay mặt HỘI-THÁNH để giáo hóa nhơn sanh đem hạt Thánh cốc gieo rải trong vùng tộc Ðạo.

Ðó là một ân huệ thiêng liêng cao quí mà các em quá đổi may duyên mới được phần hưởng thụ. Có thể nói là một cơ hội thiên thu hạnh ngộ làm cho các em được rạng mày nở mặt đối với xã hội cũng như đối với gia đình và chủng tộc.

Phục vụ xứ sở quê hương cũng cho là một vinh hạnh quá đáng rồi, các em lại được cơ hội phục vụ cho Ðấng CHÍ-TÔN THƯỢNG ÐẾ đưa chiếc thuyền từ chực rước khách trầm luân nơi khổ hải đặng lập nên Thiên vị cho mình.

Thử hỏi có đem sự giàu sang danh vọng của trường đời để đổi lấy phẩm vị ấy được chăng?

Phải biết rõ chức vụ của mình quý trọng là thế nào các em mới thận trọng giữ gìn phẩm giá của mình mới tận tâm lo tròn phận sự.

Các em đừng sợ công việc quá khó khăn và không đủ tài để đảm đương nhiệm vụ. Nho giáo có câu: "Thế thượng vô nan sự, nhân tâm tự bất kiên", nghĩa là trên đời không có việc gì khó mà chỉ tại lòng người không bền.

Các em cứ để tâm cầu nguyên Ðức CHÍ-TÔN và luôn luôn giữ dạ trung thành với HỘI-THÁNH, đừng để ai lung lạc tinh thần, đừng theo phe nầy phái nọ và luôn luôn lấy công bình hành sự. Việc chi không quyết đoán thì yêu cầu HỘI-THÁNH chỉ giáo. Ðối nội thì làm cho trên thuận dưới hòa, chia vui sớt nhọc, kết giải đồng tâm, nối dây thân ái. Ðối ngoại thì lấy lễ mà tiếp nhân, lấy khiêm từ mà phục chúng, sẵn sàng giúp đỡ người trong mọi việc đặng tạo cảnh hòa ái tương thân.

Ðược vậy thì trong ấm ngoài êm, ngọn cờ cứu khổ sẽ được nêu cao khắp chốn.

Nên để ý là người hành Ðạo cần phải có chí nhẫn nại, phải cố gắùng theo dõi mục đích mà mình đã đạt lấy không lúc nào chểnh mảng. Cái mục đích ấy là giúp đời tế chúng, đem ánh sáng vào cõi tối tăm, cải dữ nên lành, lấy chơn thay giả. Ðem công quả mà đổi lấy Thiên vị thì cái công quả đó phải dành trọn cho ích lợi của nhơn sanh chớ không phải dựa theo Ðạo đặng tạo riêng cho mình và cho gia đình mình. Nếu có tánh ích kỷ và ham lợi dụng thì người hành Ðạo có ý thức quá nông nổi. Thoảng như có ai đem một lợi lộc nào mua chuộc để sai khiến mình trong việc bất chánh thì chắc hẳn là họ sẽ bán đồ nhi phế, bỏ cả chức phận để chạy theo. Ðó có khác chi là buông mồi bắt bóng.

Vậy tôi xin các em sinh viên sau nầy có lãnh phận sự Ðạo thì nên dè dặt cho lắm.

Nếu các em biết thận trọng giữ gìn phẩm giá của mình và tận tâm vì Ðạo thì các em sẽ nắm chặc sự thành công trong tay.

Giờ đây các em hãy dọn mình đặng chờ ngày đảm đương phận sự, thi đua công quả hầu lập vị vẻ vang trong cửa Ðại Ðạo.

Tôi ước mong các em sẽ tỏ ra xứng đáng với sự tin cậy của HỘI-THÁNH và xin cầu chúc các em vững bước trên đường nhiệm vụ.
Rất mong thay,
Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
Cao Thượng Sanh

Lễ Khánh Thành
Vuông Rào BÁO QUỐC TỪ
Kính HỘI-THÁNH,
Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện Nam Nữ,
Trung Tá Tỉnh Trưởng,
Quý Quan khách,
Chư Chức việc và Ðạo hữu lưỡng phái,

Hôm nay là buổi khánh thành vuông rào Báo Quốc Từ, nhơn danh HỘI-THÁNH tôi xin để lời cảm ơn Trung Tá Tỉnh Trưởng, quý viên chức tỉnh Tây Ninh và quý quan khách sẵn lòng đến dự, giúp tinh thần cho buổi lễ được xán lạn và trang nghiêm trong khung cảnh huy hoàng long trọng.

Trên vùng Thánh Ðịa nầy, hôm nay Ðời và Ðạo đã gặp nhau và thông cảm nhau trong dịp tỏ lòng tôn kính và sùng bái những nhơn vật trong hàng vương giả, đã lấy chủ nghĩa quốc gia dân tộc làm chuẩn đích, đem thân thế điểm tô cho non sông Việt chủng được vững bền trên cõi Á Ðông, lắm khi phải trọn đời hy sinh vì giống nòi Hồng Lạc.

Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một nền Quốc Ðạo được khai sáng trên đất Nam Phần Việt Nam, nơi mà tinh ba của đất nước đã nung đúc biết bao bậc anh phong chí sĩ, lẽ tất nhiên là Ðại Ðạo có phận sự bảo tồn quốc túy, giữ cho còn mãi những cái hay, cái đẹp riêng biệt của nước nhà hầu lưu truyền cho đời sau roi dấu.

Trong những cái hay, cái đẹp đó đáng treo gương nhất là tinh thần vị quốc xả thân dầu đến thác cũng không đổi dời tiết tháo.

Vì muốn tôn thờ cái tinh thần vị quốc ái dân đó, Ðức Hộ Pháp mới có sáng kiến xây dựng ngôi BÁO QUỐC TỪ để làm nơi hương hỏa phụng tự cho các Ðấng Tiên Vương và các nhà tôn thất có dày công với Tổ Quốc Việt Nam.

Cái sáng kiến của Ðức Hộ Pháp do nơi lòng ái quốc chơn chính của Ðức Ngài, đã làm cho toàn Ðạo vui lòng và mãn nguyện.

Ngày nay HỘI-THÁNH tiếp tục gìn giữ dấu tích của Ðức Ngài và tô điểm cho nó còn vẻ uy nghiêm mãi mãi.

Tuy nói rằng ngôi Báo Quốc Từ để tôn thờ những bậc vương giả hữu công với đất nước, nhưng nước Việt Nam đã thoát vòng lệ thuộc và chính thể hiện tại là chính thể Cộng Hòa thì từ đây ngôi miếu nầy sẽ dành chung để chiêm bái những vị lãnh đạo Quốc gia như Quốc Trưởng, Thủ Tướng chẳng hạn, đã hy sinh vì Tổ Quốc, đã có công đổi loạn ra trị, xây dựng thái bình cho nhơn sanh được hưởng an cư lạc nghiệp.

Ðó là những đấng Phụ Mẫu chi dân thật xứng đáng những ân nhân ngàn đời của dân tộc Việt Nam vậy.

Ngoài ra những đấng anh hùng tương lai của đất nước, những nhơn vật đã dám tuẫn tiết vì non sông, dám liều mình vì dân tộc đã đem thắng lợi cho quê hương và giữ danh dự chung cho nòi giống. Những đấng ấy đều đáng đem vào Báo Quốc Từ để được thiên thu phụng tự.

Vì mục đích tôn trọng hạng anh hùng chí sĩ nên nơi mặt tiền Báo Quốc Từ, HỘI-THÁNH có cho khắc hai câu đối, do Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức biên soạn và đã được sự chấp thuận của HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Ðài như dưới đây:
"Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách
Hộ trì quốc vận chí sĩ hiển uy linh"
Cái ý nghĩa hai câu nầy như thế nào, tôi chắc rằng quí vị đều biết rõ.

Thưa HỘI-THÁNH và chư Quí vị,
Từ xưa biết bao nhiêu bậc anh hùng chí sĩ Việt Nam đã lắm phen cứu vãn tình thế khuynh đảo của nước nhà, đánh đuổi kẻ xâm lăng, xây dựng nền độc lập.

Những bậc anh hùng dân tộc như: Phạm Ngũ Lão, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Ðạo.....những bậc anh thư như: Hai Bà Trưng, Trưng Trắc, Trưng Nhị, mặc dù ngày nay đã khuất bóng, nhưng uy danh vẫn còn ghi tạc sử xanh được muôn đời nhắc nhở ca tụng. Những đấng ấy há chẳng đáng cho nhơn dân sùng bái phụng thờ mãi mãi sao?

Cho hay dù trong cửa Ðạo hay nơi mặt đời, những bậc siêu phàm đều có giá trị hiển hách ngang nhau.

Ðạo thì dụng từ bi, bác ái, cứu khổ nâng nguy; Ðời thì dụng tiết tháo anh hùng, trung cang nghĩa khí.

Trải thân hữu dụng để phục vụ cho Ðạo và nhân sanh hay lấy chí anh phong để phụng sự quốc gia, giữ gìn biên cương lãnh thổ, khi nợ trần giũ sạch, nhục thể trả lại cho lòng đất thì dù Ðạo hay Ðời, những linh hồn bất diệt cũng đều được hưởng sự ban thưởng Thiêng Liêng, qui hồi cựu vị trong cõi Thần Thánh Tiên Phật.

Cái gương của Ðức Quan Thánh Ðế Quân ngày nay đắc phong Phật vị và Ðức Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm tức là Ðức Thanh Sơn được đứng vào hàng Tiên vị đã chứng cho chúng ta thấy sự công bình của Ðấng Chí Tôn cầm quyền thưởng phạt.

Một người thì đem tài bách chiến và khí phách anh hùng để phò vua vực nước, một người thì dụng văn chương bác lãm để giúp cho nước trị dân an, hai Ðấng ấy chẳng phải vì tu hành mà chỉ nhờ nơi tâm chí cao siêu nên thủ đắc Thiên vị.

Vậy tôi ước mong cho chư Ðạo hữu nam nữ nhận thức được cái ý nghĩa cao quí của buổi lễ hôm nay và trước khi dứt lời, tôi cầu xin Ðức CHÍ-TÔN ban ơn cho toàn thể chức sắc, đạo hữu và quí quan khách.
Nay kính,
Ngày 20 tháng 10 Bính Ngọ (dl. 01/12/1966)
Cao Thượng Sanh

LỄ AN VỊ ÐỨC PHẬT MẪU
NƠI ÐIỆN THỜ TRƯỜNG QUI THIỆN
Ngày 19/12/Bính Ngọ (dl. 29/01/1966)

Kính chư Chức sắc Cửu Trùng Ðài và Phước Thiện Nam Nữ,
Kính Quý Quan khách,
Kính chư Chức việc và Ðạo hữu lưỡng phái,

Hôm nay cử hành Lễ An Vị Ðức PHẬT-MẪU tại Ðiện Thờ vùng Qui Thiện, tôi lấy làm vui lòng trông thấy tình Ðạo hữu nơi đây được nồng nàn khắn khít trong công việc bồi đấp cơ nghiệp Ðạo, hiệp sức nhau để chung lo xây dựng ngôi thờ làm nơi sùng bái Ðại Từ Mẫu, đó là lòng hiếu kỉnh của con cái chẳng quên ơn Ðức Mẹ Thiêng Liêng. Cái ơn thâm trọng đó là nhờ nơi đức háo sanh của Ðức Phật Mẫu chúng ta mới có hình hài tại thế và nhờ nơi Người ban cho khí Sanh Quang, chúng ta mới có kiếp sống nơi cõi trần nầy để lập thân hành Ðạo hầu diệt tiêu quả nghiệp tiền khiên trở về Thiêng Liêng vị.

Chư quý bạn Ðạo được có sự đồng tâm nhứt trí, đó là một điều quý báu vô giá, vì sự đồng tâm xuất phát nơi lòng thương yêu lẫn nhau, mà sự thương yêu là giọt nước Ma Ha có thể làm cho êm dịu tất cả những sự khổ đau trên trần thế.

Sanh đứng làm người tức phải hứng bao nỗi tang thương khốn đốn, phải chịu lắm phen nghịch cảnh đau lòng, dày vò lăn lóc hầu trả cho xong túc trái tiền oan cho đến ngày chung cuộc.

Ấy vậy, đời đã dẫy đầy đau khổ do nơi nguyên lý của kiếp sanh, và do nơi thiên tai địa ách, tại sao người ta còn tự tìm thêm đau khổ trong sự giành giựt tranh đua mưu hại lẫn nhau để đoạt cho được miếng đỉnh chung mùi phú quý.

Tại vì người ta quá lầm lạc, muốn cho mình được hoàn toàn hạnh phúc.

Thử hỏi tiền bạc có đem lại hạnh phúc thật sự cho đời người chăng? Ðiều đó người trong cửa Ðạo có hấp thụ Thánh giáo của Ðức CHÍ-TÔN đều có quan niệm xác đáng.

Những lợi lộc chính đáng nơi công trình lao lực, nếu ta biết tri túc, có thể đem lại cho ta một thư thái an vui nên cũng cho là được phần nào hạnh phúc.

Còn những của hoạnh tài, những món lợi phi pháp do nơi tội ác mà được vào tay, thay vì đem hạnh phúc cho con người lại là những nấc thang đưa họ xuống hang sâu vực thẳm, vì lưới Trời tuy thưa chớ một mảy lông cũng không lọt qua được.

Vậy cái hạnh phúc thật sự là hạnh phúc về tinh thần, hạnh phúc của người có lương tâm thơ thới, biết an phận thủ thường, có tư tưởng sạch trong nhiễm mùi đạo đức.

Trong gia đình mà được phu phụ hòa ái, huynh đệ tương thân, trên biết thương dưới, dưới biết kỉnh trên, cực khổ đồng chia, lạc hoan đồng hưởng, đó là một gia đình đầy hạnh phúc.

Trong cửa Ðạo, mối dây thân ái đã buộc chặc bạn đồng môn trên đường giải khổ thì sự hòa hợp thương yêu nhau trong khung cảnh êm ấm điều hòa, vui buồn chia sớt là điều quí báu nhứt. Dầu không mỹ vị cao lương, không vinh hoa phú quí, chúng ta cũng tự cho mình là đầy đủ hạnh phúc.

Như trong buổi lễ hôm nay, chư đạo hữu, đạo muội nơi đây đã chung lo tạo lập một nền tảng vững chắc, một ngôi thờ xứng đáng để lễ bái Ðức Mẹ Thiêng Liêng, thì sự thành công đã được sản xuất nơi lòng hiếu kỉnh, nơi mối dây thân ái và nơi chí hy sinh góp chung làm sức mạnh.

Cái kết quả được đạt thành, những bạn Ðạo cùng góp phần của và ra công, ngày nay tụ họp nhau để nhìn thấy cái sự nghiệp chung của mình, tôi đoán chắc là mỗi người đều có chí mãn nguyện và một sự vui mừng chánh đáng đó là một hạnh phúc vô giá vậy.

Tuy nhiên, cũng nên nhắc cho quí vị nhớ rằng: Ðã gắng công xây dựng về hình thức tức là ngôi thờ thì cũng phải gia tâm trau tria về mặt tinh thần tức là phần đạo đức.

Hình thức và tinh thần phải tương xứng, phải cùng tốt đẹp cùng nhau, đồng nhau thì trong và ngoài mới không có điều chênh lệch, đường tu hành mới được vững chắc.

Tinh thần lấn vật chất thì Ðạo và người cao siêu, vật chất lấn tinh thần thì Ðạo và người thấp kém.

Trong cửa Ðạo, chúng ta phải trau tria tinh thần hơn hình thức. Câu Chùa rách Phật vàng hiểu về nghĩa chánh là: ngôi chùa tuy bề ngoài không tốt đẹp, nhưng bên trong đượm nồng cái không khí từ bi, đạo đức và Ðức Phật đã bố hóa cho vị tu trụ trì được cái tâm tư hoàn toàn thoát tục, tha thiết với nhiệm vụ cứu khổ chúng sanh.

Hiểu rộng hơn nữa, câu ấy nói về con người bề ngoài tuy đơn giản, mộc mạc nhưng có tâm linh thanh khiết, trí não cao siêu. Ðó là tinh thần lấn vật chất vậy.

Ðức Hộ Pháp khi còn tại thế đã thường nhắc nhở cho Ðạo hữu phải giữ cho nguyên vẹn cái tinh thần tốt đẹp của phong hóa nước nhà, cái tinh ba của nền triết lý trong Ðạo Nhơn luân trót bốn ngàn năm do tổ tiên lưu lại.

Ðức Ngài nói: Vì xu hướng Việt Nam theo văn minh vật chất, chuộng cái tinh xảo bề ngoài của ngoại chủng nên ngày nay phong hóa suy đồi, cang thường đảo ngược. Chủ nghĩa duy vật đã thâm nhập vào não cân của dòng giống Lạc Hồng khiến cho quốc túy điêu tàn, nền NHÂN xiêu ngả và chính vì để cứu vãn tình trạng nguy hại đó mà Ðức CHÍ-TÔN giáng lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Thánh ý của Ðức CHÍ-TÔN là muốn cho chúng ta phục hồi cái phong hóa cổ truyền của nhà Nam mà NGƯỜI cho là quý báu nhứt trên mặt địa cầu. Cái phong hóa tốt đẹp đó đã bị bôi dơ, bị chà đạp: nào tình phụ tử, nào nghĩa phu thê, tình huynh đệ, mỗi mỗi đều mất hẳn tính cách thiêng liêng của nó. Trên xử dưới, dưới dối trên, người ta đều đóng vai tuồng như trên sân khấu, toàn là màu mè và giả dối.

Ðức CHÍ-TÔN dạy chúng ta lấy NHO TÔNG chuyển thế đặng xây dựng lại nền phong hóa ưu tú của nước nhà hầu tạo lập một nền Văn hóa tương lai cho toàn thể quốc gia trên thế giới. Vì vậy Ðại Từ Phụ mới có câu: "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong"

Thành thử về mặt Ðạo, trong việc bồi công chúng ta chẳng nên quên việc lập đức. Bồi công là phần hữu hình, lập đức là phần vô vi, hữu hình và vô vi phải tương xứng người tu sĩ mới thu thập kết quả trên đường lập vị.

Hôm nay trong việc xây dựng ngôi thờ Ðức PHẬT-MẪU, HỘI-THÁNH vui thấy tình cảm đoàn kết của quý bạn Ðạo nơi đây được chặc chẽ. Cái tình đoàn kết đó chẳng nên có giới hạn trong khuôn khổ địa phương. Nó phải được lan rộng cùng khắp trong Châu Thành Thánh Ðịa. Ðó là điều trước tiên, vì sau nầy nó phải được thực hành trên toàn cõi Việt Nam và trong đại gia đình bao la của con cái Ðức CHÍ-TÔN tại thế.

Ngoài sự đoàn kết, quý bạn còn phải tôn trọng trật tự và kỹ luật theo chơn truyền Ðại Ðạo.

Ðức CHÍ-TÔN lập nên Thánh thể của Người cốt để giữ gìn cái kỷ luật ấy được trường tồn mãi. Nó là khuôn vàng thước ngọc để cho chúng ta tùng theo cho khỏi sai bước lạc đường, nền Ðại Ðạo mới lưu truyền đến thất ức niên trên võ trụ, xin chư đạo hữu lưu ý.

Dự buổi lễ An Vị Ðức PHẬT-MẪU hôm nay, tôi ước mong sao cho tinh thần đạo đức của chư Ðạo hữu nam nữ nơi đây được càng ngày thêm tiến triển.

Nhơn danh HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Ðài, tôi xin để lời ban khen và cầu chúc toàn thể quý bạn Ðạo được gội nhuần ân huệ của Ðức CHÍ-TÔN và Ðức PHẬT-MẪU.
Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
Cao Thượng Sanh

THUYẾT ÐẠO
Nhân LỄ VÍA ÐỨC CHÍ TÔN
ÐÊM MÙNG 8 THÁNG GIÊNG ÐINH MÙI
(DL. 16/02/1967)

Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính Chư chức sắc, Chức việc và Ðạo-Hữu lưỡng phái,

Trăm hoa đua nở, cảnh vật tươi màu, TÂN XUÂN ÐINH MÙI đã đem đến cho mặt Ðời bao vẽ hân hoan, náo nức khiến cho con người dầu cơ cực thế nào cũng tạm quên nỗi khó đã vui hưởng ít nhiều cảnh thơ thới tưng bừng của ngày xuân quang đãng.

Ba ngày TẾT Nguyên Ðán đã thoát qua, hương vị của Tân Xuân còn phưởng phất trong cảnh ấm áp, đoàn tụ, gia đình thì đã đến ngày phần nhiều Chức sắc, Chức việc từ nơi tứ phương phải quay gót trở về nơi Thánh Ðịa Trung Ương để được hiện diện trong LỄ VÍA ÐỨC CHÍ TÔN ÐẠI TỪ PHỤ.

Mỗi bạn đạo đều có sắc diện vui tươi phấn khởi vì đây là ngày độc nhứt trong mỗi năm để cho Chức sắc cũng như tín hữu trình diện trước Ðức Cha Thiêng Liêng hầu dâng lên những lời cầu nguyện hướng về Tổ Quốc hoặc hướng về gia đình hoặc riêng về cá nhân mình.

Hội Thánh cũng lấy làm mãn nguyện, vì mặc dầu thời cuộc khó khăn trong năm qua Hội Thánh đã đồng tâm nhất trí lo bồi bổ các khuyết điểm về vật chất cũng như về tinh thần cố đem lại cho bổn Ðạo sự hòa nhã an vui, xa lánh những cạm bẩy hiểm nguy của cơ thử thách.

Ðiều đáng vui mừng là Hội Thánh đã thu thập một thắng lợi vẻ vang cho nền Ðạo. Nhờ sự tận tâm vận động của Hội Thánh ngày 8/9/1966, Chánh Phủ hiện tại đã ban cho Giáo Hội Cao Ðài Tây Ninh quyền sở hữu về bốn lô đất gồm 2.355 mẫu do Hội Thánh khai thác. Nguyện vọng tha thiết của Ðạo trên 20 năm, ngày nay mới đạt thành.

HỘI THÁNH đã khởi công chỉnh trang các vùng ngoại ô Thánh địa và một ngày không xa chúng ta sẽ có một Ðô thị Tôn giáo hoàn toàn xinh đẹp nhứt trong xứ VIỆT NAM này. Ðiều đáng cho toàn đạo ghi nhớ là trong lúc thời cuộc còn khó khăn, đất nước đang bị khép trong vòng binh lửa, Hội-Thánh phải thận trọng với nhiệm vụ và hết sức cẩn thận về mọi trường hợp để có thể lần hồi xây dựng Ðại Nghiệp của Chí Tôn tại thế.

Chậm rải từng bước một, nhưng đi được bước nào vững bước nấy, không ham tranh giành, không muốn phô trương, không la lối để khoe danh, không ham quyền chác lợi, không thấy việc làm của người rồi bắt chước chạy theo, vì HỘI THÁNH quan niệm sứ mạng cứu độ người nơi bể khổ là cao trọng hơn cả mọi việc khác. Việc cần yếu là phải tự tu, tự học cho được sáng suốt và đủ đức tài hầu dìu dắt bước đường cho nhơn sanh noi theo.

Trong khi lo xây dựng nghiệp Ðạo và lo độ người, chúng ta còn phải lo gìn giữ tiết tháo của người chơn tu, lo giữ phẩm giá của Hội Thánh.

Vì vậy Hội Thánh phải cam tâm chịu thiệt thòi về mặt hình thức, nhưng Hội Thánh đã tự hào là được hoàn toàn trong sạch, không một mảy bợn nhơ về tiền tài dầu là ở đâu đưa đến.

Nhờ sự trong sạch đó mà cái giá trị của TÒA THÁNH TÂY NINH được nêu cao, HỘI THÁNH được người kính nể vì hai chữ LIÊM - KHIẾT.

Có lời của Ðức Chí Tôn: "ÐẠO phải trong sạch, người cũng trong sạch thì tôn chỉ của mối chánh truyền mới được châu đáo. Các con đừng sợ nghèo, cái nghèo thanh đạm cao siêu thì đổi giá nào cũng không chịu đổi"

HỘI THÁNH đã từng nhắc cho bổn đạo ghi nhớ mấy lời nghiêm huấn này và mặc dầu ở trong hoàn cảnh bất túc, Hội Thánh chỉ nhờ nơi lòng trung hậu và sự hảo tâm của bổn đạo gần xa ra tay vùa giúp đở nâng.

Cho hay một miếng khi đói bằng một gói khi no, nhà nghiêng nghèo thì lòng con thảo thêm sáng tỏ.

Ðó là chí hy sinh tuyệt đối của con cái Ðức Chí Tôn đối với cơ nghiệp Ðạo.

Nhờ nơi sự hy sinh đó mà Hội Thánh vững lòng lo phần xây dựng, cố gắng tạo cho nền Ðạo một tinh thần cao siêu trên đường phục vụ Ðại chúng, và chính cái tinh thần phục vụ đó là nhịp cầu thông cảm để giúp cho nền Ðạo được phổ thông trên khắp hoàn cầu khi hòa bình được vãn hồi nơi cõi Ðông Á.

Thành thử lo bồi bổ về tinh thần nhiều hơn là lo về phần hình thức, đó là chí hướng của Hội Thánh, vì Hội Thánh vẫn quan niệm một nền Ðạo Giáo phải có một tinh thần thanh thoát cao siêu thì sự tồn tại mới được vững chắc và vĩnh viễn.

Chớ có cái hình thức rườm rà, nhảy múa lăng xăng, có khi được tiền rừng bạc bể mà hành động quá nông nổi, tinh thần lại quá kém suy, không có một phương hướng nhất định làm chuẩn đích, thử hỏi một nền Ðạo như thế có được vinh diệu và có đủ uy tín đối với đại chúng không?

Con người cũng vậy, nếu quá lo cho hình thức mà bỏ phế tinh thần thì con người sẽ trở nên xa hoa lãng mạn, vô đạo đức, vô nghĩa nhân và sẽ là một mối tai hại cho gia đình và xã hội.

Trong cửa Ðạo, người quyết chí tu hành phải chuyên lo trau dồi hạnh đức, bồi bổ tinh thần, lánh chốn cạnh tranh xa mồi phú quí.

Trò đời là giả cuộc, bả vinh hoa, mùi chung đỉnh chẳng qua như giọt sương trên cỏ, bọt nước ngoài sông. Nếu gọi đó là hạnh phúc của đời người thì hẳn là hạnh phúc của phái DUY VẬT, chỉ làm cho con người vướng đầy tội ác, mang lấy nghiệp căn phải chịu sa đọa đời đời kiếp kiếp vì:
"Danh lợi lớn là giành với giựt,
Phú quí cao bởi mượn và xin."
Ðức Chí Tôn có dạy rằng sự vinh hoa phú quí ở cõi đời vẫn có tính cách phù du và trái với đạo đức, phải đủ chước quỉ mưu thần dụng nhiều xão trá mới đoạt được nó, nhưng không khi nào giữ được nó vĩnh viễn. Chúng ta phải tìm sự vinh hoa phú túc về mặt tinh thần, do nơi Ðức Chí Tôn ban cho thì mới giữ được trường tồn, không bao giờ mất được.

Ðã may duyên gặp Ðạo, quyết lánh dữ tầm chơn, nay gặp đạng ngọn suối trong để rửa lần bợn tục thì ai lại chịu vì một lẽ nào đem bỏ cái chơn đổi lấy cái giả?

Cái "CHƠN" tức là giá trị phẩm tước do Ðức Chí Tôn ban cho, cái "GIẢ" tức là miếng mồi nhữ câu của Tà quyền.

Biết bao nhiêu người trong cảnh giới tu hành vì lòng trần còn nặng, dục vọng chưa tan nên lắm khi vướng vào lưới tam độc, tức là THAM, SÂN, SI chạy theo bả lợi mồi danh tranh đua giành giựt. Rốt cuộc, tu hành bị lỡ dở mà danh lợi cũng mơ màng.

Cũng bởi con người hay trọng thể xác hơn tinh thần, thể xác đòi hỏi điều gì thì nôn nóng làm cho thỏa mãn, bất kể cái hậu quả là thế nào?
Còn cái tinh thần bị bỏ bê, không màng trau giồi nâng đỡ.

Thử hỏi cái tinh thần ấy là gì?
Tinh thần tức là phần thiêng liêng bất diệt. Cũng có thể gọi là tâm linh, thần linh hay là phần siêu hình hoặc là Lý Ðại Ðồng, Nho Giáo gọi phần thiêng liêng đó là MINH ÐỨC hay LƯƠNG TÂM, hay là TRỰC GIÁC tức là cái KHIẾU TRI GIÁC của Trời ban cho, cái thần minh làm chủ tể cả sự tư tưởng và hành vi của con người.

Về sự trau dồi cái TÂM, ÐỨC CHÍ TÔN có giáng dạy trong đêm Mùng 9 tháng Giêng năm TÂN MÙI (1931) một bài THÁNH GIÁO trích một đoạn sau đây:

"Thầy các con.
Các con có biết muốn rèn lòng đạo đức phải khởi nơi đâu cho chắc bước đường chăng?"

Ðạo đức cần trau nơi tâm là chỗ chẳng ai thấy được. Rèn trau cho thuần tâm mỹ tánh rồi mới lần đến bề ngoài, trọn cả ngoài lẫn trong thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư nào ai chuyển lay cho được.

Lo ngoài, quên trong, che bề trong trau bề ngoài cũng như có xác không hồn, chuộng hữu hình để cho cái chơn tâm phải mịt mờ dật lạc. Than ôi! Có hình thể xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây trên vực. Có đèn dầu đầy mà thiếu hơi lửa nhen lên thì cũng phải mờ mịt thâm u, trông chi soi sáng.

Ấy vậy các con nên biết mà răn mình. Cái tâm là vật người không thấy được, khá giồi trau nó trước.

Nếu bỏ tâm ra ngoài mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quì đọc kinh, đèn đốt sáng hừng mà thiếu bức thiên nhãn trên điện vậy. Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỉ vô thường cũng xẩn bẩn. Ðó là phương đem đường cho quỉ vương chẳng thể nào tránh được.

Vì các con không rèn trau tâm trí cho đáng mặt phi thường nên lắm khi Thầy phải cậy kẻ khác trau giồi tánh đức của các con, để cho người hiếp đáp các con, mong cho các con vì đó mà tự tỉnh. Thầy tưởng khi là quá trí của các con mà lại cũng quá trí của Thầy đây nữa.

Nhưng vàng thau chung lộn phải cậy lửa trui rèn, Thầy đã đến cõi trần tục này để đem các con ra khỏi vòng tôi đòi xác thịt đồng thể với quỉ nhân và hóa nhân thì chính mình Thầy đây còn phải bị nhiễm trược khí thay huống chi là các con. Vì vậy các con phải tự cứu lấy mình, Thầy mới cứu các con được dễ dàng, chứ các con cứ đem mình làm tôi đòi cho sự ham muốn ích kỷ thì Thầy cũng không biết làm sao được... "

Hội Thánh ước mong mỗi con cái Ðức Chí Tôn gắng công trau giồi tâm đức theo lời dạy của Ðức Chí Tôn thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được thành quả tốt đẹp trên đường tu niệm. Nhơn dịp TÂN XUÂN ÐINH MÙI và nhân buổi lễ vía ÐỨC CHÍ TÔN ÐẠI TỪ PHỤ tôi thành tâm cầu nguyện cho toàn thể chức sắc, chức việc, đạo hữu lưỡng phái được đầy ân huệ thiêng liêng và xin chúc quý vị tinh thần tráng kiện để tiến bước trên đường lập vị.
NAY KÍNH.
THƯỢNG SANH

HUẤN DỤ
ỦY LẠO CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC PHƯỚC THIỆN
LÚC ÐẦU NĂM ÐINH MÙI

Kính Chư chức sắc Cửu Trùng Ðài và Phước Thiện Nam Nữ,
Kính Chức việc và Ðạo-Hữu lưỡng phái,

Hôm nay tôi lấy làm hân hoan đến dự chứng buổi tiệc đầu năm do Hội Thánh Phước Thiện tổ chức để ủy lạo toàn thể chức sắc, chức việc nơi Trung ương và các địa phương.

Sự hội hiệp của toàn cả Chức sắc Phước Thiện nơi Tổ Ðình vào đầu tiết xuân để bái lễ Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu là một điều quí báu do nơi lòng hiếu kỉnh của các con cái đối với hai đấng Chí Linh là Ðại Từ Phụ và Ðại Từ Mẫu.

Tôi không dấu được nỗi vui mừng khi được chứng kiến sự đoàn tụ đông đủ của anh chị em chức sắc, chức việc Phước Thiện rong tình thân yêu đầm ấm nơi bửa tiệc thân mật nầy.

Tôi ước mong sự đoàn kết và tình tương thân, tương ái được thắt chặc mãi giữa chức sắc Phước Thiện để cùng nhau chung tâm hiệp sức thực hành chủ nghĩa từ thiện, cứu khổ nâng nguy là một chủ nghĩa cao quí nhất của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Nếu Cửu Trùng Ðài là cơ quan hành chánh có nhiệm vụ đem Ðạo đến cho nhơn sanh, độ người cải tà qui chánh, thức tỉnh kẻ mê luyến hồng trần thì cơ quan Phước Thiện có sứ mạng cứu giúp những kẻ vô phước ở cõi đời, tức là những kẻ cô độc tật nguyền, những cô nhi quả phụ, những kẻ thất vận nhứt thời phải chịu vất vả lang thang bị mọi người ruồng bỏ. Những kẻ đau khổ chán chường, đó là những vết đen tối của bức tranh xã hội, những vai tuồng bẩn thỉu của sân khấu đời. Phải có một bàn tay từ thiện giúp đỡ cứu nguy cho họ bằng không họ chẳng khác chi những khách lữ hành vì thiếu nước mà phải phơi thây giữa bãi sa mạc.

Nhưng thử hỏi bàn tay tác phúc đó là ai, là người nào? Thưa rằng nếu tìm cho được người đó thì kẻ khổ đau chỉ còn là một cái xác không hồn. Thỏ chết, chồn rầu, nhưng người đối với người thì sự đạm bạc nói không cùng.

Trong xã hội kim tiền nầy, có người bỏ ra hàng mấy chục muôn đồng một đêm để thỏa thích trong sòng đổ bác, có kẻ phú túc kinh dinh dám phí cả trăm ngàn trong cuộc vui chơi trụy lạc, nhưng thí ra một số tiền cỏn con để giúp kẻ khổ đau thì chưa dễ gì họ chịu làm. Phải có những người giàu lòng bác ái, dẫy đầy huyết quản thương đời, chan chứa tính vị tha, nồng nàn tình đồng loại thì kẻ xấu số mới được gội nhuần ân huệ.

Những người ban ân huệ đó chính là những chức sắc Phước Thiện vậy.
Có người cho rằng việc cứu khổ giúp đời là một việc quá lớn lao thì cơ quan Phước Thiện thế nào lo kham được?

Xin thưa rằng HỘI-THÁNH PHƯỚC THIỆN có đủ thập nhị đẳng cấp thiêng liêng thì chức sắc Phước Thiện phải có cái sứ mạng cao quí đó mới đạt đến Tiên vị hay Phật vị. Nếu không có cơ quan Phước Thiện để hàn gắn những vết thương đau của xã hội thì Ðạo Cao-Ðài chưa phải là của Chí Tôn Thượng Ðế lập ra.

Ðức CHÍ-TÔN thường dạy, Người là Cha của sự thương yêu và bởi thương yêu Ðại Từ Phụ mới tạo thành thế giới và dùng đám lương sanh để cứu vớt quần sanh.

Sản xuất nơi sự thương yêu, chức sắc của Ðạo là cơ thể của thương yêu, phải vì thương yêu mà giải khổ cho nhơn loại.

Cửu Trùng Ðài có sứ mạng cứu người về phần linh hồn, Phước Thiện có sứ mạng cứu người về hình thể.

Gồm cả hai phương diện cứu nhơn độ chúng về hình thể lẫn linh hồn, Ðạo Cao-Ðài mới thật có tôn chỉ tận độ chúng sanh trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp nầy.

Hiện thời Ðạo mới ra đời hơn bốn mươi năm, trong nước lại đương hồi bị nạn chiến tranh liên tiếp, chức sắc Phước Thiện vì thời cuộc mà chưa thực thi chính sách kinh doanh, khai thác kỹ nghệ, mở mang nông nghiệp sản điền.

Công cuộc chưa có thể làm được chớ không phải là không làm được nơi tương lai. Trong thời gian một trăm năm nữa hoặc hai hay ba trăm năm nữa, biết đâu cơ quan Phước Thiện sẽ được bành trướng mạnh mẽ, thâu thập lợi tức dồi dào, có thể nói là sẽ có tiền rừng bạc bể.

Ngày đó thực hành chủ nghĩa Phước Thiện không có điều trở ngại nữa, và ngày đó mục đích cứu đời của Ðạo Cao-Ðài mới đạt đến thực tế của nó.

Trong tình trạng đất nước hiện tại, sự mở mang cơ sở của cơ quan Phước Thiện thật rất khó khăn. Tuy nhiên, chẳng phải bởi sợ khó mà không làm. Có nhiều tư nhân vì đời sống cũng cần cù tạo lập trước nhỏ sau to và lần hồi họ cũng thành công mỹ mãn.

Với sự đoàn kết và sự tận tâm phục vụ của chức sắc Phước Thiện, tôi tin chắc rằng HỘI-THÁNH Phước Thiện có thể điều động việc lập cơ sở, mặc dù là có điều khó khăn, nhưng phải tận nhơn lực mới tri Thiên mạng. Có câu: "Thế thượng vô nan sự, nhơn tâm tự bất kiên", có nghĩa: trên đời không có việc gì khó cả, chỉ tại lòng người không bền.

Hồi tưởng lại cách đây 41 năm, vùng nội ô và ngoại ô Thánh địa toàn là những khu rừng rậm chứa đầy thú dữ. Biết bao điều nguy hiểm trong sự phá rừng và sự khai thác: nào lam sơn chướng khí, nào nước độc muỗi mòng, nào thú dữ chực hờ...lại thêm thiếu người công quả. Nếu chức sắc lúc ban sơ không có chí hy sinh và sụt sè vì những trở ngại, nếu Ðức Thượng Phẩm không có chí cương quyết điều khiển công quả, phần nhiều là người Tần Nhơn thì ngày nay đâu có vùng Nội ô Thánh Ðịa, đâu có một đô thị tôn giáo trang hoàng và xinh đẹp nhứt trong nước Việt Nam.

Nhắc đến dĩ vãng, tôi chỉ ước mong cho chư chức sắc Phước Thiện lưu tâm về sứ mạng cao quí của mình.

Hiện giờ HỘI-THÁNH Phước Thiện cũng đã tạo lập được trong nội ô một ít cơ sở về phương tiện y tế giúp ích cho người Ðạo trong cơn bệnh hoạn. Ðó cũng là một bước tiến triển khả quan.

Theo đà tiến triển đó, tôi ước mong những cơ sở về nông trang và kỹ nghệ sẽ được lần hồi lập thành đặng HỘI-THÁNH Phước Thiện có đủ thế lực tài chánh, giúp đỡ cho người Phước Thiện còn ở trong tình trạng quá thiếu thốn về vật chất.

Nhơn buổi hội diện đầu năm hôm nay, nhơn danh HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Ðài và nhơn danh riêng tôi, tôi để lời chúc toàn thể chức sắc, chức việc Phước Thiện được dồi dào sức khỏe và hưởng đầy ân huệ của Ðức CHÍ-TÔN và Ðức PHẬT-MẪU.
Nay kính.
Ngày 20 tháng giêng năm Ðinh Mùi
Cao Thượng Sanh

HUẤN DỤ
NHƠN BUỔI TIỆC ỦY LẠO CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC CTÐ
Ðầu năm Ðinh Mùi (1967)

Kính thưa HỘI-THÁNH Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính thưa chức sắc, chức việc và đạo hữu lưỡng phái,

Hôm nay là buổi tiệc đầu năm thường lệ của HỘI-THÁNH ủy lạo toàn thể chức sắc, chức việc nam nữ và tất cả nhơn viên công quả nơi Cửu viện, nhơn dịp các Khâm Trấn, Khâm Châu và Ðầu Tộc Ðạo nơi các địa phương Nam Phần và Trung Phần tề tựu về nơi Tổ đình để bái lễ Ðức CHÍ-TÔN, Ðức PHẬT-MẪU và để hội diện với HỘI-THÁNH.

Mỗi độ xuân về là niềm hy vọng tràn ngập nơi cõi lòng con cái Ðức CHÍ-TÔN, hy vọng đó hướng về sự trùng phùng của các bạn Ðạo nơi Trung ương và nơi tứ phương cùng nhau hiệp mặt dưới mái gia đình ấm cúng của nền Ðại Ðạo.

Ðoàn tụ nhau trong năm chỉ có mấy lần, chức sắc HỘI-THÁNH và chức sắc nơi tứ phương đã tỏ ra nỗi hân hoan trong sự mãn nguyện chẳng khác chi cuộc tái ngộ của tình thủ túc trong gia đình sau một thời gian chia cách trông đợi.

Thực vậy, Ðức CHÍ-TÔN gầy dựng nền Ðạo lấy tôn chỉ thương người làm mối dây buộc chặc các môn đệ để cùng nắm tay nhau lên đường tìm phương cứu khổ cho nhân loại.

Sản xuất nơi sự thương yêu, các con cái của CHÍ-TÔN là cơ thể của thương yêu, có nhiệm vụ tạo nên giềng mối bảo sanh cho chủng tộc, gieo niềm hòa khí, kết mối tương liên hầu tiến tới mức huynh đệ đại đồng, hòa bình vạn loại. Ðó là mục đích cơ phổ độ của nền Ðại Ðạo.

Cùng nhau một chủ nghĩa thương đời, cùng chung một tín ngưỡng, một hoài bão vì Ðạo xã thân thì tấm nhiệt thành nơi tâm can của những bạn đồng hành còn nồng hậu nơi dòng huyết quản của tình huynh đệ thủ túc.

Tình thủ túc có khi phải chia lìa vì miếng đĩnh chung mồi phú quý, chớ tình đồng Ðạo mỗi khi đã kết thành để thực hành chí vị tha thì không thể nào bức tách được, trừ ra sự tử biệt cướp mất người bạn đồng hành của ta mà thôi.

Mầu nhiệm thay hai chữ vị tha, vị tha tức là vì người khác, bỏ cái ta ra ngoài. Hễ bỏ cái ta ra ngoài thì còn gì để tranh giành nhau, còn gì mà không siết chặt tay nhau để cùng hiệp sức độ nhơn, tế chúng theo lời dạy của Ðức CHÍ-TÔN Ðại Từ Phụ.

Tuy nói rằng vị tha là hướng về tha nhơn, là vì người khác chớ theo lẽ Ðạo thì vì người khác chính là vì mình đó. Nói cho rõ hơn là ta lo cho người khác tức thị lo cho ta vậy.

Một linh hồn đang sa ngã chốn sông mê, ta ra công khó dìu dắt cho y biết thức tỉnh vào đường tu hành, ăn năn sám hối. Ta phải phí công phu ngày dài tháng lụn, hao hơi mệt trí chỉ vì lo cho người đó quay về chánh đạo. Sự cứu rổi thật khó khăn, nhưng rốt cuộc ta thành công. Kẻ biết phục thiện đó ngày nay đã cải tà qui chánh, lo việc lập công bồi đức, ham chuộng nghĩa nhân, đáng mặt bậc tu sĩ. Cái công khó độ người của ta, tức nhiên ta được hưởng một công nghiệp thiêng liêng xứng đáng. Ðức CHÍ-TÔN có dạy rằng: "Các con nên rán công khổ hạnh, chịu khổ hạnh để độ người, chịu khổ hạnh vì bao nhiêu triệu sanh linh thì cái khổ hạnh ấy có nên tiếc chăng?"

"Thầy chỉ một lòng mong ước cho các con biết thương yêu trong Thánh Ðức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào thiếu sự thương yêu thì không qua khỏi cửa luân hồi. Mọi sự khó khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương yêu và gắng công độ rỗi."

Nhắc lại lời dạy của Ðức CHÍ-TÔN Ðại Từ Phụ nêu lại cái tình tương thân, tương ái giữa bạn đồng Ðạo, tôi chỉ ước nguyện các bạn chức sắc nơi Trung ương cũng như địa phương cùng nhau thắt chặc giải đồng, đừng vì một tranh chấp, hoặc một tự ái nhỏ nhen mà làm cho mất niềm hòa khí, phạm nghĩa đồng môn.

Tình thương yêu phải ngập tràn trong cửa Ðạo rồi mới có thể loáng ra ngoài, nhân sanh mới được gội nhuần ân huệ, tôn chỉ độ đời mới được thực hiện.

Ðạo là tình thương, người đồng Ðạo phải sống trong tình thương vô tận, có khi phải nhường cơm chia áo cho nhau, tức là lá lành chở che lá rách, Ðạo mới được cao siêu, người Ðạo mới thoát tục.

Biết thương yêu nhau thì nhiệm vụ của mỗi người được thực thi dễ dàng, vì trên thương dưới, dưới kỉnh trên, nếu có lỗi thì thành thật chỉ bảo cho nhau, đỡ nâng nhau như tình thủ túc, xúm nhau vun bồi nghiệp cả thì tưởng lại cái hạnh phúc của người tu trong cửa Ðại Ðạo không còn hạnh phúc nào sánh kịp.

Ngoài ra người chức sắc phải quí trọng sứ mạng của bề trên giao phó. Ðạo nên hay hư và có giá trị cao hay thấp là do nơi sứ mạng của chức sắc được hoàn thành hay thất bại.

Sứ mạng hoàn thành tốt đẹp thì đem thắng lợi về cho Ðạo và Ðạo được vẻ vang.

Sứ mạng thất bại vì kém tinh thần phục vụ, vì coi mình trọng hơn nhơn sanh, hoặc vụ lợi hơn vụ nghĩa thì chẳng những người có sứ mạng phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề về mặt thiêng liêng mà nền Ðạo lại bị tổn thương, cái giá trị của Ðạo lại thấp kém.

Theo sử lược của nước nhà thì xưa những vị anh hùng phò vua giúp nước coi sứ mạng và mạng sống cũng đồng nhứt thể.

Nếu sứ mạng được vẹn toàn thì triều đình ban thưởng xứng đáng. Còn sứ mạng bị thất bại thì kẻ trung thần phải diệt mạng sống cùng theo với sứ mạng.

Sứ mạng! Ôi sứ mạng! Vì sứ mạng mà hai vị Tổng Trấn Võ Tánh và Ngô Tùng Châu phải tuẫn tiết nơi thành Bình Ðịnh; cụ Phan Thanh Giản phải quyên sinh tại Vĩnh Long vì thất thủ thành trì. Ðó là gương cao đẹp nhứt của những đấng anh hùng vị quốc vong thân đáng để cho muôn đời ca tụng.

Cái sứ mạng của Ðạo không phải hiểm nguy và có tánh cách siêu việt như sứ mạng của người liệt sĩ phò vua giúp nước, nhưng cũng có phần quan trọng tương đương về tinh thần phục vụ, vì xây dựng nền Ðạo cũng chẳng khác chi xây dựng một nước.

Sứ mạng của Ðạo là đem sự yên tịnh lại cho tâm hồn, đem nhơn nghĩa và sự thương yêu lại cho Ðời, dìu dắt kẻ lầm lạc quay về đường ngay nẻo chánh.

Thành thử sứ mạng Ðạo là trị bịnh cho linh hồn cũng như bác sĩ trị bịnh cho thể xác. Trị bịnh cho linh hồn có phần khó khăn hơn trị bịnh cho thể xác, vì người có bịnh thể xác phải đến yêu cầu người thầy thuốc, về linh hồn phải chìu chuộng người bịnh, lấy lời ngọt dịu khuyên giải, phải nhẫn nại thuyết phục để trị bịnh cho họ mà họ khỏi phải tốn kém chi hết.

Vì vậy, nếu không có chí hy sinh, không vì người quên mình, không lấy đức làm căn bản, lấy bác ái làm phương châm và không đủ chí nhẫn nại thì không thể làm tròn sứ mạng.

Lúc ban sơ Ðức CHÍ-TÔN chịu nhọc nhằn và lấy nhẫn nại mà dìu dắt những chức sắc đầu tiên như thế nào, ngày nay chúng ta cũng phải chịu những khó nhọc y như vậy thì mới mong hoàn thành nhiệm vụ.

Nhiều khi phải thất vọng, phải buồn lòng, phải trải qua nhiều nỗi khổ đau vì cơ thử thách, nhưng nếu người chức sắc không vững tâm bền chí, buông xuôi sứ mạng thì lấy ai cứu vớt bao nhiêu ức sanh linh đang đắm chìm nơi bể khổ.

Có nhiều khó nhọc mới có sự thành công trong vinh hạnh mới xứng đáng vui hưởng ân huệ thiêng liêng ngày công viên quả mãn.

Các vị tiền bối đàn anh của chúng ta như Ðức Quyền Giáo Tông, Ðức Thượng Phẩm, Ðức Hộ Pháp ngày nay tuy về cõi Thiêng Liêng nhưng gương sáng vẫn còn lưu lại cho chúng ta ngày nay và cho đàn em ngày sẽ tới. Cái gương sáng đó là quí trọng sứ mạng cũng như kiếp sống.

Nhờ nơi chí cương quyết và sự hy sinh tuyệt đối của các bậc đàn anh mà sự nghiệp của Ðạo mới đồ sộ như ngày nay.
Chúng ta nên noi theo gương đó thì mới xứng đáng là người kế chí cho bậc đàn anh để vun bồi cơ nghiệp Ðạo.
Rồi đây quý vị chức sắc nam nữ nơi địa phương phải trở về với nhiệm vụ.

HỘI-THÁNH tiển quý vị lên đường bằng những lời dặn dò khuyến khích, bằng tiếng nói của tình huynh đệ, tiếng nói của quả tim cùng hòa một nhịp yêu đương và cùng chung một nguyện vọng là làm tròn sứ mạng.

Nơi chốn xa xôi, trên đường nhiệm vụ, nếu quí vị có đủ chí thành, quí vị nên tin tưởng là tiếng nói của Ðức CHÍ-TÔN và Ðức PHẬT-MẪU sẽ ở bên tai quí vị luôn luôn và các Ðấng Thiêng Liêng sẽ hộ trì quí vị theo lời cầu nguyện. Nhơn danh HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Ðài và nhơn danh riêng tôi, tôi thành tâm chúc toàn thể Chức sắc Nam Nữ đầy đủ sức khỏe và gặp nhiều may mắn trên đường nhiệm vụ.
Nay Kính,
Ngày 21 tháng giêng năm Ðinh Mùi (dl. 1/3/1967)
Cao Thượng Sanh

HUẤN TỪ
TRONG CUỘC LỄ KHÁNH THÀNH
NHÀ THUYỀN BÁT NHÃ TRUNG ƯƠNG

Ngày 22 tháng 3 năm Ðinh Mùi (dl. 1/5/1967)

Kính HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài, và Phước Thiện,
Kính Chức sắc, Chức việc, nhơn viên nhà thuyền Bát Nhã và chư Ðạo hữu Nam Nữ,

Hôm nay tôi hân hạnh đến dự buổi lễ Khánh Thành nhà thuyền Bát Nhã Trung Ương, được chứng kiến một công tác cần thiết mà HỘI-THÁNH Phước Thiện đã hoàn thành để cho Ban Nhà Thuyền Tòa Thánh được có một ngôi nhà kiên cố đặng giữ gìn các thuyền Bát Nhã và cho nhân viên nhà thuyền có nơi trú ngụ xứng đáng.

Thời cuộc đương lúc khó khăn, nền tài chánh eo hẹp mà HỘI-THÁNH PhướcThiện đã cố gắng thành công trong việc kiến tạo nói trên thì thật là một công trình đáng khen ngợi.

Ðể tâm lo cho ích lợi chung, không quản cần cù mệt nhọc, quyết chí tìm phương cứu khổ giúp đời và biết quên mình để cho bao nhiêu người được hưởng sự vui vẻ, đó là chí hướng của bậc hoài bão chủ nghĩa thương đời.

Cái chí hướng cao quí đó đúng là chí hướng của người chức sắc Phước Thiện vậy.
Ðạo còn biết bao nhiêu điều cần phải thực hiện để hoàn thành sứ mạng đối với nhơn sanh, nhứt là HỘI-THÁNH Phước Thiện là tượng trưng hình ảnh của Ðức CHÍ-TÔN tại thế đặng cứu khổ cho con cái Ðức Ngài thì cái trách nhiệm thật quan trọng và nặng nhọc thế nào.

Nhưng lấy sự thành công trong một việc mà phỏng đoán và hy vọng trong bao nhiêu việc khác thì tưởng lại bước đường tuy khó khăn song cũng không đến nỗi không thể đi đến nơi đến chốn. Một việc đã thành đạt thì trăm việc khác cũng có thể thành đạt, nhà thuyền Bát Nhã đã cất xong thì bao nhiêu công tác khác cũng có thể thành tựu được...

Ðiều cốt yếu là phải nuôi chí thành cho vững chắc trong não cân đã phát hiện cái ý niệm tạo nên công nghiệp để giúp Ðạo, cứu đời thì cứ giữ mãi cái ý niệm đó và cương quyết không khi nào để cho lay chuyển, một tháng làm không rồi thì hai tháng, một năm không rồi thì hai năm và dẫu tới mười năm cũng phải đeo đuổi theo mãi cho tới khi hoàn thành mới chịu.

Tôi nhận thấy HỘI-THÁNH Phước Thiện có nhiều thiện chí xây dựng, nhứt là vị chưởng quản Phước Thiện từ mấy năm nay đã gắng sức thực hành công tác từ thiện để giúp ích cho người già cả và cho Ðạo hữu trong lúc ương yếu bịnh hoạn.

Với tinh thần phục vụ đó, tôi tin chắc HỘI-THÁNH Phước Thiện sẽ tiến tới sự thành lập các cơ sở kinh tế hầu có phương tiện cứu khổ nhơn sanh nhứt là trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc nầy.

Trở lại việc hoàn thành nhà thuyền Bát Nhã, tôi có lời khuyến khích toàn thể nhơn viên nhà thuyền rán tận tụy với phận sự, nhứt là chẳng nên có mặc cảm là công việc mình quá thấp hèn đối với các công việc khác.

Trong việc Ðạo, mỗi người đều có trách vụ riêng, và mỗi trách vụ đều có sự cần ích riêng biệt.
Không thể nói phận sự nầy cao quí, phận sự kia hạ tiện, vì cả thảy công việc đều hướng về chủ đích phụng sự cho Ðạo và cho nhơn sanh.

Sự công dụng của các cơ cấu trong Ðạo đều khác nhau, nhưng tất cả các cơ cấu đều có sự liên quan mật thiết với nhau cũng y như những bộ phận trong một động cơ nếu thiếu một món nào, dầu là một cái khoen hay một đinh ốc nhỏ thì động cơ phải bị tê liệt.

Sự sanh hoạt trong cửa Ðạo cũng chẳng khác chi sự sanh hoạt ngoài mặt đời, kẻ rành về nghề nầy, người chuyên môn về nghề khác, có nghề đòi hỏi sự lao tâm, có nghề cần nơi sự lao lực. Lao tâm hay lao lực, miễn nghề nghiệp tinh xảo thì người hành nghề luôn luôn được phần thưởng xứng đáng, vì vậy có câu: Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh thật là đúng như vậy.

Nhưng Ðạo khác hẳn với Ðời là người đời dùng sự lao tâm hay lao lực để đổi lấy món tiền thù lao và sự ban thưởng bằng vật chất, còn người Ðạo thì tình nguyện đem công quả để đổi lấy sự ban thưởng thiêng liêng chung cuộc.

Mấy em nhơn viên nhà thuyền đã ra công phục vụ mà không so hơn thiệt, cứ làm việc âm thầm, không cầu cạnh, không đòi hỏi, lấy chủ nghĩa vị tha làm chủ đích, chính là mấy em dành phúc quả cho mình đó.

Phần thưởng về hữu hình có khi không tương xứng với âm đức và công nghiệp, nhưng ân huệ thiêng liêng thì chắc hẳn là không thể mất mát dược.

Dự buổi lễ Khánh Thành Nhà Thuyền Bát Nhã hôm nay tôi để lời chia vui với HỘI-THÁNH Phước Thiện và mong ước quý chức sắc Phước Thiện hiệp đồng tâm chí để xây dựng nhiều cơ sở khác hầu có đủ phương tiện thật hành nhiệm vụ cao quí của cơ quan cứu khổ trong cửa Ðại Ðạo.
Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
Cao Thượng Sanh

Bài giảng của ÐỨC THƯỢNG SANH
trong dịp lễ Vía ÐỨC CHÍ TÔN
Ðêm mùng 8 tháng Giêng Tân Sửu (dl. 22/2/1961)

Kính thưa Chư Chức Sắc lưỡng phái,
Chư Chức Việc và Ðạo Hữu Nam Nữ,

Hôm nay, ngày lễ Vía Ðức CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ, chúng ta Chức sắc và Thiện tín lưỡng phái tựu họp nhau nơi Tổ Ðình để lạy mừng ÐẠI TỪ PHỤ và kính cẩn dâng lên tấm lòng thành kính biết ơn thương Thầy mến Ðạo.

Nhơn lúc đầu Xuân Tân Sửu và nhơn buổi lễ nầy tôi thành tâm cầu nguyện cho Ðạo an ninh, cho Ðời thạnh trị, nhơn sanh bớt thống khổ, gió thuận mưa hòa, sông êm biển lặng.

Và cũng nhơn dịp có đông đủ Chức Sắc, Ðạo Hữu tôi xin đọc lại Thánh Giáo của Ðức CHÍ TÔN đã giáng dạy đêm mùng 10 tháng 2 Canh Tý (7/3/1960) tại Ðền Thánh.

"Hỉ Chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Chư Môn đệ Nam Nữ,
Hôm nay Thầy vui lòng đến với các con để tỏ ý của Thầy đối với công việc Ðạo của các con Hiệp Thiên và Cửu Trùng Ðài. Từ mấy năm qua, các con đã chung tâm hiệp trí để sửa đường lối nền Chánh giáo cho đúng theo Chơn truyền, hiệp với Thiên Thơ, dìu dắt nhơn sanh trọn vẹn trong đường Thánh Ðức. Ðó là các con cứu vãn tình thế của Ðạo khỏi bước lạc lầm hướng về thế sự, làm cho mất vẻ trong sạch thiêng liêng của nó. Thầy lấy làm hài lòng và vẫn bố hóa tâm trí các con luôn. Thầy chỉ khuyên các con phải giữ thế nào cho Ðạo được trong sạch, phần cá nhơn của các con cũng phải được hoàn toàn trong sạch. Ðạo trong sạch, người trong sạch thì tôn chỉ của mối Chánh truyền mới thật hành châu đáo đúng theo lẽ huyền vi.

Các con đừng sợ nghèo, cái nghèo thanh đạm cao siêu thì đối với giá nào cũng không chịu đổi. Ðược vậy, các con mới xứng đáng là con yêu quí của Thầy. Ðạo phải trải qua lúc gay go là để trau giồi Chức sắc cho minh mẫn trong xét đoán cũng như nhận định và học hỏi, nâng cao trí thức, bỏ óc hẹp hòi, lánh đường xa hoa, ích kỷ. Nay các con đã thoát lối mê đồ. Thầy khuyên các con phải thận trọng đừng để cho ngoại vật chi phối nữa nghe."

Bài Thánh giáo nầy đã có đọc cho Chức sắc và Ðạo hữu nghe và có lẽ cũng đã phổ biến ít nhiều trong Ðạo. Nhưng nghe đọc hay xem Thánh giáo là một việc, còn làm theo lời dạy của Thánh giáo là một việc khác. Sự thật thì ai cũng muốn nghe, đọc Thánh giáo hoặc xem Thánh giáo, mà chừng tới lúc hành sự thì ít ai nhớ để làm y theo lời Thánh giáo. Vì vậy, hôm nay tôi cần phải nhắc lại bài Thánh giáo nầy.

Ðức CHÍ TÔN dạy phải giữ thế nào cho Ðạo được trong sạch, phần cá nhơn của người Ðạo cũng phải được hoàn toàn trong sạch. Ðạo trong sạch, người trong sạch thì tôn chỉ của mối Chánh truyền mới thật hành châu đáo đúng theo lẽ huyền vi.

Quí báu thay mấy lời dạy của Ðại Từ Phụ.
Sự giữ cho Ðạo được trong sạch, người cũng phải trong sạch ắt hẳn là một sự rất khó tự cổ chí kim, cho nên mới có lời của Ðức CHÍ TÔN dạy như vậy và nếu cố gắng làm y theo được thì nền Ðại Ðạo nầy mới xứng đáng là Ðạo của Trời lập thành, người môn đệ trong cửa Ðạo mới hân hoan tự xưng là học trò của Ông Thầy Trời. Ðạo được trong sạch là do hành vi và đức tánh của toàn thể Chức sắc Hội Thánh tức là Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN tại thế.

Hai chữ trong sạch có cái nghĩa rộng bao la, gồm hết những cái hay, cái quí, cái cao đẹp về hình thức lẫn tinh thần của những người điều khiển.

Chẳng những chỉ giữ liêm khiết về tiền bạc, không nhơ bợn đến tài chánh bất hợp pháp mà thôi, mà cũng phải trong sạch về hành vi, về ngôn ngữ, về tư tưởng, về cách cư xử với người trên kẻ dưới.

Nói tóm lại, trong cửa Ðạo, người hành Ðạo phải chính mình là hiện thân của Ðạo Ðức, của Từ bi, Bác ái, Công bình thì sự trong sạch mới hoàn toàn.

Khi ra ngoài xã hội, đối với người đời, về mặt xã giao cùng lúc xử sự, phần cá nhơn của người Chức sắc cũng phải được trong sạch trong mọi phương diện: không háo thắng, không khoe mình, lúc nào cũng lễ độ, khiêm tốn, hòa hưởn, nhún nhường, sẵn lòng thi ân, tế chúng, thế nào cho mọi người đều mến yêu, kính nể, như vậy mới thâu phục nhơn tâm, đem thắng lợi dễ dàng về cho mình khi thật hành nhiệm vụ trên đường phổ độ.

Thành thử, Chức sắc của Ðạo khi nhơn danh Hội Thánh mà làm phận sự Ðạo hay khi lấy tư cách cá nhân mà cư xử ngoài mặt xã hội thì trong trường hợp nào cũng phải hoàn toàn trong sạch.

Ðó là một việc khó khăn, như vậy cho nên những ai trau mình tu hạnh đúng theo lời của Ðức CHÍ TÔN thì những vị ấy chính là những Ðấng Thánh nhơn của Ðạo và nền Ðại Ðạo được gồm có những bậc Thánh nhơn trong hàng Chức sắc Thiên phong thì Hội Thánh mới thật xứng đáng là Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN tại thế.

Ðời của người hành Ðạo là một đời học hỏi tu tập không ngừng. Bởi vậy, mặc dầu đạt tới chỗ hoàn thiện là một việc quá khó, nhưng nếu muốn tự giải thoát, chúng ta phải rán sức, bền chí kiên tâm, chịu hy sinh cuộc đời vật chất xa hoa, lánh bả lợi danh, sống hoàn toàn trong mặt Ðạo, thì một ngày kia cũng đi đến kết quả, dầu không nên được bậc Chí thánh, cũng đứng vào bậc Chơn tu, đáng mặt phi thường. Chí ư gọi là khó rồi bỏ qua, không gắng công phu kềm chế cái vọng tâm, không vững chí sửa mình, đạt tới chỗ hoàn thiện thì người tu dựa vào căn bản nào mà đi cho cùng bước Ðạo, công viên quả mãn?

Tự cổ chí kim, vì không giữ mình được trong sạch cho nên con người phải chịu làm nô lệ cho xác thịt để cho dục vọng lôi cuốn gây thành tam nghiệp tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, phải bị chìm đắm trong vòng sanh tử luân hồi, chẳng khác chi tự mình trói buộc vào một cái bánh xe, cứ quay cuồng mãi mãi không biết bao giờ tháo mở được.

Vậy chúng ta phải tự tỉnh, phải chí công mài sắt, phải tự quyết đạt tới mức thành công là tự giải thoát và giải thoát cho nhơn sanh.
Sự thành công ấy chỉ do nơi ta mà thôi và chỉ có thể thực hiện nếu chính ta quyết tâm và nổ lực.
Không có một thế lực nào, một quyền năng nào dầu là quyền năng thiêng liêng, có thể giúp đỡ giải thoát cho ta được.

Ðức CHÍ TÔN có dạy rằng: "Thầy đã nói cho các con hay trước nếu các con không tự lập ở thế nầy là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đở lên cho đặng."

Theo lý thuyết của Phật giáo thì Ðức Thích Ca là vị sáng lập Ðạo Phật và chỉ vạch một con đường mà chính Ngài đã theo, một con đường có thể đem đến cho nhơn loại một lối giải thoát. Nhưng sự giải thoát của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc vào người đó, Ðức Phật không giúp gì được trong công việc giải thoát của kẻ khác.

Sách Phật có chép một câu chuyện như sau đây: Một ngày nọ Ðức Phật Thích Ca chỉ mặt trăng mà bảo các đệ tử rằng: "Kìa là mặt trăng, các con cứ theo ngón tay ta chỉ mà nhìn thì thấy, nhưng nên nhớ rằng ngón tay ta không phải là mặt trăng. Cũng như những lời ta giảng về Ðạo, các con có thể theo lời ta giảng mà tìm thấy Ðạo, nhưng nên nhớ rằng lời giảng của ta không phải là Ðạo."

Hôm nay nhơn buổi Lễ Vía Ðức CHÍ TÔN, tôi có ý nhắc lại phận sự chung của người hành Ðạo là cố tâm thật hành lời giảng của Ðại Từ Phụ, gắng công trau giồi hạnh đức, rèn luyện tánh tình để được xứng đáng với lòng tin cậy của Ðại Từ Phụ và đáng mặt người hướng đạo của nhơn sanh trên đường giải khổ.

Nơi trường thi công quả, Ông Thầy đã tận tụy với chức vụ, đã cạn lời giảng dạy, nhưng học trò không có thiện chí làm theo thì Ông Thầy cũng phải buồn lòng chán nản, mà học trò dầu học bao nhiêu năm cũng chỉ là hoài công mà thôi.

Ðức Phật Mẫu có nói: "Ðời đã tàn, thuyền Ðạo sắp xa bến", chúng ta thấy cái hung bạo của đời vật chất cạnh tranh, thấy những con thiêu thân tự thiêu mình vì ham đáp theo ánh sáng, chúng ta nên xung xăng nhặc bước trên đường Ðạo Ðức, đừng bỏ mất thì giờ quí báu, đừng ngó ngoái lại cái bến mê mà chúng ta đã được may duyên xa lánh. Cứ an lòng giữ vững đời sống muối dưa thanh đạm, dưới bóng Từ Bi của Ðức CHÍ TÔN, lóng nghe hồi chuông cảnh tỉnh để lâng lâng giũ sạch bụi trần, ngày tháng công phu trau giồi tâm trí thế nào cho được thanh cao trong sạch.
Ðó là chúng ta đi trúng con đường để tự giải thoát và giải thoát cho nhơn sanh./.
THƯỢNG SANH

ÐIẾU VĂN
của ÐỨC THƯỢNG SANH đọc trước
Liên Ðài Ngài TIẾP PHÁP TRƯƠNG VĂN TRÀNG
Lúc 12 giờ trưa ngày 20 tháng Giêng năm Ất Tỵ (dl. 21/2/1965)

Kính Hội Thánh Cửu Trùng Ðài và Hội Thánh Phước Thiện Nam Nữ,
Kính Tỉnh Trưởng Tây Ninh và Chư Quý Quan Chức,
Kính toàn thể Chức Việc Ðạo Hữu lưỡng phái,
Kính Quý Ông, Quý Bà, thân bằng quyến thuộc,
Kính Tang quyến,

Trước Liên Ðài Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân, thay mặt Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài, tôi xin để mấy lời từ biệt một người bạn Ðạo đã cùng chúng tôi góp công xây dựng nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ trong khoản gần 40 năm trường.

Ngài Tiếp Pháp Chơn Quân qui liễu, một tin đau đớn bất ngờ, khiến cho toàn thể Chức Sắc và Ðạo hữu xa gần đều xúc động tiếc thương.

Thật vậy, vì mặc dù Ngài ngọa bịnh đã vài tháng trước đây, nhưng sau khi ra khỏi bịnh viện Sài Gòn, Ngài được Hội Thánh rước về dưỡng bịnh tại Hiệp Thiên Ðài. Trong những ngày đầu, thấy căn bịnh Ngài được nhiều thuyên giảm thì ai ai cũng có lòng mừng. Cũng tưởng nhờ sức Thiêng liêng ủng hộ, nhờ sự chăm sóc chu đáo của Hội Thánh, Ngài sẽ qua khỏi cơn nguy, sức khỏe lần hồi bình phục.

Nào hay mạng căn dĩ định, thiên số nan đào, Ngài trở bịnh không mấy ngày, bỗng chốc rời bỏ xác trần qui hồi Tiên cảnh.

Than ôi!
Một giấc thiên thu, ngàn năm vĩnh biệt, tiếng hơi lặng lẽ, hình bóng mờ xa, vó ký giục đường mây, giông đùa chia bóng nhạn.

Ðã hay sống ở thác về, đó là lẽ dĩ nhiên của khách phong trần nơi cõi thế.
Nhưng nền Ðạo đương hồi biến chuyển, bể khổ sóng chập chờn mà con thuyền tế độ lắm lúc ngửa nghiêng, đương thiếu tay chèo chống.

Sứ mạng của Ngài đã hoàn thành, Ngài đã dứt hết nỗi khổ đau, đã gạt hết bao nhiêu dòng lệ thảm, để rồi bỗng nhiên rời bỏ những bạn đồng hành và đàn em dại đang khao khát Ðạo mầu, nhờ tay dìu dắt.

Ðạo đã mất một tay rường cột, Hiệp Thiên Ðài phải mất thêm một bạn hiền lương đạo đức đã cùng chúng tôi chia vui sớt khổ trên những bước đường đen tối, chinh nghiêng của Ðạo.

Hồi nhớ lại những lúc cùng nhau hiệp mặt, Ngài thường than thở, tỏ ý bực tức, chỉ vì muốn rút hết ruột gan để phục vụ cho nền Ðạo, nhưng lại bị lối đố kỵ tài hiền, phải hứng chịu những lời cay đắng vô ân. Ðó là cái nguyên nhân làm cho Ngài âm thầm đau khổ.

Ðáng kính phục là, mặc dù bực tức, nhưng nghĩ lại thương nền Ðạo, thương bao nhiêu nhơn sanh còn chịu khổ nơi bể trần, Ngài cũng dần dần khuây lảng, để hết tâm trí, gắng công lo phận sự.

Ngài làm việc Ðạo khác hẳn hơn các bạn, vì Ngài thấy Ðạo thiếu người chung lo, nên Ngài muốn gồm hết một mình bao nhiêu nhiệm vụ, để rồi phải lao tâm tiêu tứ, chịu vất vả thân hình. Sức người có hạn định, sự tận tâm của Ngài có lẽ đã làm cho Ngài ngọa bịnh.
   Home                        1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét