Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Tòa Thánh Tây Ninh
Pháp Chánh Truyền
Chương III
I -
Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền
CỬU TRÙNG ĐÀI NAM
PHÁI
[Ngày 16 -10-Bính Dần (dl: 20-11-1926)]
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI Giáo Ðạo Nam Phương.
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Hỉ Chư Môn Ðệ.
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Hỉ Chư Môn Ðệ.
Chư
Minh Lý có mặt há?
Thầy
mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe:
Thầy
lập phẩm GIÁO TÔNG nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt
cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
Thầy
mừng các con ! Chư Môn Ðệ nghe: Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về
phần hồn. Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa
Giới đặng cầu rỗi cho các con, nghe à.!
Chư Môn
Ðệ tuân mạng !
CHƯỞNG
PHÁP của ba phái là: ĐẠO- NHO- THÍCH;
Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mắt Thầy vốn coi như một vậy,
thì một thành ba, mà ba cũng như một. Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước
buổi thi hành; hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống hay là nơi Ðầu Sư dâng lên.
Như hai đàng chưa thuận thì chúng nó phải dưng lại cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên
Ðài cầu Thầy giáng xuống sửa lại, hay là tùy ý lập Luật lại. Vậy chúng nó có
quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông, như thoảng có Kinh luật chi làm
cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản. Buộc các Tín Ðồ
vùa sức mà hành sự trước mặt Luật đời, Thầy khuyên các con rán xúm nhau mà giúp
chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng, ba ấn phải có đủ trên mỗi Luật mới đặng
thi hành.
Chư Môn
Ðệ tuân mạng !
ÐẦU
SƯ có quyền cai trị phần Ðạo và phần
Ðời của Chư Môn Ðệ. Nó đặng quyền lập Luật, song phải dâng cho Giáo Tông phê
chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt coi phải có ích cho nhơn
sanh chăng ! Nên Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê
chuẩn.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh GIÁO TÔNG, làm y như luật lệ Giáo Tông khuyến dạy;
như thoảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng
phép nài xin hủy bỏ. Thầy khuyên các con phải thương yêu nhau và giúp đỡ nó,
Thầy lại dặn các con: Như có chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó. Ba Chi tuy
khác chớ quyền luật như nhau, như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả BA
đều ký tên không tuân mạng, thì Luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo
Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, chúng nó có ba cái ấn riêng
nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ẤN mới thi hành nghe à.!
Chư Môn
Ðệ tuân mạng !.
PHỐI
SƯ mỗi phái là mười hai người cộng là
ba mươi sáu, trong 36 vị ấy có ba vị CHÁNH PHỐI SƯ. Ba vị ấy đặng thế quyền cho
ÐẦU SƯ mà hành sự, song không quyền cầu phá luật lệ nghe à.!
Chư Môn
Ðệ tuân mạng.!
GIÁO
SƯ có 72 người, trong mỗi phái là 24
người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư Môn Ðệ trong đường Ðạo với đường Ðời.
Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em, chúng nó cầm sổ bộ
của cả Tín Ðồ. Chúng nó phải chăm nom về sự Tang, Hôn của mỗi đứa.
Như tại
Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và
Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về Luật lệ làm hại nhơn sanh, hay
là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ như anh
em một nhà cần lo giúp đỡ nghe à.!
Chư Môn
Ðệ tuân mạng.!
GIÁO
HỮU là người để phổ thông chơn Ðạo
của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia
ra đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng
phép khi hành lễ làm chủ các Chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Ðiều chi chúng nó xin thì
buộc GIÁO TÔNG phải cần mẫn xét nét hơn hết, như điều gì mờ hồ thì chúng nó là
kẻ sai đi kiểm duyệt. Chúng nó phải đủ hạnh đức, tư cách mới đặng, vì chúng nó
là người thân cận với nhơn sanh hơn hết... nghe à.!
LỄ
SANH là người có hạnh lựa chọn trong
chư Môn Ðệ để hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi Khai đàn cho mỗi Tín Ðồ. Thầy dặn
các con hiểu rõ rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng
nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc. Kỳ dư Thầy phong
thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.!
Chư Môn
Ðệ tuân mạng.!
... Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt NỮ PHÁI, công con Thầy chẳng quên,
con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à !.
Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần:
THẦY
- Ðầu Sư muốn
lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử.
- Phối Sư muốn lên Ðầu
Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì
nhờ 72 vị xúm nhau công cử.
- Giáo Hữu muốn lên
Giáo Sư, thì nhờ 3000 vị xúm nhau công cử.
- Lễ Sanh muốn lên
Giáo Hữu, thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
- Môn Ðệ muốn lên Lễ Sanh
thì nhờ cả Môn Ðệ xúm nhau công cử, kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào mới
ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn
GIÁO TÔNG thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho
toàn Môn Ðệ công cử mới đặng; kỳ dư Thầy giáng Cơ ban thưởng mới ra khỏi luật
lệ ấy mà thôi. Chư Môn Ðệ tuân mạng.!
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.”
* * *
Tóm tắt về Hệ thống tổ chức Cửu
Trùng Đài:
Cơ quan Cửu Trùng Đài có ba cấp kể
từ trên xuống là: Tiên vị, Thánh vị, Thần vị. Mỗi cấp như vậy gồm có ba phẩm và
có phần đối phẩm, theo bảng tóm tắt sau:
- Tiên vị: Giáo
Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư
- Thánh vị: Phối Sư, Giáo Sư, Giáo
Hữu
- Thần vị: Lễ
Sanh, Bàn Trị Sự, Tín đồ.
Nếu nhìn vào ba cơ quan của nền Đại Đạo thì:
- Bát
Quái Đài dưới quyền Đức Chí Tôn chưởng quản ấy là cơ quan LẬP PHÁP.
-
Cửu Trùng Đài dưới quyền Đức Giáo
Tông Chưởng Quản ấy là cơ quan HÀNH PHÁP
-
Hiệp Thiên Đài dưới quuyền Đức
Hộ-Pháp Chưởng Quản ấy là cơ quan TƯ PHÁP
II- Đức
Chí-Tôn lập PHÁP CHÁNH TRUYỀN HIỆP
THIÊN ĐÀI
Ngày
12-01-Ðinh Mão (dl: 13-2-1927 )
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương
Các con. Cả chư môn đệ khá tuân
mạng !
Hiệp Thiên Đài là nơi THẦY ngự cầm
quyền thiêng liêng mối Ðạo. Hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.
Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui
phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh
giáo mà lập ra Phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ
các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.
Lại nữa, Hiệp Thiên Ðài là nơi của
Giáo Tông đến thông công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên Thế giới, Lục thập
bát Ðịa cầu, Thập Ðiện Diêm Cung, mà cầu siêu cho cả nhơn loại.
Thầy đã nói sở dụng thiêng liêng,
Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Hiệp Thiên Ðài dưới quyền Hộ Pháp
chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm.
Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân
chia làm ba:
1. Phần của HỘ PHÁP chưởng
quản về PHÁP thì:
-
HẬU là Bảo Pháp, (1)
-
ÐỨC là Hiến Pháp,
- NGHĨA
là Khai Pháp,
- TRÀNG
là Tiếp Pháp,
Lo bảo hộ Luật đời và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.
2-
THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần ÐẠO:
-
CHƯƠNG là Bảo Ðạo,
- TƯƠI
là Hiến Ðạo,
- ÐÃI
là Khai Ðạo,
-
TRỌNG là Tiếp Ðạo, (2)
Lo về
phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực
chẳng cho ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.
3.
THƯỢNG SANH thì lo về phần ÐỜI:
- BẢO
THẾ thì PHƯỚC
- HIẾN
THẾ - MẠNH
- KHAI
THẾ - THÂU
- TIẾP
THẾ - VĨNH
Thầy
khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo.
Thầy
cho các con biết trước rằng: Hễ trọng quyền ắt trọng phạt. Thầy ban ơn cho các
con”.
* * *
Luận: Bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí
Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài, ngày 12-01-Ðinh Mão (dl: 13-02-1927 ) và phong chức chánh thức cho Thập Nhị Thời Quân mà trước
đây Ðức Chí Tôn chỉ tạm phong là: Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.
Chức sắc cầm quyền Hiệp Thiên Ðài
gồm có:
- Chưởng quản HIỆP THIÊN ĐÀI và
Chưởng quyền Chi PHÁP là Ðức HỘ-PHÁP PHẠM CÔNG
TẮC.
Phụ Tá Hộ Pháp có Thượng Phẩm và Thượng Sanh:
- Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư
Chưởng quyền chi Ðạo
- Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang
Chưởng quyền chi Thế.
Dưới Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng
Sanh có Thập nhị Thời Quân, chia ra ba Chi: Pháp- Ðạo -Thế.
Chi Pháp
gồm bốn vị Thời Quân:
Nguyễn Trung Hậu - Bảo Pháp
Trương Hữu Ðức -
Hiến Pháp
Trần Duy Nghĩa
- Khai Pháp
Trương Văn Tràng - Tiếp Pháp
Chi Ðạo
gồm bốn vị Thời Quân:
Ca Minh Chương - Bảo Ðạo
Phạm Văn Tươi -
Hiến Ðạo
Phạm Tấn Ðãi -
Khai Ðạo
Cao Ðức Trọng - Tiếp
Ðạo
Chi Thế
gồm bốn vị Thời Quân:
- Bảo Thế: Lê
Thiện Phước
- Hiến Thế: Nguyễn
Văn Mạnh.
- Khai Thế: Thái Văn Thâu.
- Tiếp Thế: Lê Thế
Vĩnh.
(1) Bảo là giữ gìn; Hiến là
dâng; Khai là mở, bày ra; Tiếp là rước. Ông
Cao Ðức Trọng đắc phong Tiếp Ðạo sau hết.
Chú giải:
Theo ÐS.II. 11-12, để dự bị Thập
nhị Thời Quân, ÐỨC CHÍ TÔN lập 6 cặp Phò loan, phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo sĩ,
gồm:
1- Trương Hữu Ðức - Nguyễn Trung
Hậu: Phò loan tại đàn Cầu Kho (nhà của Ông Ðoàn Văn Bản).
2- Trần Duy Nghĩa -Trương Văn
Tràng: Phò loan tại đàn Lộc Giang (Phuớc Long Tự Chợ Ðệm, sư trụ trì: Yết Ma
Giống)
3- Phạm Văn Tươi - Ca Minh Chương:
Phò loan tại đàn Tân Kim (nhà Hội Ðồng Nguyễn Văn Lai, xã Tân Kim, Cần Giuộc)
4- Nguyễn Thiêng Kim - Phạm Tấn
Ðãi: Phò loan tại đàn Long Thành Tự ở gần Chợ Rạch Kiến, Cần Ðước).
5- Huỳnh Văn Mai - Võ Văn Nguyên:
Phò loan tại đàn Thủ Ðức (nhà của Ông Ngô Văn Ðiều, gần Chợ Thủ Ðức).
6- Nguyễn Văn Mạnh - Lê Thiện
Phước.
Khi lập Pháp Chánh Truyền HIỆP THIÊN ĐÀI, ba vị Phò
loan: Nguyễn Thiêng Kim, Huỳnh Văn Mai, Võ Văn Nguyên không đến dự, nên ba vị
nầy không được vào Thập nhị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài. Ðức Chí Tôn phong cho ba
vị khác là: Thái Văn Thâu, Lê Thế Vĩnh, Cao Ðức Trọng.
Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn
phong sau cùng khi Ðức Chí Tôn bảo Ðức Hộ Pháp lên Nam Vang mở đạo. Tại Nam
vang, Ðức Hộ Pháp phò loan cùng Ngài
Cao Ðức Trọng, để Ðức Chí Tôn giáng
thâu môn đệ.
Ngài Cao Ðức Trọng được Ðức Chí Tôn
ân phong Tiếp Ðạo ngày: 29-6-Ðinh Mão (dl: 27-7-1927 ).
Đặc biệt: Đạo Cao Đài ngày nay thông công (tức liên lạc) với các Ðấng
thiêng liêng qua CƠ BÚT của Hiệp Thiên Ðài để tham khảo ý kiến hay nhận mệnh
lệnh.
- Lục thập bát Ðịa cầu là Ðịa
cầu Thứ 68 mà nhơn loại đang sinh sống trong số Thất thập nhị Ðịa. Dưới Ðịa cầu
số 68 còn 4 quả địa cầu nữa, gọi là U Minh Ðịa.
- Thập Ðiện Diêm Cung là 10 Cung Ðiện của 10 vua Diêm Vương (Thập Ðiện Diêm
Vương).
- Sở dụng là Sự quan trọng về công
dụng của nó.
Tại sao chi Đạo và chi Pháp Thầy
lại để tên của Chức sắc trước, phẩm tước sau? Riêng chi Thế thì phẩm tước
trước, tên Chức sắc sau?
Đức Thượng Sanh nói: Các
bậc hiền thời xưa đựơc có cái tiết tháo như vậy là nhờ biết phân biệt cái tước
của Trời cho và cái tước của người cho: Nhân-Nghĩa, Trung-tín, vui làm điều
lành không mỏi là cái tước của Trời cho, tức là Thiên tước. Công
khanh, đại-phu là cái tước của người cho, tức là Nhơn tước. Người
xưa lo sửa cái Thiên-Tước thì cái Nhơn tước theo sau và được bền bĩ. Người đời
nay chỉ lòe mình có cái Thiên tước để cầu lấy cái nhơn-tước; khi đã được cái
nhơn tước rồi thì dẹp bỏ cái thiên-tước không nói đến nữa. Như thế thì thật là
qúa nông-nỗi vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái nhơn tước cũng không giữ được
bao lâu!”
(Huấn-từ của Đức Thượng-Sanh nhân lễ tấn-phong Hiền-Tài. 08-02-Canh -Tuất
(dl: 15-03-1970 ).
Đấy cũng là lý Âm- Dương thuận
nghịch đó vậy !
Chi Đạo
(Dương), chi Thế (Âm- Đời của Đạo). Âm Dương tương hiệp. Chi Pháp
là cơ Hòa. Hiệp đủ Tam tài.
Nữ PHÁI - Cửu Trùng Ðài
-o0o-
Thánh giáo ngày 8-6-Bính Dần
(Samedi 17 Juillet 1926)
Thầy dạy thành lập Nữ phái:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO
ÐÀI
TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
Giáo Đạo Nam Phương
“Ðường Thị ! Thầy giao phe Nữ cho con lập thành. Chẳng phải vì đờn bà mà
sớm nồi cơm, chiều trã cháo hoài.
Phần các con truyền đạo kỳ Phổ-Ðộ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật
chớ Nữ lại không sao ? Thầy đã nói Bạch Ngọc Kinh có cả Nam và Nữ, mà phần nhiều Nữ
lấn quyền thế hơn Nam nhiều.
Vậy con phải tuân lịnh Thầy mà lập
thành NỮ PHÁI. Nghe và tuân, Thầy hằng ở với con, lo chung cùng con; con chớ
ngại.
H... Thầy giao Nữ Phái cho con rộng
quyền dạy dỗ, làm chủ, chờ Thầy thâu đến mà giao cho con, trách nhậm con Thầy
sẽ chia bớt với”.
Tây Ninh, vào ngày 11-01-Đinh-Mão (Thứ Bảy, 12-02-1927) Đức
Lý lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái, đồng thời Đức Lý Giáo Tông cũng ban sắc phục
cho Nữ phái.
(Trích y Thánh Ngôn của Giáo Tông
Lý Thái Bạch)
Nữ phái vốn của Ðức Lý Giáo Tông
lập thành.
Hộ Pháp nhắc lại lời Thầy nói cùng
Chánh Phối Sư HƯƠNG THANH rằng: muốn phế Nữ Phái, song con cũng đồng con, hễ
bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam, Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong
cho Nữ Phái buổi lập Pháp Chánh Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền bí với
Thầy cùng Ngọc Hư Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam lòng
để cho Ðức Giáo Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật lệ Thiên Ðiều hay chăng
? Hễ càng suy nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày. Xem lại Nữ Phái không biết trau
giồi trí thức đặng làm trách nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu lo thêm
nữa Chính mình Cao Thượng Phẩm mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài
cầu xin tha thứ cho Nữ Phái nơi Ngọc Hư, bằng chẳng thì đã bị phế; xin chư Ðạo Tỷ
để dạ lo lấy phận mình.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Hội Thánh
nghe Lão ban sắc phục cho Nữ phái; nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ
theo đẳng cấp".
CHÚ GIẢI: Ðức Giáo Tông đến kêu Hội
Thánh Nam Phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ Phái Ngài đến ban đặng
hành lễ theo đẳng cấp.
Giáo Tông duy chỉ dặn xem sắc tốt
ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật tự cho lắm, vì vậy mà
cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ phái phân biệt nhau, chẳng đặng chung
hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.
Hộ Pháp có hỏi Ngài về sự tôn ti
phẩm trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng quyền, còn hỏi về Lễ Nghĩa giao
thiệp về phần Ðời, thì Ngài dạy Giáo Hữu Nam Phái cũng chịu dưới quyền Giáo Sư
Nữ Phái, còn lễ thì khi vào Ðại Ðiện tỷ như Giáo Sư Nam Phái gặp Phối Sư Nữ
Phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy Chức Sắc.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nữ Phái phải tùng
Ðầu Sư Nữ Phái song Ðầu Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp.
CHÚ GIẢI: Hội Thánh Nữ Phái phải
tùng quyền Ðầu Sư Nữ Phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo Tông và Chưởng
Pháp.
Xem rõ lại thì Pháp Chánh Truyền
truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.
Hộ Pháp để lời phân phiền cùng Thầy
như vầy: Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy
truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng
Pháp và Giáo Tông, thì con e mất lẽ
công bình chăng?
Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm Dương,
Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương thạnh mới
bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt,
Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám, mà bị
tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo Tông làm
chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám muội.
Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy
truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì tưởng dầu
ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là
Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng
Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ
Pháp, con ! Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã
định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp !”
Chú thích: (1) Nếu chư Hiền Hữu
biết coi Nữ Phái như em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ
như Lão vậy mới đặng làm trai con Thầy mà chớ. (2) Phải
vậy. !
IV- LUẬN ĐẠO
Như trên cho thấy rõ Pháp-Chánh-Truyền Cửu Trùng Đài Nam phái (tượng Âm)
được lập trước, kế đến lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài (tượng Dương);
như vậy là Thể pháp đến trước, Bí pháp đến sau; Âm trước, Dương sau.
Đây là Đạo Trời thì Âm- Dương là
chỉ hai quẻ: CÀN (thiên), KHÔN (địa), từ đó mới phát khởi. Song
song, thì Đức Lý lập Pháp Chánh Truyền cho Nữ phái Cửu Trùng Đài, ấy là cơ HÒA,
hoàn thành con số 3 ứng với Tam Tài thật là mầu nhiệm.
I- Tại sao phải Âm trước Dương sau?
– Một: là thành
quả của quẻ ĐỊA THIÊN THÁI
Trên là KHÔN ☷ tức nhiên khí Âm từ trên giáng xuống; dưới
là CÀN ☰ khí Dương từ dưới
bốc lên, hai bên giao hòa, thế mới gọi là THÁI, là hanh thông, Càn Khôn giao
nhau, lấy Âm bao Dương, vạn vật mới sanh sanh hóa hóa.
- Hai là mở Thể pháp trứơc, mở Bí
pháp sau, theo lời của Đức Hộ Pháp nói: "Trong thời kỳ
Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn xuống thế mở Đạo thì Đức Chí Tôn mới hỏi
rằng:
. Con phục lịnh xuống thế mở
Đạo, con mở Bí Pháp trước hay là mở Thể-Pháp trước ?
. Bần-Đạo mới trả lời: - Xin mở Bí-Pháp trước!
Chí-Tôn nói: Nếu con mở Bí-pháp
trước thì phải khổ đa ! Đang lúc đời đang cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở Bí-pháp
trước cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại,
thì mối Đạo phải ra thế nào ? Vì thế nên mở Thể-pháp trước, dù cho đời quá dữ
có tranh giành phá hoại cả cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại. Xin
miễn là mặt Bí-Pháp còn là Đạo còn”.
[ĐHP: 30-5-Quí-Tỵ (1953)]
Đức Ngài dạy rằng:
“Phải hiểu THỂ PHÁP, biết Thể pháp,
rồi mới thấu đến BÍ-PHÁP. Khó lắm ! Phải để tinh-thần tìm hiểu cho lắm! Khó lắm
! Phải rán học cho lắm mới có thể đoạt đặng! Điều rất khó-khăn là
phải viết sách” (ĐHP: 5-4 Kỷ-Sửu)
Như vậy:
“LUẬT của Đạo, cốt yếu làm cái
khuôn khổ cho đại gia đình này còn, tức là làm cho nên chí Thánh; có
nghĩa là ĐỨC CHÍ-TÔN muốn tạo cho con cái của Ngài thành THÁNH thì phải làm
sao?
- Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa
cho sạch-sẽ làm
cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn
sùng yêu-ái mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-Lồ để tắm rửa linh-hồn vậy.
Chơn truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật-
Tiên- Thánh là phương để gội rửa linh-hồn”.
Thế nên trong
cửa Đại Đạo ngày nay đâu đâu cũng thấy chữ “THÁNH” như Thánh Thất, Thánh Thể
Chí-Tôn, Tòa Thánh, Thánh địa…Vậy thì người sống trên Thánh Địa này cũng
phải có Tâm Thánh; đó là điều quan trọng.
2- Vậy Thánh là gì ?
- Phân tích chữ THÁNH 聖 có ba phần: phần trên hết hợp bởi
chữ nhĩ 耳(nhĩ là lỗ tai, tai để
nghe) kế đến chữ khẩu 口 (khẩu là miệng, miệng để nói); nghe
là học, nói là hành; tức là “Tri hành hiệp nhứt” dù khi còn học hay khi ra thực
hành cũng được mọi người khen tặng, nễ vì như một vì VƯƠNG 王 (vương là vua). Trong chữ
Vương 王 lại có
Càn ☰ 3 nét, ấy là Tam
Tài: Thiên- Nhân- Địa, đó vậy. Tức nhiên chữ Vương đặt ở dưới hai chữ nhĩ
và khẩu đã nói trên, họp lại là chữ THÁNH 聖 là người tài đức thông hiểu
mọi việc.
Luận
về Tài Đức, Bát Nương Diêu Trì Cung
dạy:
Tài
lấn đức tài mau diệt tận,
Ðức
đồng tài, tài phấn khởi thêm.
Mênh
mông biển khổ con thuyền,
Ðạo
sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần.
Ỷ
tài sức cậy thân dựa thế,
Tài
càng nhiều càng lụy đến thân.
Tài
kia tai nọ luôn vần,
Ðức
tài trau luyện đồng cân mới mầu.
Trăm
năm một cuộc bể dâu !
Tố
Như Tiên sanh là cụ Nguyễn Du dạy đời qua hai câu:
“Thiện
căn ở tại lòng ta,
“Chữ
Tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Ở người
tài ba, đạo đức cao thượng thì ba nét (Tam tài) này là phải đạt cho được những
điều tối yếu:
- Trên thông thiên văn,
- Dưới đạt địa lý,
- Giữa quán nhân sự.
Lại nữa
chữ vương 王 thì nét trên là thiên, dưới là địa, nét giữa là nhân;
là phải thông suốt, chữ Thập ở giữa
là sự quán thông thiên địa. Chúa Cứu Thế chết ở chữ Thập này.
Nếu giải chữ THÁNH qua bốn chiều không gian, thì chữ THANH
đứng vào trung tâm, tức nhiên điều cần yếu là phải tự thanh lọc, đạo đức, rồi
từ đó biết hướng thượng là nên THÁNH. Dẫu làm việc gì cũng THÀNH, được thành
công bởi đã noi theo căn bản tốt đẹp thì THẠNH bình, thạnh vượng. Vậy là tâm hồn THẢNH
thơi, hạnh phúc.
3- Thánh Thể CHÍ TÔN khởi từ GIÁO HỮU 教友
Trong
cửa Đại Đạo ngày nay Giáo Hữu đã vào Thánh-vị, đối phẩm ĐỊA THÁNH nên Pháp
Chánh truyền qui định:
“Giáo-Hữu
là người để phổ-thông Chơn Đạo của Thầy” nhưng Thầy buộc:
-
Phải học cho lảu thông Chơn Đạo của Thầy.
-
Phải có khoa-mục mới đặng.
-
Phải thể Đạo cho xứng đáng Tôn-chỉ của Đạo.
“Cái
phận sự phổ thông là một phận sự lớn lao quí trọng, nếu chẳng biết tôn chỉ của
Ðạo cho thông suốt, lại đem xuống truyền bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch
cùng chơn lý của Ðạo, là hại Ðạo. Huống chi Thầy đã nói GIÁO HỮU là
người thân cận của nhơn sanh hơn hết, nếu chẳng lựa chọn kẻ hạnh đức, tu tâm,
có đủ tư cách mà bày gương Ðạo cho rõ ràng, nhơn sanh chỉ để mắt vào đó mà
khen, hay là chê Ðạo, vì sự chơn thật, hay là giả dối, nhơn sanh chỉ coi đó mà
quyết đoán. Trò phải như Thầy, mà Thầy thế nào Trò phải thế ấy, nhơn sanh xem
Trò mà đoán Thầy. Cái thể thống của Ðạo Thầy gọi là chơn thật thì phải hành Ðạo
thế nào cho ra chơn thật y như Thầy sở định. Bực trí thức, muốn quan sát một
nền Ðạo nào, thì chẳng cần biết hết Chức Sắc, chỉ lựa một phẩm vị yếu trọng hơn
hết là bực hạ thừa, mà so sánh tư cách, hạnh đức, đặng quyết đoán tôn chỉ nội dung
của Tôn Giáo ấy.. Muốn cho xứng đáng thì phải thông suốt cả các chơn lý Ðạo”.
(PCT)
GIÁO HỮU là người phải đạt Tam Tài như trên đã nói. Vì sợ e rằng còn
khiếm-khuyết, chưa đầy đủ nên mới “buộc”. Ở vào thời-kỳ còn buộc tức là còn
nghi ngờ, chờ sự kiểm điểm, khảo-duợt, lọc lừa, nên ứng với lời chiếm của hào
Sơ Cửu quẻ CÀN là “Tiềm Long vật dụng”.
Vật dụng tức là chớ dùng. “Chớ dùng” đây là vì vấn đề trọng-yếu chớ
không phải không dùng được, vì tính cách hào Sơ Cửu quẻ Kiền là Dương cương ở
vào vị Dương được đắc chính, cho nên phẩm Giáo-Hữu chỉ được
dạy bạn mà thôi, ở vào thời “Chớ dùng”, cho nên phải:
-
Tích-luỹ tài năng, đức độ cho được cao dày: sáng chói hơn, vững-vàng hơn, thông
suốt nhiều hơn.
- Chờ
sử dụng cho đúng với địa vị và quyền hành thích đáng hơn;
- Chờ
đúng thời-gian, đúng lúc, vì mỗi phẩm cấp phải đủ năm năm công quả mới được
thăng lên phẩm kế tiếp, với điều kiện công nghiệp không gián đoạn.
GIÁO-HỮU,
là một phẩm cấp đầu tiên bước vào hàng THÁNH, là nền tảng của Đại Đạo nên Chí
Tôn đã chủân bị kỹ lưỡng. Từ đây những phẩm kế tiếp cứ theo cái đà tiến triển
đó mà tiến dần vừa là TÀI NĂNG vừa là ĐỨC HẠNH thì tương lai sẽ có một HỘI
THÁNH HÒAN TÒAN TỐT ĐẸP, lo gì nền Đại Đạo này không phổ biến khắp năm châu như
Thánh Ý của Thầy truyền đến ĐẠI ĐỒNG THẾ GIỚI trong Thất ức niên tuổi Đạo..
Thánh
Ngôn:“Hiệp-Thiên-Đài còn chưa muốn nhìn, thì ĐẠO một ngày kia cũng sẽ bị chối.
Thầy tìm phương sửa cải cũng đáng đó chút ! Nhưng cũng bởi chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật muốn cho rõ cơ ĐẠO của thế-gian này, nên Thầy không giáng cơ mà
phân-giải lại nữa. Các con đã chịu một trách-nhiệm nơi mình, nếu Thầy chẳng để
cho các con học tập mà lập nên địa-vị mình trước mặt chúng sanh cho xứng-đáng,
thì Đạo cũng chưa ra vẻ Đạo. Vì vậy mà Thầy chịu ép lòng để cho các con hằng
nhớ rằng: Chẳng giờ phút nào Thầy xa các con hết. Nghe à!
THI
Cậy
kẻ dạy con cũng lẽ thường.
Cho roi cho vọt mới là thương.
Nhơn-tình
ví chẳng mưu thâu-phục,
Thế-giới mong chi phép
độ lường.
Nhỏ dại Thầy nuôi mùi
đạo-hạnh,
Lớn khôn bây xứng mặt
hiền-lương,
Vinh-hoa phẩm cũ ngôi xưa đó,
Khổ cực các con chớ bỏ
trường.!
* * *
V- PHÁP CHÁNH TRUYỀN CHÚ GIẢI VỀ QUYỀN HÀNH của GIÁO TÔNG.
A-
Pháp Chánh Truyền: Giáo Tông là ANH CẢ các con
LUẬN: Trong
nền Đạo có hai Giáo Tông là hai Anh Cả:
- Một
về vô vi: là Đức Lý Thái Bạch Kim Tinh,
-
Một hữu hình là Quyền Giáo Tông Lê văn Trung
Cả hai đều là ANH CẢ của nhơn sanh được tôn tặng.
Đức
Hộ-Pháp nói: đêm nay 17-8-Quí Tỵ (1953): Vía Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo
Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ðức Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Ðức
Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển
linh, quyền năng vô đối.
Chữ Hán
gọi ANH là Huynh 兄 trong chữ huynh có hai phần: trên là chữ khẩu 口 là
cái miệng để nói, dưới là bộ Nhơn đứng 儿. Thế
thường, Anh là người chỉ có quyền dùng lời nói dạy bảo em. Khi cha mẹ còn tại
tiền thì Anh là “Quyền huynh thế ngôn”, khi cha mẹ mãn phần thì Anh là “Quyền
huynh thế phụ”; nghĩa là trong nền Đại Đạo, Đức Chí-Tôn muốn cả thảy xem nhau
như ruột thịt.
CHÚ GIẢI:“Giáo
Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì ANH CẢ nhơn
sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền
Thiêng Liêng đã định vậy.
Tuy
trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: "Cửu Trùng Ðài" và
"Hiệp Thiên Ðài" mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là
em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ
phần Thiêng Liêng thì đồng vị”.
LUẬN: Về
thiêng liêng thì đồng vị, nên: đồ hình bên đây biểu tượng bằng hai hình tam
giác đều (suy từ hai quẻ Càn ☰ Khôn ☷) cùng nội tiếp trong vòng tròn. Nhưng:
-Hộ
Pháp tượng tam giác đỉnh quay lên, vì
Hiệp Thiên Đài (Đạo- Dương quẻ Càn).
-
Giáo Tông tượng tam giác đỉnh quay
xuống, vì là Cửu Trùng Đài (Đời- Âm quẻ Khôn)
Xem ra: Đời (Âm), Đạo (Dương) tức nhiên trong Âm có Dương và trong Dương có Âm,
gọi là “Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn” luôn luôn là qui luật,
ấy là ĐẠO- ĐỜI tương đắc (nhưng Đời đây là Đời trong Đạo, phân biệt với đời của
đời có khác nhau xa).
-
Giáo Tông lớn ở dưới (Anh Cả - đỉnh
dưới của tam giác)
-
Hộ-Pháp nhỏ mà ở trên (Em- đỉnh trên
của tam giác).
Thượng Đế ngự vào tâm để chứng minh quyền Thiêng Liêng là tối thượng. Tam Kỳ
Phổ Độ này Đức Thượng Đế là Giáo Chủ về vô vi. Ngài đến ban quyền Chí Tôn tại
thế cho hai ông Chủ của hai Đài hữu hình là Giáo Tông và Hộ-Pháp: khi hiệp một
là quyền Chí-Tôn tại thế.
Ngày
nay, Thầy đến chia đôi quyền CHÍ TÔN ra:
-
GIÁO TÔNG chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về phương châm giáo
hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN trong đường Ðạo
và đường Ðời mà thôi .
- Còn
HỘ-PHÁP có đặc quyền gìn giữ luật
pháp, bảo thủ chơn truyền; gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn
hàng thất thứ.
Phương
pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và còn chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên
chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của Người.
Thánh
Ngôn: “Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên
Phật
cũng Thầy. Thầy đã nói một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là
chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con
là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy
mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật”.
PCT: Có
quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
CG:
Giáo Tông đặng đồng quyền cùng Thầy mà dạy dỗ cả chư Môn Ðệ của Thầy trong
đường Ðạo-đức, dìu bước từ người, chăm nom săn sóc cho khỏi phạm Thiên
Ðiều, thì là buộc tuân y TÂN LUẬT. Ấy vậy dầu cho phẩm vị nào phạm tội; thì
Giáo Tông cũng chẳng vì tình riêng gọi là tha thứ khoan dung, để lòng che chở,
làm cho kẻ phạm phải mất Thiên-vị, lại gây điều đố kỵ của nhơn sanh, làm cho
nhẹ giá trị của nền Chánh Giáo. Những sự đau thảm khó khăn của Tín Ðồ tức là
chúng sanh, những sự khổ hạnh của Hội Thánh, nghĩa là hàng Chức Sắc Thiên
Phong, thì Giáo Tông phải liệu phương che chở an ủi làm cho đời khổ não hóa ra
đời hạnh phước; người nắm trọn quyền thể Thiên hành hóa, ấy là phận sự tối cao
tối trọng của Ðức Giáo Tông đó.
PCT: Nó
có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
CG:
Hễ nói về phần xác là nói phần hữu hình, mà nói về phần hữu hình của chúng sanh
tức là nói về phần Ðời. Còn như nói về phần hồn tức là phần Thiêng Liêng ấy là
phần Ðạo.
Trên
đây Thầy đã nói rằng: Có quyền dìu dắt trong đường Ðạo và đường Ðời, thì
Thầy đã chỉ rõ rằng, có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường
Ðạo Ðức của chính mình Thầy khai tạo và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên; chớ
chẳng phải nói trọn quyền về phần Ðạo và phần Ðời, nghĩa lý
phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN,xin
rán hiểu đừng lầm hai chữ ấy”
LUẬN
ĐẠO:
1-
Phân biệt chữ ÐƯỜNG và chữ PHẦN:
Đường
Đạo Thầy mở ra ngày nay là con đường “phản bổn hòan nguyên” ấy là ĐƯỜNG THIÊN
ĐẠO. Đặc biệt là Thầy đến ban cho nền ĐẠI ĐẠO này thêm hai Bát Quái nữa làm
hành trang cho bước đường trở về:
Đây là nói đến hai Bát Quái Cao Đài:
(Xem khai triển các Bát Qúai. Trang: 68- 82)
Ấy là nhiệm vụ của Đức Giáo Tông hữu hình đó:
-
“Có quyền dìu dắt cả các con cái của Thầy trên con đường Ðạo-đức của chính mình
Thầy khai tạo”, nghĩa là dẫn dắt
“con cái của Thầy” phải đạt cho được BÁT QUÁI HƯ VÔ, chính là đường trở về để
hiệp nhứt với Thượng Đế là Đức Chí-Tôn - Đại Từ Phụ.
(Bát Quái luyện Đạo trên Áo Tiểu phục Giáo Tông)
-
“Và trên con đường Ðời cơ Ðạo gầy nên” Đó là con đường giáo hóa nhơn sanh, là biểu tượng của BÁT
QUÁI ĐỒ THIÊN, mà quyền hành Giáo Tông đã thể thiên hành hóa, dìu dắt chúng
sanh thi hành TAM LẬP: lập Đức, lập Công, lập Ngôn và đạt cho được ba ngàn công
quả.
Vì lẽ
đây là con “ĐƯỜNG” THIÊN ĐẠO, duy nhứt trong cửa Đạo Cao Đài do Đức Chí-Tôn đến
ban thêm cho
hai BÁT
QUÁI trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này mà thôi.
Còn
trước đây chúng sanh đã biết qua nhiều về THẾ.
ĐẠO hay Nhơn Đạo tức là thực hành hai Bát Quái đã có từ trước, nhờ đó mà
nhân lọai đã văn minh đến tuyệt đỉnh, đây là phần hành của ĐẦU SƯ. Qua hai Bát
Quái Tiên Thiên và Hậu Thiên, ấy PCT nhấn mạnh là chữ “PHẦN”:
Nói
chung đây là “PHẦN” THẾ ĐẠO tức là gồm cả phần Đạo và phần Đời, cũng có Bí pháp
và Thể pháp của Thế Đạo nữa.
Đấy
là đã giải rõ về “nghĩa lý phân biệt nhau duy có chữ ÐƯỜNG và
chữ PHẦN” .
Tóm
lại:
-
Giáo Tông nắm hai Bát Quái Cao Đài để
thể Thiên hành chánh, là con ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO:
1-Bát
Quái Hư vô: ấy là Đường Đạo, thành Tiên tác Phật
2-Bát
Quái Đồ Thiên là Đường Đời, phụng sự vạn linh.
-
Đầu Sư nắm hai Bát Quái Tiên Thiên
& Hậu Thiên, mục đích là “Dạy dỗ nhơn sanh làm lành”, PHẦN THẾ ĐẠO, thực
hành Thể pháp và Bí pháp Thế Đạo:
1-Bát
Quái Tiên Thiên: là phần Đạo, giải nguyên lý vũ trụ
2-Bát
Quái Hậu Thiên:phần Đời, cách sống của con
người
Chú Gỉai: “Ðây là lời
Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.
Hộ Pháp hỏi: "Thưa Thầy theo như luật lệ
Thánh Giáo Da-Tô (1) Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về
phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có
thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con
về phần hồn đi, thì con sợ e cho
Người
không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng?"
Thầy đáp: "Cười ! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể
mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai
Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn
cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt. Hơn nữa, cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy
tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn
cho các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại
của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không
cho một người nhứt thống.
Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền
chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì
nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.
Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về phần xác
và
phần hồn (nghĩa là Ðạo và Ðời) thì "HIỆP THIÊN ÐÀI" lập ra chẳng là
vô ích lắm sao con ? "CỬU TRÙNG ÐÀI" là Ðời, "HIỆP THIÊN
ÐÀI" là Ðạo, Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo không quyền: Sức quyền
tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp
cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi
trở nên phàm giáo
(1) Bài Thánh thi của Đức Da-Tô 耶蘇 (Da
viết D) có câu:
“DA
nồi thịt xáo hại lòng đau,
“TÔ
cả Năm Châu cũng máu đào”.
LUẬN: “Trước kia Ðạo Thánh, CHÍ TÔN vì
quá thương Nhơn sanh, đã giao phần hồn và phần
xác cho Ðức Chúa Giê-Giu (Jésus Christ) đủ quyền năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn
sanh lợi dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ kế vị cho Chúa, vì mang phàm
thân nhục thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao ấy như ngọn gươm bén mà sát
phạt con cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban
cho". Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền
hành ấy ra cho Giáo Tông và Hộ Pháp.
“Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt toàn thể
con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm
lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên
Triều, trọn cả đường Ðạo và đường Ðời cho trọn câu Thể Thiên
Hành Hóa. Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, mà chỉ truyền hiền, chớ
không truyền tử. Như thế mới có thể lập đời Thánh Ðức trường tồn được”.
2-
Đức Thượng Phẩm nhận định về sự chia quyền:
“Nếu
một thời-kỳ mà Giáo lý đã Thất Chơn-truyền thì đem đến cho nhơn-sanh biết bao
tang-thương biến đổi. Cũng vì lẽ ấy mà nay Đức Chí-Tôn giáng trần lập
Đạo lại chia hình thể của Ngài ra hai phần để có phương
kềm thúc nhau trên bước đường lập vị.
-
Phần Cửu-Trùng-Đài chuyên về mặt giáo
hóa nhơn-sanh - Còn phần của Hiệp-Thiên-Đài thì lo về mặt Luật
Pháp để bảo-thủ chơn-truyền của Đạo. Nhờ đó nền Thánh giáo của Đức Chí-Tôn khỏi
phải qui thành phàm-giáo. Cũng vì lẽ quyền-hành riêng biệt ấy mà khiến cho hai
bên thường có phản khắc Đạo quyền, bởi tánh phàm thường hay có phạm những
lỗi-lầm mà chẳng chịu phục thiện đặng cải sửa cho trở nên tận thiện. Các Em đâu
hiểu rằng CHÍ-TÔN giao quyền sửa trị Chức Sắc, Chức việc và toàn Đạo Nam, Nữ
cho bên Hiệp-Thiên-Đài là Thánh-ý Đức Chí-Tôn muốn dùng hình phàm đặng làm cho
giảm bớt tội vô hình. Nếu ai chẳng thận-trọng để cho phạm vào Pháp Luật mà
chẳng chịu pháp sửa trị của Hiệp-Thiên-Đài thì rất uổng cho một kiếp tu mà
không trọn phận và đến khi rời bỏ xác phàm rồi làm sao có cơ hội lập công nữa
!”.
PCT: Nó
đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất
Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con.
CG:
Thầy đã nói, đặng cầu rỗi cho các con thì Thầy đã chỉ rõ rằng, Giáo Tông có
phần cầu rỗi mà thôi, chớ phần siêu rỗi là về quyền của Bát Quái Ðài chưởng
quản. Ðức Giáo Tông làm thế nào mà thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam
Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Ðịa Cầu và Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu rỗi cho các
Tín Ðồ?
Người
phải đến Hiệp Thiên Ðài cầu huyền diệu Cơ
Bút mới đặng. Xin trích lục ra đây, đoạn Pháp Chánh
Truyền
Hiệp Thiên Ðài nói về việc ấy:
"Lại nữa Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo
Tông thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập
Thất Ðịa Cầu, Thập Ðiện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại. Ấy vậy về phần
Thiêng Liêng là phần Ðạo, thì Ngài chẳng có quyền hành chi hết, dầu
cho dâng sớ cầu điều chi cùng Bát Quái Ðài, thì cũng phải do nơi Hiệp
Thiên Ðài cả. Hiệp Thiên Ðài là trung gian để liên hiệp Giáo Tông cùng chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật”.
LUẬN:
Đức Cao
Thượng Phẩm nói: “Tam Thiên Thế giới là ngôi vị, còn Thất Thập Nhị Địa là
trường thi công quả".
“Thầy
kể Tam thập lục Thiên, Tứ Ðại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là
không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Ðịa và Tam thiên Thế giới thì đều là
Tinh Tú”. Lục Thập Thất Ðịa Cầu là địa cầu thứ 67, tức nhiên
trên trái địa cầu mà nhân loại đang sống là địa cầu 68 trong số 72 địa cầu.Thầy
cho biết dầu một vị Đế Vương ở Địa cầu 68 này cũng không bằng một người thường
ở Địa cầu 67. Con số càng nhỏ dần là sự yếu trọng cho đến đệ nhứt cầu. Như vậy
Giáo Tông được phép thông công cùng “Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập
Nhị Ðịa Giới”, tức là ba mươi sáu từng Trời và bảy mươi hai Qủa địa
cầu.
Thầy cho biết là “Tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế giái, Ba ngàn quả
tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt
cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68” .
Ngày 28-8-Bính Dần (Thứ hai: 04-10-1926)
Thầy dạy: Chúng Nam nghe:
- Thầy Khổng Tử trước có Tam thiên
đồ đệ, truyền lại còn Thất thập nhị Hiền.
- Thầy Lão Tử trước đặng một trò là Nguơn Thỉ.
- Thầy Giê-Giu trước đặng Mười hai
người, chừng bị bắt còn lại là Pierre mà thôi.
- Thầy Thích-Già đặng bốn người, ba
người bỏ Thầy còn lại một.
Còn nay, Thầy giáng thế chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất
thập nhị Hiền, Tam thiên Ðồ đệ. Các con coi đó mà hiểu rằng, các con có sự mà
thiên hạ từ tạo thế đến chừ chưa hề có chăng?
Nơi Bạch Ngọc Kinh, hơn 60 năm
trước, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thấy đại nộ của Thầy, nên ra tình nguyện hạ
thế cứu đời. Thầy coi bọn ấy lại còn làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ
chi các con biết chăng?
Các con có cả ba Chánh đạo là Tam giáo, các con biết tôn trọng, ngày nay lại
thêm Chánh đạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy! Bị hàng phẩm Nhơn tước
phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con chịu
số phận bần hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy. Thầy nói cho các
con biết: Dầu một vị Ðại La Thiên Ðế xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại
địa vị đặng. Các con nghe à !”
3- Do những số vi diệu này các
Thánh lập Đạo:
- Ðức Khổng Tử xưa có Tam
thiên đồ đệ (3000 học trò),
- Trong đó có Thất thập nhị Hiền
(72 người tài giỏi),
- Trong Thất thập nhị Hiền có Thập
Triết (10 Triết gia) và đặc biệt có hai vị Thánh là: Phục Thánh Nhan Hồi, Tông
Thánh Tăng Sâm. (Ðời sau có thêm hai vị Thánh nữa là Thuật Thánh Tử-Tư và
Á-Thánh Mạnh Tử, hịêp với hai vị Thánh trước nữa gọi chung là Tứ Phối).
Ngày nay lập Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí
Tôn chọn:
- Nhứt Phật: là một phẩm Giáo Tông,
đối phẩm Thiên Tiên hay Phật vị.
- Tam Tiên: là 3 vị Ðầu Sư cho 3
phái, mỗi phái 1 vị, đối phẩm Ðịa Tiên.
- Tam Thập Lục Thánh: là
36 vị Phối Sư, chia đều mỗi phái 12 vị, đối phẩm Thiên Thánh
- Thất Thập Nhị Hiền: là 72 vị Giáo Sư, chia
đều mỗi phái 24 vị, đối phẩm Nhơn Thánh.
- Tam Thiên Ðồ Đệ: là 3000 Giáo Hữu,
chia đều mỗi phái
1000 vị, đối phẩm Ðịa Thánh.
Vậy chức sắc Cửu Trùng Ðài Nam phái cả thảy 3112 vị,
cộng số (3+1+1+2=7). Số 7 chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là
thất khiếu ở trên đầu, cũng
là chỉ Thất tình. Người tu biến thất tình thành thất bửu.
Nếu kể thêm 3 vị Chưởng Pháp nữa
(đối phẩm Nhơn Tiên) thì tổng số Chức sắc Cửu Trùng Ðài
là 3115 vị. Cộng lại sẽ là (3+1+1+5=
10) (tượng thập Thiên can).
Số 10 do 9+1 là số hiền-hòa,
lặng-lẽ, an-bình, đầm-ấm
THỰC TẾ NỀN ĐẠO
CÓ 3 GIÁO TÔNG:
Pháp Chánh Truyền qui định Giáo-Tông (1 vị) là người đứng
đầu Tôn-giáo có trách nhiệm hữu hình là “Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn”. Lãnh
đạo tối cao toàn Đạo, có phận-sự dìu dắt Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời.
Phẩm này chỉ có một mà thôi đứng vào hàng Nhứt Phật; Đối
phẩm với Thiên Tiên.
GIÁO TÔNG là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa, dìu dắt toàn thể
con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy, trọn quyền dung nạp tâm
lý của toàn thể nhơn loại đặng tạo thành một cơ quan Chánh Trị Thiên Triều.
Ngôi Giáo Tông là tột bực của loài người, chỉ truyền hiền, chớ không truyền tử.
Tuy Pháp Chánh Truyền qui định chỉ có một phẩm Giáo Tông ; nhưng thực tế
có đến ba Giáo Tông:
1-
Giáo Tông Ngô văn Chiêu (bị mất ngôi):
Đức
Chí-Tôn dạy: 13-3-Bính-Dần (dl: 24-4-1926 ):
“Chiêu đã có công tu, lại
là Môn-đệ yêu dấu của Thầy, nên Thầy muốn ban chức Giáo Tông cho
nó, song vì lòng
ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà
ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần
thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy
đến chính mình Thầy mà dạy-dỗ các con”.
Tái cầu: “Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại
là dường nào! Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau,
thương-yêu nhau trong đạo đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là
đứa thù-nghịch của Thầy.
“Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà
thâu phục, độ rỗi nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy
sở cậy nó ấp-yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng
lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái
trách-nhiệm rất lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi
cho nó. Nghe và tuân mạng lịnh Thầy !”.
Thầy dạy (đêm 14 rạng 15 tháng 3 năm Bính Dần (25 và 26-4-1926 ):
“Chiêu,
thiếu đức, thiếu tài.
“Trung, con sợ ai? - TA không sợ ai ! TA biết hơn ngươi. TA há không biết
thương sao ?
“Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết TA. Cứ tuân lời THẦY đã truyền mà
thi-hành !
Cao-Đài: ngày 26 Avril 1926:
“Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh TA,
Ai kiên? TA chờ ngươi. Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh TA, ai thừa lịnh ?
TA
đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã
bao phen TA lập Đạo
sẵn cho, ngươi chê há? TA đã sở
định, ngươi dám cải:
Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen
thói cũng chừa.
Sám-hối TA cho tu ít tháng.
Tài hay, tài khéo chớ đua lừa.
Qua các
bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ
Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo Tông. Ngài bị thử thách và chỉ
trong vòng năm ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên
đành chịu mất ngôi Giáo Tông.
Sự
thử thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với ngôi Giáo-Tông là phẩm vị số
MỘT của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu
phục, còn không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi.
Đồ hình dưới đây là ba ngôi Giáo Tông nhưng
cũng là Một, đứng đầu hàng Tiên vị.
Chú
thích: Trên là “Cửu Trùng Đài
hàng Tiên vị” gồm:
Tam
giác giữa Giáo Tông là Anh Cả thay trời, có ba:
-
Đỉnh giữa: Đức Lý- Giáo Tông ĐĐTKPĐ
(Thần)
-
Góc trái: Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung (Khí)
-
Góc phải (ngòai nhìn vào) Ngô văn Chiêu
(Tinh)
Tam giác lớn đỉnh quay lên: Chưởng Pháp
-
Thượng Chưởng Pháp (ở đỉnh trên )
-
Thái Chưởng Pháp (góc trái)
-
Ngọc Chưởng Pháp (góc phải)
Tam
giác đỉnh quay xuống: Đầu Sư
-
Thượng Đầu Sư (ở đỉnh
dưới)
-
Thái Đầu
Sư
(góc phải)
-
Ngọc Đầu
Sư (góc
trái. Ngòai nhìn vào)
Tất
cả bấy giờ đi vào qui luật “tuy ba mà một, một mà ba”
-Tuy một tiếng hứa của Đức Chí-Tôn, ông
Ngô văn Chiêu cũng là Giáo Tông, thuộc về TINH (một trong Tam
bửu)
2-
Một hữu hình là Đức Quyền
Giáo Tông Lê văn Trung. Ngài tượng cho KHÍ. Ngài đã
hành Quyền Giáo Tông 8 năm tròn không dư không thiếu một ngày. Nếu tính từ:
ngày Khai Đạo: 14-10-Bính Dần (19-11-1926)
đến
ngày qui Thiên: 13-10-Giáp Túât (19-11-1934)
3-
Một về vô vi: là Đức Lý Thái Bạch
Kim Tinh: THẦN.
Ấy cũng
là qui luật “Một mà ba, ba mà một”.
Bấy
giờ: tổng số Chức sắc Cửu Trùng Ðài sẽ là =
3115 vị
+ 2 (Giáo Tông, số thêm ra) sẽ là 3117 (3+1+1+7= 12
là số riêng của Thầy. Số 12 (Thập nhị Địa chi) hiệp với số 10 ở trên (trang
44) thập Thiên Can là Quyền năng tối thượng của Gíao Tông là Anh Cả thay Thầy
trị thế.
“Thập
Thiên can bao hàm vạn tượng,
“Tùng Địa Chi hóa
trưởng Càn Khôn”
Muốn biết rõ quyền hành của Chức
sắc trong nền Đại Đạo thì trước hết phải luận về ĐẠO PHỤC của CHỨC SẮC
ĐẠO PHỤC GIÁO TÔNG
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Giáo
Tông có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng
trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba Cổ
Pháp là: Long Tu Phiến, Thư Hùng Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm
và Thượng Sanh trị thế) Ðầu đội mão vàng năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ Chi
Ðại Ðạo) ráp tròn lại bít chính giữa; trên chót mão có để chữ "Vạn".
Giữa chữ Vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí; nơi ngạch mão,
phải chạm ba Cổ Pháp cho rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói trên kia, tay mặt
cầm cây gậy 0m90, trên đầu gậy có chữ "Vạn" bằng vàng, nơi giữa chữ
Vạn có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí.
Bộ Tiểu Phục cũng toàn bằng
hàng trắng, có thêu chữ BÁT QUÁI bằng vàng: cung KHẢM ngay Hạ Ðơn Ðiền, cung
CẤN bên tay mặt, cung CHẤN bên tay trái, cung ÐOÀI bên vai mặt, cung TỐN bên
vai trái, cung LY ngay trái tim, cung KHÔN ngay giữa lưng. Ðầu đội mão Hiệp
Chưởng (Mitre) cũng toàn bằng hàng trắng, bề cao ba tấc ba phân ba ly (0m333)
may giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường
xếp (ấy là Âm- Dương tương hiệp) cột dây xếp hai lại, nơi bên tay trái có để
hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn (mí dài bề ngang 0m03, bề dài 0m30)
trên mão ngay trước trán có thêu chữ cung CÀN. Chơn đi giày vô ưu toàn bằng
hàng trắng, trước mũi có chữ Tịch Ðạo Nam Nữ.
Tỷ như Ðức Lý Giáo Tông đương thời.
thì nơi trước mũi giày của Ngài phải có chữ Tịch Ðạo là "THANH HƯƠNG"
ĐẠO PHỤC XÁC ĐỊNH QUYỀN HÀNH CỦA CHỨC SẮC
Trong cửa Đại-Đạo ngày nay điều đặc
biệt là do Đức Chí Tôn giáng Cơ dạy đủ mọi nghi thức, nhất là phần Đạo-phục cho
các Chức sắc tử Tiểu cấp đến Chức sắc Đại Thiên phong đều được qui định trong
Pháp Chánh Truyền.
Với Đức Quyền Giáo Tông thì Đạo
phục của Ngài đã hiện tượng qua hai Bát Quái:
- Quyền hành: biểu tượng bằng BÁT
QUÁI ĐỒ THIÊN
- Áo Tiểu phục: biểu tượng bằng BÁT
QUÁI HƯ VÔ
Lý Tam Tài trong Đạo
phục của Chức sắc:
- Về Thiên: do Pháp Chánh Truyền qui
định hẳn hoi từ chi tiết một về áo mão, có kích thước rõ ràng….
-
Về Địa: là Thầy giao trách nhiệm cho Bà Hương Hiếu may áo mão cho tất
cả các Chức Sắc trong buổi mới lập Pháp Chánh Truyền, nếu khó khăn có Thầy
hướng dẫn chi tiết. Về sau Thầy còn nhờ thêm Bà Lâm Hương Thanh may một số áo
Mão cho Chánh Phối sư nữa.
-Về Nhân: Thầy còn ban cho bài Thi để xác định những quyền hành tối
cao, tối trọng, nhưng chỉ riêng Đức Quyền Giáo Tông và
kế đến là Đức Hộ Pháp mà thôi. Vì hai phẩm này hiệp Một là Chí
Tôn, thay Trời tạo thế..
Lần lượt sẽ khai triển các vấn đề
trên, để thấy rõ:“Thầy dùng Lương sanh để cứu vớt quần sanh”.
Bởi Đạo-phục đây là Thiên phục, Đức
Cao Đài giáng nói [Dimanche 25 Juillet 1926 (16-6-Bính Dần)] “T... con
coi mặc Thiên phục có xấu gì đâu con ? Một ngày kia sắc phục ấy đời sẽ coi quí
trọng lắm. Con ôi ! Con có biết những điều ấy bao giờ ! Cười.!...”
B- Ðạo phục của Giáo Tông qua
PCT:
PCT: -“Ðạo phục của
Giáo Tông có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục”.
LUẬN: Đấy là đầy
đủ lý Âm-Dương, tượng trưng cho quyền hành của Ngài nắm hai BÁT QUÁI để hòan
thành con ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO mà Chí Tôn đã ủy thác qua Pháp Chánh
Truyền (xem triển khai Bát Qúai. Tr 68, 82)
I- Bộ Ðại Phục:
PCT: “Bộ Ðại Phục thì toàn bằng
hàng trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới dưới”.
LUẬN: Chức sắc Cửu-Trùng-Đài Nam phái, đặc biệt chỉ
có Giáo Tông và Thượng Chưởng Pháp mặc sắc phục trắng chầu
lễ Chí-Tôn, ngoài ra đều mặc theo sắc phái.
Vì sao ? - Màu trắng là
màu tổng-hợp của bảy sắc cầu vồng, đó là màu Đại-Đồng, mục-đích
của Đạo Cao Đài là phải phổ thông ra cho đến Đại-Đồng Thế-Giới.
Về Bí pháp là phần riêng biệt của
Đức Chí-Tôn dùng trong cơ chuyển thế và Cứu thế: Đức Chí-Tôn đã chọn người ANH
CẢ để thay hình thể cho Ngài cầm đầu cả nhơn loại. Việc này giải rõ là loài
người phải đi từ không trở về sắc-tướng đặng tạo nghiệp vị, rồi trở lại Hư vô.
Phái TIÊN-ĐẠO là phái giữ phần lập-trường thi công quả của sắc tướng. Bởi Đạo
Cao-Đài là tinh-hoa bổn nguyên triết lý của chính nền Tôn-giáo này.
Bấy nhiêu đã nói lên Đạo Cao Đài là tu theo Tiên Đạo “Phép Tiên đạo tu
chơn dưỡng tánh”. Điều này được thấy rõ ở phần hữu hình, hữu tướng như các
vấn đề sau:
- Đức Chí-Tôn xưng Thánh danh “Cao
Đài TIÊN ÔNG Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”.
- Ngôi Đền của Đức Ngài ngự
gọi là Đền Thánh.
- Màu sắc tượng trưng: màu chính là màu xanh, phái
Thượng đặt ở điểm chính và trung.
- Đền Thánh tượng chữ SƠN 山 (núi). Người Tín
hữu mỗi ngày Tứ thời chầu lễ, tượng chữ Nhân 人. Hiệp hai chữ lại là chữ TIÊN 仙, không thể lầm lẫn được.
-“Thêu bông Sen”. Bông sen tượng
trưng sự đạo đức, thanh khiết, cao thượng. Như người tu chân chính thì dù sống
nơi trần mà “Cư trần bất nhiễm”. Tánh tình người đạo phải thanh cao, tầm cho
đạt được ngôi chí Thánh như Sen sống trong bùn mà không hôi mùi
bùn. Ca dao rằng:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy
vàng.
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
- “Màu vàng” tượng cho phái
Phật. Đạo Cao Đài là Phật giáo chấn hưng. Vì Đại-Đạo ngày nay cũng là Phật Đạo
và gồm hết Tam giáo Nho- Thích - Đạo và Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là
Thích-Ca” (trong ý nghĩa Qui Tam Giáo).
- “Hai bên cổ
áo mỗi phía có ba Cổ Pháp là: Long Tu Phiến, Thư Hùng
Kiếm và Phất Chủ. (Ấy Cổ Pháp của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế)”.
Vẫn cũng là con số 3 – 2, tức “Tham
thiên lưỡng địa”
3 là Thiếu Dương, 2 là Thiếu Âm;
cộng cả hai số này lại là 5, tức nhiên Ngũ hành, đứng vào giữa gọi là ngũ
trung.
-“Mỗi phía có ba Cổ Pháp” mà cả hai bên cổ áo, tức
là có 6 Cổ Pháp, ấy là: Tam Âm -Tam Dương.
Nhưng đặc biệt: Giáo Tông thuộc Cửu
Trùng Đài mà CỔ PHÁP là của Thượng Phẩm và Thượng Sanh trị thế (là Người của
Hiệp Thiên Đài). Đấy cũng là “Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm” đó là
nguyên lý của Càn Khôn vũ trụ không bao giờ thay đổi.
- ‘Ðầu đội mão vàng”: màu vàng là phái
Phật, là hình ảnh của Phật giáo chấn hưng như trên vừa nói, mà tuyệt phẩm của
người tu là đạt đến Phật-vị. Giáo Tông vào hàng Nhứt Phật, xác định quyền uy
của Người Anh Cả hiện giờ..
- “Năm từng hình Bát Quái (thế Ngũ
Chi Ðại Ðạo)”
Năm từng là tượng Ngũ Chi: Tôn chỉ
của Đại Đạo là “Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi”. Hơn nữa gồm:
- Ngũ Chi Đại-Đạo: Nhơn Đạo, Thần
Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo (Dương). Ngũ Chi Minh Đạo: Minh Đường,
Minh Sư, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân (Âm).
Như vậy có đủ Ngũ hành Dương và Ngũ
Hành Âm một cách trọn vẹn.
- “Ráp tròn lại bít chính giữa”. Mão Giáo Tông có vòng tròn đội lên đầu,
đây là tượng Càn Khôn vũ trụ, “ráp tròn lại” là chỉ một sự “Quản súât Càn Khôn”
của nền Tân Tôn giáo này sẽ trấn phục Ngũ châu, mục đích đưa nhân
lọai đến Thế giới Đại Đồng, làm Hòa bình cho nhân lọai.
-“Trên chót mão có để chữ "VẠN", giữa
chữ VẠN có Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí”:
Chót mão tức là phần giữa của Mão, khi đội lên là ở đỉnh đầu, tức nhiên là tâm
của vòng tròn, ấy là tâm của vũ trụ. Chữ VẠN có hai: là hiệp Âm Dương. Vòng
tròn bên ngoài chỉ vũ-trụ; hai chữ VẠN ngược, xuôi này xoay quanh tạo nên tám
đường kính xuyên qua tâm của vòng tròn trong Bát Quái, ấy là Càn Khôn, tượng
Bát phẩm chơn hồn là: vật chất, thảo mộc, thú cầm, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh
hồn, Tiên hồn và Phật-hồn.
- Mỗi hồn đều có tánh chất riêng.
Từ vật-chất đến nhơn hồn là cơ tấn-hóa, nên có hình chữ
Vạn số 1, là chỉ cơ đi xuống trần để tạo nghiệp trần duyên.
- Tạo cho đầy-đủ quả-nghiệp thành
khối gia-sản rồi bắt đầu đi lên để học thêm nhiều điều mầu nhiệm, nên Cơ
phục-nguyên ở chữ vạn số 2.
Chữ VẠN ấy là chỉ cơ biến-hóa vô cùng đó vậy, nên vạn-vật bất kỳ là vật
chi hễ có TU cũng ắt có thành.
-
“Giữa chữ VẠN có Thiên Nhãn Thầy”.
Thiên Nhãn Thầy là biểu tượng của Đạo Cao Đài là do nơi Ông Thầy Trời định
hướng cho người tu phải nhớ: “Thầy khuyên các con nên nhớ hòai rằng:
Thầy của các con là ÔNG THẦY TRỜI, nên biết một Ổng mà thôi thì đủ, nghe à !”.
Câu này gồm cả một triết lý sâu xa, mầu nhiệm. Nếu phân tích ra từng đọan
8 chữ sẽ thấy ý nghĩa:
- Thầy
khuyên các con nên nhớ hòai rằng (8 chữ)
- Thầy
của các con là ÔNG THẦY TRỜI, (8 chữ)
- Nên biết
một Ổng mà thôi thì đủ,
(8
chữ)
Nghe à !” (hai chữ: tượng âm dương nhị khí)
-
Về phần Chí-Tôn – ngôi Trời - có BÁT QUÁI
-
Phật Mẫu có Bát Cảnh cung, tạo Bát Phẩm chơn hồn.
-
Người tu: thực hành Bát chánh Đạo.
THIÊN
NHÃN cũng nhắc nhở đến lời Minh thệ: “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao
Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài,
như sau có lòng hai, thì Thiên tru địa lục” (36 chữ)
-“Bao
quanh một vòng Minh Khí”: ấy là
hào quang Vòng Minh-khí là một thứ ánh-sáng minh triết, mà cái
văn minh tinh-thần đã khởi điểm nơi này. Học Đạo, hiểu Đạo là
tạo cho mình một ánh sáng minh-triết, phát ra bằng vòng Minh-khí; nói
Đạo cho người hiểu Đạo, ban-bố khắp nơi bằng huyền-lực, bằng
hào-quang, điển sáng là vòng vô-vi.
Vòng
Minh khí cũng là vòng tròn như vòng vô vi, nhưng nét to hơn và chung quanh có
các tia sáng vô hình chiếu ra.
-
“Nơi ngạch mão, phải chạm ba Cổ Pháp cho rõ ràng, y như hai bên cổ áo đã nói
trên kia”.
Mỗi phía có ba Cổ Pháp, cả hai bên ngạnh
Mão tức là 6 Cổ Pháp, đủ Tam Âm Tam Dương, mỗi Cổ pháp có ba pháp bửu (Long Tu
Phiến,Thư Hùng Kiếm, Phất Chủ)
Nếu tính Cổ pháp: hai bên cổ áo là 6 và hai bên ngạch mão 6 nữa. Thành ra lục
Âm lục Dương, hiệp lại thành 12, là biểu hiện tinh thần Chức Sắc “Thể Thiên
hành hóa”, định quyết con số 12 là “Số riêng của Thầy”.
- “Tay
mặt cầm cây gậy 0m90”. Số 9 là số huyền diệu nhiệm-mầu. Huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó
là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện tận mỹ, toàn tri toàn năng; cùng cực cái
động để trở về trạng thái tịnh nguyên thủy, tức là đã đến lúc trở về 0. Con số
9 là chỉ Cửu Trùng Đài do Ngài Chưởng quản.
- “Trên đầu gậy có chữ
"VẠN" bằng vàng, nơi giữa chữ Vạn có Thiên
Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí”.
Thầy
dạy: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy
đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì ANH CẢ nhơn sanh đặng dìu dắt các
con cái của Thầy”. Đặc biệt Gậy 0,9m là để chống
đỡ, dắt dìu cả chúng sanh, đó là nhiệm vụ của Ngài, mà quyền hành của Đức Quyền
Giáo Tông định rõ:
“Cầm
mối Thiên Thơ lo cứu chúng.
“Đạo
người vẹn vẻ mới thành Tiên”.
Chính Đức Lê Văn Trung là nguơn linh của Đức Lý Ngưng Dương hay còn gọi
là Lý Thiết Quả, trước khi đắc Đạo thành Tiên thì Ngài xúât Chơn Thần đi, gởi
xác lại cho học trò giữ và bảo sau bảy ngày nếu hồn không trở lại thì hãy
thiêu; nhưng trớ trêu: trước đó thì mẹ của học trò đã chết, học trò mới vội
thiêu xác Thầy hầu còn về quê lo chôn xác Mẹ nữa. Sau đó hồn của Đạo sĩ trở lại
thì xác đã mất, liền thấy có xác người hành khất bên đường: đủ phép Tiên, Ngài
mới biến gậy và bị của người này thành “bầu linh gậy sắt” làm bửu pháp của
Ngài. Đó là hai món bửu pháp của Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung. Hai món này
được đặt trên đỉnh Đài của lầu Chuông và Lầu trống Tòa Thánh Tây Ninh (là Bạch
Ngọc Chung Đài và Lôi Âm Cổ Đài) hiệp với giỏ Hoa Lam của Bà Nữ Đầu Sư Lâm
Hương Thanh, thành ba pháp bửu, trọn cả Tam Tài.
(Ngày:
01-10-Giáp Ngọ (1954):
Đức Hộ
Pháp có thơ ghẹo Đức Quyền Giáo Tông:
Nguyện
vọng như ANH đã thỏa rồi,
Cố
tâm kế chí có thằng tôi.
Bầu Linh Gậy Sắt ông an thế,
Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời.
Vững tiến xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bát Nhã trẻ đua bơi.
Khuôn hồng trước thấy Trời quang
đãng,
Kế nghiệp mai sau vẫn có người.
Trong hàng phẩm Chức sắc
Đại Thiên phong chỉ riêng Đức Quyền Giáo Tông mới có gậy 0,9m mà thôi. Bởi
Người đã có sẵn hai chân thật mà Thượng Đế ban cho, bây giờ Ngài có thêm một
“chân” nữa ấy là chân lý. Tất nhiên có ba chân, trở thành số 3
thống hiệp TAM TÀI vậy.Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét