Tiểu Sử và Lời Thuyết Ðạo Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang - 8 / 8

Рlà tâm không chuẩn đích, mà chuẩn ấy là Ðạo vậy.
Muốn khỏi hổ cùng trời đất, khỏi thẹn với cỏ cây, người quân tử phải nương theo Ðạo mà thi hành. Ðạo là cái khuôn khổ, là con đường để noi theo đặng hành động cho chánh đáng đối với lẽ phải của người mà Tạo hóa đã phú cho tánh linh hơn vạn vật.
Nói theo lẽ Ðạo thì lòng được trong suốt, càng học đạo càng biết sửa mình, không thể sai lầm được nữa.


Bậc vua chúa, kẻ quan quyền hay hàng dân thứ, hễ đạt được lẽ mầu nhiệm của Ðạo, sửa mình cho ra bậc quân tử, khi bình tỉnh để tâm tự xét, thường thấy mình có ý khuynh hướng về những điều thanh cao thoát tục mà bất mãn về những nỗi hèn hạ nhỏ nhen của thế tình nhân sự.
Ðời có Ðạo, tức là có kỷ cương trật tự, người quân tử đều ra ứng dụng, đem cái hay cái biết của mình mà thật hành cho đời nhờ. Vì đó mà được chúa Thánh tôi Hiền, muôn dân cảm mến, nên cần mẫn chơn chánh, biết lo nghĩa vụ giữ liêm sĩ. Trong nước trên thương dưới, dưới kính trên, vắng trộm cướp, khỏi luật hình, vì quốc dân đặng bảo bọc giúp đỡ cho có nghề sanh nhai. Ðường không lượm của rơi, nhà không đóng cửa, ấy là đời thạnh trị của Nghiêu Thuấn vậy.

Ðời không Ðạo, tức là kỷ cương rối loạn, kẻ gian nịnh lộng quyền. Vua không chánh, tôi chẳng ngay, người quân tử chẳng lẽ không giữ cái khí tiết trong sạch, cùng ra chen vai với đám tiểu nhơn, nên tự lui bước để sửa mình. Vì đó mà luân thường điên đảo, tà chánh bất phân, mối nước chinh nghiêng, muôn dân đồ thán, ấy là đời ly loạn của Kiệt Trụ vậy.

Tóm lại, cái chủ đích học vấn của người là đem cái đức sáng suốt của Trời phú cho mà sửa mình trong sạch hoàn toàn, phải lắm công phu, bền chí, hay xét mình, biết người biết ta, cái kết quả mới chắc chắn. Trong bốn công việc chánh: Tu, Tề, Trị, Bình của Khổng giáo, việc tu kỷ là quan trọng nhứt. Nhưng khi được thành công, những hạng quân tử là phần tinh hoa của nhơn loại, các triết lý cao siêu họ đều thông hiểu, Tánh tình cao khiết, hành động đoan trang, họ yêu đời tha thiết thương dân chúng nồng nàn, lấy hạnh phúc của người làm của mình, coi người khổ như mình khổ. Chỗ phải Ðạo thì tới, nơi vô đạo thì lánh xa, xem công danh như dép rách, nhắm phú quí tợ bèo trôi, sắc đẹp chẳng động được lòng, cảnh nguy không thay được chí.

Ðó là những bậc đáng làm kiểu mẫu cho đời, có thể dìu dắt nhân sanh trên con đường tấn hóa.
Xưa nay những trang mẫn thế ưu thời, những bậc tài cao học rộng chẳng thiếu chi, nhưng đạo đức không dồi dào, nghĩa nhân không đầy đủ, nên cái kết quả hành vi của họ đối với xã hội quốc dân vẫn lắm mờ hồ.
Thật đáng tiếc!
HUỆ GIÁC

TÌM CHƠN-LÝ
(Tài liệu trích trong Bán Tuần Báo DUY-TÂM
số ra ngày Chúa Nhựt 25 Juillet 1948)

"CẢ QUỐC DÂN HÃY ÐỒNG LÒNG LẤY THIÊN LƯƠNG SÁNG SUỐT LẤP CẠN NGUỒN ÐAU KHỔ CỦA GIỐNG NÒI THÌ HẠNH-PHÚC MỚI MONG GẦY DỰNG."

Theo thói thường ở đời thì giàu sang vinh hiển, cửa rộng nhà cao, ai cũng ham, nhưng nếu chẳng noi theo Ðạo mà được thì người quân tử không màng.

Chòi tranh vách lá, áo mỏng đêm đông, ăn bữa sớm lo bữa chiều, ai cũng lánh, nhưng nếu chẳng do theo Ðạo mà cho khỏi, thì người quân tử thà cam trong cảnh cơ-hàn.

Xem công danh như mây nổi, coi phú quí tợ bèo trôi, đó là tánh tình của người quân tử vì họ đã được cái sáng suốt của Thiên lý nên việc gì trái với nghĩa, nghịch với nhân họ không làm.
Phú quí thì hành động theo phú quí, bần tiện thì hành động theo bần tiện, tùy theo thời thế và cảnh ngộ mà đối đãi với mọi người; giàu chẳng bợ, khó chẳng khinh, người quân tử lúc nào cũng an phận mà vui thú. Lên cao xuống thấp tự mình điều khiển lấy thân, người quân tử chẳng để một mảy chi nhơ-bợn đến tinh thần cao khiết của mình đặng. Gặp lúc gặp thời thì đem đức sáng tài hay của mình đặng phụng-sự thiên-hạ giúp nước trị dân khó nhọc chẳng từ, gian nan không quản. Danh chẳng màng, chỉ màng nơi cứu cánh của việc làm; lợi chẳng ham, chỉ ham thật hành được nghĩa vụ. Nếu chưa gặp thời để ứng dụng tài đức thì đành cam lui bước, ẩn chốn lâm tuyền, bạn cùng non nước.

Ðức KHỔNG TỬ xưa châu-du thiên hạ cho tới già, vì không gặp được chúa biết dùng để sửa đời trị nước, KHƯƠNG-THÁI-CÔNG là ông câu nơi sông Vị, NINH THÍCH chăn trâu ở Ngao Sơn, BÁ LÝ HỀ xin ăn nơi đất Chất, đều là những bậc cao, sẵn ôm tài tế thế trong mình, nhưng chưa gặp thời nên cam vất vả. Nếu gặp chúa xứng đáng, biết dụng nhơn, xem phải đạo minh quân lương tể, thì cái chí hướng của người quân tử đã đạt. Nhưng công thành thì thân thối; cái thích của họ là sự gầy dựng của mình đã được hoàn thành lấy sự vui của muôn dân làm phần thưởng cho mình, chớ không cần phú quí vinh hoa của người đền đáp.

Bởi vậy, khi làm cho nên nước Ngô rồi thì TÔN-VÕ-TỬ ẩn sĩ từ quan, giúp Việt Vương được nghiệp cả trùng hưng thì PHẠM-LÃI dạo chơi Ngũ Hồ, gầy dựng xong cho Lưu-Bang thì TRƯƠNG-TỬ-PHÒNG ẩn chốn núi non, vui cùng tứ hạo. Những bậc vĩ-nhân ấy là cái tinh hoa của trời đất để làm gương mẫu cho đời. Cái chí lập quốc cứu dân của họ sánh với bực Thần Tiên, mồi danh bả lợi không lay chuyển được. Có khi lại dám liều cả tánh mạng để cho đời biết chí cao thượng của mình như GIỚI-TỬ-THÔI đời chiến quốc! Chúng ta xem qua cái tiết-tháo của người xưa đáng kính phục là dường nào!

Khi TẤN-VĂN-CÔNG là TRÙNG-NHĨ chưa gặp thời, còn lánh nạn nơi đất Vệ thì chúa tôi từng trải nhiều nỗi gian-lao khổ sở. Một hôm thất lạc vào rừng, lương thực thiếu hụt, Trùng Nhĩ đói quá đi không nổi. Một người trung thần là GIỚI-TỬ-THÔI cắt thịt vế trái mình, nấu một tô đem dưng cho Trùng-Nhĩ. Trùng-Nhĩ thấy thịt nóng, ăn ngon lắm, mới hỏi: Chỗ nầy làm sao có thịt?, TỬ-THÔI thưa rằng: "Tôi thường nghe con thảo hết mình thờ cha, tôi ngay liều mình thờ chúa, nay Chúa-công đói lòng nên hạ-thần cắt thịt trái vế mà dưng cho Chúa-công đỡ dạ. Trùng Nhĩ rơi nước mắt mà than rằng: "Kẻ nạn nhân này làm hại cho ngươi biết bao, ta lấy chi báo đáp ơn người cho xứng".

Sau TRÙNG-NHĨ gặp thời về nước kế vị cho cha, lấy hiệu là TẤN-VĂN-CÔNG. TẤN-VĂN-CÔNG muốn thưởng những người chịu nhọc với mình trong buổi phiêu lưu nên đại hội quần thần, luận công ban chức. Ai ai cũng có phần, trừ ra GIỚI-TỬ-THÔI vì vắng mặt nên Văn-Công quên lửng!!!

Số là trước ngày phong thưởng, TỬ-THÔI lóng nghe bọn quần thần nhóm nhau, giành lộc tranh công, lấy làm hổ-thẹn chung, nên vào trào cung hạ có một lần, rồi từ đó về sau cáo bịnh ở nhà, dệt chiếu mà nuôi mẹ già.

Có người thấy TỬ-THÔI không được ban thưởng, nên tới nhắc TỬ-THÔI, TỬ-THÔI chỉ cười mà không đáp. Mẹ già nghe vậy bảo con rằng: "Mầy chịu nhọc nhằn mười chín năm, lại cắt thịt trái vế cho vua ăn, nay sao không nhắc lại đặng hưởng chút công hầu, chẳng hơn dệt từ chiếc chiếu hay sao?" TỬ-THÔI liền thưa: "Thưa mẹ, TẤN-HẦU là người hiền đức đặng thiên hạ ấy là lòng Trời khiến, mà quần thần lại giành công chác lợi, con rất hổ ngươi, thà cam trọn đời dệt chiếu. Chẳng dám lấy sức Trời làm công mình". Mẹ TỬ-THÔI lại nói rằng: "Mầy hay làm người liêm-sĩ, ta há chẳng ham làm mẹ kẻ liêm sĩ hay sao?" TỬ-THÔI cả mừng, bèn cõng mẹ lên Miêng-Thượng cất lều trong kẹt núi mà ở, cỏ làm áo, trái làm cơm!

Khi TẤN-VĂN-CÔNG hay đặng, dẫn quan quân đến nơi tìm kiếm cả ngày mà không thấy. Có người bày chước đốt rừng cho TỬ-THÔI sợ mà ra, nhưng TỬ-THÔI một lòng sắt đá, hai mẹ con ôm nhau chịu chết thiêu trong kẹt núi.

Người đời sau thương TỬ-THÔI có làm bài thơ rằng:
Mười chín năm tròn lận đận kinh!
Chơn trời góc biển khắp linh đinh!
Chú nài cắt vế vua no dạ,
Chẳng muốn cầu danh mẹ thỏa tình!
Miêng-Thượng khói ùn lừng tiết-khí,
Giới-sơn trăng dọi rạng trung thành!
Ngày nay cấm lửa buồn hàn-thực,
Hơn đốt nhang tàn giấy đỏ xanh!
Sánh với hạng tiểu nhơn vụ lợi thì hành vi lại trái hẳn. Hạng tiểu nhơn thì trời nào cũng phải, chúa nào cũng nên, khéo nịnh hót, giỏi cúi lòn miễn lộc cả quyền cao, ngoài ra chẳng kể đến vận nước thạnh suy, lòng dân thương ghét. Bề ngoài họ cũng làm bộ thương nước thương dân để lừa dối bề trên mà bên trong thì họ lo cho đầy túi tham là đủ! Xưa biết bao vua chúa dùng lầm hạng tiểu nhơn mà phải chịu xã-tắc khuynh-nguy, muôn dân đồ thán.

Ai có đọc MẠNH-TỬ, cũng để ý đến câu chuyện vợ chồng nước Tề.
"Nước Tề có một người cùng ở chung với hai vợ. Mỗi ngày anh chồng thường ra ngoài, khi trở về thì có vẻ say sưa no đủ. Vợ lớn hỏi ăn uống với ai thì chồng nói với những bạn giàu sang, toàn là người có tên tuổi; Vợ lớn đem lòng nghi, nhơn khi luận bàn với vợ lẽ rằng: Chồng ta nói đi ra ngoài, đồng bàn với hạng người phú quí, mà ta chưa tầng thấy ai lại nhà chơi, vậy ta sẽ tìm biết sự thật coi thế nào?

Một bữa kia vợ lớn thức dậy sớm, lén theo dấu ông chồng, đi khắp trong vùng không thấy người nào cùng nói chuyện với. Sau thấy anh chồng đi ra mé thành phía đông chỗ mồ mả người ta cúng tế, xin lấy đồ cúng thừa mà ăn; ăn chưa đủ lại tìm nơi cúng tế khác mà xin ăn nữa. Ấy cái đạo no say của anh chồng là như thế!

Vợ lớn trở về bảo vợ lẽ rằng: "Chồng ta là người ta phải trông nhờ vào suốt đời, mà nay như thế thì còn trông cậy nỗi gì? Rồi hai chị em cùng ôm nhau tủi thẹn khóc than! Thế mà anh chồng chưa biết sự mình đã bại lộ, cũng cứ hớn hở tự ngoài đi vào, kiêu căng tự đắc với hai vợ!"

Ðó là câu chuyện bịa đặt của Mạnh-Tử.
Nhưng đời nầy cũng có lắm kẻ hay cầu cạnh lấy hư danh và bã lợi, cũng có những hành động đê tiện để tủi nhục đến vợ con chẳng khác chi người nước Tề kia vậy.

Hai thái độ trái ngược của hạng người nầy và GIỚI-TỬ-THÔI, khiến cho chúng ta suy nghĩ đến sự nên hư của thời cuộc mà đau lòng!

Nếu đời còn ly loạn, nước còn đảo huyền, quốc dân còn chịu khổ sở lầm than là do xã hội Việt-Nam còn dẫy đầy những hạng tham vàng bỏ nghĩa, dám vì chút lợi mà quên lấy thân, như miếng ăn chẳng hạn!

Tiểu nhơn thắng thì quân tử phải thối, bức tranh đời vẫn còn cho chúng ta thấy bao nhiêu cảnh đau đớn chua cay, thì ách nước nạn dân chưa vội chấm dứt đặng.

Ngày nào tiếng trống giác-mê, hồi chuông cảnh tỉnh có đủ mãnh lực dìu dắt bước đường của phần đông theo bước đường đạo đức; ngày nào trên con đường thống nhứt giang sơn, quốc dân Nam những kẻ có trách nhậm lớn nhỏ trong xã hội thấy lợi nghĩ đến nghĩa, thấy nguy nghĩ đến dân, tận tụy vì bổn phận, bỏ hẳn nhơn cách đáng khinh, theo Thiên-lương sáng suốt, đồng một lòng làm cho cạn nguồn đau khổ của giống nòi, trụ lại một quốc hồn mạnh mẽ, thì ngày ấy chủ-nghĩa dân-chủ mới rạng soi, hạnh-phúc quốc-dân mới mong mỏi!
HUỆ-GIÁC

PHẦN THI VĂN của ÐỨC CAO THƯỢNG SANH
Trong phần nầy chúng tôi sưu tập các bài thi của Ðức Ngài làm lúc còn sanh tiền. Ða số các bài thi nầy trích từ Ðặc san Thông Tin của Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý Tòa Thánh Tây Ninh. Thường thì Ðức Ngài lấy bút hiệu là Huệ Giác.

MINH CANG LIÊM KHIẾT
Dầu Ðạo hay Ðời muốn trọn nên,
Minh cang liêm khiết gắng công rèn.
Sạch trong chặc giữ phàm ra Thánh,
Chánh trực nhuần trau tục hóa Tiên.
Trí dũng ngàn năm gương tạc để,
Nghĩa nhân muôn thuở sử bia truyền.
Lánh vòng danh lợi là phương pháp,
Bốn chữ vẹn gìn hưởng phúc duyên.
                                                                      HUỆ GIÁC
            (Trích Thông Tin số 8, ngày 12/7/1970)

THƯƠNG NGƯỜI KHÁC THỂ THƯƠNG THÂN
Thương người nào khác thể thương ta,
Nhơn loại thờ chung một Ðấng Cha.
Bác ái làm phương vơi nỗi khổ,
Từ bi dụng chước tạo tâm hòa.
Tránh điều đố kỵ gây thù hận,
Lập chí tương liên vững nước nhà.
Ðã quyết tu hành theo Ðại Ðạo,
Nương nhau dìu đến Hội Long Hoa.
                                                           HUỆ GIÁC
             (Trích Thông Tin số 9, ngày 27/7/1970)

ÐÊM KHÔNG NGỦ
Ánh nguyệt lờ mờ nửa phiến lu,
Ra vào trằn trọc suốt đêm thâu.
Mấy màu trời vẽ tranh ly loạn,
Ngàn dặm mây che cảnh mịt mù.
Gió phất thoảng đưa hồn tử sĩ,
Súng gào nhặc bước gót chinh phu.
Chạnh tình non nước tình đau xót,
Nghe tiếng quyên than những gợi sầu.
                                               HUỆ GIÁC
 (Trích Thông Tin số 10, ngày 11/8/1970)

ÐẠO ÐỜI TƯƠNG ÐẮC
Ðạo Ðời muốn vẹn nét hồn nhiên,
Chung sức vì dân lúc biến quyền.
Nương Ðạo, Ðời thêm vui phúc trạch,
Cứu Ðời, Ðạo mới phỉ lòng nguyền.
Vun bồi cội ái, Ðời hưng thạnh,
Xây đắp nền nhân, Ðạo thống truyền.
Ðạo dụng từ bi, Ðời dụng đức,
Ðời nên vị Thánh, Ðạo ngôi Tiên.
                                               HUỆ GIÁC
 (Trích Thông Tin số 10, ngày 11/8/1970)

TỰ THUẬT
Tuồng đời nhàm trải vẻ đai cân,
Tòng bá chọn nơi Ðạo gội nhuần.
Hẩm hút muối dưa an phận khó,
Thung dung ngày tháng đắp nền nhân.
Nương thuyền độ khách qua bờ giác,
Luyện tánh tầm chơn dứt mộng trần.
Gắng khổ quyết tâm lo giải khổ,
May duyên kịp buổi hưởng hồng ân.
                                                                      HUỆ GIÁC
                                               (1958) (Trích Thông Tin số 12, ngày 10/9/1970)

Cô THẤT- NƯƠNG cho thi
Bạc tình chi lắm hỡi ai ôi!
Bảy tháng chung vui đã mất rồi.
Khi hứng trăng thơ khi gió sách,
Ðèn khuya nay luống một mình thôi.

ÐỨC THƯỢNG SANH họa nguyên vận
Phải nào bạc bẽo hỡi em ôi!
Vì phận nghĩa kia xử khó rồi.
Tuy chẳng gần nhau như buổi trước,
Lòng kia quyết giữ đến cùng thôi.
 (Trích Thông Tin số 13, ngày 25/9/1970)
(Chú Thích: Bà Thất Nương lúc mới đến, xướng họa thi phú với ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang thì bà xưng là Tứ Muội và gọi các vị trên là Ðại Ca, Nhị Ca và Tam Ca)

VỊNH NGƯ ÔNG
Trời nước nghêu ngao một chiếc thuyền,
Thú câu gẫm lại thú thần tiên.
Nhắp cần thao lược dò sâu cạn,
Nương sợi kinh luân sửa mối giềng.
Vinh nhục lánh vòng tai rửa sạch,
Gió trăng nặng túi cảnh vui riêng.
Khề khà rượu Thánh qua ngày tháng,
Tránh chốn phồn hoa tránh lợi quyền.
                                                                       HUỆ GIÁC
(Trích Thông Tin số 13, ngày 25/9/1970)

VỊNH TIỀU PHU
Gió mát trăng thanh lộc bốn mùa,
Ðổi cơm ra sức khỏi tiền mua.
Con rìu lưng giắt tài xông lướt,
Lợi thế tai ngơ nỗi được thua.
Rượu cúc rừng tòng quen thú cũ,
Khóm mai cụm trước bạn ngày xưa.
Sạch lòng lê hoác hằng no ấm,
Mặc kẻ cầu cao thế sự đua.
                                                           HUỆ GIÁC
            (Trích Thông Tin số 13, ngày 25/9/1970)

GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
Việt Chủng vì chưng rõ gốc nguồn,
Ðua nhau lễ giỗ Ðức HÙNG VƯƠNG.
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.
Văn Hiến tạo nền còn chói rạng,
Lạc Hồng roi giống há khinh thường?
Hềm đang tranh chấp chia bờ cõi,
Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt phương.
                                                           HUỆ GIÁC
            (Trích Thông Tin số 26, ngày 20/4/1971)

Cô ÐOÀN NGỌC QUẾ cho thi
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sanh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.

Ông CAO HOÀI SANG họa
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách chương đài.
Những ngờ duyên thắm trao phòng bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.
Một giải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.
            (Trích Thông Tin số 28, ngày 19/5/1970)

Ông CAO HOÀI SANG xướng
Sầu dài ngày vắng dễ chi vui,
Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.
Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.
Bước đường danh lợi thêm gay trở,
Ngảnh lối tang thương luống ngậm ngùi.
Lần lựa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi đến thế, thế thì thôi.

Cô ÐOÀN NGỌC QUẾ họa nguyên vận
Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần gỡ chưa xong chỉ rối nùi.
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt rạng,
Hương thề nay thả giữa dòng trôi.
Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,
Ðá nát vàng phai dạ ngậm ngùi.
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.
            Ngày 4/8/Ất Sửu (dl. 21/9/1925)

TÂM SỰ
Chất mối sầu tư ruột nát bầm,
Thời thôi đành phải giả làm câm.
Thiệt thòi cam chịu mình đau xót,
Tranh cạnh để chi kẻ hiểu lầm.
Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,
Thị phi chờ thoát bóng quang âm.
Sóng trần bể khổ mây mờ mịt,
Nghĩ nỗi gần xa lệ ứa dầm.
                                               THƯỢNG SANH tự HUỆ GIÁC
            (Trích Thông Tin số 29, ngày 2/6/1971)

TỰ THÁN
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
Tà mị phàm rung rinh Thánh chất,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.
Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.
                                               ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

HỌA VẬN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay ngó rập rình.
Trước Ðiện lai rai ba chú Ðạo,
Sau hiên meo mốc mấy pho Kinh.
Rừng xơ vẻ thắm chim khôn đỗ,
Cảnh cũ màu xanh khách biếng nhìn.
Rường cột Ðạo mầu bao thuở dựng,
Sụt sùi để bước khó làm thinh.
                                               ÐỨC CAO THƯỢNG SANH

CẢM PHI LONG CÔNG CHÚA
Giềng mối giữ an phận liễu bồ,
Dặm ngàn xa phải chịu thân cô.
Phiền gan ngẩn chạnh tình chăn gối,
Ứa lệ buồn trông bước Hớn Hồ.
Duyên nợ vẹn đền toan dạ gắng,
Hận thù chung trả trọn lòng thờ.
Phiên thành tạc để danh trung hiếu,
Ðiên đảo khiến rời rã tóc tơ.
                                                           HUỆ GIÁC
            (Thuận nghịch đọc) (Trích Thông Tin số 36, ngày 14/9/1971)

HOÀI HỮU
(gởi bạn THUẦN ÐỨC)
Xa xuôi chiều ngóng mấy vầng mây,
Thắt thẻo dường như nhạn lạc bầy.
Vắng khách cảnh còn xơ xác quạnh,
Chờ người sầu vẫn chập chồng xây.
Chuông ngân luống nhắc lời giao ước,
Trống giục càng mong buổi hiệp vầy.
Ðợi bạn thuyền từ chưa tách bến,
Nhớ nhau xin cạn chút niềm tây.
                                                           HUỆ GIÁC
19/12/Kỷ Hợi (dl. 17/1/1971)  (Trích Thông Tin số 37, ngày 28 /8/1971)

HỌA VẬN
Xuôi ngược thêm buồn hội nước mây,
Trời sương ảm đạm nhạn kêu bầy.
Mơ hồn hồ điệp đêm trăng lạnh,
Thương cái dã tràng bãi cát xây.
Năm tháng chưa phai lời ước hẹn,
Tẻ vui còn nhớ buổi sum vầy.
Chỉ vì lan tất không duyên hợp,
Mảng đứng bờ đông vọng bến tây.
THUẦN ÐỨC

Ông BẢO PHÁP (THUẦN ÐỨC)
gởi lên Ngài THƯỢNG SANH (HUỆ GIÁC)

CẢM THUẬT
Tuy xa nguồn Ðạo tác phong còn,
Trăm giũa ngàn mài một tấm son.
Thuyền sớm ra khơi quày lại bến,
Chim chiều bạt gió hướng về non.
Trông lui chưa toại công ti tí,
Nghĩ tới buồn cười chuyện cỏn con.
Cúi ngửa giữ cho lòng khỏi thẹn,
Mặc ai toan bóp méo ra tròn.

HỌA NGUYÊN VẬN
Còn sống đâu quên nhiệm vụ còn,
Bến mê độ khách tạc lòng son.
Tuồng Ðời đã trải nhiều đau khổ,
Nợ Ðạo toan đền rạng nước non.
Nhường nhịn gắng qua cơn khảo lớn,
Ngược xuôi mong vững chiếc thuyền con.
Ơn Trên xây chuyển xin cầu nguyện,
Hòa hiệp đệ huynh nghĩa vẹn tròn.
                                                                       HUỆ GIÁC
                                                                       7/12/1959

MƯA THU
Tịch mịch mây bay cuốn bóng thiều,
Trời thu ướt át cảnh buồn hiu.
Canh thâu rúc rắc mưa tuôn nhặc,
Ngày vắng xơ rơ gió thổi vèo.
Sương phủ rừng thiền cành lá đổ,
Gương mờ cung quế mảnh trăng treo.
Lầu gần đêm vẳng hồi chuông điểm,
Chạnh nỗi niềm riêng ruột chín chiều.
                                                           HUỆ GIÁC

ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM giáng cơ
Ðổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,
Rưới chan cho khắp giọt hồng ân.
Rừng tòng thanh nhã say mùi Ðạo,
Bể khổ mênh mang vớt khách trần.
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.
Buồm trương lái vững chờ sông Lệ,
Ðưa chiếc thuyền Sen dựa đảnh thần.
(Trích Thông Tin số 97, ngày 26 /4/1974)

CAO THƯỢNG SANH họa nguyên vận
Hứng giọt nhành dương đã gội nhuần,
Sao cho xứng đáng hưởng Thiên ân.
Lóng chuông cảnh tỉnh tan niềm tục,
Dìu khách phồn hoa lánh bể trần.
Từ ái là nền xây cảnh trí,
Nâu sồng luyện tánh đắp non nhân.
Xôn xao bến huệ trương buồm hạnh,
Mượn sức huyền linh đến bến thần.

ÐỨC THƯỢNG SANH đến thăm ÐỨC HỘ PHÁP
bị đồ lưu 5 năm, mới về Tòa Thánh ngày 4 tháng 8 Bính Tuất (dl. 30/8/1946)

CẢM TÁC
Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp bạn nầy khi khóc lộn cười.
Nguồn Ðạo xưa trông đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Ðổ lệ cùng nhau gượng để lời.
HUỆ GIÁC

HỌA NGUYÊN VẬN
Sắc son nhuộm tánh đượm màu tươi,
Hay dở khen chê để miệng người.
Ðày đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười.
Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hộc quen chiều gió ngược xuôi.
Ước trả mảy may ơn xả tắc,
Nợ muôn đền một kể chi lời.
ÐỨC HỘ PHÁP

LUẬT PHÁP CHƠN TRUYỀN
Thánh giáo bảo tồn thất ức niên,
Nhờ nơi Luật Pháp hiệp Chơn Truyền.
Tuân hành đúng mức đường tu vững,
Tự tác sai chiều bước Ðạo nghiêng.
Lướt khổ đã mong hồi cựu vị,
Gieo nhân há để vướng tà quyền.
Thiên điều tại thế nên tôn trọng,
Vẹn phận ngàn thu hưởng phúc duyên.
                                               CAO THƯỢNG SANH
            (Trích Thông Tin số 101, tháng 7/1974)

TỨC SỰ
Lui tới kinh thành lối ngựa xe,
Ðỉnh chung xạo xự ngán như chè.
Giọng kình tỉnh thế lay hồn bướm,
Tiếng quốc gào hôm động giấc hòe.
Chẳng thích buộc ràng nơi gác tía,
Chỉnh ham thong thả chốn rừng tre.
Chí mong lánh khỏi vòng nhân sự,
Muôn dặm đường Tiên chắp cánh sè.
                                                           HUỆ GIÁC
             (Trích Thông Tin số 102, ngày 14/7/1974)

Ông BẢO PHÁP Nguyễn Trung Hậu
Ðạo hiệu THUẦN ÐỨC Qui Tiên.
ÐIẾU BẠN

BẢO PHÁP CHƠN QUÂN đã lánh trần,
Nương về cựu vị cảnh đài vân.
Trường đời tuy vắng hình tri kỷ,
Cửa Thánh còn mơ dạng cố nhân.
Nhớ tiếc đức tài trau vẹn đủ,
Chạnh thương tà chánh định cân phân.
Bao nhiêu công khó vun nền Ðạo,
Kim Khuyết xin tròn hưởng huệ ân.
                                                           HUỆ GIÁC
                         (Trích Thông Tin số 102, ngày 14/7/1974)

THUẦN ÐỨC về Tiên đã thảnh thơi,
Tấm thân bảy thước trả cho đời.
Túi văn Ðạo Ðức đành chôn chặt,
Ngọn bút thần cơ vội gãy rơi.
Trêu thảm ngậm sầu khi thức ngủ,
Mưa chiều nắng sớm lệ đầy vơi.
Mấy năm hội hiệp ngàn năm biệt,
Bạn hỡi hồn linh chứng mấy lời.
                                               CAO THƯỢNG SANH
            (10/9/Tân Sửu - 1961)

KHÓC NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN
Nhìn lại Trung Tông cảnh đượm sầu,
CAO QUÂN VĂN PHÁP có còn đâu.
Dìu đời cửa Thánh đương mong đợi,
Thoát tục non Tiên vội đến chầu.
Ủ dột rừng tòng xơ xác cảnh,
Rơi tan khối ngọc sụt sùi châu.
Lời vàng trau đổi từ đây dứt,
Giấc mộng họa chờ gặp gỡ nhau.

Ðã từng cực nhọc đắp nền nhân,
Chưa toại ước mong vội lánh trần.
Ðau khổ trả xong trường thế sự,
Nghiệp công ghi tạc chốn Ðài vân.
Tiếng cầm ấp lỗ đương êm ái,
Ngọn bút thần cơ đã đoạn phân.
Vì Ðạo mấy muơi năm tận tụy,
Nghìn thu lưu mãi nét tinh thần.
                                               THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG
            (Trích Thông Tin số 103, ngày 23/7/1974)

TIỄN HÀNH
            hai vị CHỨC SẮC đi truyền Ðạo MIỀN BẮC và TRUNG

Chia đường tạm biệt buổi hôm nay,
Ði, ở dường khêu mối cảm hoài.
Trời Bắc gắng khua chuông cảnh tỉnh,
Cõi Trung gìn giữ trí anh tài,
Soi gương đạo nghĩa nêu tâm chánh.
Dìu dắt phồn hoa trải tiết ngay,
Non nước sẵn cầm tay tạo khách,
Ra công cho xứng phận làm trai.
                                                           HUỆ GIÁC

            TIỄN HÀNH KHÂM TRẤN ÐẠO BIÊN HÒA
            Giáo Sư Thượng Cảnh Thanh.
Rồi đây Khâm Trấn bước lên voi,
Ðáo nhậm Biên Hòa thấy có mòi.
Bổn Ðạo hoan nghinh vang tiếng trống,
Ðồng bào tiếp đón dội hơi còi.
Noi gương Thánh đức tiền nhân nối,
Truyền giáo Cao Ðài hậu thế roi.
Bốn biển như nhà quân tử chí,
Công thành danh toại đáng vàng thoi.
                                               HIẾN PHÁP TRƯƠNG HỮU ÐỨC

HỌA VẬN
Hành Ðạo đâu cần dụng ngựa voi,
Miền Ðông Khâm Trấn đã nên mòi.
Kinh luân rộng mở vun nền Thánh,
Hòa ái bền giao nhặc tiếng còi.
Gắng chí độ đời danh tạc để,
Tận tâm dìu chúng sử truyền roi.
Công thành Thiên vị thêm cao trọng,
Hơn được vàng cân nặng mấy thoi.
                                               CAO THƯỢNG SANH

THI
Dòng trôi người của cũng tiêu đồng,
Tự tỉnh trường tu gắng để công.
Bờ giác lần theo vầng nguyệt rạng,
Bến mê dập tắt mảnh hương nồng.
Ðạo mầu sớm học noi gương Thánh,
Ðảnh túy sau vui dựa nệm Bồng.
Giành giựt mà chi rồi phủi sạch,
Tuồng đời nhìn thấy những đau lòng.
                                                           CAO THƯỢNG SANH
            (Trích Thông Tin số 113, ngày 23 /12 /1974

THI XUÂN
Thanh thoát rừng thung tiếng gió ngàn,
Muôn hồng ngàn tía báo Xuân sang.
Xung xăng khóm liễu khoe cành biếc,
Hớn hở vườn mai điểm nhụy vàng.
Chan rưới ân hồng Trời đổi sắc,
Phô trương cẩm tú đất thay màn.
Thái bình chung hưởng cầu trăm họ,
Ðời Ðạo trùng hưng trọn vẻ vang.
                                                           CAO THƯỢNG SANH
            (Trích Thông Tin số 116, ngày 7/3/1975)

KHUYẾN TU
Trước làm Tiên Phật phải làm người,
Muốn đặng làm người chẳng phải chơi.
Bác ái ví chưa tròn bước Ðạo,
Từ bi đâu vẹn chí thương Ðời.
Mùi trần dầu thoát bao vòng lụy,
Bể khổ còn qua mấy dặm khơi.
Trau rạng lòng son sanh chúng độ,
Thênh thang nương bóng ngọn đèn Trời.
                                                           HUỆ GIÁC
            (1948) (Trích Thông Tin số 98, ngày 16/5/1974)

ÐIỆU SONG THANH
Xẩn bẩn trời mơi kế xế chiều,
Sầu đâu chất ngất cứ đeo theo.
Xa nhà bát ngát lòng trông mãi,
Quạnh cảnh xơ rơ trí nghĩ nhiều.
Lách tách mưa thưa đêm bứt rứt,
Bùi ngùi trống gióng tiếng đìu hiu.
Âm thầm tự sự ai hay biết,
Lật bật đông phong tối thổi vào.
                                               CAO THƯỢNG SANH
            (15/11/1958) (Trích Thông Tin số 98, ngày 16/5/1974)

TRÒ ÐỜI
Thế thường khinh nghĩa trọng tiền tài,
Hễ thấy hơi đồng chực mó tay.
Không bạc túi, dầu tròn cũng méo,
Sẳn tiền lưng, thật dở ra hay.
Tham vàng hại chúng đời ly loạn,
Cứu khổ dìu người Ðạo chuyển xoay.
Nhắn kẻ tu hành nên vẹn phận,
Ðừng mê của quấy, đọa hình hài.
                                                           HUỆ GIÁC
             (4/3/Canh Tuất - 1970) (Trích Thông Tin số 98, ngày 16/5/1974)

AI ÐIẾU BẢO ÐẠO
Cỡi hạc anh đà tách dặm tây,
Từ nhau oằn oại gánh tình nầy.
Muôn lằn sóng thảm nơi trần tục,
Ngàn dặm bước nhàn tách gió mây.
Cõi thọ anh nương theo huệ bóng,
Thân phàm em trẻ chịu chia bầy.
Vui buồn sớt thảm ơn xưa tạc,
Càng nhớ càng sầu khó giải khuây.
                                                           PHẠM HỘ PHÁP

                                                                       HỌA NGUYÊN VẬN
Hoàng hôn ác lặn xế non tây,
Cách trở xui chi cảnh thảm nầy.
Ðộ chúng xưa từng chia gánh khổ,
Lìa trần nay vội tách đàng mây.
Rừng thiêng ngắm chạnh nhà chinh bóng,
Ðảnh túy buồn trông én tách bầy.
Lau lụy ít hàng xin kỉnh điếu,
Tình nồng bao thuở dạ đâu khuây.
                                                                                              CAO THƯỢNG SANH

            (Trích từ quyển Tiểu Sử Ðức Q. Giáo Tông Thượng Trung Nhựt)
   Home                        1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét