Pháp Chánh Truyền - Tòa Thánh Tây Ninh (Phần 4)

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Tòa Thánh Tây Ninh
Pháp Chánh Truyền
E - TỊCH - ĐẠO

Tịch Ðạo là Sổ bộ ghi tên Chức sắc với Thánh danh có chữ biểu thị thời kỳ Phổ Độ của một đời Giáo Tông.. Nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ này với tôn chỉ “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” nên Ðức Chí Tôn lập Tam Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tam giáo, chứ không dùng Giáo chủ Tam giáo như thời Nhứt kỳ và Nhị kỳ Phổ Độ nữa, tức nhiên phải có đủ Tam Trấn chứng đànnhìn nhận cho sự phong TỊCH này:
            - Phật thì Ðức Quan Âm Bồ Tát làm Nhị Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Phật giáo.

Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
            - Tiên thì Ðức Lý Ðại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tiên giáo.
            - Thánh thì Ðức Quan Thánh Ðế Quân làm Tam Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Nho giáo.
Ðức Thái Bạch Kim Tinh giáng cơ cho thi khoán thủ (Soạn giả ghi thêm chữ Hán và tạm giải thích)
THÁI  Thượng vô ngôn hữu Đạo thành
BẠCH vân hữu nhãn kiến nhơn sanh
KIM quang đắc kiếp tu tâm thiện
TINH đẩu nan tri Ngã độ thành
  
  
  
  
Giải nghĩa:-Thái cực ở trên cao, không nói mà Đạo thành,
- Trong mây trắng có “Mắt” thấy khắp cả nhơn sanh.
- Ánh kim quang đạt được kiếp Tiên nhờ tu tâm thịên,
- Các vì sao khó biết TA độ cho viên thành.
*Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát giáng cơ cho thi khoán thủ  (Sọan giả  xin viết ra chữ Hán và giải nghĩa)
QUANG minh Nam Hải trấn thiền môn
ÂM cảnh năng tri độ dẫn hồn.
BỒ đoàn mạc hám liên huê thất
TÁC thế tâm ưu khởi Đạo Tông
   光明
  
  
  
Giải nghĩa:
 - Ðức Phật quang minh ở Nam Hải trấn giữ cửa Thiền,
- Có khả năng biết và độ dẫn các hồn nơi Âm cảnh.
-Ngài ngồi trên tấm bồ đoàn, không thích ngự trên tòa sen,
(Ý nói: muốn làm một vị Bồ Tát để cứu độ chúng sanh, chớ không thích ngồi an hưởng trên ngôi vị Phật)
- Có lòng lo lắng làm cho người đời khởi bước theo ĐẠO.
*Ðức Quan Thánh Ðế Quân giáng cơ cho thi khoán thủ (Xin viết ra chữ Hán và giải nghĩa)
QUAN  thành tái hiệp Hớn triều phong
THÁNH  đức mạc vong hám thế trần
ÐẾ  thất nhứt tâm trung khí dõng,
Thanh Y Xích Diện hảo vinh phong
聖德
帝室
青衣
Giải nghĩa: Quan Võ xưa được triều Hớn phong chức, nay tái hiệp. Đức độ của bậc Thánh chẳng ham thích việc đời. Một lòng trung thành với nước và chí dũng với nhà vua. Áo xanh mặt đỏ là chỉ uy phong hiện trong nét trung kiên của Ngài. Chính Ngài được phong tước vinh hiển tốt đẹp.
1- Tịch Đạo: THANH HƯƠNG
Thời Giáo-Tông đầu tiên là của Đức Lý Giáo-Tông thì Tịch Đạo Nam Nữ là “Thanh Hương”. Nếu là Chức sắc Nam phái từ hàng Lễ Sanh trở lên thì lấy Thánh danh có kèm theo chữ “Thanh”. Thí-dụ: ông Nguyễn-văn-A đắc phong Lễ Sanh được chấm phái Thượng, Thánh danh sẽ là: THƯỢNG-A-THANH (có nghĩa là chữ sắc phái đứng trước, kế là tên, sau hết là chữ Tịch Đạo “THANH”)
Về Nữ phái thì chữ Tịch Đạo “Hương” đứng trước tên. Thí dụ: Bà Lâm-Ngọc-Thanh, phẩm Đầu-sư, thì Thánh danh sẽ là Nữ Đầu-Sư HƯƠNG THANH hoặc nếu có nhiều người trùng tên, thì đặt chữ “họ” trước, gọi là Nữ Đầu Sư LÂM HƯƠNG-THANH.
Ý-nghĩa hai chữ THANH HƯƠNG:
            Hai chữ Thanh Hương này phát xuất từ đôi câu đối:
- THANH sử ký danh lưu vạn đại,
- HƯƠNG hoa truy sùng bái thiên thu.
Có nghĩa là: - Bộ Thanh sử ghi tên người trong sạch, tên tuổi còn lưu lại muôn đời.
- Đền hương lửa truyền nối, thờ lạy người danh tiếng.
Giải riêng từ chữ: THANH là màu xanh tươi, tượng sức
sống vươn lên, chỉ sự thanh khiết, trong sạch. Hoặc viết là có bộ thuỷ. HƯƠNG là mùi thơm tho.
Chiết tự hai chữ Thanh Hương:
- THANH chiết tự: trên là  Chủ dưới là Nguyệt 
- HƯƠNG chiết tự: trên là Hoà  dưới là  Nhựt 
. Nếu lấy hai chữ của phần trên đọc là Chủ  Hoà   
. Nếu lấy hai chữ dưới hiệp lại thành ra chữ Minh  có nghĩa là ghép hai chữ Nhựt Nguyệt lại là chữ  Minh.
Thánh ý Thầy muốn rằng trong thời buổi ban sơ này toàn Đạo Nam Nữ phải biết trên HÒA dưới HIỆP. 
Chữ Thanh viết có ba chấm thủy nghĩa là trong sạch. Ba chấm thủy tượng trưng Tinh - Khí  -Thần hiệp.
Bài thơ chiết tự chữ THANH HƯƠNG:
   Dụng tiếng Thanh Hương Tịch-Đạo nhà,
   Giáo-Tông đổi mới ĐẠO TÂM ra.
   Phân THANH  xuất ngoại Tinh- Thần- Khí,
   Hòa hiệp Âm Dương diệu pháp mà !
   Hương sắc Nữ gìn nêu giá ngọc.
   Chiết Hương hạ Nhựt thượng vi Hòa
   Chủ Hòa mục đích Cao-Đài dựng,
   Nhựt Nguyệt, Minh tâm hiệp nhứt tòa.
                                                  ( Nguyên-Thủy )
Vậy: Tịch HƯƠNG là tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại. Đức Lý nói với Bà Lâm-Hương Thanh: Hiền Muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm này. Thầy đến phong  chức lập thành Nữ phái, nghe à! (TN/ 95)
        Ngày 11-12-Bính Dần (Vendredi 14-1-1927): Đức Lý
giáng đàn nói với chư Nữ-chức chi Minh Đường rằng: “Thầy dạy Lão phải lập phái Nữ cho thành tựu. Em gắng lo phổ-độ nhơn-sanh. Cửu nhị ức nguyên nhân hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng lẽ em biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông công em”. Ngài cho Thi:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch Hương”.
                   
  知死
  藉香
            Đức Hộ-Pháp giải nghĩa:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn là cảnh trần TA chết đã lâu mà hôm nay TA được phục sanh lại trong Thánh Thể của Đức Chí-Tôn.
           Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn là còn  hạnh phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến ? Bần-Đạo đã thuyết: Cuối Hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng nguơn Tứ chuyển, Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được. Ngài đến đặng mở Thượng nguơn Tứ chuyển.
           Thế  trung  kỵ tử hà  tri tử? Thế gian  sợ  chết  mà không biết cái chết là gì ! Chính Ngài hỏi rồi nói:
           Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch HƯƠNG là Tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ-phái là nghĩa gì ? Cầm cái giống của thế-gian này chi ?”

&

2- Tịch Đạo: ĐẠO TÂM
Tịch Đạo kế tiếp là ĐẠO TÂM   nghĩa là tiếp theo sau Tịch Thanh Hương. Nói rõ ra Tịch-Đạo Thanh Hương là lo tu về phương diện hữu hình, như tạo tác các cơ sở, lập nên Thánh Thất làm nhà chung cho nhân sanh đến chiêm bái và để học hỏi Đạo lý. Thời gian này người Tín hữu Cao-Đài lập công bằng công quả ngoại, như xây dựng, tạo tác, giữ gìn cơ sở, cúng kiếng.
Nay qua Tịch ĐẠO TÂM thì lo về phần tâm linh: tức nhiên phải thấu đạt chơn lý chánh truyền, là phải học hỏi, nghiên cứu, sửa tánh trau thân, làm công quả nội.
 Hỏi vậy Tịch ĐẠO TÂM đã đến chưa?
 Hãy nhìn đôi liễn đối đặt trước Báo-Ân-Từ sẽ thấy:
BÁT phẩm chơn hồn tạo thế giới hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ÐẠO.
- QUÁI hào bác ái định Càn Khôn phân đẳng pháp nhứt Thần phi tướng trị kỳ TÂM.
八品  
卦爻
1- Giải thích Câu 1: Bát phẩm chơn hồn cũng gọi là Bát hồn, tức là 8 bậc tiến hóa của chơn-hồn, từ thấp lên cao là Vật-chất hồn, Kim-thạch-hồn, Thảo-mộc-hồn, Thú-cầm hồn, Nhơn hồn, Thần-hồn, Thánh-hồn, Tiên-hồn, Phật hồn. Tám phẩm chơn hồn này đã tạo ra Thế giới, hóa thành chúng sanh. Trong hàng chúng sanh thì chỉ riêng 4 phẩm là Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại. Những vật loại nào có hình ảnh có thể thấy được, sờ mó được như vậy đều phải chịu luật biến hoá hoặc thay đổi của vũ trụ, tức  là  bị  huỷ  hoại  hay chết đi  tuỳ  theo  thời gian. Ấy  là Đạo. 
Theo Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử: Đạo là cái nguyên lý sanh ra vũ trụ và vạn vật. Mọi vật đều do Đạo sanh ra và lớn lên. Theo triết lý Cao Đài, ĐẠO là Hư Vô chi Khí, tức nhiên có sinh có diệt, có sống có chết. Phật Mẫu Chơn Kinh có câu “Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh” nghĩa là: Đức Phật Mẫu vận chuyển đem Tám phẩm chơn hồn hóa thành chúng sanh nơi cõi trần.
Câu 2: Quái Hào: quái là quẻ. Ví như Quẻ Càn gồm có 3 vạch liền, mỗi vạch liền được gọi là Hào Dương. Quẻ Khôn có 3 vạch đứt, mỗi vạch đứt được gọi là Hào Âm. Sự kết hợp của các Hào âm dương tạo thành các Quẻ. Quái hào là chỉ chung các quẻ và các hào trong Bát Quái. Người phát minh ra Quái Hào là vua Phục Hy. Ngài dùng Quái Hào tạo thành Bát Quái Tiên Thiên, để giải thích sự hình thành Càn Khôn Vũ trụ bằng hai nguyên lý Âm Dương do Thái Cực biến hóa phân ra. Bác ái là lòng thương yêu bao la, thương xót sanh linh hơn mình, cho nên, kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ nặng bằng trời đất. Chính hai quẻ Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo Dịch: Càn tượng Trời, Khôn tượng Đất tức là trời đất, vũ trụ, nên thường nói Càn Khôn Vũ trụ. Cũng chỉ hai đấng Cha Mẹ Vạn linh là Chí-Tôn và Phật Mẫu nữa. Hai quẻ Âm Dương này rất quan trọng.
PHÁP: theo nghĩa tổng quát, tất cả những gì có thật hay hư ảo; hữu hình hay vô hình; tâm hay vật, đều gọi là Pháp. Nhứt Thần phi tướng là duy có một Chơn linh vô hình đối với con người tuy không hình ảnh, vì nó là điểm linh nhỏ nhít, mắt thường không thấy, mà nó trị được cái tâm, chính là Điểm Linh quang của Đấng Thượng Đế ban cho để làm chủ con người đối cùng Càn Khôn Vũ trụ. Nhứt Thần phi tướng là Thái cực, là Đại hồn, là Khối Đại Linh quang của Thượng Đế.
            Trong sự tạo hóa Càn Khôn vũ trụ, Đấng Thượng Đế dùng luật Thương yêu, sắp đặt mọi vật trong Càn Khôn, phân chia ra nhiều thứ bực cao thấp khác nhau, chỉ duy có một Chơn linh vô hình làm chủ được cái Tâm.
            Đây là hai câu đối có số chữ dài nhất: mỗi câu có 17 chữ. Theo Dịch-lý thì số 17 này thuộc quẻ Thiên Sơn Độn (Càn vi Thiên số 1Cấn vi Sơn số 7), hợp số là 17. Độn tức là lui đi, biến đi. Điều này báo cho biết rằng thời kỳ Tịch Đạo THANH HƯƠNG đã lui đi, nhường chỗ cho cơ ĐẠO TÂM sắp đến. Thế nên mở đầu cho đôi liễn có hai chữ đầu là BÁT-QÚAI, hai chữ cuối là ĐẠO TÂM.
Tóm lại: Tám đẳng cấp chơn-hồn đều được sản xuất dưới bàn tay của Đức Phật-Mẫu, nhưng vạn-vật vốn hữu hình hữu hoại, nghĩa là có sinh có diệt, có sống có chết, Đạo của trời đất định vậy. Dù cho những quẻ (đại thể), những hào (tiểu thể) xuất từ tâm Bác-Ái sẽ định nền tảng cho Càn-Khôn để phân ra đẳng cấp, chỉ một điểm Thần  duy nhứt, không hình tướng cũng định được cái Tâm (mà chủ của cái Tâm là Thượng-Đế Cao-Đài ngày nay vi chủ). Lại nữa ở đầu câu liễn có hai chữ Bát Quái, cuối câu có hai chữ Đạo Tâm, điều này đã chứng-tỏ rằng Tịch-đạo Đạo Tâm đã xuất hiện, tất cả các Bát Quái được triển khai.
          - Đức Chí-Tôn có Bát-Quái (số 8).
          - Đức Phật-Mẫu nắm Bát Phẩm Chơn-Hồn (số 8)
          - Người tu-hành gìn Bát Chánh Đạo (số 8)
Ba lần 8 là 24, chỉ 24 chuyến thuyền Bát Nhã tức nhiên là Bát-Nhã Ba-La-Mật của Phật dạy, là trí huệ. Trí huệ ví như lưỡi gươm bén, để chiến thắng giặc thất tình, cắt đứt hết mọi phiền não trói buộc “Nương gươm thần huệ đoạn trừ nghiệt căn”. Vậy người tu là phải đạt được trí Bát Nhã.
Đạo Tâm là gì ?
Đức Hộ-Pháp dạy “Chiếu theo ý nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức Chí-linh cùng Càn Khôn vũ trụ. Loài người bao giờ cũng chủ TÂM tìm tòi, kiếm cái nguyên do lai lịch của mình hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột cả  sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế gọi là chúng sanh đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng sanh, mới tìm đặng tâm tánh của mình là báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết thiên lương do chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là nhiệm vụ huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO . Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM làm mục đích. Các Thánh nhơn xưa thường đem cái triết-lý ĐẠO TÂM hiệp làm môi giới, nên dầu cho các vị Giáo-chủ tuy mỗi Đấng đều có tư tưởng đặc sắc, nên triết lý cao thấp không chừng, nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM  làm nguồn cội”.
    PCT: “Ðương đời này của Ðức Lý Giáo Tôngthì Nam lấy chữ"THANH"Nữ lấy chữ "HƯƠNG" làm tịch, tức là cả Ðạo Hữu Nam Nữ từ Tín Ðồ chí Thiên Phong đều trong đời Ðức Lý Giáo Tông hành chánh đứng vào tịch “THANH - HƯƠNG”. Qua đời Giáo Tông khác thì Nam sẽ lấy chữ "ÐẠO" Nữ sẽ lấy chữ "TÂM". Rồi cả chư Ðạo Hữu Nam Nữ sẽ lấy Tịch: ÐẠO- TÂM; như vậy nối truyền hoài cho hết Tịch Ðạo thì Thầy sẽ giáng cơ cho Tịch Ðạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ chữ Tịch Ðạo ấy mà phân biệt  (Hay !- Lời khen của Đức Lý).
Có kẻ hỏi: Thí dụ như đời Giáo Tông, thì Tịch Ðạo
của chư Ðạo Hữu Nam Nữ đời trước, dầu Chức Sắc hay Tín Ðồ cũng vậy, có phải buộc thay đổi Tịch Ðạo không? Ta nói: Không, vì chính mình Giáo Tông kế vị cũng phải giữ Tịch Ðạo trước, kỳ dư những Tín Ðồ của đời Ngài độ rỗi, tức là chi tộc của Ngài, mới đặng thay đổi mà thôi, còn những Chức Sắc cùng là Tín Ðồ của Giáo Tông đời trước còn sót lại thì thuộc về chi tộc của Giáo Tông ấy không đặng phép thay đổi Tịch. (Hay)
Tỷ như có Tân Giáo Tông sẽ lên kế vị cho Lý Giáo Tông thì cả Tín Ðồ Nam Nữ mới nhập môn đều phải lấy Tịch "Ðạo Tâm", dầu trong hàng Tín Ðồ ấy sẽ có một chơn linh xứng đáng địa vị Chánh Phối Sư, mà Thầy giáng cơ phong chức đi nữa, thì cũng chịu Tịch Ðạo Tâm, như các Tín Ðồ khác, chớ Chức Sắc và Tín Ðồ trong đời Lý Giáo Tông còn lại thì giữ Tịch "Thanh Hương" mà thôi, không đặng thay đổi.

-- O0O --

3 - TỊCH: THANH ĐẠO
THANH ĐẠO 清道 là Tịch Đạo của Nam phái liên tiếp qua hai thời Giáo-Tông. Trong bài Thánh Giáo sau đây, Ðức Chí Tôn ban cho Tịch Ðạo Chức sắc Nam-phái Cửu Trùng Ðài. Ðời Giáo Tông thứ I lấy chữ THANH đời Giáo Tông thứ nhì lấy chữ ÐẠO . Ấy là Tịch Đạo (Sổ bộ) của Nam, cũng giống như Tịch Đạo của Nữ phái vậy.
 THANH ĐẠO Tam khai thất ức niên
 Thọ như địa huyển thạnh hòa thiên
 Vô hư qui phục nhơn sanh khí.
 Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
      
       
      
      
Giải nghĩa: - Nền Đạo trong sạch của Ðức Chí Tôn mở ra lần thứ ba phổ độ đến 700 000 năm (một ức: 100.000 năm)
- Sống lâu như trái đất, thịnh vượng cùng Trời.
- Ðức Chí Tôn đem trở về các linh hồn cho nhơn sanh.
- Tạo ra từ muôn xưa đàn cúng tế để soi sáng người có duyên với Phật.
        Vậy: Trong thời Giáo Tông đầu tiên, là Chức sắc Nam phái từ hàng Lễ Sanh trở lên thì lấy Thánh danh có kèm theo chữ “THANH”. Nếu qua một thời Giáo-Tông khác thì đổi Tịch là ĐẠO, đặt vào các vị trí cũng như tịch Thanh Hương vậy. Nay, Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tôn chỉ “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” nên Ðức Chí Tôn lập Tam Trấn Oai Nghiêm để chứng nhận cho.

4 - TỊCH: HƯƠNG TÂM   
HƯƠNG TÂM   là Tịch Đạo của Nữ Phái. Sự phong Tịch Đạo này chính là Thầy ban quyền hành cho Nữ phái, đánh dấu một sự bình đẳng, bình quyền. Cũng là một ân huệ mà người Nữ phái Cao Đài được hưởng hồng ân sớm nhứt và trước nhất. Thầy dạy Tịch Đạo dành cho Nữ phái trong thời hiện tại và kế tiếp: Có nghĩa là trong thời Giáo Tông này Nữ lấy Tịch Đạo là HƯƠNG” làm Thánh danh của mình. Khi qua một thời Giáo Tông kế tiếp thì đổi qua Tịch đạo “TÂM”. Thánh ngôn Thầy ban Tịch Đạo:
 HƯƠNG TÂM nhứt phiến cận Càn khôn,
 Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
 Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
 Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
            
            
            
           
Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương Thế.
Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.
Còn cả chư Ái nữ, Thầy sẽ lập Đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lần. Thầy ban ơn cho các con, cứ hành lễ theo lời dặn”.  
Giải nghĩa: Một tấm lòng thơm tho được gần Trời Ðất.
- Đức sáng suốt do tu hành chơn thật độ dẫn được linh hồn
- Một lần niệm danh hiệu Ðức Quan Âm Bồ Tát thì được Bồ Tát đoái lòng thương xót bảo vệ mạng sống.
- Ngàn năm Nữ phái gìn giữ sự sanh tồn của nhơn loại.
            Tịch Ðạo Chức sắc Nữ phái Cửu Trùng Ðài trong đời Giáo Tông thứ I lấy chữ HƯƠNG, đời II lấy chữ TÂM.

KẾT LUẬN
QUYỀN HÀNH GIÁO TÔNG
           
Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực ngang hàng cùng Thầy
           1- Tại sao quyền CHÍ TÔN lại chia làm hai?
Trước kia Ðạo Thánh, CHÍ TÔN vì quá thương Nhơn sanh
đã giao phần hồn và phần xác cho Ðức Chúa Giê-Giu (Jésus Christ) đủ quyền năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn sanh lợi dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ kế vị cho Chúa, vì mang phàm thân nhục thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao ấy như ngọn gươm bén mà sát phạt con cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban cho". Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền hành ấy ra cho Giáo Tông và Hộ Pháp, Giáo Tông chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về phương châm giáo hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN trong đường Ðạo và đường Ðời mà thôi. Còn Hộ Pháp có đặc quyền gìn giữ luật pháp, bảo thủ chơn truyền, gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn hàng thất thứ.
Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng và chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái của Người.
2 - Thể-pháp của Đạo Cao-Đài:
           Đức Hộ-Pháp nói: “Nói về Thể-Pháp chúng ta hân hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức chính mình Đức Chí-Tôn đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-thể của Ngài nơi mặt thế của Ngài.
           Ôi ! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh thiêng-liêng là mua ngôi-vị của chúng ta đó vậy.
        Lập công là Ngài đã tạo hình thể của Ngài, tức nhiên  Đền-Thánh đó là Đền Thờ hữu-hình của Ngài để tại mặt thế này. Chúng ta phải lập công với sanh-chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà ra.
            Bây giờ tới lập ngôn. Chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ, Bút, viết dạy chúng ta từ lời nói, việc làm; từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn, có ngôn gì hơn Ngài nữa, để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy”.              
           Lại nữa Thầy còn dạy: “Trong buổi Tam-Kỳ Phổ Độ, Thầy giáng thế chọn đến:

 - Nhứt Phật
 - Tam Tiên.
 -Tam thập lục Thánh
 -Thất thập nhị Hiền,
 - Tam thiên Đồ đệ.
 “Các con coi đó mà hiểu rằng: Các con có sự mà thiên-hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng”?
          GIÁO-TÔNG là người đứng đầu của những Chức sắc vào hàng Thánh Thể Đức Chí-Tôn bên Cửu Trùng Đài vào hàng Tiên-vị và Thánh-vị, gồm các phẩm như :
            - Từ Chưởng-Pháp đến Giáo Hữu có đủ ba phái:
Thái-Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh, chia đều các con số trên, không được tăng thêm hay là giảm bớt. Con số này tính cho Chức-sắc Nam-phái mà thôi, còn Nữ phái thì không có hạn định, nghĩa là con số bao nhiêu cũng được. Đó là những Chức-sắc vào hàng Thánh-Thể của Chí-Tôn. Ông Mỹ Ngọc tức Bảo Văn Pháp-Quân có lời thỉnh-giáo:
            - Bạch Thầy về bảy cái Ngai Nhơn-Đạo, Chưởng Pháp và Đầu-sư  ngồi đặng chăng?
            - Thầy cười…Bảy ngai ấy, Thầy lập ra là để cho mỗi Chức-sắc lớn biết ngôi-vị của mình nơi Bửu-điện. Kế theo Thầy, Tam-Trấn cùng chư Tiên, Thánh, nhập về Tam Kỳ Phổ-Độ mà thôi. Lúc hành lễ, nếu chúng nó ngồi đối diện  với  các Môn  đệ  khác của  Thầy  mà  khứng chịu sự
thành kỉnh của nhơn-sanh đối với các phẩm-vị lớn cao kia
thì mất vẻ thành kính của chúng nó.
           Chức-sắc đặng ngồi Ngai riêng của mỗi đứa là lúc nào có Hội Tòa Tam-giáo phân-xử các Đạo-hữu của chúng nó mà thôi”.                                
3 - Phương-diện Chánh-Thể Đạo:
            Thuở Đức Quyền Giáo-Tông còn sinh tiền Ngài có thuyết về phương-diện Chánh-Thể Đạo, có nói rõ quyền hạn của Ngài rằng:
          “Tệ-Huynh có thọ lãnh chỉ rõ phương-diện Chánh thể của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ của Thầy trong cuối Hạ nguơn chuyển thế đây. Xin chư Hiền-Hữu lưỡng phái ráng nhớ và lo phận-sự, đừng sai luật Đạo mà bị tội và mình tuân trọn luật Đạo của Thầy là món binh-khí diệt tà-quyền giả mị đó. Tệ-Huynh xin nhắc lời tuyên-ngôn của Đại-Từ Phụ nói buổi ban sơ. Thầy có nói: Thầy lập Đạo kỳ này là lập một cái trường công-quả, nếu các con đi ngoài trường công-quả ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng.
          “Trường công-quả của Thầy có đôi bên:
          - Một bên vô hình là các Đấng ThiêngLiêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần) cùng lập công-quả trong buổi chuyển thế này, các Đấng Thiêng-liêng thường theo một bên chúng ta đặng ám-trợ chúng ta về phần vô-vi.
          - Các việc hữu-hình tại thế là các việc phải có thi hành như chúng ta giờ đây mới làm đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Đấng Thiêng-liêng ám-trợ.
           “Thí-dụ như đi độ rỗi nhơn-sanh phải nói Đạo cho người nghe, như phải lập phương để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc-học, nhà thương, nhà dưỡng-lão cùng các nghề-nghiệp cho Đạo-hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần đặng che thân ấm cật thì chúng ta phải lo hết, rồi các Đấng Thiêng liêng ám-trợ cho thành-tựu. Nếu chúng ta làm biếng không làm công quả chi cho Đạo bên hữu-hình thì các Đấng Thiêng-liêng theo mình không lập công-quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.
           “Từ hồi tạo thiên lập địa tới ngày nay, trong mỗi thời kỳ khai Đạo không có thời-kỳ nào mà chính mình Thầy là Chủ-tể Càn-khôn thế-giới xuống mà lập ra, không có một Tôn-giáo nào đặng một vị Đại-Tiên là Đức Lý Thái-Bạch lãnh làm Giáo-Tông như ngày nay
           “Tệ-Huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu-hình tại thế cho Ngài, rồi ở trong có Người ám-trợ. Tệ-Huynh xin chỉ rõ quyền hành lớn-lao của Đức Lý  Đại-Tiên Thái-Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ.
  Có tất cả  4 Bát Quái từ xưa cho đến giờ:
*Hai Bát Quái Cao Đài này là chỉ Đường Đạo (Bát Quái Hư vô) và Đường đời (BQ Đồ Thiên) mà Đức Quyền Giáo Tông đã thực hiện trong 8 năm hành Đạo của Ngài.
    1- Bát Quái Đồ Thiên    (Thể pháp Thiên Đạo)
         2- Bát Quái HƯ VÔ        (Bí- pháp Thiên Đạo)
*Hai Bát Quái 3 và 4 này có từ 6.000 năm nay là nói về phần Đạo và phần Đời
3- Bát Quái Tiên Thiên   (Bí pháp Thế Đạo)
4- Bát Quái Hậu Thiên    (Thể pháp Thế Đạo)
4 - Giáo-Tông làm chủ hai Bát-Quái


Quyền-hành của Giáo-Tông thể hịên trên hai bộ Đạo phục:
- Bộ Đại-phục và quyền hành Giáo-Tông là ứng với Bát Quái Đồ Thiên (xác định qua bài Thi của Đức Chí-Tôn)            
- Bộ Tiểu-Phục Giáo Tông ứng vào Bát-Quái Hư Vô.
Các Bát-Quái hiện nay đúng vào cơ qui nhứt đó là thời kỳ “vạn thù qui nhứt bổn”.

Trên là hai Bát Quái Cao Đài đặt chung trong một đồ hình:
Bát Quái Hư Vô nằm trong, tượng cơ vô vi, ấy là thời kỳ của ĐẠO TÂM thành hình, mục đích chánh là HÒA: Tứ Dương hòa với Tứ Âm, tức Đạo Hòa ở bên trong  
Vậy Bát Quái Hư vô là cái tâm, là Đạo, là Hư vô chi khí, là Thái hòa, tượng cho Trời- Người hiệp một, về cùng Trời.

- Bát Quái Đồ Thiên: tượng trưng đường về của người tu. Chữ Điền  bên trong là do Càn Khôn phối hợp (Tam giáo qui nguyên, khởi từ Âm Dương; lý tam ngôi nhứt thể). Bát Quái này nghịch chuyển tức là đường đi lối về trong cõi Thiêng liêng Hằng Sống, quên đời sống đạo. Ấy là lúc Khảm chuyển qua Ly, Ly chuyển qua Khảm là lúc “Thủy Hỏa Ký Tế”.”Chiết Khảm điền Ly phản vị Càn”
Con đường Đại Đạo là con đường ngắn nhất trong buổi chuyển thế ngày nay của người tu theo Đạo Cao Đài.

III - QUYỀN HÀNH CHƯỞNG PHÁP

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: “CHƯỞNG PHÁP của ba Phái là: ÐẠO- NHO – THÍCH”.

            LUẬN:  làm sao để Chức sắc có sắc phái ?
            - Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái, trừ phẩm Giáo Tông và Thượng Chưởng Pháp ra, tất cả đều chia ra theo sắc phái rõ rệt. Trước tiên thì khởi từ LỄ-SANH là phẩm đầu tiên để chủân bị bước vào hàng Chức Sắc, thì do Đức Lý chấm phong đồng thời chấm phái. Sở dĩ vị Chức sắc được nhận sắc phái Tam Thanh ấy là vì chỉ có Đức Lý mới biết được tiền kiếp vị này tu theo phái nào mà thôi:
- Nếu trước đây vị này tu bên Phật giáo, ngày giờ này Đức Ngài chấm phái Thái (màu vàng),
- Nếu trước đây tu phái Tiên thì ngày giờ này Đức Ngài chấm phái  Thượng (màu xanh)
- Nếu trước đây tu phái Thánh, thì ngày giờ này Đức Ngài chấm phái  Ngọc (màu đỏ)
 Chấm phái là sự ban thưởng và thăng phẩm cấp trong cửa Đạo Cao Đài  nên bước đầu tiên được “Chấm phái”.
“Hàng phẩm Chức việc Bàn Trị Sự cầu phong lên hàng Lễ Sanh, được Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ chấm phái. Khi được chấm phái rồi phải giữ sắc phái đó suốt đời, dù được thăng lên nhiều cấp hay thay đổi đời Giáo Tông khác cũng vậy. Từ Giáo Hữu trở lên là chấm phong.
PCT: “Ba chi tuy khác chớ quyền lực như nhau”.
Các Chức sắc Cửu Trùng Đài được phân ra làm ba phái:
- Phái Thái, cũng gọi là phái Thích hay phái Phật mặc đạo phục màu vàng,  mão  vàng, có  Thánh danh khởi
đầu bằng chữ THÁI .
- Phái Thượng, cũng gọi là phái Lão hay phái Tiên:
mặc đạo phục màu xanh, mão xanh, có Thánh danh khởi đầu bằng chữ THƯỢNG .
- Phái Ngọc, cũng gọi là phái Nho hay phái Thánh: mặc đạo phục màu đỏ, mão đỏ, có Thánh danh khởi đầu bằng chữ NGỌC 
Các Chức sắc đồng phẩm nhưng khác phái đều đồng quyền nhau, không ai lớn không ai nhỏ.
Khi đã được quyền Thiêng Liêng chấm phái rồi thì  Chức sắc ấy mới được đứng vào Thiên phong; Nhưng nếu để người phong tặng cho thì gọi là nhơn phong hay phàm phong, không có giá trị và toàn Đạo không tín nhiệm.
  Huấn lịnh 638, Đức Hộ Pháp dạy Thiên phong:
Tại sao Hội Thánh lại dám mạo hiểm xưng mình là Thánh Thể của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, là Thầy của chúng ta?
         -  Thì Chí Tôn đã nói: Người đến qui lương sanh đặng Người có quyền năng hữu hình mà giáo hóa và cứu vớt quần sanh. Cái quyền hành ấy cao trọng chừng nào, chúng ta không cần để luận ! Muốn nắm quyền hành ấy nơi tay tức phải tỏ ra là mình phẩm giá Lương sanh mới đáng. Dầu tòan Hội Thánh hay là một phần tử của Hội Thánh tức là một Chức sắc Thiên phong nào cũng vậy phải đáng mặt Lương sanh đặng vào Thánh Thể của Người chẳng phải là dễ. Vì vậy mà Chí Tôn phải đem lương sanh ấy vào bậc Thiên phong cho đồng thể cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật mới đáng làm hình thể của Người. Nếu để phàm phong thì quả nhiên nhân lọai đã lăng mạ danh thể của Người. Ấy là tội Thiên điều chẳng hề dung thứ. Mà Thiên phong chánh vị còn giữ phàm tánh, thì lại lăng mạ danh thể của Người hơn thập bội”.  
Nay nhờ Cơ Đại Ân xá của Chí-Tôn nên các nguyên căn ấy mới được tiếp tục TU trong cửa  Đạo Cao  Đài  này,
tùng theo phép tu của Đức Cao Đài Ngọc Đế..
CG- Nghĩa là: mỗi Phái là một vị, mà ba Ðạo vẫn khác nhau, nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật lệ vốn không đồng, chỉ nhờ TÂN LUẬT làm cơ qui nhứt, cho nên Thầy mới nói:
 PCT: "Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một".
            CG: Vì coi như một, nên Thầy mới đến cho nhơn loại lập TÂN LUẬT, thế nào cho phù hạp với nhơn trí, hiệp tánh với nhơn tâm, chung chịu một Ðạo Luật, có phương hành Ðạo, chẳng nghịch với Thiên Ðiều, đặng lập vị mình dễ dàng, mới toàn câu PHỔ ĐỘ.
LUẬN: Chưởng Pháp của ba phái: mỗi phái có vị đại diện cho phái của mình như:
- Phái Thái là phái Phật còn gọi là THÍCH (Thích-giáo)
- Phái Thượng là phái Tiên còn gọi là ĐẠO (Đạo giáo)
- Phái Ngọc là phái Thánh còn gọi là NHO (Thánh giáo)
"Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau”.
 Phân biệt như thế nào?  
    - Phái Phật và phái Tiên thì tu xúât thế, xưa là lánh đời, ly gia cắt ái, lên non luyện pháp trường sinh, tu như thế là tu “độc thiện kỳ thân” là chỉ tu riêng cho mình thôi.
- Phái Nho còn gọi là phái Thánh là TU nhập thế:
   Đạo Thánh do Đức Khổng Tử làm Giáo Chủ truyền bá Nhơn đạo là Đạo Nho, mục đích chấn chỉnh nhơn tâm, vì bấy giờ nhân tâm điên đảo; gọi Ngài là ông THÁNH Ta.
   Đạo Thánh của Đức Chúa Jésus-Christ làm Giáo Chủ là phát huy nhơn đạo, gọi Đức Chúa là ông Thánh Tây
   Ngày nay Đạo Cao Đài làm cơ qui nhứt nên Đức Chí Tôn Qui Tam giáo làm một: lấy Nho Tông chuyển thế, trong đó đã có Đông- Tây hòa hợp: vừa để phát huy tinh thần Nho giáo thùân túy, vừa lấy văn minh khoa học làm phương tiến triển về khoa học. Còn Phật và Tiên thì lấy tinh hoa của những triết lý này làm căn bản về tâm linh, có như thế người tu mới tiến hóa vừa vật chất vừa tinh thần.
“Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau” như trên đã nói, vì pháp tu của Phật và Tiên là xúât thế; của Thánh thì nhập thế. Bấy giờ Đạo Cao Đài chỉ lấy TÂN LUẬT làm cơ qui nhứt, dìu dẫn người TU là để tạo Tiên tác Phật.  Nhân lọai theo phép tu của Thánh là nhập thế thì phát triển về văn-minh khoa học, vật chất đến tột đỉnh như ngày nay.Nhưng càng văn minh vật chất thì con người càng xa rời tâm linh, kém văn minh tinh thần chừng đó.


Do vậy “nên Thầy mới đến cho nhơn loại lập TÂN LUẬT” làm  cơ qui nhứt, nghĩa là trong tinh thần hòa hợp.
Nay Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt ngôi vị là phải trau luyện cho TINH hiệp với KHÍ. Tinh – Khí huờn THẦN là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy”.
Như lời Đức Hộ-Pháp muốn minh xác:
Đức Ngài “Hỏi, đã có nảy sanh ra một Giáo chủ nào đủ đức tánh, đủ quyền-năng, đủ phép mầu, đủ trí hụê làm cho hai đảng ấy dung-hòa mới mong-mỏi Đại Đồng Thế Giới hay chăng?

                  1- Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ:
PCT: “Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình, còn nay thì các Ðấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn trí ngày nay đã qua khỏi “Nguơn Tấn Hóa" (1) thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao; chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo không đủ sức kềm chế đức tin, mà hễ nhơn loại đã mất đức tin về đạo đức rồi, thì cơ tự diệt vốn còn, mà cơ tự diệt còn thì nhơn loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Ðời phải tùy Ðạo mới còn, mà Ðạo cũng phải tùy Ðời mới vững, biết đâu TÂN LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành; trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo- Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ: Như có kẻ hỏi: "Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam Giáo đã có sẵn rồi, lại lập chi TÂN LUẬT nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"
            Ta lại đáp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá CỔ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẳn với Thiên  Ðiều của Đại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ  thể Thiên hành chánh.
            Bởi cớ ấy nên CHÍ TÔN đã cấm Ngũ Chi phái Ngọc, dùng Cổ Luật mà mê hoặc nhơn sanh nữa.
            Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên Ðiều, mà hễ
tùng Thiên Ðiều thì khó lập vị cho mình đặng".
            Xin xem tiếp đây, thì thấy rõ Thầy đã quyết định điều ấy.
 PCT: “Vậy thì một thành ba, mà ba cũng như một”
 CG: Ấy vậy Tân Luật đã gồm trọn Tam Giáo, tức là một thành ba, mà  ba Cựu Luật của Tam Giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là: "Tân Luật".
LUẬN: “Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật” là thế nào ?
-Thuở trước là “người tìm Đạo”. Giả sử muốn tu theo Phật thì phải cố nâng cao đức tánh mình như Phật, ngồi ngang Phật xem Phật làm gì thì bắt chước theo thế ấy: nhưng Phật có nói đâu “Phật giả vô ngôn” (Phật không nói). Thế nên chỉ bắt chứơc được cái áo-dà mặc bên ngòai (đầu tròn cổ vuông), cầm Bình Bát đi khất thực, ngồi tĩnh tọa, mà không thông giáo lý được, vì “Phật tông vô giáo” (Phật không có giáo lý). Thế nên khi người mới bước chân vào cửa Phật thì đã gọi là “Phật Tử” (con Phật); nhưng với Cao Đài Giáo thì Phật Tử laị là tuyệt phẩm trong hàng Thập Nhị đẳng cấp Thiêng Liêng (phẩm thứ 12) !
Ngay chính Đức Tam Tạng khi thỉnh Kinh từ Đông Độ về được rồi mà còn một nỗi lo ngại, lo vì chưa tự tin:
Đức Hộ-Pháp nói:“Cũng như hồi trước TAM TẠNG đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch ra rất khó lắm, lấy cả Kinh-Luật trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm, cho nên Ngài đại nguyện: Ngài làm thế nào Ngài rán sức, Ngài âm tiếng Phạn ấy ra chữ Nho.Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng nào mà tôi qui liễu, nếu trong Kinh-luật Đạo giáo mà tôi không minh tả ra đặng thì khi chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tả trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ. May phước Bắc-Tông được hưởng một ân huệ của nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức Tam-Tạng, khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ, vì cớ mà Chơn-giáo của nhà Phật là Bắc Tông có thể nhờ Đức Tam-Tạng đã minh-tả ra trọn vẹn”.
            Tóm lại: tinh thần của  người tu-  đơn  cử  là  người Việt Nam-  muốn tu theo Phật, Tiên, Thánh, Công giáo, Bà La môn…mà hầu hết là kinh viết bằng ngọai ngữ làm sao hiểu được trọn vẹn.? Thế nên tu nhiều mà thành ít.
            Vì sao? 
         -Vì từ trước đến giờ nứơc Nam chưa có mối Đạo nhà. Nay là “Đạo tìm người” nên Thầy xác nhận:
Từ  thử nước NAM  chẳng Ðạo nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
                  Ví bằng ai hỏi sao bao nả ?
                  Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Hơn nữa nền Đại-Đạo này phát xúât ở Việt Nam, ngôn ngữ
hòan tòan là tiếng Việt Nam, giáo lý, giáo pháp, nghi thức cúng kính, thờ phượng hòan tòan do CƠ BÚT lập ra TÂN LUẬT và PHÁP CHÁNH TRUYỀN tức là để truyền Chánh pháp. Nhờ vào pháp thông thần lực này mà tất cả các nước trên thế giới đều có thể học hỏi thêm qua ngôn ngữ của chính nước họ được dễ dàng. Nhưng cốt tủy vẫn phải là tiếng Việt Nam là nguồn phát xúât. Lại nữa cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều lâm phàm giáo hóa. Thử hỏi còn  gì hơn ? Điều hạnh phúc nhất mà từ xưa đến giờ các bậc tiền bối chúng ta vẫn ứơc mơ nhưng chưa từng có.
-  “Nay thì các Ðấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy”.
  Tức nhiên, Thầy mở Đạo Kỳ ba này là đã chủân bị:
- PHÁP CHÁNH TRUYỀN là Thiên điều, là bất dịch
  -TÂN LUẬT là do Hội-Thánh hiệp nhau lập Luật. Luật thì có thể thay đổi tùy theo sự tiến hóa của nhơn lọai nên Pháp Chánh Truyền có ghi:..
“biết đâu TÂN LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo- Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp”.
          Phải như vậy, vì: TÂN là mới, nằm trong câu “Nhựt TÂN, nhựt nhựt TÂN, hựu nhựt TÂN” (ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới) là nghĩa của chữ TÂN LUẬT này. Bởi Tân Luật có thể thay đổi theo thời gian tùy theo sự tiến hóa của nhơn sanh:
- Pháp Chánh truyền là Dương, vì Dương thì thể cố định.
-Tân Luật là Âm (đối với Dương) nên Âm có thể thay đổi.
- Dương là Đạo, là Hiệp Thiên Đài, là cơ quan bảo thủ.
- Âm là Đời, là Cửu trùng Đài, là cơ quan giáo hóa.
Nhưng phải thấy rằng: Đời là Đời trong Đạo, thế nên câu:
nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo, Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp”.
          Qua hai chữ TÂN PHÁP cũng cho thấy rằng Âm trước, Dương sau, Âm trên, Dương dưới, ấy là qui luật lấy Âm bao Dương là vậy (là quẻ Địa Thiên Thái- là hanh thông). Cũng như về Dịch  thì chi ly lắm:
- Ngay trong chữ “Âm Dương” chứ không nói Dương Âm  - Nói “vợ chồng” chứ không nói chồng vợ.      
       2- Vì sao “một thành ba, ba cũng như một ?
        Luận: Là Đạo Trời nên tượng bằng quẻ KIỀN  ba nét Dương ấy là “Tam Dương khai Thái”. Ba nét này đã đủ lý Tam tài: Thiên- Nhân -Địa rồi. Rõ ràng ba nét dương tạo nên quẻ Càn, ngược lại quẻ Càn ba nét Dương, không đổi.
          PCT cũng định rõ: "Pháp Luật Tam Giáo tuy  phân
biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một".


         Vì coi như một nên mới có được sự đồng quyền đồng đẳng nhau, rồi từ đó mới biến hóa để ba nét này xếp lại thành một Tam giác đều: ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, bằng 60o. Từ đây về sau đối với hình ảnh biểu tượng trong Tôn giáo: “Tam giác đều nội tiếp trong vòng tròn” trở nên phổ biến mà cũng hết sức quan trọng, áp dụng khắp mọi nơi trong nền Đại Đạo này.
           Tôn giáo Cao Đài là một khoa-học siêu khoa học,  một khoa học siêu nhiên, những lý giải bằng khoa học Đạo học này sẽ thay đổi hòan tòan những tư tưởng từ trước đến giờ cho rằng Tôn giáo là dị đoan mê tín; rồi toan diệt Đạo!
            PCT: “Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Ðầu Sư dâng lên”.
CG: Nơi Cửu Trùng Ðài có:
        - Ðức GIÁO-TÔNG là người thay mặt cho các Ðấng Thiêng Liêng đặng hành hóa; Giáo Tông có quyền lập LUẬT, ấy là quyền cao trọng của các Ðấng Thiêng Liêng cùng CHÍ TÔN ban cho nắm giữ,
     - Và ÐẦU SƯ là người thay mặt cho cả nhơn sanh, ấy là quyền cao trọng của nhơn sanh ban cho, hai  đàng  phải
tương đắc mới bền vững cơ "Tạo Thế"Trời-Người hiệp một
            Thường thấy Thiên Mạng hằng quá sức phàm thế còn phàm thế thì nghịch hẳn Thiên Mạng; biết đâu một ngày kia Giáo Tông không lập ra Luật-lệ quá sức người phàm làm đặng và Ðầu Sư lại không xin một Luật lệ quá phép Thiên Ðiều, thì hai đàng ắt phải nghịch lẫn nhau; nếu không có CHƯỞNG PHÁP đứng trung gian thế quyền Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài mà điều độ cho êm đềm hòa nhã, thì nền Ðạo phải chinh nghiêng sanh ra rối loạn, thượng hạ khắc nhau, phải mất trật tự mà gây nên đảng phái.
            Ấy vậy CHƯỞNG PHÁP có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành.Luật lệ nào không có ba Ấn CHƯỞNG PHÁP thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng.
 PCT: Như hai đàng không thuận thì chúng nó phải dâng lên cho HỘ PHÁP đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập Luật lại.
 CG: Một Ðạo Luật nào của Giáo Tông truyền xuống mà nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh, Ðầu Sư đã định quyết không thể thi hành đặng, thì chính mình Ðầu Sư phải đệ lên cho CHƯỞNG PHÁP mà cầu người sửa cải. Còn như Giáo Tông tiếp đặng một Ðạo Luật nào của Ðầu Sư dâng lên mà phạm phép Thiên Ðiều thì chính mình Giáo Tông cũng phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ quyền bỏ luật, làm cho thất thể đôi đàng; phải phải phân phân, để cho CHƯỞNG PHÁP định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận, thì Người phải dâng lên cho Hộ-Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy sửa lại, hay là Hộ Pháp luận ý đôi bên mà lập lại.
PCT: Vậy chúng nó  có  quyền  xem  xét  kinh  điển trước lúc phổ thông, như thảng có Kinh luật làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất bản.
         CG: Nói rằng có quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông, thì tức phải kiểm duyệt các kinh điển ấy trước khi xuất bản; ấy vậy,tuy kiểm duyệt thì tự quyền CHƯỞNG PHÁP định đoạt, bất câu kinh sách nào mà làmcho hại phong hóa cùng là sái Ðạo Luật thì Ngài có quyền trừ bỏ, không cho xuất bản, song trước khi thị nhận cho xuất bản, hay là không cho, thì buộc Chưởng Pháp phải đệ lên Hiệp Thiên Ðài cầu xin phê chuẩn mới đặng. Chẳng phải nói các kinh điển của người trong Ðạo làm ra mà thôi, dầu cho người ngoại giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục, thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng; bởi vậy cho nên Thầy có nói câu nầy:
PCT: "Buộc cả Tín Ðồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật Ðời".
CG: Dầu cho luật lệ Ðời mà làm cho thống khổ nhơn sanh thì Chưởng Pháp cũng liệu phương nài xin chế giảm. Cái quyền lực ấy phải nhờ nương Ðạo quyền mới đủ mạnh, nghĩa là Ðạo mạnh thì quyền người mới mạnh, mà Ðạo mạnh thì mới mong tế độ nhơn sanh khỏi đường Ðời thảm khổ; vì vậy mà Thầy lại buộc phải nói thêm câu sau này nữa:
PCT: "Thầy khuyên các con phải xúm nhau vùa giúp chúng nó".
PCT: Mỗi Chưởng Pháp phải có Ấn riêng.
CG: - Thái Chưởng Pháp thì Bình Bát Vu,
  - Thượng Chưởng Pháp thì Cây Phất Chủ,
  - Ngọc Chưởng Pháp thì Bộ Xuân Thu.
Hiệp một gọi là CỔ PHÁP. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ-Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi Mão Tiểu phục của Người phải có ba Cổ Pháp ấy.
            Còn nơi mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông thì  lại
có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
-  Long Tu Phiến.
-  Thư Hùng Kiếm.
-  Phất Chủ.
 Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh.
       PCT: Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành.
         CG: Bất câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành; nghĩa là: Trên Giáo Tông không đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép thi hành. Cửu Trùng Ðài vẫn là Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu  Trùng Ðài. Ấy là cơ Ðạo cổ kim hi hữu”.

5 - LUẬN ĐẠO
a/ - Luận về CỔ PHÁP của HỘ PHÁP


Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêngnhư: 
 - Bình Bát Vu  thuộc phái   Phật    (Thích)
 - Cây Phất Chủ thuộc phái Tiên    (Đạo)
      - Bộ Xuân Thu thuộc phái   Thánh (Nho)
“Hiệp một gọi là CỔ PHÁP. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng”.
            Ba Cổ Pháp này của ba Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Đài, bây giờ hiệp một lại là CỔ PHÁP của HỘ PHÁP, là người đứng đầu Hiệp Thiên Đài, tức “trong Dương có Âm”. Cổ Pháp này sử dụng trên Tiểu phục của Hộ Pháp. Còn Đại phục của Ngài thì đã có Khôi Giáp rồi.
  Đây cũng là hình ảnh quẻ KIỀN  ba vạch liền. Kiền (Càn) số 1, nhưng khi là quẻ kép thì gọi là Bát Thùân Kiền số 11, vì lẽ ấy mà trên Bàn thờ HỘ PHÁP có 11 cúng phẩm, để chỉ cái Dương đến cùng cực, tối cao. Quyền hành Hộ Pháp là tối thượng.
          Ấy cũng là qui luật trong Dương (Hộ-Pháp) có Âm
(Ấn Chưởng pháp). “Ba mà một, một mà ba”.
b/- CỔ PHÁP của GIÁO TÔNG:
CG: “Nơi Mão  Ðại  phục của  Ðức GÍAO TÔNG  thì  lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
- Long Tu Phiến.
- Thư Hùng Kiếm.
- Phất Chủ.
      Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh”.
Vậy Giáo Tông đứng đầu Cửu Trùng Đài mà gồm CỔ PHÁP của hai vị (2): Thượng Phẩm, Thượng Sanh, gồm ba Bửu pháp (3); cũng trở về con số 3-2, tức là qui về “Tham Thiên lưỡng địa”. Ở đây lại là trong Âm có Dương. Cổ Pháp này đặt trên Mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông”.
Hộ-Pháp đội Mão có Cổ Pháp là khi mặc Tiểu phục,  
Giáo Tông thì sử dụng Mão có Cổ Pháp như trên là khi Ngài mặc Đại phục.
         Bấy nhiêu đó cũng rõ lý Âm Dương luôn đi liền bên và đan khít vào nhau như hai giềng lưới lớn, đối với hai vị Chưởng Quản của hai Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
        Mão Giáo Tông là gồm Cổ Pháp của hai vị Thượng Phẩm và Thượng Sanh (số 2) gồm cả ba bửu pháp (3). Như đã nhiều lần bàn qua số 2 là Khôn  (6 nét Âm) gấp 2 lần Càn, Càn Dương 3 nét, nên mới nói Càn 3 Khôn 2 “Tham Thiên Lưỡng Địa”. Nhưng ở đây số 2 làm chủ, nên biến thành quẻ ĐỊA THIÊN THÁI 
            Tóm lại:
- Mão của Đức Hộ-Pháp tượng quẻ (Càn) hay  KIỀN 
-Mão của Đức Giáo Tông tượng quẻ THÁI (hanh thông)
     PCT: Ba ấn phải có trên mỗi Luật mới đặng thi hành.
     CG: Bất câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng
hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành; nghĩa là: Trên Giáo Tông không đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép thi hành”.
Luận: Tại sao “Luật lệ nào không có ba Ấn CHƯỞNG PHÁP thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng ?.
- Bởi Chưởng Pháp đứng vào Nhơn Tiên trong “Tam Tiên” là đứng vào cơ hòa nên phải đủ: Hòa Thiên, hòa Địa, Hòa nhân, thì quyền-uy Chưởng Pháp mới trọn vẹn. 
CG: “Cửu Trùng Ðài vẫn là Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu  Trùng Ðài. Ấy là cơ Ðạo cổ kim hi hữu”.
Cổ kim hi hữu thật ! Vì mỗi cơ quan hành sự sẽ không dẫm lên quyền hạn của nhau; có sự phân quyền và phân nhiệm rõ rệt; thể hiện bình đẳng một cách tuyệt đối.
Vì ĐẠO TRỜI nhất định phải có những nét tuyệt vời và hòan hảo hơn tất cả những Tôn giáo từ trước. Gọi là Tôn giáo ví như những dòng sông. Nhiều dòng sông dù nhỏ dù lớn đều đổ ra biển cả. Biển này là ĐẠI-ĐẠO.
            Đặc biệt hơn hết và trước hết là vấn đề CỔ PHÁP.
c/- CỔ PHÁP  
E:  The archaic attributes.
F:  Les attributs archaïques
(Cổ: Xưa, cũ. Pháp: có rất nhiều nghĩa, ở đây có nghĩa là cái dấu hiệu của một Tôn giáo). Vậy Cổ Pháp là cái dấu hiệu riêng tượng trưng của các nền  Tôn-giáo.
- Bình Bát vu     tượng trưng   Phật giáo.
Cây Phất chủ  tượng trưng   Tiên giáo.
- Kinh Xuân Thu tượng trưng Nho giáo.
Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng Cổ pháp Tam Giáo trên hiệp thành một Cổ Pháp duy nhứt, gọi tắt là CỔ PHÁP CAO ĐÀI. Buổi này Đức HỘ-PHÁP là Giáo Chủ hữu hình nên Cổ Pháp này trên áo Tiểu phục của Ngài.
Hiệp ba món ấy lại với nhau để tượng trưng Tôn chỉ
của Đạo Cao Đài là “Tam Giáo Qui Nguyên”, là đem ba Tôn giáo lớn ở Á Đông (Phật giáo- Tiên giáo - Nho giáo) hiệp về một gốc là Đại-Đạo, do Đức Thượng Đế làm chủ. 
Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:
                  “Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
                  “Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn”.
Ngòai ra Ðạo Cao Ðài gồm có tất cả năm Cổ pháp:


        *CỔ PHÁP HỘ-PHÁP: gồm Bình Bát vu, Cây Phất chủ và Kinh Xuân Thu. Cổ Pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Hộ Pháp nắm trọn Bí-Pháp Tam giáo, để thực hiện Tôn chỉ “Qui Nguyên Tam Giáo” trong thời Tam-Kỳ Phổ-Độ.
*Cổ Pháp Thượng Phẩm: gồm Phất chủ và Long Tu phiến đặt chồng lên nhau. Cổ pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Thượng Phẩm dùng pháp bửu đưa các chơn hồn đắc Đạo đi lên; vào Tam thập Lục Thiên hay Cực Lạc thế Giới      *Cổ Pháp Thượng Sanh: gồm Phất chủ và Thư Hùng kiếm, gác tréo lên nhau. Cổ Pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Thượng Sanh dùng pháp bửu để trị thế, dọn đường cho nhơn sanh đi vào cửa Ðạo.
*CỔ PHÁP GIÁO-TÔNG: gồm Cổ Pháp Thượng Phẩm và Thượng Sanh ghép chung  lại.  Có  ba  pháp  bửu:
Phất chủ, Long Tu phiến, Thư Hùng  kiếm,  có  ý  nghĩa  là
Ðức Giáo Tông nắm Cơ chuyển  thế, giáo hóa  nhơn  sanh, hướng Ðời vào Ðạo, làm cho Ðời tận thiện tận mỹ.
*Cổ Pháp Chưởng Pháp: mỗi Chưởng Pháp có Cổ Pháp riêng.
- Thái Chưởng Pháp có Cổ pháp là  Bình Bát vu.
- Thượng Chưởng Pháp có Cổ pháp là  Cây Phất chủ.
- Ngọc Chưởng Pháp có Cổ pháp là  Kinh Xuân Thu.



Nhập ba Cổ pháp của ba Chưởng pháp thành Cổ Pháp Hộ Pháp cũng là biểu hiệu của nền Ðại-Ðạo mà Đức Hộ Pháp là Giáo Chủ về hữu hình. Còn Giáo Chủ vô vi là Đức Thượng Đế. Ấy cũng là một điều độc đáo về lý Âm Dương Thiên- Nhơn đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn.
            Luận:
Hiệp Thiên Đài  ba Cổ Pháp: Hộ Pháp, Thượng phẩm, Thượng Sanh.
-Cửu Trùng Đài có hai Cổ Pháp:Giáo Tông,Chưởng Pháp.
Điều này thấy rõ cái lý “Tham Thiên Lưỡng địa”:
- Đức Hộ Pháp và Giáo Tông mỗi Cổ Pháp có ba pháp bửu là người “thay Trời tạo thế” phải đủ tam tài.  (Nhứt Phật)
- Thượng Phẩm và Thượng Sanh: mỗi Cổ pháp có hai pháp bửu là đứng vào Âm Dương nhị khí  (Nhị Tiên).
- Chưởng Pháp mỗi vị chỉ có một pháp bửu mà thôi, tức là qui về điểm đơn nhất Thái cực (số 1)

Đặc biệt là hai con số 2 và 3: Số 2  là  Thiếu  Âm,  3 là 
Thiếu Dương. Cọng chung lại 2+3=5 đó là Ngũ Hành, nên:
-Cổ-Pháp của Thượng-Sanh:Phất Chủ và Thư Hùng-Kiếm; -Cổ Pháp của Thượng-Phẩm: Phất  Chủ và Long Tu Phiến.   Ấy là Lưỡng nghi. Hai vị Thượng Phẩm và Thượng Sanh là Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Giờ đây Cổ-Pháp của hai vị này họp lại là CỔ-PHÁP của Giáo-Tông (Cửu Trùng Đài).
Trong khi đó Cổ pháp của Mỗi Chưởng Pháp chỉ có một, ấy là số Thái cực. Hiệp cả ba lại là Tam tài.
d/- Luận về Tham Thiên lưỡng địa:
(Tham là dự vào, tham là nói về con số 3 mà tự nó không thể chia lìa, như “tham thiên” tức là dự vào việc của trời ấy là Thiên- Nhân- Địa. Tam cũng là ba nhưng có thể chia lìa được. Tương tự như thế có:
Lưỡng là hai, nhưng Lưỡng là dùng vào việc không thể chia lìa: Lưỡng mục, lưỡng thê (loài vật vừa sống dưới nước vừa sống trên cạn), lưỡng quyền (hai gò má). Còn có thể chia lìa được thì gọi là Nhị, như nhị nhân (hai người). Chỉ có người mới được gọi là “tham thiên lưỡng địa”.
“Đây là nói qui tắc và hạn số vận chuyển pháp luân mà trong Kinh Dịch gọi là “Tham Thiên lưỡng địa” vì *Trong năm con số sanh của Ngũ hành là 1,2,3,4,5 thì:
- Số trời có ba số lẻ (1,3,5) cộng ba số này lại thành 9.
- Số đất có hai số chẵn  (2,4) cộng hai số này lại thành 6
Số 9 là số Thái Dương; số 6 là số Thái Âm.
*Tham Thiên Lưỡng địa còn có thể giải thích: Bát Quái mỗi quẻ có ba hào, số 3 là số quan trọng trong Kinh Dịch:
- Lấy số 3 mà nhân 3 thì thành 9 (3x3=9) gọi là Tham Thiên, số Trời, số Thái Dương.
- Lấy số 3 nhân cho 2 thành ra số 6 (3x2=6) gọi là Lưỡng địa, vì số 2 là số chẵn, số đất. Số 6 là số Thái Âm.
.Hào quẻ Càn dùng số 9 (Cửu),
.Hào quẻ Khôn dùng số 6 (Lục).
Dùng số 9 của quẻ Càn mà nhân cho 4 thì được 36. Áp dụng con số này làm chiều cao 36m của hai Đài Lôi Âm Cổ và Bạch Ngọc Chung (hai bên Hiệp Thiên Đài) của Đền Thánh- Tòa Thánh Tây Ninh.
         Dùng số 6 trong quẻ Khôn nhân 4 thì được 24: Áp dụng con số này làm chiều cao cho Nghinh Phong Đài Đền Thánh có chiều cao 24 m. (Số 4: thượng nguơn tứ chuyển).
Lấy 36 và số 24 nhân 4 lần (36x4= 216) +(24x4=144)=360
  Số thăng giảm đều số 4. Hiệp lại thành 360 (vòng tròn 360o), đó là hoàn thành độ số vận chuyển pháp luân. Phép tu tánh mạng (trung đạo) dùng phương pháp này để tịnh dưỡng vận chuyển pháp luân bằng cách hô hấp đúng theo qui tắc mà vận hành: Càn Cửu Khôn Lục”.
Tại sao có số 3 ?
(ví như 3 ly RƯỢU trên Thiên bàn)
            - Dịch Hệ Từ thượng viết rằng: “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi…” nghĩa là Dịch có Thái cực liền sinh hai ngôi. Vậy Thái cực là Một, Lưỡng nghi là hai (Âm –Dương). Thái cực họp với Lưỡng nghi thành 3.Có 3 rồi mới sinh ra Tứ tượng, biến Bát Quái, từ đó mới biến hóa vô cùng. Vậy số 3 là đầu mối của vạn  vật.
        Ông Thiệu Khang Tiết cho rằng Số 3 được gọi là số chân chính và đó là số đầu của Trời- Đất. 
 - Cũng cùng một ý ấy, Đức Lão-Tử nói rằng “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, Tam sinh vạn vật” nghĩa là Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Vậy số 3 chính là nguyên tắc tạo thành vạn vật vậy.
      - Luật tam nguyên trên đây không phải là chỉ tìm thấy trong Dịch học, Lão học ở Trung Hoa mà còn tìm thấy trong nhiều tín ngưỡng trên thế giới như:
. Ấn Độ có ba vị Thần: Brahma, Shiva, Krishna.
     . Ở Ba-Tư có ba vị Thần là Ormuzd (Thiện), Ahrimane
(Ác), và Nithra (dung hòa).
     .Ở Ai cập có ba vị Thần là Shou (khí), Tefnet (hư không) và Atoum (dung hòa).
     .Trên Thiên bàn CHÍ-TÔN cúng phẩm phải đủ ba  chung Rượu trắng (số 3 là số tham thiên) và hai tách nước (nước trà  -Âm và nước trắng- Dương, ấy là 1+1=2).  Số 2 là số Lưỡng Địa (Lưỡng nghi).Như đã biết Ngũ hành:
-  3 Số lẻ là Dương:  1,3, 5
-  2 Số chẵn là Âm:  2, 4    
Trong các số trên thì số 9= 1+3+5 là do tòan số lẻ (dương) cộng lại, gọi là thùân Dương hay Lão Dương tức là Số trời  (Thiên) và số 6= 2+4 là do tòan số chẵn cộng lại mà nên, được gọi là số thùân Âm hay Lão Âm tức số đất (Địa).
            Ngòai ra số Trời 9=3x3 gấp 3 lần số 3 được gọi là số “Tham Thiên” (ngang với trời), còn số đất 6=2x3 tức là  2 lần 3. Số 2 gọi là Lưỡng địa (2 lần mà thành đất). Do đó hai số 3 và 2 vừa nói trên gọi là “Tham Thiên lưỡng địa”.
Số 2+3= 5 (ngũ trung) là số  của  hành  Thổ.  
Thiệu Khang Tiết nói “Thổ giả, Âm dương, Lão Thiếu: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy xung chi khí, sở kết dã” (Thổ là nơi mà Âm Dương, Tứ Tượng cùng các hành: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy kết hợp tất cả với nhau tạo thành Khí Hư vô (LãoThiếu tức Lão dương, Lão âm; Thiếu dương, Thiếu Âm). Như vậy Thổ số 5 là nơi chứa Khí Hư vô (tức là Đạo) và đầy đủ cả Âm- Dương, Ngũ hành.
            Lại nữa, hai số Tham Thiên lưỡng Địa là đầu mối của việc lập Quẻ, chế ra Hào. Thuyết quái truyện viết rằng: “Tham Thiên lưỡng địa nhi ỷ số, quan biến ư Âm- Dương nhi lập Quái, phát huy ư cương- nhu nhi sinh Hào” nghĩa là dựa vào hai số Tham thiên (3) Lưỡng địa (2) để quan sát sự biến hóa của Âm –Dương mà lập quẻ, phát huy sự cứng
mềm mà sinh ra các Hào.
Vậy khi đã có hai rồi thì phải có 3 cho đúng luật “Tham Thiên Lưỡng địa” vậy.
Gần đây nguyên lý 3- 2 “Tham Thiên Lưỡng địa” đó đã được đem áp dụng vào khoa Vật lý học nguyên tử. Nguyên là hai nhà bác học người Trung hoa là Lee Tsung-Dao và Yang-Chen-Ninh đã thí nghiệm và chứng minh được rằng khi một hạt nguyên tử nổ thì sẽ phóng ra những ly tử Âm và ly tử Dương dài không đồng đều nhau: tia ly tử dương bao giờ cũng có bề dài 3 đơn vị và tia ly tử Âm dài 2 đơn vị, nghĩa là đúng theo luật 3/2 của hai số “Tham Thiên Lưỡng địa” này. Nhờ cuộc thí nghiệm và chứng minh thành công mà hai nhà Vật lý trẻ tuổi này được Giải thưởng Nobel về Vật-lý-học năm 1957.
          Tóm lại: “Tham Thiên Lưỡng địa” được giải rõ:
            - Có thể chia lìa nhau được gọi là “Tam” là 3; không thể chia lìa nhau gọi là “Tham” (là dự vào 3).
            - Tương tự: có thể chia lìa nhau được gọi là “Nhị” là 2; không thể chia lìa nhau gọi là “Lưỡng” (2 ngôi).
            Các cúng phẩm trên Thiên bàn có một ý nghĩa cao siêu không thể thay đổi được, mà phải tầm lý Đạo để hiểu biết: ấy là lý “Tham Thiên Lưỡng địa”. Trong Tam Tài: Thiên- Nhân- Địa thì chỉ có con người đứng giữa trời đất mới được tham dự vào chuyện của trời đất mà thôi. Nay là thời “Nhơn sanh ư Dần” cũng không ngòai ý nghĩa ấy.
            Đó là kết quả của hai quẻ CÀN  KHÔN  tức nhiên cả hai đều có 3 hào Dương và 3 hào Âm, nhưng Khôn thì có số vạch gấp đôi (2 lần) của Càn, Ấý là thành quả 3/2 của “Tham Thiên Lưỡng địa” đó.
Hơn nữa ba ly rượu có thể nói là tượng cho ba cõi trời: Thượng, Trung, Hạ. Mỗi ly rượu  rót ba  phân  là  chỉ người tu có ba bậc: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân.
Dâng Tam bửu thì một ly bằng 9 phân là hợp nhất.
Ngày trước thì Đức Chí-Tôn độ các Nguyên nhân trước, kế đến Hóa nhân, sau cùng là Quỉ nhân, nên Kinh là:
     “Tùân-huờn phục vị Thiên môn,
    “Nguơn linh, Hóa chủng, quỉ hồn nhứt thăng”.
Ngày nay là cơ Đại Ân xá của Chí Tôn nên Thầy cho về cùng một lượt. Kinh Phật Mẫu có câu:
    “Trùng huờn phục vị Thiên môn,
   “Nguơn linh, Hóa chủng, quỉ hồn nhứt thăng”.
Vì là “Trùng huờn” tức nhiên về cùng một lượt nên có một số còn giữ “bản chất quỉ” mà thường xảy ra việc muốn phá họai nền Chánh giáo của Thầy, Thầy cũng dùng họ cho làm “Giám khảo” để duợt kiếp khiên trong hàng Thánh Thể, tức là dùng làm chất xúc tác, nói nôm na là chất phèn để lóng cho nước thêm trong. Trong cơ:
   “Thưởng phạt đến cùng Thánh đức thôi”
            Ba ly rượu trên Thiên bàn có mang số 6 - 7 - 8 ấy là hình ảnh của các Tiên Nương nơi Diêu-Trì-Cung đến giáo hóa trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này đồng thời cũng là chấm công quả nữa:
            - Số 6 ấy là Lục Nương Diêu-Trì-Cung, là Thánh Jeanne-D’Arc, tiền kiếp là người Pháp. Nay với trách nhiệm “phất phướn truy hồn”
            - Số 7 là Thất Nương Diêu-Trì-Cung, người đến trước nhứt để độ dẫn, giả danh Đòan Ngọc Quế, nhiệm vụ là “khêu đuốc Đạo đầu”. Đồng thời báo cho nhân lọai biết giờ này Đức Chí-Tôn đến ban cho một nền VƯƠNG Đạo lấy LỄ làm đầu, dùng Nho Tông Chuyển thế, qua tánh danh Tiên Nương VƯƠNG THỊ LỄ.
- Số 8 là Bát Nương Diêu-Trì-Cung, là Tiên Nương
Hớn Liên Bạch. Trong buổi này thì:
      “Bát Nương thật Đấng Chí linh,
      “Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu”.
Ba Tiên Nương là hình ảnh ba ly Rượu trên Thiên bàn thuộc về KHÍ. Trong số này thì Lục Nương là người Pháp (Tây), Bát Nương là Trung Hoa (Đông), Thất Nương gốc Việt Nam. Tiên Nương đến trước nhất đứng vào chữ CHÁNH, người đứng giữa 3 con số nên được chữ TRUNG Nếu cộng cả ba số lại chia đều cho 3 thì cũng vẫn số 7 là con số chỉ Thất tình, Tu để biến thành Thất bửu. Đấy là 3 người, ở phương Đông Tây hòa hợp trong nền Tôn giáo.
e/ - Lý Âm Dương nhặc nhiệm:
Dầu là khởi điểm, nhưng những việc tế vi, ít người lưu ý mà cũng có bàn tay của Thượng Đế sắp đặt:
       - Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung Nhập môn vào Đạo tại nhà Đức Cao Thượng Phẩm, ngày 11-01-1926.
       - Đức Chí Tôn mượn bàn tay của Đức Thượng Phẩm chấp nhang để trục Thần của Ngài Phạm Công Tắc ra để chơn linh HỘ-PHÁP VI-ĐÀ nhập vào đêm 13-05-Bính Dần tại nhà Ngài Lê Văn Trung.
Thế mới thấy rằng Âm Dương luôn hiển hiện ở mọi nơi, mọi chỗ, không có chỗ nào mà không có Âm Dương.
- Đức Văn Trung (Đời) mà nhập môn ở nhà Đức Cao Thượng Phẩm (Đạo) là “Đời trong Đạo”.
- Đức Hộ-Pháp (Đạo) mà Thầy trục Thần Ngài ở nhà Đức Văn Trung (Đời). Vậy là “Đạo trong Đời”
              Lúc khởi Xây bàn cũng có hai loại bàn:
- Bàn tròn có một trụ ở giữa và ba chân, ban đầu dùng  Xây bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang (hiện là Thượng Sanh- Chi Thế) ở phố Hàng Dừa. Bàn này mặt tròn có đường kính 51 phân, bàn cao 79 phân. Hiện chiếc bàn tròn được lưu giữ nơi Thảo Xá Hiền Cung – Tây Ninh.
            - Bàn mặt vuông bốn chân dùng Xây bàn tại nhà ông Cao Quỳnh Cư (hiện là Thượng Phẩm – Chi Đạo) ở  số 134 đường Bourdais (Sài-Gòn). Chiếc bàn vuông mỗi cạnh là 44 phân, cao 75 phân, hiện được lưu giữ nơi Nữ Đầu Sư Đường- Tòa Thánh - Tây Ninh.
            Như vậy khi Xây bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang thì sử dụng bàn tròn “Dương trong Âm”. Khi xây bàn tại nhà ông Cao Quỳnh Cư thì sử dụng bàn vuông “Âm trong Dương”. Tuy việc làm này về phía người thì hoàn toàn không có sự chuẩn bị, nhưng hầu như thiêng liêng đã chuẩn bị một cách chu đáo, đủ thấy rằng Đạo Trời không một điều gì thừa, cũng không một điều gì thiếu hết, là do:

Âm Dương tương hiệp:
Theo Bí-Pháp Chơn-Truyền của cơ sanh hóa phải có đủ Âm Dương, trong sanh quang chúng ta có điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn Giáo nào có đủ Âm Dương thì mới vĩnh cữu. Như Ðức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh Giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là Ðệ nhứt Tông Ðồ bị đóng đinh trở ngược lại, gọi là phản âm. Âm Dương tương hiệp đúng theo Bí Pháp, nên Ðạo Thánh lưu truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng”.

KẾT LUẬN:
3 Chưởng Pháp đầu tiên Chí Tôn phong:
-Tương (Minh Sư) Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng" Ngày 24-07-Bính Dần.
- Như Nhãn (Huề Thượng Giác Hải): Quảng Pháp Thuyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thái".
-Thụ (Minh Sư: Vĩnh Nguyên Tự) Nho Tông Chưởng   Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc" Phong ngày 10-9-Bính Dần.

A - Ðạo Phục của THÁI CHƯỞNG PHÁP:
CG: Ðạo Phục của Thái Chưởng Pháp có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu vàng (màu Ðạo) có thêu chữ BÁT QÚAI y như Bộ Tiểu Phục Giáo Tông, ngoài thì choàng Bá Nạp Quang màu đỏ, tức gọi là Khậu, đầu đội Mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng tay cầm bình Bát Vu, chơn đi giày vô ưu cũng màu vàng, một sắc với áo, trước mũi có chữ "Thích".
Bộ Tiểu Phục thì cũng màu vàng, y như áo Ðại Phục, ngoài không đắp khậu, không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt.

Về lại nhà  [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét