Tòa Thánh Tây Ninh
Pháp Chánh Truyền
Pháp Chánh Truyền
E - TỊCH - ĐẠO
Tịch Ðạo là Sổ bộ
ghi tên Chức sắc với Thánh danh có chữ biểu thị thời kỳ Phổ Độ của một đời Giáo Tông.. Nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ này với tôn chỉ “Qui
Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” nên Ðức Chí Tôn lập Tam Trấn Oai Nghiêm cầm
quyền Tam giáo, chứ không dùng Giáo chủ Tam giáo như thời Nhứt kỳ và Nhị kỳ Phổ
Độ nữa, tức nhiên phải có đủ Tam Trấn chứng đàn, nhìn nhận
cho sự phong TỊCH này:
-
Phật thì Ðức Quan Âm Bồ Tát làm Nhị Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Phật
giáo.
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
- Tiên thì Ðức Lý Ðại Tiên Trưởng
Thái Bạch Kim Tinh làm Nhứt Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tiên giáo.
- Thánh thì Ðức Quan Thánh Ðế Quân
làm Tam Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Nho giáo.
Ðức Thái Bạch Kim Tinh giáng cơ cho thi khoán thủ (Soạn giả ghi thêm chữ Hán và tạm giải thích)
THÁI Thượng vô ngôn hữu Đạo thành
BẠCH vân hữu nhãn kiến nhơn sanh
KIM quang đắc kiếp tu tâm thiện
TINH đẩu nan tri Ngã độ thành
太 上 無 言 有 道 成
白 雲 有 眼 見 人 生
金 光 得 劫 修 心 善
星 斗 難 知 我 度 成
Giải nghĩa:-Thái cực ở
trên cao, không nói mà Đạo thành,
- Trong mây trắng có “Mắt” thấy
khắp cả nhơn sanh.
- Ánh kim quang đạt được kiếp
Tiên nhờ tu tâm thịên,
- Các vì sao khó biết TA độ cho
viên thành.
*Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát giáng cơ
cho thi khoán
thủ (Sọan giả xin viết ra chữ Hán và giải nghĩa)
QUANG minh Nam Hải trấn thiền
môn
ÂM cảnh năng tri độ dẫn hồn.
BỒ đoàn mạc hám liên huê thất
TÁC thế tâm ưu khởi Đạo Tông
光明 南 海 鎮 禪 門
陰 境 能 知 度 引 魂
蒲 團 莫 噉 連 花 室
作 世 心 憂 起 道 宗
Giải nghĩa:
- Ðức Phật quang
minh ở Nam Hải trấn giữ cửa Thiền,
- Có khả năng biết và độ dẫn
các hồn nơi Âm cảnh.
-Ngài ngồi trên tấm bồ đoàn,
không thích ngự trên tòa sen,
(Ý nói: muốn làm một vị Bồ Tát
để cứu độ chúng sanh, chớ không thích ngồi an hưởng trên ngôi vị Phật)
- Có lòng lo lắng làm cho người
đời khởi bước theo ĐẠO.
*Ðức Quan Thánh Ðế
Quân giáng cơ cho thi khoán thủ (Xin viết ra chữ Hán và giải nghĩa)
QUAN thành tái hiệp Hớn
triều phong
THÁNH đức mạc vong hám
thế trần
ÐẾ thất nhứt tâm trung
khí dõng,
Thanh Y Xích Diện hảo vinh
phong
關 誠 再 合 漢 朝 封
聖德 莫 忘 噉 世 塵
帝室 一 心 忠 氣 勇
青衣 赤 面 好 榮 封
Giải nghĩa: Quan Võ xưa được
triều Hớn phong chức, nay tái hiệp. Đức độ của bậc Thánh chẳng ham thích việc đời.
Một lòng trung thành với nước và chí dũng với nhà vua. Áo xanh mặt đỏ là chỉ uy
phong hiện trong nét trung kiên của Ngài. Chính Ngài được phong tước vinh hiển
tốt đẹp.
1- Tịch Đạo: THANH
HƯƠNG
Thời Giáo-Tông đầu
tiên là của Đức Lý Giáo-Tông thì Tịch Đạo Nam Nữ là “Thanh Hương”. Nếu là
Chức sắc Nam phái từ hàng Lễ
Sanh trở lên thì lấy Thánh danh có kèm theo chữ “Thanh”. Thí-dụ: ông Nguyễn-văn-A
đắc phong Lễ Sanh được chấm phái Thượng, Thánh danh sẽ là: THƯỢNG-A-THANH (có
nghĩa là chữ sắc phái đứng trước, kế là tên, sau hết là chữ Tịch Đạo “THANH”)
Về Nữ phái thì chữ
Tịch Đạo “Hương” đứng trước tên. Thí dụ: Bà Lâm-Ngọc-Thanh, phẩm Đầu-sư, thì
Thánh danh sẽ là Nữ Đầu-Sư HƯƠNG THANH hoặc nếu có nhiều người trùng tên, thì đặt
chữ “họ” trước, gọi là Nữ Đầu Sư LÂM HƯƠNG-THANH.
Ý-nghĩa hai chữ
THANH HƯƠNG:
Hai chữ Thanh Hương này phát xuất từ đôi câu đối:
- THANH sử ký danh
lưu vạn đại,
- HƯƠNG hoa truy
sùng bái thiên thu.
Có nghĩa là: - Bộ Thanh sử ghi
tên người trong sạch, tên tuổi còn lưu lại muôn đời.
- Đền hương lửa truyền nối, thờ
lạy người danh tiếng.
Giải riêng từ chữ: THANH 青 là màu xanh tươi, tượng sức
sống vươn lên, chỉ sự thanh
khiết, trong sạch. Hoặc viết là 清 có bộ thuỷ. HƯƠNG
香 là mùi thơm tho.
Chiết tự hai chữ
Thanh Hương:
-
THANH 青 chiết tự: trên là Chủ 主 dưới là Nguyệt 月
-
HƯƠNG 香 chiết tự: trên là Hoà 禾 dưới là Nhựt 日
. Nếu
lấy hai chữ của phần trên đọc là Chủ Hoà 主 禾
. Nếu lấy hai chữ dưới hiệp
lại thành ra chữ Minh 明 có nghĩa là ghép hai chữ Nhựt Nguyệt lại là chữ
Minh.
Thánh ý Thầy muốn
rằng trong thời buổi ban sơ này toàn Đạo Nam Nữ phải biết trên HÒA dưới HIỆP.
Chữ Thanh 清 viết có ba chấm thủy nghĩa là trong sạch. Ba chấm thủy
tượng trưng Tinh - Khí -Thần hiệp.
Bài thơ chiết tự
chữ THANH HƯƠNG:
Dụng
tiếng Thanh Hương Tịch-Đạo nhà,
Giáo-Tông đổi mới ĐẠO TÂM ra.
Phân
THANH 清 xuất ngoại Tinh-
Thần- Khí,
Hòa
hiệp Âm Dương diệu pháp mà !
Hương
sắc Nữ gìn nêu giá ngọc.
Chiết
Hương hạ Nhựt thượng vi Hòa
Chủ
Hòa mục đích Cao-Đài dựng,
Nhựt
Nguyệt, Minh tâm hiệp nhứt tòa.
( Nguyên-Thủy )
Vậy: Tịch HƯƠNG là tịch của
Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại. Đức Lý nói với Bà Lâm-Hương
Thanh: Hiền Muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm này. Thầy đến phong chức
lập thành Nữ phái, nghe à! (TN/ 95)
Ngày 11-12-Bính Dần (Vendredi 14-1-1927): Đức Lý
giáng đàn nói với chư Nữ-chức
chi Minh Đường rằng: “Thầy dạy Lão phải lập phái Nữ cho thành tựu. Em gắng lo
phổ-độ nhơn-sanh. Cửu nhị ức nguyên nhân hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng lẽ em
biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông công em”. Ngài cho Thi:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai
nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch
Hương”.
久 死 今 朝 得 復 還
幸 逢 天 命 到 開 元
世 中 忌 死 何 知死
死 者 何 存 主 藉香
Đức Hộ-Pháp giải
nghĩa:
Cửu tử kim triêu đắc
phục huờn là
cảnh trần TA chết đã lâu mà hôm nay TA được phục sanh lại trong Thánh Thể của Đức
Chí-Tôn.
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn là còn hạnh
phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến ? Bần-Đạo đã thuyết:
Cuối Hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng nguơn Tứ chuyển, Ngài đến khai nguơn là có
duyên cớ. Bần Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được.
Ngài đến đặng mở Thượng nguơn Tứ chuyển.
Thế
trung kỵ tử hà tri tử? Thế gian sợ chết
mà không biết cái chết là gì ! Chính Ngài hỏi rồi nói:
Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch HƯƠNG
là Tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì
Ngài đến làm chủ của Nữ-phái là nghĩa gì ? Cầm cái giống của thế-gian này chi
?”
&
2- Tịch Đạo: ĐẠO
TÂM
Tịch Đạo kế tiếp
là ĐẠO TÂM 道 心 nghĩa là tiếp theo sau Tịch Thanh Hương. Nói rõ ra Tịch-Đạo
Thanh Hương là lo tu về phương diện hữu hình, như tạo tác các cơ sở, lập nên
Thánh Thất làm nhà chung cho nhân sanh đến chiêm bái và để học hỏi Đạo lý. Thời
gian này người Tín hữu Cao-Đài lập công bằng công quả ngoại, như xây dựng, tạo
tác, giữ gìn cơ sở, cúng kiếng.
Nay qua Tịch ĐẠO
TÂM thì lo về phần tâm linh: tức nhiên phải thấu đạt chơn lý chánh truyền, là
phải học hỏi, nghiên cứu, sửa tánh trau thân, làm công quả nội.
Hỏi vậy Tịch
ĐẠO TÂM đã đến chưa?
Hãy nhìn đôi
liễn đối đặt trước Báo-Ân-Từ sẽ thấy:
- BÁT phẩm chơn hồn
tạo thế giới hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ÐẠO.
- QUÁI hào bác ái
định Càn Khôn phân đẳng pháp nhứt Thần phi tướng trị kỳ TÂM.
八品 眞 魂 造 世 界 化 眾 生 萬 物 有 形 從 此 道
卦爻 博 愛 定 乾 坤 分 等 法 一 神 非 相 治 其 心
1- Giải thích Câu 1:
Bát phẩm chơn hồn cũng gọi là Bát hồn, tức là 8 bậc tiến hóa của chơn-hồn, từ
thấp lên cao là Vật-chất hồn, Kim-thạch-hồn, Thảo-mộc-hồn, Thú-cầm hồn, Nhơn hồn,
Thần-hồn, Thánh-hồn, Tiên-hồn, Phật hồn. Tám phẩm chơn hồn này đã tạo ra Thế giới,
hóa thành chúng sanh. Trong hàng chúng sanh thì chỉ riêng 4 phẩm là Kim thạch,
Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại. Những vật loại nào có hình ảnh có thể thấy được,
sờ mó được như vậy đều phải chịu luật biến hoá hoặc thay đổi của vũ trụ, tức
là bị huỷ hoại hay chết đi tuỳ theo
thời gian. Ấy là Đạo.
Theo Đạo Đức Kinh
của Đức Lão Tử: Đạo là cái nguyên lý sanh ra vũ trụ và vạn vật. Mọi vật đều do
Đạo sanh ra và lớn lên. Theo triết lý Cao Đài, ĐẠO là Hư Vô chi Khí, tức nhiên
có sinh có diệt, có sống có chết. Phật Mẫu Chơn Kinh có câu “Bát hồn vận
chuyển hóa thành chúng sanh” nghĩa là: Đức Phật Mẫu vận chuyển đem Tám
phẩm chơn hồn hóa thành chúng sanh nơi cõi trần.
Câu 2: Quái Hào: quái là
quẻ. Ví như Quẻ Càn gồm có 3 vạch liền, mỗi vạch liền được gọi
là Hào Dương. Quẻ Khôn có 3 vạch đứt, mỗi vạch đứt được gọi là Hào
Âm. Sự kết hợp của các Hào âm dương tạo thành các Quẻ. Quái hào là chỉ
chung các quẻ và các hào trong Bát Quái. Người phát minh ra Quái Hào là vua Phục
Hy. Ngài dùng Quái Hào tạo thành Bát Quái Tiên Thiên, để giải thích sự hình
thành Càn Khôn Vũ trụ bằng hai nguyên lý Âm Dương do Thái Cực biến hóa phân
ra. Bác ái là lòng thương yêu bao la, thương xót sanh linh hơn
mình, cho nên, kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ nặng
bằng trời đất. Chính hai quẻ Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo
Dịch: Càn tượng Trời, Khôn tượng Đất tức là trời đất, vũ trụ, nên thường nói
Càn Khôn Vũ trụ. Cũng chỉ hai đấng Cha Mẹ Vạn linh là Chí-Tôn và Phật Mẫu nữa.
Hai quẻ Âm Dương này rất quan trọng.
PHÁP: theo nghĩa tổng quát, tất cả
những gì có thật hay hư ảo; hữu hình hay vô hình; tâm hay vật, đều gọi là
Pháp. Nhứt Thần phi tướng là duy có một Chơn linh vô hình đối
với con người tuy không hình ảnh, vì nó là điểm linh nhỏ nhít, mắt thường không
thấy, mà nó trị được cái tâm, chính là Điểm Linh quang của Đấng Thượng Đế ban
cho để làm chủ con người đối cùng Càn Khôn Vũ trụ. Nhứt Thần phi tướng là
Thái cực, là Đại hồn, là Khối Đại Linh quang của Thượng Đế.
Trong sự tạo hóa Càn Khôn vũ trụ, Đấng Thượng Đế dùng luật Thương yêu, sắp đặt
mọi vật trong Càn Khôn, phân chia ra nhiều thứ bực cao thấp khác nhau, chỉ duy
có một Chơn linh vô hình làm chủ được cái Tâm.
Đây là hai câu đối có số chữ dài nhất: mỗi câu có 17 chữ. Theo Dịch-lý thì số
17 này thuộc quẻ Thiên Sơn Độn (Càn vi Thiên số 1, Cấn vi
Sơn số 7), hợp số là 17. Độn tức là lui đi, biến đi. Điều này báo
cho biết rằng thời kỳ Tịch Đạo THANH HƯƠNG đã lui đi, nhường chỗ cho cơ ĐẠO TÂM
sắp đến. Thế nên mở đầu cho đôi liễn có hai chữ đầu là BÁT-QÚAI, hai chữ cuối
là ĐẠO TÂM.
Tóm lại: Tám đẳng cấp chơn-hồn đều
được sản xuất dưới bàn tay của Đức Phật-Mẫu, nhưng vạn-vật vốn hữu hình hữu hoại,
nghĩa là có sinh có diệt, có sống có chết, Đạo của trời đất định vậy. Dù cho những
quẻ (đại thể), những hào (tiểu thể) xuất từ tâm Bác-Ái sẽ định nền tảng cho
Càn-Khôn để phân ra đẳng cấp, chỉ một điểm Thần 神 duy nhứt, không
hình tướng cũng định được cái Tâm (mà chủ của cái Tâm là Thượng-Đế Cao-Đài ngày
nay vi chủ). Lại nữa ở đầu câu liễn có hai chữ Bát Quái, cuối câu có hai chữ Đạo
Tâm, điều này đã chứng-tỏ rằng Tịch-đạo Đạo Tâm đã xuất hiện, tất
cả các Bát Quái được triển khai.
- Đức Chí-Tôn có Bát-Quái (số 8).
- Đức Phật-Mẫu nắm Bát Phẩm Chơn-Hồn (số 8)
- Người tu-hành gìn Bát Chánh Đạo (số 8)
Ba lần 8 là 24, chỉ 24 chuyến thuyền
Bát Nhã tức nhiên là Bát-Nhã Ba-La-Mật của Phật dạy, là trí huệ. Trí huệ
ví như lưỡi gươm bén, để chiến thắng giặc thất tình, cắt đứt hết mọi phiền não
trói buộc “Nương gươm thần huệ đoạn trừ nghiệt căn”. Vậy người tu
là phải đạt được trí Bát Nhã.
Đạo Tâm là gì ?
Đức Hộ-Pháp dạy “Chiếu theo ý
nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức
Chí-linh cùng Càn Khôn vũ trụ. Loài người bao giờ cũng chủ TÂM tìm tòi, kiếm
cái nguyên do lai lịch của mình hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn vật. Muốn
biết mình, con người phải lột cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh
tại thế gọi là chúng sanh đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết
đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng sanh, mới tìm
đặng tâm tánh của mình là báu. Thấu đáo đặng tâm linh mới biết thiên lương do
chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là nhiệm vụ huyền bí, tả không cùng, hiểu
không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO 道. Vì cớ cho nên lấy
chữ TÂM 心 làm mục đích. Các Thánh nhơn xưa
thường đem cái triết-lý ĐẠO TÂM hiệp làm môi giới, nên dầu cho các vị Giáo-chủ
tuy mỗi Đấng đều có tư tưởng đặc sắc, nên triết lý cao thấp không chừng, nhưng
cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội”.
PCT: “Ðương đời
này của Ðức Lý Giáo Tông, thì Nam lấy chữ"THANH"Nữ lấy chữ
"HƯƠNG" làm tịch, tức là cả Ðạo Hữu Nam Nữ từ Tín Ðồ chí
Thiên Phong đều trong đời Ðức Lý Giáo Tông hành chánh đứng vào tịch “THANH -
HƯƠNG”. Qua đời Giáo Tông khác thì Nam sẽ lấy chữ "ÐẠO" Nữ
sẽ lấy chữ "TÂM". Rồi cả chư Ðạo Hữu Nam Nữ sẽ lấy Tịch:
ÐẠO- TÂM; như vậy nối truyền hoài cho hết Tịch Ðạo thì Thầy sẽ giáng cơ cho Tịch
Ðạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ chữ Tịch Ðạo ấy mà phân biệt (Hay !-
Lời khen của Đức Lý).
Có kẻ hỏi: Thí dụ như đời Giáo
Tông, thì Tịch Ðạo
của chư Ðạo Hữu Nam Nữ đời trước,
dầu Chức Sắc hay Tín Ðồ cũng vậy, có phải buộc thay đổi Tịch Ðạo không? Ta nói:
Không, vì chính mình Giáo Tông kế vị cũng phải giữ Tịch Ðạo trước, kỳ dư những
Tín Ðồ của đời Ngài độ rỗi, tức là chi tộc của Ngài, mới đặng thay đổi mà thôi,
còn những Chức Sắc cùng là Tín Ðồ của Giáo Tông đời trước còn sót lại thì thuộc
về chi tộc của Giáo Tông ấy không đặng phép thay đổi Tịch. (Hay)
Tỷ như có Tân Giáo Tông sẽ lên kế
vị cho Lý Giáo Tông thì cả Tín Ðồ Nam Nữ mới nhập môn đều phải lấy Tịch "Ðạo
Tâm", dầu trong hàng Tín Ðồ ấy sẽ có một chơn linh xứng đáng địa vị Chánh
Phối Sư, mà Thầy giáng cơ phong chức đi nữa, thì cũng chịu Tịch Ðạo Tâm, như
các Tín Ðồ khác, chớ Chức Sắc và Tín Ðồ trong đời Lý Giáo Tông còn lại thì giữ
Tịch "Thanh Hương" mà thôi, không đặng thay đổi.
-- O0O --
3 - TỊCH: THANH ĐẠO
THANH ĐẠO 清道 là Tịch Đạo của Nam phái liên tiếp qua hai thời Giáo-Tông. Trong bài
Thánh Giáo sau đây, Ðức Chí Tôn ban cho Tịch Ðạo Chức sắc Nam-phái Cửu Trùng
Ðài. Ðời Giáo Tông thứ I lấy chữ THANH 清đời Giáo Tông thứ nhì
lấy chữ ÐẠO 道. Ấy là Tịch Đạo (Sổ bộ) của Nam,
cũng giống như Tịch Đạo của Nữ phái vậy.
THANH ĐẠO Tam khai thất ức
niên
Thọ như địa huyển thạnh hòa
thiên
Vô hư qui phục nhơn sanh
khí.
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật
duyên.
清 道 三 開 七 億 年
壽 如 地 圈 盛 和 天
無 虛 歸 服 人 生 氣
造 萬 古 壇 照 佛 緣
Giải
nghĩa: -
Nền Đạo trong sạch của Ðức Chí Tôn mở ra lần thứ ba phổ độ đến 700 000 năm (một
ức: 100.000 năm)
- Sống
lâu như trái đất, thịnh vượng cùng Trời.
- Ðức Chí
Tôn đem trở về các linh hồn cho nhơn sanh.
- Tạo ra
từ muôn xưa đàn cúng tế để soi sáng người có duyên với Phật.
Vậy: Trong
thời Giáo Tông đầu tiên, là Chức sắc Nam phái từ hàng Lễ Sanh trở lên thì lấy
Thánh danh có kèm theo chữ “THANH”. Nếu qua một thời Giáo-Tông khác thì đổi Tịch
là ĐẠO, đặt vào các vị trí cũng như tịch Thanh Hương vậy. Nay, Ðại Ðạo Tam
Kỳ Phổ Ðộ, Tôn chỉ “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” nên Ðức Chí Tôn lập
Tam Trấn Oai Nghiêm để chứng nhận cho.
4 - TỊCH: HƯƠNG TÂM 香 心
HƯƠNG TÂM 香 心 là Tịch Đạo của Nữ Phái. Sự phong
Tịch Đạo này chính là Thầy ban quyền hành cho Nữ phái, đánh dấu một sự bình đẳng,
bình quyền. Cũng là một ân huệ mà người Nữ phái Cao Đài được hưởng hồng ân sớm
nhứt và trước nhất. Thầy dạy Tịch Đạo dành cho Nữ phái trong thời hiện tại và kế
tiếp: Có nghĩa là trong thời Giáo Tông này Nữ lấy Tịch Đạo là “HƯƠNG”
làm Thánh danh của mình. Khi qua một thời Giáo Tông kế tiếp thì đổi qua Tịch đạo
“TÂM”. Thánh ngôn Thầy ban Tịch Đạo:
HƯƠNG TÂM nhứt phiến cận Càn
khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
香 心 一 片 近 乾 坤
慧 德 修 真 度 引 魂
一 念 觀 音 垂 保 命
千 年 等 派 守 生 存
Lâm thị:
phong vi Giáo Sư, lấy Thiên ân Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy
Thiên ân Hương Thế.
Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai,
cứ giữ địa vị mình.
Còn cả chư Ái nữ, Thầy sẽ lập Đại
hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lần. Thầy ban ơn cho các con, cứ hành lễ
theo lời dặn”.
Giải nghĩa: Một tấm lòng thơm tho được gần Trời
Ðất.
- Đức sáng suốt do tu hành chơn
thật độ dẫn được linh hồn
- Một lần niệm danh hiệu Ðức Quan
Âm Bồ Tát thì được Bồ Tát đoái lòng thương xót bảo vệ mạng sống.
- Ngàn năm Nữ phái gìn giữ sự
sanh tồn của nhơn loại.
Tịch Ðạo Chức sắc Nữ phái Cửu Trùng Ðài trong đời Giáo Tông thứ I lấy chữ
HƯƠNG, đời II lấy chữ TÂM.
KẾT LUẬN
QUYỀN HÀNH GIÁO TÔNG
Giáo Tông là người thay mặt cho Ðức
CHÍ TÔN tại thế, giáo hóa dìu dắt toàn thể con cái CHÍ TÔN cho đến tột bực
ngang hàng cùng Thầy
1- Tại sao quyền CHÍ TÔN lại chia làm hai?
Trước kia Ðạo Thánh, CHÍ TÔN vì
quá thương Nhơn sanh
đã giao phần hồn và phần xác cho
Ðức Chúa Giê-Giu (Jésus Christ) đủ quyền năng lập Ðạo. Trái lại, Nhơn sanh lợi
dụng lẽ thương yêu ấy, nhứt là những kẻ kế vị cho Chúa, vì mang phàm thân nhục
thể, thành ra quá lạm dụng quyền tối cao ấy như ngọn gươm bén mà sát phạt con
cái của CHÍ TÔN. Chính CHÍ TÔN đã nói: "Vì quá thương mà ban cho".
Ngày nay CHÍ TÔN cũng không phải đến lấy lại, mà chỉ chia đôi quyền hành ấy ra
cho Giáo Tông và Hộ Pháp, Giáo Tông chỉ có quyền dìu dẫn con cái của CHÍ TÔN về
phương châm giáo hóa, chánh trị cho thuần phong mỹ tục, thay quyền cho CHÍ TÔN
trong đường Ðạo và đường Ðời mà thôi. Còn Hộ Pháp có đặc quyền gìn giữ luật
pháp, bảo thủ chơn truyền, gìn giữ ngôi vị cho con cái CHÍ TÔN, không cho loạn
hàng thất thứ.
Phương pháp ấy CHÍ TÔN rất công bằng
và chia đôi cho lưỡng quyền không thể chuyên chế để áp dụng mà hà hiếp con cái
của Người.
2 - Thể-pháp của Đạo Cao-Đài:
Đức Hộ-Pháp nói: “Nói về Thể-Pháp chúng ta hân
hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức chính mình Đức Chí-Tôn
đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-thể của Ngài nơi
mặt thế của Ngài.
Ôi ! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh thiêng-liêng là
mua ngôi-vị của chúng ta đó vậy.
Lập
công là Ngài đã tạo hình thể của Ngài, tức nhiên Đền-Thánh
đó là Đền Thờ hữu-hình của Ngài để tại mặt thế này. Chúng ta phải lập công với
sanh-chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập
công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho
con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà
ra.
Bây giờ tới lập ngôn. Chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ,
Bút, viết dạy chúng ta từ lời nói, việc làm; từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn,
có ngôn gì hơn Ngài nữa, để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng
ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy”.
Lại
nữa Thầy còn dạy: “Trong buổi Tam-Kỳ Phổ Độ, Thầy giáng thế chọn đến:
- Nhứt Phật
- Tam Tiên.
-Tam thập lục Thánh
-Thất thập nhị Hiền,
- Tam thiên Đồ đệ.
“Các con coi đó mà hiểu rằng:
Các con có sự mà thiên-hạ từ tạo thế đến chừ, chưa hề có chăng”?
GIÁO-TÔNG là người đứng đầu của những Chức sắc vào hàng Thánh Thể Đức Chí-Tôn
bên Cửu Trùng Đài vào hàng Tiên-vị và Thánh-vị, gồm các phẩm như :
- Từ Chưởng-Pháp đến Giáo Hữu có đủ ba phái:
Thái-Thanh, Thượng Thanh, Ngọc
Thanh, chia đều các con số trên, không được tăng thêm hay là giảm bớt. Con số
này tính cho Chức-sắc Nam-phái mà thôi, còn Nữ phái thì không có hạn định,
nghĩa là con số bao nhiêu cũng được. Đó là những Chức-sắc vào hàng Thánh-Thể của
Chí-Tôn. Ông Mỹ Ngọc tức Bảo Văn Pháp-Quân có lời thỉnh-giáo:
- Bạch Thầy về bảy cái Ngai
Nhơn-Đạo, Chưởng Pháp và Đầu-sư ngồi đặng chăng?
- Thầy cười…Bảy ngai ấy, Thầy
lập ra là để cho mỗi Chức-sắc lớn biết ngôi-vị của mình nơi Bửu-điện. Kế theo
Thầy, Tam-Trấn cùng chư Tiên, Thánh, nhập về Tam Kỳ Phổ-Độ mà thôi. Lúc hành lễ,
nếu chúng nó ngồi đối diện với các Môn đệ khác của
Thầy mà khứng chịu sự
thành kỉnh của nhơn-sanh đối với
các phẩm-vị lớn cao kia
thì mất vẻ thành kính của chúng
nó.
Chức-sắc đặng ngồi Ngai riêng của mỗi đứa là lúc nào có Hội Tòa Tam-giáo phân-xử
các Đạo-hữu của chúng nó mà
thôi”.
3 - Phương-diện Chánh-Thể Đạo:
Thuở Đức Quyền Giáo-Tông còn sinh tiền Ngài có thuyết về phương-diện Chánh-Thể
Đạo, có nói rõ quyền hạn của Ngài rằng:
“Tệ-Huynh có thọ lãnh chỉ rõ phương-diện Chánh thể của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ
của Thầy trong cuối Hạ nguơn chuyển thế đây. Xin chư Hiền-Hữu lưỡng phái ráng
nhớ và lo phận-sự, đừng sai luật Đạo mà bị tội và mình tuân trọn luật Đạo của
Thầy là món binh-khí diệt tà-quyền giả mị đó. Tệ-Huynh xin nhắc lời tuyên-ngôn
của Đại-Từ Phụ nói buổi ban sơ. Thầy có nói: Thầy lập Đạo kỳ này là lập một cái
trường công-quả, nếu các con đi ngoài trường công-quả ấy thì không trông mong
gì về cùng Thầy đặng.
“Trường công-quả của Thầy có đôi bên:
- Một bên vô hình là các Đấng ThiêngLiêng (Phật, Tiên, Thánh, Thần)
cùng lập công-quả trong buổi chuyển thế này, các Đấng Thiêng-liêng thường theo
một bên chúng ta đặng ám-trợ chúng ta về phần vô-vi.
- Các việc hữu-hình tại thế là các việc phải có thi hành như chúng
ta giờ đây mới làm đặng, thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Đấng
Thiêng-liêng ám-trợ.
“Thí-dụ như đi độ rỗi nhơn-sanh phải nói Đạo cho người nghe, như phải lập
phương để giúp thế đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc-học, nhà thương,
nhà dưỡng-lão cùng các nghề-nghiệp cho Đạo-hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ
ngày hai, có áo quần đặng che thân ấm cật …thì chúng ta phải lo hết,
rồi các Đấng Thiêng liêng ám-trợ cho thành-tựu. Nếu chúng ta làm biếng không
làm công quả chi cho Đạo bên hữu-hình thì các Đấng Thiêng-liêng theo mình không
lập công-quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.
“Từ hồi tạo thiên lập địa tới ngày nay, trong mỗi thời kỳ khai Đạo không có thời-kỳ
nào mà chính mình Thầy là Chủ-tể Càn-khôn thế-giới xuống mà lập ra, không có một
Tôn-giáo nào đặng một vị Đại-Tiên là Đức Lý Thái-Bạch lãnh làm Giáo-Tông như
ngày nay
“Tệ-Huynh đây là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu-hình
tại thế cho Ngài, rồi ở trong có Người ám-trợ. Tệ-Huynh xin chỉ rõ quyền hành lớn-lao
của Đức Lý Đại-Tiên Thái-Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ.
Có tất cả 4 Bát Quái
từ xưa cho đến giờ:
*Hai Bát Quái Cao Đài này là chỉ
Đường Đạo (Bát Quái Hư vô) và Đường đời (BQ Đồ Thiên) mà Đức Quyền Giáo Tông đã
thực hiện trong 8 năm hành Đạo của Ngài.
1- Bát Quái Đồ
Thiên (Thể pháp Thiên Đạo)
2- Bát Quái HƯ VÔ (Bí- pháp Thiên Đạo)
*Hai Bát Quái 3 và 4 này có từ
6.000 năm nay là nói về phần Đạo và phần Đời
3- Bát Quái Tiên
Thiên (Bí pháp Thế Đạo)
4- Bát Quái Hậu
Thiên (Thể pháp Thế Đạo)
4 - Giáo-Tông làm chủ hai
Bát-Quái
Quyền-hành
của Giáo-Tông thể hịên trên hai bộ Đạo phục:
- Bộ Đại-phục và quyền hành Giáo-Tông là ứng
với Bát Quái Đồ Thiên (xác định qua bài Thi của Đức
Chí-Tôn)
- Bộ Tiểu-Phục Giáo Tông ứng
vào Bát-Quái Hư Vô.
Các Bát-Quái hiện nay đúng vào cơ qui nhứt đó là thời kỳ “vạn thù qui nhứt
bổn”.
Trên là hai Bát Quái Cao Đài đặt chung trong một đồ hình:
- Bát Quái Hư Vô nằm trong, tượng cơ
vô vi, ấy là thời kỳ của ĐẠO TÂM thành hình, mục đích chánh là HÒA: Tứ Dương hòa
với Tứ Âm, tức Đạo Hòa ở bên trong
Vậy Bát Quái Hư vô là cái tâm, là
Đạo, là Hư vô chi khí, là Thái hòa, tượng cho Trời- Người hiệp một, về cùng Trời.
- Bát Quái Đồ Thiên: tượng trưng đường về của
người tu. Chữ Điền 田 bên trong là do Càn Khôn phối
hợp (Tam giáo qui nguyên, khởi từ Âm Dương; lý tam ngôi nhứt thể). Bát Quái này
nghịch chuyển tức là đường đi lối về trong cõi Thiêng liêng Hằng Sống, quên đời
sống đạo. Ấy là lúc Khảm chuyển qua Ly, Ly chuyển qua Khảm là lúc “Thủy Hỏa Ký
Tế”.”Chiết Khảm điền Ly phản vị Càn”
Con đường Đại Đạo là con đường ngắn
nhất trong buổi chuyển thế ngày nay của người tu theo Đạo Cao Đài.
III - QUYỀN HÀNH CHƯỞNG PHÁP
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: “CHƯỞNG PHÁP của ba Phái
là: ÐẠO- NHO – THÍCH”.
LUẬN: làm sao để Chức sắc có sắc phái ?
- Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái, trừ phẩm Giáo Tông và Thượng Chưởng Pháp ra,
tất cả đều chia ra theo sắc phái rõ rệt. Trước tiên thì khởi từ LỄ-SANH là phẩm
đầu tiên để chủân bị bước vào hàng Chức Sắc, thì do Đức Lý chấm phong đồng thời
chấm phái. Sở dĩ vị Chức sắc được nhận sắc phái Tam Thanh ấy là vì chỉ có Đức
Lý mới biết được tiền kiếp vị này tu theo phái nào mà thôi:
- Nếu trước đây vị này tu bên Phật
giáo, ngày giờ này Đức Ngài chấm phái Thái (màu vàng),
- Nếu trước đây tu phái Tiên thì
ngày giờ này Đức Ngài chấm phái Thượng (màu xanh)
- Nếu trước đây tu phái Thánh, thì
ngày giờ này Đức Ngài chấm phái Ngọc (màu đỏ)
Chấm phái là sự ban
thưởng và thăng phẩm cấp trong cửa Đạo Cao Đài nên bước đầu tiên được “Chấm
phái”.
“Hàng phẩm Chức việc Bàn Trị Sự cầu
phong lên hàng Lễ Sanh, được Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ chấm phái.
Khi được chấm phái rồi phải giữ sắc phái đó suốt đời, dù được thăng lên nhiều cấp
hay thay đổi đời Giáo Tông khác cũng vậy. Từ Giáo Hữu trở lên là chấm phong.
PCT: “Ba chi tuy khác chớ quyền lực
như nhau”.
Các Chức sắc Cửu Trùng Đài được
phân ra làm ba phái:
- Phái Thái, cũng gọi là phái Thích hay phái
Phật mặc đạo phục màu vàng, mão vàng, có Thánh danh khởi
đầu bằng chữ THÁI 太.
- Phái Thượng, cũng gọi
là phái Lão hay phái Tiên:
mặc đạo phục màu xanh, mão xanh,
có Thánh danh khởi đầu bằng chữ THƯỢNG 上.
- Phái Ngọc, cũng gọi là phái Nho hay
phái Thánh: mặc đạo phục màu đỏ, mão đỏ, có Thánh danh khởi đầu bằng chữ NGỌC 玉
Các Chức sắc đồng phẩm nhưng khác
phái đều đồng quyền nhau, không ai lớn không ai nhỏ.
Khi đã được quyền Thiêng Liêng chấm
phái rồi thì Chức sắc ấy mới được đứng vào Thiên phong; Nhưng
nếu để người phong tặng cho thì gọi là nhơn phong hay phàm phong, không
có giá trị và toàn Đạo không tín nhiệm.
Huấn
lịnh 638, Đức Hộ Pháp dạy Thiên phong:
Tại sao Hội Thánh lại dám mạo hiểm
xưng mình là Thánh Thể của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, là Thầy của chúng ta?
- Thì Chí Tôn đã nói: Người đến qui lương sanh đặng Người có quyền năng hữu
hình mà giáo hóa và cứu vớt quần sanh. Cái quyền hành ấy cao trọng chừng nào,
chúng ta không cần để luận ! Muốn nắm quyền hành ấy nơi tay tức phải tỏ ra là mình
phẩm giá Lương sanh mới đáng. Dầu tòan Hội Thánh hay là một phần tử của Hội
Thánh tức là một Chức sắc Thiên phong nào cũng vậy phải đáng mặt Lương sanh đặng
vào Thánh Thể của Người chẳng phải là dễ. Vì vậy mà Chí Tôn phải đem lương sanh
ấy vào bậc Thiên phong cho đồng thể cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật mới đáng làm hình
thể của Người. Nếu để phàm phong thì quả nhiên nhân lọai đã lăng mạ
danh thể của Người. Ấy là tội Thiên điều chẳng hề dung thứ. Mà Thiên
phong chánh vị còn giữ phàm tánh, thì lại lăng mạ danh thể của Người hơn thập bội”.
Nay nhờ Cơ Đại Ân xá của Chí-Tôn
nên các nguyên căn ấy mới được tiếp tục TU trong cửa Đạo Cao Đài
này,
tùng theo phép tu của Đức Cao Đài
Ngọc Đế..
CG- Nghĩa là: mỗi Phái là một vị,
mà ba Ðạo vẫn khác nhau, nội dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật lệ vốn không đồng,
chỉ nhờ TÂN LUẬT làm cơ qui nhứt, cho nên Thầy mới nói:
PCT: "Pháp Luật
Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một".
CG: Vì
coi như một, nên Thầy mới đến cho nhơn loại lập TÂN LUẬT, thế nào cho phù hạp với
nhơn trí, hiệp tánh với nhơn tâm, chung chịu một Ðạo Luật, có phương hành Ðạo,
chẳng nghịch với Thiên Ðiều, đặng lập vị mình dễ dàng, mới toàn câu PHỔ ĐỘ.
LUẬN: Chưởng Pháp của ba phái: mỗi phái
có vị đại diện cho phái của mình như:
- Phái Thái là phái Phật còn gọi
là THÍCH (Thích-giáo)
- Phái Thượng là phái Tiên còn gọi
là ĐẠO (Đạo giáo)
- Phái Ngọc là phái Thánh còn gọi
là NHO (Thánh giáo)
"Pháp Luật Tam Giáo tuy phân
biệt nhau”.
Phân biệt như thế nào?
- Phái Phật và
phái Tiên thì tu xúât thế, xưa là lánh đời, ly gia cắt ái, lên non luyện pháp
trường sinh, tu như thế là tu “độc thiện kỳ thân” là chỉ tu riêng cho mình
thôi.
- Phái Nho còn gọi là phái Thánh
là TU nhập thế:
Đạo Thánh do Đức Khổng
Tử làm Giáo Chủ truyền bá Nhơn đạo là Đạo Nho, mục đích chấn chỉnh nhơn tâm, vì
bấy giờ nhân tâm điên đảo; gọi Ngài là ông THÁNH Ta.
Đạo Thánh của Đức
Chúa Jésus-Christ làm Giáo Chủ là phát huy nhơn đạo, gọi Đức Chúa là ông Thánh
Tây
Ngày nay Đạo Cao Đài
làm cơ qui nhứt nên Đức Chí Tôn Qui
Tam giáo làm một: lấy Nho Tông chuyển thế, trong đó đã có Đông- Tây hòa hợp: vừa
để phát huy tinh thần Nho giáo thùân túy, vừa lấy văn minh khoa học làm phương
tiến triển về khoa học. Còn Phật và Tiên thì lấy tinh hoa của những triết lý
này làm căn bản về tâm linh, có như thế người tu mới tiến hóa vừa vật chất vừa tinh thần.
“Pháp Luật Tam Giáo tuy phân biệt
nhau” như trên
đã nói, vì pháp tu của Phật và Tiên là xúât thế; của Thánh thì nhập thế. Bấy giờ
Đạo Cao Đài chỉ lấy TÂN LUẬT làm cơ qui nhứt, dìu dẫn người TU là để tạo Tiên
tác Phật. Nhân lọai theo phép tu của Thánh là nhập thế thì phát triển về
văn-minh khoa học, vật chất đến tột đỉnh như ngày nay.Nhưng càng văn minh vật
chất thì con người càng xa rời tâm linh, kém văn minh tinh thần chừng đó.
Do vậy “nên Thầy mới đến cho
nhơn loại lập TÂN LUẬT” làm cơ qui nhứt, nghĩa là trong tinh thần
hòa hợp.
Nay “Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo
Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm
lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải
bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta,
dạy dỗ cho ta để đạt ngôi vị là phải trau luyện cho TINH hiệp với KHÍ. Tinh –
Khí huờn THẦN là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy”.
Như lời Đức Hộ-Pháp muốn minh
xác:
Đức Ngài “Hỏi, đã có nảy
sanh ra một Giáo chủ nào đủ đức tánh, đủ quyền-năng, đủ phép mầu, đủ trí hụê
làm cho hai đảng ấy dung-hòa mới mong-mỏi Đại Đồng Thế Giới hay chăng?
1- Buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ:
PCT: “Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh
mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đặng đoạt đức tánh mà lập vị mình,
còn nay thì các Ðấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn
lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy. Buổi buộc thì
khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn trí ngày nay đã
qua khỏi “Nguơn
Tấn Hóa" (1) thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao; chủ nghĩa Cựu
Luật của các Tôn Giáo không đủ sức kềm chế đức tin, mà hễ nhơn loại đã mất đức
tin về đạo đức rồi, thì cơ tự diệt vốn còn, mà cơ tự diệt còn thì nhơn loại khó
tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng. Ðời phải tùy Ðạo mới còn, mà Ðạo
cũng phải tùy Ðời mới vững, biết đâu TÂN LUẬT ngày nay Thầy đã đến dạy chúng ta
lập thành; trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với
nhơn trí Ðạo- Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp.
Thí dụ:
Như có kẻ hỏi: "Sao Thầy không dùng Cựu Luật trong Tam Giáo đã có sẵn rồi,
lại lập chi TÂN LUẬT nữa, mà buộc nhơn sanh phải yểm cựu nghinh tân vậy?"
Ta lại đáp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự
phá CỔ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự
đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý-vị chi hết. Những
bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẳn với
Thiên Ðiều của Đại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ thể Thiên hành chánh.
Bởi cớ ấy nên CHÍ TÔN đã cấm Ngũ Chi phái Ngọc, dùng Cổ Luật mà mê hoặc nhơn
sanh nữa.
Hễ tùng Cựu Luật tức phải tùng Thiên Ðiều, mà hễ
tùng Thiên Ðiều thì khó lập vị
cho mình đặng".
Xin xem tiếp đây, thì thấy rõ Thầy
đã quyết định điều ấy.
PCT: “Vậy thì một thành ba, mà ba
cũng như một”
CG: Ấy vậy Tân
Luật đã gồm trọn Tam Giáo, tức là một thành ba, mà ba Cựu Luật của Tam
Giáo hiệp nhau thì cũng như một, nghĩa là: "Tân Luật".
LUẬN: “Buổi trước thì Thiên Ðiều buộc
nhơn loại phải nâng cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật” là thế nào ?
-Thuở trước là “người tìm Đạo”.
Giả sử muốn tu theo Phật thì phải cố nâng cao đức tánh mình như Phật, ngồi
ngang Phật xem Phật làm gì thì bắt chước theo thế ấy: nhưng Phật có nói đâu “Phật
giả vô ngôn” (Phật không nói). Thế nên chỉ bắt chứơc được cái áo-dà mặc bên ngòai
(đầu tròn cổ vuông), cầm Bình Bát đi khất thực, ngồi tĩnh tọa, mà không thông
giáo lý được, vì “Phật tông vô giáo” (Phật không có giáo lý). Thế nên khi người
mới bước chân vào cửa Phật thì đã gọi là “Phật Tử” (con Phật); nhưng với Cao
Đài Giáo thì Phật Tử laị là tuyệt phẩm trong hàng Thập Nhị đẳng cấp Thiêng
Liêng (phẩm thứ 12) !
Ngay chính Đức Tam Tạng khi thỉnh
Kinh từ Đông Độ về được rồi mà còn một nỗi lo ngại, lo vì chưa tự tin:
Đức Hộ-Pháp nói:“Cũng như hồi trước
TAM TẠNG đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn
dịch ra rất khó lắm, lấy cả Kinh-Luật trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài
lắm, cho nên Ngài đại nguyện: Ngài làm thế nào Ngài rán sức, Ngài âm tiếng Phạn
ấy ra chữ Nho.Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng
nào mà tôi qui liễu, nếu trong Kinh-luật Đạo giáo mà tôi không minh tả ra đặng
thì khi chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tả trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ.
May phước Bắc-Tông được hưởng một ân huệ của nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức
Tam-Tạng, khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ,
vì cớ mà Chơn-giáo của nhà Phật là Bắc Tông có thể nhờ Đức Tam-Tạng đã minh-tả
ra trọn vẹn”.
Tóm lại: tinh thần của người tu- đơn cử là người
Việt Nam- muốn tu theo Phật, Tiên, Thánh, Công giáo, Bà La môn…mà hầu hết
là kinh viết bằng ngọai ngữ làm sao hiểu được trọn vẹn.? Thế nên tu nhiều mà
thành ít.
Vì sao? –
-Vì từ trước đến giờ nứơc Nam chưa có mối Đạo nhà. Nay là “Đạo tìm người” nên Thầy
xác nhận:
Từ thử nước NAM chẳng
Ðạo nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả ?
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả ?
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Hơn nữa nền Đại-Đạo này phát xúât
ở Việt Nam, ngôn ngữ
hòan tòan là tiếng Việt Nam, giáo
lý, giáo pháp, nghi thức cúng kính, thờ phượng hòan tòan do CƠ BÚT lập ra TÂN
LUẬT và PHÁP CHÁNH TRUYỀN tức là để truyền Chánh pháp. Nhờ vào pháp thông thần
lực này mà tất cả các nước trên thế giới đều có thể học hỏi thêm qua ngôn ngữ của
chính nước họ được dễ dàng. Nhưng cốt tủy vẫn phải là tiếng Việt Nam là nguồn
phát xúât. Lại nữa cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều lâm phàm giáo hóa. Thử hỏi
còn gì hơn ? Điều hạnh phúc nhất mà từ xưa đến giờ các bậc tiền bối chúng
ta vẫn ứơc mơ nhưng chưa từng có.
- “Nay thì các Ðấng ấy lại
hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng,
đến ngang bực cùng Thầy”.
Tức nhiên, Thầy mở Đạo Kỳ
ba này là đã chủân bị:
- PHÁP CHÁNH TRUYỀN là Thiên điều,
là bất dịch
-TÂN LUẬT là do Hội-Thánh
hiệp nhau lập Luật. Luật thì có thể thay đổi tùy theo sự tiến hóa của nhơn lọai
nên Pháp Chánh Truyền có ghi:..
…“biết đâu TÂN LUẬT ngày nay
Thầy đã đến dạy chúng ta lập thành trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay
đổi cho phù hạp với nhơn trí Ðạo- Ðời tương đắc, mà dìu
dắt cả nhơn sanh đời đời kiếp kiếp”.
Phải như vậy, vì: TÂN là mới, nằm
trong câu “Nhựt TÂN, nhựt nhựt TÂN, hựu nhựt TÂN” (ngày mới, ngày ngày mới, lại
ngày mới) là nghĩa của chữ TÂN LUẬT này. Bởi Tân Luật có thể thay đổi theo thời
gian tùy theo sự tiến hóa của nhơn sanh:
- Pháp Chánh truyền là Dương, vì
Dương thì thể cố định.
-Tân Luật là Âm (đối với Dương)
nên Âm có thể thay đổi.
- Dương là Đạo, là Hiệp Thiên
Đài, là cơ quan bảo thủ.
- Âm là Đời, là Cửu trùng Đài, là cơ
quan giáo hóa.
Nhưng phải thấy rằng: Đời là Đời
trong Đạo, thế nên câu:
nó sẽ phải thay đổi cho phù hạp với
nhơn trí Ðạo, Ðời tương đắc, mà dìu dắt cả nhơn sanh đời
đời kiếp kiếp”.
Qua hai chữ TÂN PHÁP cũng cho thấy rằng Âm trước, Dương sau, Âm trên, Dương dưới,
ấy là qui luật lấy Âm bao Dương là vậy (là quẻ Địa Thiên Thái- là hanh thông).
Cũng như về Dịch thì chi ly lắm:
- Ngay trong chữ “Âm Dương” chứ
không nói Dương Âm - Nói “vợ chồng” chứ không nói chồng vợ.
2- Vì sao “một thành ba, ba cũng như một ?
Luận: Là Đạo Trời nên tượng bằng quẻ KIỀN ☰ ba nét Dương ấy là
“Tam Dương khai Thái”. Ba nét này đã đủ lý Tam tài: Thiên- Nhân -Địa rồi. Rõ
ràng ba nét dương tạo nên quẻ Càn, ngược lại quẻ Càn ba nét Dương, không đổi.
PCT cũng định rõ: "Pháp Luật Tam Giáo tuy phân
biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn
coi như một".
Vì coi như một nên mới có được sự đồng quyền đồng đẳng nhau, rồi từ đó mới biến
hóa để ba nét này xếp lại thành một Tam giác đều: ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng
nhau, bằng 60o. Từ đây về sau đối với hình ảnh biểu tượng trong Tôn giáo: “Tam
giác đều nội tiếp trong vòng tròn” trở nên phổ biến mà cũng hết
sức quan trọng, áp dụng khắp mọi nơi trong nền Đại Đạo này.
Tôn giáo Cao Đài là một khoa-học siêu khoa học, một khoa học
siêu nhiên, những lý giải bằng khoa học Đạo học này sẽ thay đổi hòan tòan những
tư tưởng từ trước đến giờ cho rằng Tôn giáo là dị đoan mê tín; rồi toan diệt Đạo!
PCT: “Chúng nó có quyền xem xét
luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống, hay là nơi Ðầu
Sư dâng lên”.
CG: Nơi Cửu Trùng Ðài có:
- Ðức GIÁO-TÔNG là người thay mặt cho các Ðấng Thiêng Liêng đặng
hành hóa; Giáo Tông có quyền lập LUẬT, ấy là quyền cao trọng của các Ðấng
Thiêng Liêng cùng CHÍ TÔN ban cho nắm giữ,
- Và ÐẦU
SƯ là người thay mặt cho cả nhơn sanh, ấy là quyền cao trọng của nhơn sanh ban
cho, hai đàng phải
tương đắc mới bền vững cơ "Tạo
Thế"Trời-Người hiệp một
Thường thấy Thiên Mạng hằng quá sức phàm thế còn phàm thế thì nghịch hẳn Thiên
Mạng; biết đâu một ngày kia Giáo Tông không lập ra Luật-lệ quá sức người phàm
làm đặng và Ðầu Sư lại không xin một Luật lệ quá phép Thiên Ðiều, thì hai đàng ắt
phải nghịch lẫn nhau; nếu không có CHƯỞNG PHÁP đứng trung gian thế quyền Hiệp
Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài mà điều độ cho êm đềm hòa nhã, thì nền Ðạo phải
chinh nghiêng sanh ra rối loạn, thượng hạ khắc nhau, phải mất trật tự mà gây
nên đảng phái.
Ấy vậy CHƯỞNG PHÁP có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành.Luật lệ nào
không có ba Ấn CHƯỞNG PHÁP thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì
cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng.
PCT: Như hai đàng
không thuận thì chúng nó phải dâng lên cho HỘ PHÁP đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy
giáng xuống mà sửa lại, hay là tùy ý mà lập Luật lại.
CG: Một Ðạo Luật nào của Giáo
Tông truyền xuống mà nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh, Ðầu Sư đã định quyết
không thể thi hành đặng, thì chính mình Ðầu Sư phải đệ lên cho CHƯỞNG PHÁP mà cầu
người sửa cải. Còn như Giáo Tông tiếp đặng một Ðạo Luật nào của Ðầu Sư dâng lên
mà phạm phép Thiên Ðiều thì chính mình Giáo Tông cũng phải truyền xuống cho Chưởng
Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ quyền bỏ luật, làm cho thất thể đôi đàng; phải phải phân phân, để
cho CHƯỞNG PHÁP định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận, thì Người phải
dâng lên cho Hộ-Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy sửa lại, hay là Hộ Pháp luận ý
đôi bên mà lập lại.
PCT: Vậy chúng nó có
quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như
thảng có Kinh luật làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ, chẳng cho xuất
bản.
CG: Nói
rằng có quyền xem xét Kinh điển trước lúc phổ thông, thì tức phải kiểm duyệt
các kinh điển ấy trước khi xuất bản; ấy vậy,tuy kiểm duyệt thì tự quyền CHƯỞNG
PHÁP định đoạt, bất câu kinh sách nào mà làmcho hại phong hóa cùng là sái Ðạo
Luật thì Ngài có quyền trừ bỏ, không cho xuất bản, song trước khi thị nhận cho
xuất bản, hay là không cho, thì buộc Chưởng Pháp phải đệ lên Hiệp Thiên Ðài cầu
xin phê chuẩn mới đặng. Chẳng phải nói các kinh điển của người trong Ðạo làm ra
mà thôi, dầu cho người ngoại giáo làm ra đi nữa, nếu có thương phong bại tục,
thì buộc Hội Thánh phải vùa giúp Chưởng Pháp mà lo trừ diệt cho đặng; bởi vậy
cho nên Thầy có nói câu nầy:
PCT: "Buộc cả Tín Ðồ phải
vùa sức mà hành sự trước mặt luật Ðời".
CG: Dầu cho luật lệ Ðời mà làm
cho thống khổ nhơn sanh thì Chưởng Pháp cũng liệu phương nài xin chế giảm. Cái
quyền lực ấy phải nhờ nương Ðạo quyền mới đủ mạnh, nghĩa là Ðạo mạnh thì quyền
người mới mạnh, mà Ðạo mạnh thì mới mong tế độ nhơn sanh khỏi đường Ðời thảm khổ;
vì vậy mà Thầy lại buộc phải nói thêm câu sau này nữa:
PCT: "Thầy khuyên các
con phải xúm nhau vùa giúp chúng nó".
PCT: Mỗi Chưởng Pháp phải có
Ấn riêng.
CG: - Thái Chưởng Pháp thì Bình
Bát Vu,
- Thượng Chưởng Pháp thì
Cây Phất Chủ,
-
Ngọc Chưởng Pháp thì Bộ Xuân Thu.
Hiệp một gọi là CỔ PHÁP. Ba cái Cổ
Pháp ấy vốn của Hộ-Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi Mão Tiểu
phục của Người phải có ba Cổ Pháp ấy.
Còn nơi mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông thì lại
có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
- Long Tu Phiến.
- Thư Hùng Kiếm.
- Phất Chủ.
Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm
cùng Thượng Sanh.
PCT: Ba
ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành.
CG: Bất câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng hai vị
Chưởng Pháp phê chuẩn rồi mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành;
nghĩa là: Trên Giáo Tông không đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép
thi hành. Cửu Trùng Ðài vẫn là Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ,
vậy thì Chưởng Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài. Ấy
là cơ Ðạo cổ kim hi hữu”.
5 - LUẬN ĐẠO
a/ - Luận về CỔ PHÁP của HỘ PHÁP
Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng, như:
- Bình Bát Vu thuộc phái
Phật (Thích)
- Cây Phất Chủ thuộc
phái Tiên (Đạo)
- Bộ Xuân Thu thuộc phái Thánh (Nho)
“Hiệp một gọi là CỔ PHÁP. Ba cái
Cổ Pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng”.
Ba Cổ Pháp này của ba Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Đài, bây giờ hiệp một lại là CỔ
PHÁP của HỘ PHÁP, là người đứng đầu Hiệp Thiên Đài, tức “trong Dương có Âm”. Cổ
Pháp này sử dụng trên Tiểu phục của Hộ Pháp. Còn Đại phục của
Ngài thì đã có Khôi Giáp rồi.
Đây cũng là hình ảnh quẻ KIỀN ☰ ba vạch liền. Kiền (Càn) số 1,
nhưng khi là quẻ kép thì gọi là Bát Thùân Kiền số 11, vì lẽ ấy mà trên Bàn thờ HỘ PHÁP
có 11 cúng phẩm, để chỉ cái Dương đến cùng cực, tối cao. Quyền hành Hộ Pháp
là tối thượng.
Ấy cũng là qui luật trong Dương (Hộ-Pháp) có Âm
(Ấn Chưởng
pháp). “Ba mà một, một mà ba”.
b/- CỔ PHÁP của GIÁO TÔNG:
CG: “Nơi Mão Ðại phục
của Ðức GÍAO TÔNG thì lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
- Long Tu Phiến.
- Thư Hùng Kiếm.
- Phất Chủ.
Ấy
là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh”.
Vậy Giáo Tông đứng đầu Cửu Trùng
Đài mà gồm CỔ PHÁP của hai vị (2): Thượng Phẩm, Thượng Sanh, gồm ba Bửu pháp
(3); cũng trở về con số 3-2, tức là qui về “Tham Thiên lưỡng địa”. Ở
đây lại là trong Âm có Dương. Cổ Pháp này đặt trên Mão Ðại phục của Ðức Giáo
Tông”.
- Hộ-Pháp đội Mão
có Cổ Pháp là khi mặc Tiểu phục,
- Giáo Tông thì
sử dụng Mão có Cổ Pháp như trên là khi Ngài mặc Đại phục.
Bấy nhiêu đó cũng rõ lý Âm Dương luôn đi liền bên và đan khít vào nhau như hai
giềng lưới lớn, đối với hai vị Chưởng Quản của hai Đài: Hiệp Thiên và Cửu
Trùng.
Mão Giáo Tông là gồm Cổ Pháp của hai vị Thượng Phẩm và Thượng Sanh (số 2) gồm cả
ba bửu pháp (3). Như đã nhiều lần bàn qua số 2 là Khôn ☷ (6 nét Âm) gấp 2
lần Càn, Càn Dương 3 nét, nên mới nói Càn 3 Khôn 2 “Tham Thiên Lưỡng Địa”. Nhưng ở đây số
2 làm chủ, nên biến thành quẻ ĐỊA THIÊN THÁI
Tóm
lại:
- Mão của
Đức Hộ-Pháp tượng quẻ (Càn) hay KIỀN ☰
-Mão của Đức
Giáo Tông tượng quẻ THÁI (hanh thông)
PCT: Ba ấn phải có trên mỗi
Luật mới đặng thi hành.
CG: Bất
câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng
hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi
mà thiếu một, thì cũng không đặng phép ban hành; nghĩa là: Trên Giáo Tông không
đặng phép thị nhận, dưới Ðầu Sư không đặng phép thi hành”.
Luận: Tại sao “Luật lệ nào
không có ba Ấn CHƯỞNG PHÁP thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì
cả chư Tín Ðồ của Thầy không tuân mạng ?.
- Bởi Chưởng Pháp đứng vào Nhơn
Tiên trong “Tam Tiên” là đứng vào cơ hòa nên phải đủ: Hòa Thiên, hòa Địa, Hòa
nhân, thì quyền-uy Chưởng Pháp mới trọn vẹn.
CG: “Cửu Trùng Ðài vẫn là
Chánh Trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng Pháp là người
thay mặt Hiệp Thiên Ðài nơi Cửu Trùng Ðài. Ấy là cơ Ðạo cổ kim hi hữu”.
Cổ kim hi hữu thật ! Vì mỗi cơ
quan hành sự sẽ không dẫm lên quyền hạn của nhau; có sự phân quyền và phân nhiệm
rõ rệt; thể hiện bình đẳng một cách tuyệt đối.
Vì ĐẠO TRỜI nhất định phải có những
nét tuyệt vời và hòan hảo hơn tất cả những Tôn giáo từ trước. Gọi là Tôn giáo
ví như những dòng sông. Nhiều dòng sông dù nhỏ dù lớn đều đổ ra biển cả. Biển
này là ĐẠI-ĐẠO.
Đặc biệt hơn hết và trước hết là vấn đề CỔ PHÁP.
c/- CỔ PHÁP 古 法
E: The
archaic attributes.
F: Les attributs archaïques
(Cổ: Xưa, cũ. Pháp: có rất
nhiều nghĩa, ở đây có nghĩa là cái dấu hiệu của một Tôn giáo). Vậy Cổ Pháp là
cái dấu hiệu riêng tượng trưng của các nền Tôn-giáo.
- Bình Bát vu tượng
trưng Phật giáo.
- Cây Phất chủ tượng
trưng Tiên giáo.
- Kinh Xuân Thu tượng trưng Nho
giáo.
Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng Cổ pháp
Tam Giáo trên hiệp thành một Cổ Pháp duy nhứt, gọi tắt là CỔ PHÁP CAO ĐÀI. Buổi
này Đức HỘ-PHÁP là Giáo Chủ hữu hình nên Cổ Pháp này trên áo Tiểu phục của
Ngài.
Hiệp ba món ấy lại với nhau để tượng
trưng Tôn chỉ
của Đạo Cao Đài là “Tam Giáo Qui
Nguyên”, là đem ba Tôn giáo lớn ở Á Đông (Phật giáo- Tiên giáo - Nho giáo) hiệp
về một gốc là Đại-Đạo, do Đức Thượng Đế làm chủ.
Phật Mẫu Chơn Kinh có câu:
“Xuân
Thu, Phất Chủ, Bát Vu,
“Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn”.
“Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn”.
Ngòai ra Ðạo Cao Ðài gồm có tất cả
năm Cổ pháp:
*CỔ PHÁP HỘ-PHÁP: gồm
Bình Bát vu, Cây Phất chủ và Kinh Xuân Thu. Cổ Pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Hộ
Pháp nắm trọn Bí-Pháp Tam giáo, để thực hiện Tôn chỉ “Qui Nguyên Tam Giáo”
trong thời Tam-Kỳ Phổ-Độ.
*Cổ Pháp Thượng Phẩm: gồm Phất chủ và Long Tu phiến
đặt chồng lên nhau. Cổ pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Thượng Phẩm dùng pháp bửu đưa
các chơn hồn đắc Đạo đi lên; vào Tam thập Lục Thiên hay Cực Lạc thế Giới
*Cổ Pháp Thượng Sanh: gồm Phất chủ và Thư Hùng kiếm, gác tréo lên
nhau. Cổ Pháp nầy có ý nghĩa là Ðức Thượng Sanh dùng pháp bửu để trị thế, dọn
đường cho nhơn sanh đi vào cửa Ðạo.
*CỔ PHÁP GIÁO-TÔNG: gồm Cổ Pháp Thượng Phẩm và Thượng
Sanh ghép chung lại. Có ba pháp bửu:
Phất chủ, Long Tu phiến, Thư Hùng
kiếm, có ý nghĩa là
Ðức Giáo Tông nắm Cơ chuyển
thế, giáo hóa nhơn sanh, hướng Ðời vào Ðạo, làm cho Ðời tận
thiện tận mỹ.
*Cổ Pháp Chưởng Pháp: mỗi Chưởng Pháp có Cổ Pháp
riêng.
- Thái Chưởng Pháp có Cổ pháp là
Bình Bát vu.
- Thượng Chưởng Pháp có Cổ pháp
là Cây Phất chủ.
- Ngọc Chưởng Pháp có Cổ pháp là
Kinh Xuân Thu.
Nhập ba Cổ pháp của ba Chưởng
pháp thành Cổ Pháp Hộ Pháp cũng là biểu hiệu của nền Ðại-Ðạo mà Đức Hộ Pháp là
Giáo Chủ về hữu hình. Còn Giáo Chủ vô vi là Đức Thượng Đế. Ấy cũng là một điều
độc đáo về lý Âm Dương Thiên- Nhơn đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn.
Luận:
- Hiệp Thiên Đài có ba Cổ
Pháp: Hộ Pháp, Thượng phẩm, Thượng Sanh.
-Cửu Trùng Đài có hai Cổ
Pháp:Giáo Tông,Chưởng Pháp.
Điều này
thấy rõ cái lý “Tham Thiên Lưỡng địa”:
- Đức Hộ Pháp và Giáo Tông mỗi Cổ
Pháp có ba pháp bửu là người “thay Trời tạo
thế” phải đủ tam tài. (Nhứt Phật)
- Thượng Phẩm và Thượng Sanh: mỗi
Cổ pháp có hai pháp bửu là đứng vào Âm
Dương nhị khí (Nhị Tiên).
- Chưởng Pháp mỗi vị chỉ có một pháp
bửu mà thôi, tức là qui về điểm đơn nhất Thái cực (số 1)
Đặc biệt là hai con số 2 và 3: Số
2 là Thiếu Âm, 3 là
Thiếu Dương. Cọng chung lại 2+3=5
đó là Ngũ Hành, nên:
-Cổ-Pháp của Thượng-Sanh:Phất Chủ
và Thư Hùng-Kiếm; -Cổ Pháp của Thượng-Phẩm: Phất Chủ và Long Tu Phiến.
Ấy là Lưỡng nghi. Hai vị Thượng Phẩm và Thượng Sanh là Chức sắc Hiệp
Thiên Đài. Giờ đây Cổ-Pháp của hai vị này họp lại là CỔ-PHÁP của Giáo-Tông (Cửu
Trùng Đài).
Trong khi đó Cổ pháp của Mỗi Chưởng
Pháp chỉ có một, ấy là số Thái cực. Hiệp cả ba lại là Tam tài.
d/- Luận về Tham Thiên lưỡng địa:
(Tham là dự vào, tham là
nói về con số 3 mà tự nó không thể chia lìa, như “tham thiên” tức là dự
vào việc của trời ấy là Thiên- Nhân- Địa. Tam cũng là ba nhưng có thể chia lìa được.
Tương tự như thế có:
Lưỡng là hai, nhưng Lưỡng là dùng
vào việc không thể chia lìa: Lưỡng mục, lưỡng thê (loài vật vừa sống dưới nước
vừa sống trên cạn), lưỡng quyền (hai gò má). Còn có thể chia lìa được thì gọi
là Nhị, như nhị nhân (hai người). Chỉ có người mới được gọi là “tham thiên lưỡng
địa”.
“Đây là nói qui tắc và hạn số vận
chuyển pháp luân mà trong Kinh Dịch gọi là “Tham Thiên lưỡng địa” vì
*Trong năm con số sanh của Ngũ hành là 1,2,3,4,5 thì:
- Số trời có ba số lẻ (1,3,5) cộng
ba số này lại thành 9.
- Số đất có hai số chẵn
(2,4) cộng hai số này lại thành 6
Số 9 là số Thái Dương; số 6 là số
Thái Âm.
*Tham Thiên Lưỡng địa còn có thể
giải thích: Bát Quái mỗi quẻ có ba hào, số 3 là số quan trọng trong Kinh Dịch:
- Lấy số 3 mà nhân 3 thì thành 9
(3x3=9) gọi là Tham Thiên, số Trời, số Thái Dương.
- Lấy số 3 nhân cho 2 thành ra số
6 (3x2=6) gọi là Lưỡng địa, vì số 2 là số chẵn, số đất. Số 6 là số
Thái Âm.
.Hào quẻ Càn dùng số 9 (Cửu),
.Hào quẻ Khôn dùng số 6 (Lục).
Dùng số 9 của quẻ Càn mà nhân cho
4 thì được 36. Áp dụng con số này làm chiều cao 36m của hai Đài Lôi Âm Cổ và Bạch
Ngọc Chung (hai bên Hiệp Thiên Đài) của Đền Thánh- Tòa Thánh Tây Ninh.
Dùng số 6 trong quẻ Khôn nhân 4 thì được 24: Áp dụng con số này làm chiều cao
cho Nghinh Phong Đài Đền Thánh có chiều cao 24 m . (Số 4: thượng nguơn tứ chuyển).
Lấy 36 và
số 24 nhân 4 lần (36x4= 216) +(24x4=144)=360
Số thăng giảm đều số 4. Hiệp
lại thành 360 (vòng tròn 360o), đó là hoàn thành độ số vận chuyển pháp luân.
Phép tu tánh mạng (trung đạo) dùng phương pháp này để tịnh dưỡng vận chuyển
pháp luân bằng cách hô hấp đúng theo qui tắc mà vận hành: Càn Cửu Khôn Lục”.
Tại sao có số 3 ?
(ví như 3 ly RƯỢU trên Thiên bàn)
- Dịch Hệ Từ thượng viết rằng: “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi…” nghĩa
là Dịch có Thái cực liền sinh hai ngôi. Vậy Thái cực là Một, Lưỡng nghi là hai
(Âm –Dương). Thái cực họp với Lưỡng nghi thành 3.Có 3 rồi
mới sinh ra Tứ tượng, biến Bát Quái, từ đó mới biến hóa vô cùng. Vậy số 3 là đầu
mối của vạn vật.
Ông Thiệu Khang Tiết cho rằng Số 3 được gọi là số chân chính và đó là số đầu của
Trời- Đất.
- Cũng cùng một ý ấy, Đức Lão-Tử
nói rằng “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, Tam sinh vạn vật” nghĩa
là Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Vậy số 3 chính là
nguyên tắc tạo thành vạn vật vậy.
-
Luật tam nguyên trên đây không phải là chỉ tìm thấy trong Dịch học, Lão học ở
Trung Hoa mà còn tìm thấy trong nhiều tín ngưỡng trên thế giới như:
. Ấn Độ có ba vị Thần: Brahma,
Shiva, Krishna.
. Ở
Ba-Tư có
ba vị Thần là Ormuzd (Thiện), Ahrimane
(Ác), và Nithra (dung hòa).
.Ở
Ai cập có ba vị Thần là Shou (khí), Tefnet (hư không) và Atoum (dung
hòa).
.Trên
Thiên bàn CHÍ-TÔN cúng phẩm phải đủ ba chung Rượu trắng (số
3 là số tham thiên) và hai tách nước (nước trà -Âm và nước
trắng- Dương, ấy là 1+1=2). Số 2 là số Lưỡng Địa (Lưỡng nghi).Như đã biết
Ngũ hành:
- 3 Số lẻ là Dương:
1,3, 5
- 2 Số chẵn là Âm: 2,
4
Trong các số trên thì số 9= 1+3+5
là do tòan số lẻ (dương) cộng lại, gọi là thùân Dương hay Lão Dương tức là Số
trời (Thiên) và số 6= 2+4 là do tòan số chẵn cộng lại mà nên, được gọi là
số thùân Âm hay Lão Âm tức số đất (Địa).
Ngòai ra số Trời 9=3x3 gấp 3 lần số 3 được gọi là số “Tham Thiên” (ngang với trời),
còn số đất 6=2x3 tức là 2 lần 3. Số 2 gọi là Lưỡng địa (2 lần mà thành đất).
Do đó hai số 3 và 2 vừa nói trên gọi là “Tham Thiên lưỡng địa”.
Số 2+3= 5 (ngũ trung) là số
của hành Thổ.
Thiệu Khang Tiết nói “Thổ
giả, Âm dương, Lão Thiếu: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy xung chi khí, sở kết dã” (Thổ
là nơi mà Âm Dương, Tứ Tượng cùng các hành: Mộc, Hỏa, Kim, Thủy kết hợp tất cả
với nhau tạo thành Khí Hư vô (Lão, Thiếu tức Lão dương,
Lão âm; Thiếu dương, Thiếu Âm). Như vậy Thổ số 5 là nơi chứa
Khí Hư vô (tức là Đạo) và đầy đủ cả Âm- Dương, Ngũ hành.
Lại nữa, hai số Tham Thiên lưỡng Địa là đầu mối của việc lập Quẻ, chế ra Hào.
Thuyết quái truyện viết rằng: “Tham Thiên lưỡng địa nhi ỷ số, quan biến
ư Âm- Dương nhi lập Quái, phát huy ư cương- nhu nhi sinh Hào” nghĩa là
dựa vào hai số Tham thiên (3) Lưỡng địa (2) để quan sát sự biến hóa của Âm
–Dương mà lập quẻ, phát huy sự cứng
mềm mà sinh ra các Hào.
Vậy khi đã có hai rồi thì phải có
3 cho đúng luật “Tham Thiên Lưỡng địa” vậy.
Gần đây nguyên lý 3- 2 “Tham
Thiên Lưỡng địa” đó đã được đem áp dụng vào khoa Vật lý học nguyên tử. Nguyên
là hai nhà bác học người Trung hoa là Lee Tsung-Dao và Yang-Chen-Ninh đã thí
nghiệm và chứng minh được rằng khi một hạt nguyên tử nổ thì sẽ phóng ra những
ly tử Âm và ly tử Dương dài không đồng đều nhau: tia ly tử dương bao giờ cũng
có bề dài 3 đơn vị và tia ly tử Âm dài 2 đơn vị, nghĩa là đúng theo luật 3/2 của
hai số “Tham Thiên Lưỡng địa” này. Nhờ cuộc thí nghiệm và chứng minh thành công
mà hai nhà Vật lý trẻ tuổi này được Giải thưởng Nobel về Vật-lý-học năm 1957.
Tóm lại: “Tham
Thiên Lưỡng địa” được giải rõ:
- Có thể chia lìa nhau được gọi là “Tam” là 3; không thể chia lìa nhau gọi là
“Tham” (là dự vào 3).
- Tương tự: có thể chia lìa nhau được gọi là “Nhị” là 2; không thể chia lìa
nhau gọi là “Lưỡng” (2 ngôi).
Các cúng phẩm trên Thiên bàn có một ý nghĩa cao siêu không thể thay đổi được,
mà phải tầm lý Đạo để hiểu biết: ấy là lý “Tham Thiên Lưỡng địa”. Trong
Tam Tài: Thiên- Nhân- Địa thì chỉ có con người đứng giữa trời đất mới được tham
dự vào chuyện của trời đất mà thôi. Nay là thời “Nhơn sanh ư Dần” cũng không ngòai
ý nghĩa ấy.
Đó là kết quả của hai quẻ CÀN ☰ KHÔN ☷ tức nhiên cả hai đều
có 3 hào Dương và 3 hào Âm, nhưng Khôn thì có số vạch gấp đôi (2 lần) của Càn, Ấý
là thành quả 3/2 của “Tham Thiên Lưỡng địa” đó.
Hơn nữa ba ly rượu có thể nói là
tượng cho ba cõi trời: Thượng, Trung, Hạ. Mỗi ly rượu rót ba phân
là chỉ người tu có ba bậc: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân.
Dâng Tam bửu thì một ly bằng
9 phân là hợp nhất.
Ngày trước thì Đức Chí-Tôn độ các
Nguyên nhân trước, kế đến Hóa nhân, sau cùng là Quỉ nhân, nên Kinh là:
“Tùân-huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh,
Hóa chủng, quỉ hồn nhứt thăng”.
Ngày nay là cơ Đại Ân xá của Chí
Tôn nên Thầy cho về cùng một lượt. Kinh Phật Mẫu có câu:
“Trùng huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh, Hóa chủng,
quỉ hồn nhứt thăng”.
Vì là “Trùng huờn” tức nhiên về
cùng một lượt nên có một số còn giữ “bản chất quỉ” mà thường xảy ra việc muốn
phá họai nền Chánh giáo của Thầy, Thầy cũng dùng họ cho làm “Giám khảo” để duợt
kiếp khiên trong hàng Thánh Thể, tức là dùng làm chất xúc tác, nói nôm na là chất
phèn để lóng cho nước thêm trong. Trong cơ:
“Thưởng phạt đến
cùng Thánh đức thôi”
Ba ly rượu trên Thiên bàn có mang số 6 - 7 - 8 ấy là hình ảnh
của các Tiên Nương nơi Diêu-Trì-Cung đến giáo hóa trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này
đồng thời cũng là chấm công quả nữa:
- Số 6 ấy là Lục Nương Diêu-Trì-Cung, là Thánh Jeanne-D’Arc, tiền kiếp
là người Pháp. Nay với trách nhiệm “phất phướn truy hồn”
-
Số 7 là Thất Nương Diêu-Trì-Cung, người đến trước nhứt để độ dẫn,
giả danh Đòan Ngọc Quế, nhiệm vụ là “khêu đuốc Đạo đầu”. Đồng
thời báo cho nhân lọai biết giờ này Đức Chí-Tôn đến ban cho một nền
VƯƠNG Đạo lấy LỄ làm đầu, dùng Nho Tông Chuyển thế, qua tánh danh Tiên Nương
VƯƠNG THỊ LỄ.
- Số 8 là Bát Nương Diêu-Trì-Cung,
là Tiên Nương
Hớn Liên Bạch. Trong buổi này
thì:
“Bát Nương thật Đấng Chí linh,
“Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu”.
Ba Tiên Nương là
hình ảnh ba ly Rượu trên Thiên bàn thuộc về KHÍ. Trong số này thì Lục Nương là
người Pháp (Tây), Bát Nương là Trung Hoa (Đông), Thất Nương gốc Việt Nam. Tiên
Nương đến trước nhất đứng vào chữ CHÁNH, người đứng giữa 3 con số nên được chữ
TRUNG Nếu cộng cả ba số lại chia đều cho 3 thì cũng vẫn số 7 là
con số chỉ Thất tình, Tu để biến thành Thất bửu. Đấy là 3 người,
ở 2 phương Đông Tây hòa hợp trong nền Tôn giáo.
e/ - Lý Âm Dương
nhặc nhiệm:
Dầu là khởi điểm,
nhưng những việc tế vi, ít người lưu ý mà cũng có bàn tay của Thượng Đế sắp đặt:
-
Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung Nhập môn vào Đạo tại nhà Đức Cao Thượng Phẩm,
ngày 11-01-1926 .
- Đức Chí Tôn mượn bàn tay của Đức Thượng Phẩm chấp nhang để trục Thần của Ngài
Phạm Công Tắc ra để chơn linh HỘ-PHÁP VI-ĐÀ nhập vào đêm 13-05-Bính Dần tại nhà
Ngài Lê Văn Trung.
Thế mới thấy rằng
Âm Dương luôn hiển hiện ở mọi nơi, mọi chỗ, không có chỗ nào mà không có Âm
Dương.
- Đức Văn Trung (Đời)
mà nhập môn ở nhà Đức Cao Thượng Phẩm (Đạo) là “Đời trong Đạo”.
- Đức Hộ-Pháp (Đạo)
mà Thầy trục Thần Ngài ở nhà Đức Văn Trung (Đời). Vậy là “Đạo trong Đời”
Lúc khởi Xây bàn cũng có hai loại bàn:
- Bàn tròn có một trụ ở
giữa và ba chân, ban đầu dùng Xây bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang (hiện là
Thượng Sanh- Chi Thế) ở phố Hàng Dừa. Bàn này mặt tròn có đường kính 51 phân,
bàn cao 79 phân. Hiện chiếc bàn tròn được lưu giữ nơi Thảo Xá Hiền Cung – Tây
Ninh.
- Bàn mặt vuông bốn chân dùng Xây bàn tại nhà ông Cao Quỳnh Cư
(hiện là Thượng Phẩm – Chi Đạo) ở số 134 đường Bourdais (Sài-Gòn). Chiếc
bàn vuông mỗi cạnh là 44 phân, cao 75 phân, hiện được lưu giữ nơi Nữ Đầu Sư Đường-
Tòa Thánh - Tây Ninh.
Như vậy khi Xây bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang thì sử dụng bàn tròn “Dương trong
Âm”. Khi xây bàn tại nhà ông Cao Quỳnh Cư thì sử dụng bàn vuông “Âm trong
Dương”. Tuy việc làm này về phía người thì hoàn toàn không có sự chuẩn bị,
nhưng hầu như thiêng liêng đã chuẩn bị một cách chu đáo, đủ thấy rằng Đạo Trời
không một điều gì thừa, cũng không một điều gì thiếu hết, là do:
Âm Dương tương hiệp:
“Theo Bí-Pháp
Chơn-Truyền của cơ sanh hóa phải có đủ Âm Dương, trong sanh quang chúng ta có
điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn Giáo nào
có đủ Âm Dương thì mới vĩnh cữu. Như Ðức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh
trên cây Thánh Giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là Ðệ nhứt
Tông Ðồ bị đóng đinh trở ngược lại, gọi là phản âm. Âm Dương tương hiệp đúng
theo Bí Pháp, nên Ðạo Thánh lưu truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì
tiêu diệt đặng”.
KẾT LUẬN:
3 Chưởng Pháp đầu
tiên Chí Tôn phong:
-Tương (Minh Sư)
Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng" Ngày
24-07-Bính Dần.
- Như Nhãn (Huề Thượng
Giác Hải): Quảng Pháp Thuyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ, "Chưởng
Pháp phái Thái".
-Thụ (Minh Sư:
Vĩnh Nguyên Tự) Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại
Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc" Phong ngày 10-9-Bính
Dần.
A - Ðạo Phục của
THÁI CHƯỞNG PHÁP:
CG: Ðạo Phục của
Thái Chưởng Pháp có hai bộ: một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Bộ Ðại Phục thì
toàn bằng màu vàng (màu Ðạo) có thêu chữ BÁT QÚAI
y như Bộ Tiểu Phục Giáo Tông, ngoài thì choàng Bá Nạp
Quang màu đỏ, tức gọi là Khậu, đầu đội Mão Hiệp Chưởng Hòa Thượng tay cầm
bình Bát Vu, chơn đi giày vô ưu cũng màu vàng, một sắc với áo, trước mũi có chữ
"Thích".
Bộ Tiểu Phục thì cũng màu vàng, y như áo Ðại Phục, ngoài
không đắp khậu, không đội mão mà bịt khăn màu vàng chín lớp chữ Nhứt.Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét