NỮ CHÁNH PHỐI SƯ VÀ PHỐI SƯ
CHÚ GIẢI: Y như quyền hành Chánh Phối
Sư và Phối Sư Nam Phái, song chưởng quản Nữ Phái mà thôi.
PCT: "Phối Sư cũng mặc y phục
như vậy, song không có mão Phương Thiên, áo ba dải, nhưng trước ngực có thêu
Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí".
CG: Chánh Phối Sư mặc Ðạo Phục y
như Ðầu Sư, áo chín dải, toàn bằng hàng trắng, nơi trước ngực có thêu Thiên
Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí áo có thêu bông sen y như của Ðầu Sư vậy,
đầu đội Ni Kim Cô cũng như Ðầu Sư, chơn đi giày vô ưu, có Tịch Ðạo trước mũi,
song không đặng phép đội mão Phương Thiên.
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Phối Sư cũng mặc Ðạo phục y như
Chánh Phối Sư song áo có ba dải mà thôi. Chơn cũng đi giày vô ưu, có chữ Tịch Ðạo
trước mũi.
NI KIM CÔ 尼 金 箍
E: The hood of
female bonze.
F: Le capuchon de bonzesse.
(Ni: người phụ nữ xuất gia đi
tu. Kim: vàng. Cô: cái vành, cái đai) Kim
Cô là một cái vành tròn bằng vàng.
Đạo phục của Nữ Đầu Sư có đội một
cái Ni Kim Cô bằng hàng trắng, y như các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu
một cái Kim Cô bằng vàng, trên Ni Kim Cô ấy phải choàng một cái mão Phương
Thiên, nghĩa là một cái choàng bằng hàng cho thiệt mỏng, trên chót thêm một cái
mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa; ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn
Thầy, bao quanh một vòng Minh khí. Cái choàng của mão Phương
Thiên phải cho thiệt dài, 3 thước 3 tấc 3 phân, vì mỗi phen lên ngự trên ngai
thì phải có hai vị Lễ Sanh nữ phái theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất.
Nữ Chánh Phối Sư, Nữ Phối Sư, Nữ
Giáo Sư đều đội Ni Kim Cô bằng hàng trắng, phải cho dài từ đầu tới gót.
Ni cô: 尼 姑 người phụ nữ xuất
gia tu theo Phật giáo.
Ni sư: 尼師 là Ni cô tu lâu năm, có trình độ cao.
VI- QUYỀN HÀNH GIÁO SƯ
A- PHÁP CHÁNH TRUYỀN: “Giáo
Sư có 72 người, mỗi phái là 24 người”.
CHÚ GIẢI: Giáo Sư có 72 người,
chia đều ra mỗi Phái là 24, không đặng phép tăng thêm hay là giảm bớt.
PCT: “Giáo Sư là người dạy dỗ
chư Môn Ðệ trong đường Ðạo và đường Ðời”.
CG: Ðã biết rằng Giáo Sư thế quyền
cho Ðầu Sư và Phối Sư mà cai quản các Thánh Thất nơi Châu Thành lớn mặc dầu,
nhưng Thầy định quyết cho người có quyền dạy dỗ mà thôi, song quyền hành có rộng
thêm đôi chút là dạy dỗ trọn cả đường Ðạo và đường Ðời. Nghĩ cũng chẳng chi làm
lạ, vì cả Chức Sắc Hội Thánh Cửu Trùng Ðài của Thầy lập, phải tùy theo tôn chỉ
Ðạo, nghĩa là xu hướng về phần giáo dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy
dỗ, còn tên của Chức Sắc đủ chỉ rõ ràng phận sự giáo hóa là chánh vai của mỗi
người; như Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Ðầu Sư, Giáo Tông; xem rõ lại thì tên mỗi
vị chẳng mất chữ GIÁO hay là chữ SƯ. Cơ Ðạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời
nầy "Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Ðạo, tu Ðạo chi vị
Giáo". Thầy chỉ cậy Hội Thánh Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy
dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng sanh đặng lành; ấy là phận sự cần nhứt của
Hội Thánh đó.
PCT: “ Buộc chúng nó lo lắng
cho các con như anh ruột lo cho em”.
CG: Thầy buộc Giáo Sư phải lo lắng
cho các Tín Ðồ trong địa phận mình cai quản, như anh ruột lo cho em, nghĩa là
thân cận với các Tín Ðồ như anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, phải đoạt tình thân
thiết của mỗi người cho họ đủ yêu mến mà nương dựa nơi mình, hầu lừa thế chia
vui, sớt
nhọc, tình ái liên lạc thế nào, phải cho ra người anh ruột của các Tín Ðồ, mới
vừa lòng Thầy sở định. Những tiếng anh ruột lo cho em là đủ nghĩa.
PCT: “ Chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Ðồ”.
CG: Bộ sanh tử, bộ hôn phối, sổ nhập môn hay là
trục xuất của cả Tín Ðồ, đều về phần Giáo Sư nắm giữ. Giáo Sư là người thủ bộ Ðời
của Ðạo, quyền hành đã nhứt định; chẳng Chức Sắc nào đoạt đặng.
PCT: “ Chúng nó phải chăm nom về sự tang hôn của
mỗi đứa”.
CG: Hễ thủ bộ Ðời, thì chăm nom về tang hôn rất tiện.
Quan, Hôn, Tang, Tế, là điều cần nhứt của kiếp sống người đời, mà Thầy chỉ định
giao cho Giáo Sư có sự tang hôn mà thôi; ấy vậy Giáo Sư đặng trọn quyền sắp đặt
sửa đương thế nào cho hai lẽ ấy đặng phù hạp với tục lệ của nhơn sanh, tùy theo
phong hóa của các sắc người, song chẳng đặng làm cho thất thể Ðạo, nghĩa là mỗi
điều sửa cải phải do nơi Hội Thánh phê chuẩn. Thầy đã nói: "Của mỗi đứa",
tức nhiên mình cũng phải hiểu của mỗi nước.
PCT: “Như tại Châu Thành lớn thì mỗi đứa đặng quyền
cai quản, cúng tế Thầy như Ðầu Sư và Phối Sư”.
CG: Ðây Thầy đã nói tại Châu
Thành lớn, thì chúng
sanh cũng nên hiểu là địa phận thuộc về dưới quyền
trách nhậm của Giáo Sư cai quản, người đặng quyền cúng tế Thầy như Ðầu Sư và Phối
Sư, mà đặng quyền cúng tế Thầy như Ðầu Sư và Phối Sư thì tức nhiên phải tùng
theo lễ phép của Ðầu Sư và Phối Sư phán dạy. Ấy vậy lễ cúng tế chẳng phải trọn
quyền của người mà là của Hội Thánh sở định.
PCT: “Chúng nó đặng dâng sớ kêu nài về sự luật lệ
làm hại nhơn sanh hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy”.
CG: Những Tân Luật hay là Cựu Luật mà đã rõ có
hại cho nhơn sanh, thì Giáo Sư đặng phép kêu nài
hay là
cầu xin chế giảm.
PCT: “Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ, như
anh em một nhà, cần lo giúp đỡ, nghe à!”
CG: Ðây là một câu Thầy lập lại nữa, quyết định cho
Giáo Sư phải thân cận với mỗi Môn Ðệ của Thầy như anh em một nhà, cần lo giúp đỡ,
nên chi, Thầy mới gằn hai chữ "nghe à !” xin hãy coi đó mà để ý.
Giáo Sư đã là người thay quyền cho Ðầu Sư và Phối Sư
mà cai quản Thánh Thất và cúng tế Thầy, ắt buộc phải tùng quyền Phối Sư, chẳng
đặng trái mạng lịnh người, trừ ra các quyền hành riêng Thầy đã định, thì nhứt
nhứt đều tùng trật tự, do lịnh Phối Sư không đặng phép tự mình sửa cãi. Nếu sửa
cãi là phạm trật tự, mà phạm trật tự, nghịch Pháp Chánh Truyền ắt bị giải ra
Tòa Tam Giáo.
B- ÐẠO PHỤC CỦA GIÁO SƯ
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Giáo Sư cũng có hai bộ: một bộ
Ðại Phục và một bộ Tiểu Phục.
Giáo sư là chính thức người Thầy dạy rồi, đủ tư cách
làm gương và một kiến thức cao siêu, đã chủân bị sẵn sàng từ cấp Giáo Hữu, có
hai bộ Đạo phục, chứng tỏ Âm Dương trọn vẹn, Đạo Đời tương đắc.
-Bộ Ðại Phục thì toàn bằng hàng tùy theo sắc phái.
Nếu là: - Thái Giáo Sư thì Đạo phục màu vàng (màu Đạo)
- Thượng Giáo Sư thì Đạo phục màu xanh.
- Ngọc Giáo Sư thì Đạo phục màu đỏ.
-
Nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng vô vi,
áo ba dải.
- Đầu đội Thiên Nguơn Mạo Bát Quái, tùy theo sắc
phái, có thêu chữ Bát Quái chung quanh, trên chót mão
có Minh Châu Lý, Giáo Sư không đặng đi giày.
1 -
THIÊN NGUƠN MẠO BÁT QUÁI
天 元 帽 八 卦
E: The
rounded headress octagonal in shape.
F: La
coiffure arrondie de forme octogonale.
(Thiên: Ông Trời, từng Trời, cõi Trời. Mạo: cái
mão. Bát quái: tám quẻ Dịch) Thiên Nguơn Mạo Bát Quái là cái mão
của Giáo Sư nam phái Cửu Trùng Đài, phần trên giống hình trái bí đỏ, có tám múi
đều nhau, trên mỗi múi có thêu một chữ của Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn,
Ly, Khôn, Đoài, trên chót mão có hột minh châu lý.
- Thượng Giáo Sư đội mão màu
xanh,
- Ngọc Giáo Sư đội mão màu đỏ.
- Đặc biệt Thái Giáo Sư
không đội Thiên Nguơn Mạo Bát Quái, mà đội mão Hiệp Chưởng của nhà Thiền (giống
mão của Hòa Thượng).
-Tiểu Phục cũng như Ðại Phục. Ðầu không đội
mão mà bịt khăn tùy theo sắc phái mình, bảy lớp chữ Nhơn.
Duy có Giáo Sư phái Thái phải choàng ngoài một Tiểu Bá Nạp Quang gọi là
"Khậu", đầu đội mão Hiệp Chưởng của nhà Thiền, hai bên có thêu Thiên
Nhãn”.
2 - LUẬN ĐẠO
Từ Giáo Sư trở xuống: không mang giày vào Đền. Mặc Tiểu phục đầu đội khăn đóng
bảy lớp chữ Nhân 人chứng tỏ chưa thật hết thất
tình; hàng Nhơn Thánh, Thánh 聖 còn phải nghe (Nhĩ 耳) phải học (Khẩu 口) Hai chữ ở phần trên
của chữ Thánh. Thế nên: nghe là học, nói
là hành; phải tri hành hiệp nhứt…dần
dần nên cao thượng.
“GIÁO SƯ 教 師 (Evêque)
Giáo Sư cầm quyền cai trị của Ðạo trong một Trấn, hay một nước. Toàn thể Ðạo có
72 vị Giáo Sư chia làm 3 Phái: Thái, Thượng, Ngọc, mỗi Phái 24 vị, chẳng đặng
tăng thêm hay giảm bớt. Giáo Sư được rộng quyền dạy dỗ Nhơn sanh trọn vẹn đường
Ðạo và đường Ðời. Có quyền xin chế giảm luật lệ cho hạp với trình độ trí thức,
hay sanh hoạt của Nhơn sanh.
Một thí dụ nữa: Như có khuyết phẩm Giáo
Sư Phái Thượng, cả thảy Giáo Hữu xúm nhau công cử một vị trong 1.000 vị
Giáo Hữu Phái Thượng cho thăng vị, còn 2.999 vị kia phải chờ đợi, sự quan hệ do
ở con số mà cũng
do nơi sắc Phái nữa.
Cũng vì các sự khó
khăn trên đây, nên những Chức sắc Hàm phong hay hưu trí (quá 60 tuổi) không còn
kể vào con số nhứt định của Thánh Thể đương quyền Hành Chánh được (ví dụ nói
trên về hàng Thánh Thể, nghĩa là (từ Giáo Hữu) hàng Thánh trở
lên”
(Trích: Nền tảng
Chánh Trị Đạo của Khai Pháp)
3 - QUYỀN HÀNH
GIÁO SƯ NỮ PHÁI
CHÚ GIẢI: Y như
quyền hành Giáo Sư Nam Phái, song chưởng
quản phần Nữ Phái mà thôi.
PCT: "Giáo
Sư mặc áo ba dải; đội Ni Kim Cô bằng hàng trắng, không đi giày".
CG: Giáo Sư mặc Ðạo Phục toàn bằng hàng trắng trơn,
không thêu bông sen, áo ba dải; đầu đội Ni Kim Cô bằng hàng trắng, phải cho dài
từ đầu tới gót, y như của Ðầu Sư và Phối Sư, chơn không đi giày.
(Hộ Pháp giải câu trong Pháp Chánh Truyền, trang
182)
Thiên mạng chi vị tánh, Suất
tánh chi vị Đạo, Tu Đạo chi vị giáo:
天 命 之 謂 性 - 帥 性 之謂 道 - 修 道 之謂 教
Đức Hộ-Pháp có
giảng rõ câu của Trung-Dung :
Thiên
mạng chi vị tánh: Mạng Trời đó là tánh, cái tánh linh của ta do nơi Đấng
Chí-linh cho ta lại do đấy mà tạo mạng sanh của ta, vận thời kiếp số của mỗi
người đều tùy điểm linh quang lớn nhỏ, nghĩa là tùy theo mạng của mỗi người. Cả
nhơn-loại và vật-loại đều thọ nơi Đấng Chí linh một điểm linh quang,hoặc nhiều
hoặc ít, hoặc lớn hoặc nhỏ, đặng định hàng phẩm đẳng cấp của chúng sanh, vì vậy
cả cơ tạo-hóa hữu-hình đều chung gọi là Vạn linh sanh chúng. Người cũng là một
vật trong vạn-vật, người là nhất linh trong vạn-linh, nhưng mà linh tánh lớn
lao hơn vạn vật, biết đặng cái tánh linh ấy là mạng trời nên đặt tên là Thiên-mạng.
Suất tánh chi vị Đạo: Nghĩa là rèn đúc trau-giồi cái tánh, ấy là Đạo. Người
cũng đã là vật thì tự nhiên phải triêm nhiễm vật tánh nơi mình, buộc hễ đói phải
kiếm ăn, vì có ăn mới có sống; buộc trần lỗ phải kiếm mặc, vì có mặc mới ấm
thân. Nặng mang cái mảnh hình hài gọi rằng mạng sống, luật thiên-nhiên bảo tồn
(la loi de conservation) định vậy, phận thiêng liêng giúp thế ở nơi mình, nên
cũng phải chung lộn với thế tình ăn ăn mặc mặc. Nào là vinh thân, nào là phì
gia, tuồng đời nêu trước mắt như lượn sóng ba đào xao-xuyến giữa dòng thế-sự.
Nào là yếu thua mạnh thắng, nào là ngu thiệt trí hơn, nhập vào trí-não như gươm
gíao đua tranh giữa trận lợi danh hoàn-vũ, vì vậy mà đòi phen vùi lấp tánh-linh
xu về hình thể. Tuy vân, thế tình vẫn vậy mà cũng còn có lắm
Đấng cao minh Chơn-thần đắc kiếp, thường xem vạn-vật mà suy đoán phận
giới. Ấy vậy cái kho vô tận của Chí-linh cũng có phương đoạt đặng. Dò đon từ bực
trí-lự của mỗi loài thì thấy cả vạn linh đều biệt phân đẳng cấp, dầu cho
cả cá-nhân đối với trọn loài người cũng thế, rồi tìm cách thế mà luyện tập lấy
mình, gọi là TU, làm cho linh tánh khỏi thi-hài ràng buộc, thì tự-nhiên thấy nó
đặng tăng tiến lên cao, cơ bí-mật của Chí-Tôn hiểu thấu.
Câu suất tánh chi vị Đạo có nghĩa là đem tánh-linh ra khỏi vòng nhục thể (gọi
là thoát xác) thì có thể hiệp tánh với Chí-linh cho nên Đạo.
Tu
Đạo chi vị giáo nghĩa là trau Đạo gọi là giáo. Đào luyện cái tánh cho
sáng-suốt thêm hoài gọi là TU, song cách thế mình TU vẫn nhiều phương-pháp đặng
tự giáo lấy mình hay là cầu-giáo với kẻ cao minh giúp giùm phương pháp:
- Tự giáo nghĩa là mình đủ
trí lự đặng đặt ra phương pháp mà tu-luyện lấy mình.
- Cầu giáo là cầu kẻ cao-minh mà dạy dùm phương pháp. Tiếc thay ! Bậc cầu giáo vốn nhiều người, còn bậc tự giáo xem ra rất ít; bởi cớ ấy mà làm cho mặt địa-cầu này có nhiều Tôn giáo.Bậc tự giáo có ít cũng chẳng chi lạ.
- Cầu giáo là cầu kẻ cao-minh mà dạy dùm phương pháp. Tiếc thay ! Bậc cầu giáo vốn nhiều người, còn bậc tự giáo xem ra rất ít; bởi cớ ấy mà làm cho mặt địa-cầu này có nhiều Tôn giáo.Bậc tự giáo có ít cũng chẳng chi lạ.
VIII- QUYỀN HÀNH GIÁO HỮU NAM
A- PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo
Hữu là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy.
CHÚ GIẢI: Muốn phổ
thông chơn Ðạo của Thầy, buộc Giáo Hữu phải học cho lảu thông chơn Ðạo của Thầy.
Ấy vậy, chức Giáo Hữu phải có khoa mục mới đặng. Cái phận sự phổ thông là một
phận sự lớn lao quí trọng, nếu chẳng biết Tôn chỉ của Ðạo cho thông suốt, lại
đem xuống truyền bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch cùng chơn lý của Ðạo,
là hại Ðạo. Huống chi Thầy đã nói Giáo Hữu là người thân cận của nhơn sanh hơn
hết, nếu chẳng lựa chọn kẻ hạnh đức, tu tâm, có đủ tư cách mà bày gương Ðạo cho
rõ ràng, nhơn sanh chỉ để mắt vào đó mà khen hay là chê Ðạo, vì sự chơn thật
hay là giả dối, nhơn sanh chỉ coi đó mà quyết đoán. Trò phải như Thầy, mà Thầy
thế nào Trò phải thế ấy, nhơn sanh xem Trò mà đoán Thầy. Cái thể thống của Ðạo
Thầy gọi là chơn thật thì phải hành Ðạo thế nào cho ra chơn thật y như Thầy sở
định. Bực trí thức, muốn quan sát một nền Ðạo nào, thì chẳng cần biết hết Chức
Sắc, chỉ lựa một phẩm vị yếu trọng hơn hết là bực hạ thừa, mà so sánh tư cách,
hạnh đức, đặng quyết đoán tôn chỉ nội dung của Tôn Giáo ấy.
Giáo Hữu là một phẩm
vị rất yếu trọng. Ấy vậy buộc Giáo Hữu phải thể Ðạo cho xứng đáng Tôn chỉ cao
thượng của Ðạo. Muốn cho xứng đáng thì phải thông suốt cả các chơn lý Ðạo.
PCT:“Chúng nó đặng
quyền xin chế giảm luật lệ”.
CG: Giáo Hữu
đặng quyền dưng sớ cho bề trên mà xin chế giảm luật lệ; biết đâu, ngày kia các
vị ấy còn phải thuyên bổ đi phổ thông chơn Ðạo Thầy trong một nước, hay là một
dân tộc nào mà phong hóa không thể tùng theo Ðạo luật đặng, nếu
không chế giảm cho phù hạp thức lệ lễ nghi của sắc dân ấy, thì khó mà độ rỗi
cho đặng. Thầy cho Giáo Hữu đặng quyền xin chế giảm luật lệ là vì vậy.
PCT: “Ba ngàn
Giáo Hữu chia ra đều, mỗi Phái là một ngàn, chẳng nên tăng thêm hay giảm bớt”.
CG: Câu ấy đã nói rõ, chẳng cần phải giải, song
buộc phải nói rằng: chức Giáo Hữu để cho cả các sắc dân toàn khắp địa cầu, chớ
không phải dành để cho một nước Nam nầy mà thôi, dầu cho ngôi Giáo Tông ngày
sau, cũng có đủ các dân tộc khác cầm quyền chấp chánh.
PCT: “Chúng nó đặng phép
hành lễ khi làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ”.
CG: Hễ nói mấy tỉnh nhỏ đặng, thì cũng nói mấy xứ nhỏ,
mấy nước nhỏ đặng; mà mấy tỉnh nhỏ, mấy xứ nhỏ, mấy nước nhỏ, thì phải tùng quyền
mấy tỉnh lớn, mấy nước lớn, mấy xứ lớn; tức nhiên Giáo Hữu phải tùng quyền Giáo
Sư. Khi làm chủ các Thánh Thất, thì Giáo Hữu đặng phép hành lễ y như thức lệ
Giáo Sư sở định, không đặng phép sửa cải, nhứt nhứt phải đợi lịnh Giáo Sư, nếu
nghịch mạng thì phạm Pháp Chánh Truyền.
PCT: “Ðiều chi chúng nó
xin, thì buộc Giáo Tông
phải cần mẫn hơn hết”.
CG: Ðã nói
Giáo Hữu là người thân mật với nhơn sanh hơn hết, mà kể từ phẩm Giáo Hữu đổ lên
cho tới Giáo Tông thì xa lắm; ấy vậy, Giáo Hữu thì gần với nhơn sanh, còn Giáo
Tông thì xa nhơn sanh, nếu Giáo Tông muốn gần với nhơn sanh thì phải cần mẫn
giao thân cùng Giáo Hữu. Giáo Hữu là người biết nhơn sanh hơn hết, nếu Giáo
Tông muốn biết nhơn sanh, thì phải nghe lời Giáo Hữu. Thánh ý muốn cho Giáo
Tông đặng gần nhơn sanh cũng như Giáo Hữu, cho nên dặn Giáo Tông phải để ý cần
mẫn, xét nét mỗi điều của Giáo Hữu cầu xin hơn hết song mỗi điều
chi Giáo Hữu cũng không đặng phép loạn đẳng cấp, nghĩa là phải nương theo các
phẩm cấp trên mình mà dâng sớ.
PCT: “Như điều
chi mơ hồ, thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm duợt”.
CG: Chúng sanh là Thế, mà muốn cho biết Thế, thì
phải thân cận chúng sanh, gần chúng sanh thì mới biết đặng sự hạnh phúc cùng là
sự uất ức của chúng sanh. Người gần gũi chúng sanh là Giáo Hữu: Thảng như có điều
chi làm cho Ðạo với Ðời không tương đắc, sanh ra nghi hoặc, mơ hồ, thì không ai
có thể quan sát và kiểm duợt dễ dàng hơn Giáo Hữu, nên Thầy mới giao trách nhậm
riêng ấy cho, là vì vậy.
PCT: “Chúng nó phải tu
hạnh đức, tư cách, cho lắm mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn
sanh hơn hết nghe à! “
CHÚ GIẢI: Câu nầy trên kia đã giải rõ, đây chỉ nhắc câu
quyết định "nghe à!" của Thầy đó mà thôi. Xin khá để ý. (Ôi! cái
trách nhậm lớn lao ấy, vân vân ...)
(1) Ấy là lời
khen của Ðức Lý Giáo Tông.
B- QUỲÊN HÀNH NỮ
GIÁO-HỮU
Nữ Giáo-Hữu về quyền-hành
cũng:
“Y như quyền-hành
Nam-phái, song Chưởng quản về phần Nữ-phái mà thôi”.
Giáo-hữu mặc Đạo-phục
như Giáo-sư, nhưng không đội mão, giắt một bông sen, trên bông sen có Thiên
Nhãn Thầy”.
CG: “Giáo-hữu mặc
Đạo-phục y như Giáo-sư, song trên đầu không đặng đội mão Ni-kim-cô, chỉ giắt một
bông sen trên đầu tóc mà thôi, giữa bông sen có Thiên Nhãn Thầy”.
C - LUẬN ĐẠO:
1 - GIÁO HỮU 教 友 (Phẩm)
E : The Priest , F : Le Prêtre
E : The Priest , F : Le Prêtre
“GIÁO HỮU (Prêtre) Giáo Hữu cầm
quyền cai trị của Ðạo trong một Châu hay rộng hơn, sau nầy trong một nước nhỏ,
được quyền thân cận với Nhơn sanh đặng phổ thông Chơn Ðạo của Thầy, thay mặt
Giáo Sư khai đàn cho chư Ðạo hữu. Cả thảy có 3.000 Giáo Hữu, không đặng tăng
thêm hay giảm bớt, chia ra mỗi Phái là 1.000 người.
Giáo Hữu cũng có quyền xin chế giảm
luật lệ như Giáo Sư,
nhưng phải đi theo đẳng cấp”.
Về Chức-sắc Nữ-phái chỉ trừ Đầu
Sư và Chánh Phối Sư mỗi phái có một, còn lại bất cứ phẩm-cấp nào cũng
không giới hạn, nghĩa là bao nhiêu cũng được, chỉ do quyền Thiêng liêng định đoạt
khi đủ điều-kiện được tuyển chọn thì thôi.
Thầy có dạy: “Trên Bạch-Ngọc-Kinh
có đủ Nam và Nữ; các con chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Đấng Nữ Tiên, Nữ Phật
còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều”.
Giáo-Hữu 教 友 (Giáo: dạy; Hữu: bạn).
Giáo Hữu là phẩm cấp đầu tiên của Cửu Trùng Đài, chỉ có bổn phận dạy Bạn
thôi, đối phẩm Địa Thánh.
Pháp-Chánh
truyền qui định cho quyền hành “Giáo-hữu là người để phổ-thông chơn Đạo
của Thầy” nhưng Thầy buộc:
- Phải học cho lảu thông chơn Đạo
của Thầy.
- Phải có khoa-mục mới đặng.
- Phải thể Đạo cho xứng đáng
Tôn-chỉ của Đạo.
2- GIÁO HỮU phải
lo lắng về phần Thuyết Ðạo:
“Thầy để lời cho các con biết rằng,
phần nhiều các
Giáo Hữu không xét biết trách nhậm
của mình. Con phải
nhắc cho chúng nó hiểu. Mỗi Giáo
Hữu ít nữa phải thông cội rễ nền Ðạo, chúng nó phải năng tìm biết Thánh Ngôn của
Thầy đã dạy và thay phiên nhau mà nói Đạo cho chư thiện nam tín nữ hiểu. Nhiều
Giáo Hữu không biết một nét chi về việc Đạo, chư tín đồ không trông học hỏi đến
đặng, thì Chức sắc còn có bổ ích chi. Con phải nhắc cho chúng nó và Hội Thánh
phải hội một tháng một kỳ mà chỉ dẫn cho nhau về việc Thuyết đạo trong mỗi đàn,
nghe!”
Vì lẽ đó: Thánh ngôn Thầy dạy
ngày 17-09-1927:
“Thầy đã nói dụng hòa bình êm tịnh
mà dẫn các con trong đường Ðạo. Các con miễn lưu tâm để hết công trình, trí não
đặng lo lắng thì bước đường càng bữa càng tới, chẳng điều chi cản trở đặng; duy
có một điều là chư Môn Ðệ và Tín Ðồ xa khuất lời Thánh giáo, nên phần nhiều để
thì giờ mà chăm nom về nhơn sự. Các GIÁO HỮU phải lo lắng về phần Thuyết Ðạo
cho kịp và mỗi Ðàn lệ đều phải truất một bài Thánh ngôn dạy về đạo đức mà đọc
cho chúng sanh nghe, như vậy thì lời Thánh giáo như còn văng vẳng bên tai các
Môn Ðệ để giục bước đường của chúng nó chẳng sụt sè vậy”.
-Thơ và Lâm Thị Ái Nữ cũng do
theo đó mà hành sự nghe.
-Trung bạch: Con có ra đề hồi hôm
nơi Ðàn Cầu Kho cho các Giáo Hữu làm bài Thuyết Ðạo.
- Phải, như Giáo Hữu nào bê trễ về phận sự và không quản đến
lời Thầy thì con hội chư Thánh, dâng sớ lên cho Lý Bạch phân đoán nghe”.
3- Giáo-Hữu phải chết đời sống
Đạo:
Đức Hộ-Pháp nói: “Đạo
giáo Cao-Đài Đức Chí Tôn để bí pháp ấy trong Thánh-Thể của Ngài. Ngài nói những
kẻ nào dám chết về đời, sống vì Đạo, những kẻ ấy mới đáng làm Thánh-Thể của ta
nơi mặt thế gian này. Cả toàn Thánh Thể đã hiểu lắm, tới phẩm Giáo-Hữu
phải chết, chết vì đời rồi
sống lại, sống vì Đạo”. Là một chức sắc phải tỏ ra đạo hạnh để người ngoại
Đạo trông vào mà yêu mến chơn Đạo của Đức Chí-Tôn khai dựng. Mỗi vị Giáo-Hữu
cho đặng các điều này:
1- Một là phải thông việc Đạo.
2- Hai là phải thạo việc Đời.
3- Ba là trau-giồi đức hạnh.
4- Bốn là giữ chánh dạy người.
Muốn đặng bốn điều ấy phải tìm-tòi
hỏi-han cho mở
rộng thêm ra chỗ học thức của
mình, phải năng đọc Thánh ngôn cùng năng xem sách Đạo”.
Bằng cớ khi nọ có một người đàn
bà, Bần-Đạo không
nên nói tên ra làm chi, đội sớ quì
mãi đến bãi đàn, Tôi không biết xin điều gì, quì đến bãi đàn, đội sớ quì như vậy
từ đàn này đến đàn khác, theo đuổi giỏi-dắn siêng năng lắm. Ngày nọ, đến cái
đàn chót Đức Chí-Tôn kêu tên người đó rồi hỏi:
- Con muốn lắm sao con ? (Người
kia thầm vái cái gì không biết). Đức Chí Tôn nói:
- Thôi, phong cho
con chức Giáo-Hữu đó !
Thành thử ta ngó
thấy rằng: Giá-trị của chức Giáo Hữu chẳng có gì hết! Bất kỳ ai cũng cầu được,
đem vô cái thể của Ổng với những phần tử vô-giá-trị, làm cho Đức Lý buổi nọ cầm
quyền Thiêng-liêng mối Đạo, Ngài khổ-não không biết sao luận được"
4- Giáo Hữu phải ly gia cắt ái:
Đức Lý dạy: “Hộ Pháp, Hiền Hữu nhớ kỹ lại, hàng Giáo Hữu là Thánh
thể, luật định phải phế đời hành đạo, do nơi Hiền Hữu ban phép giải thể. Những
vị Lễ Sanh như: Ấn, Bắc, Lương thì Hiền Hữu xem coi có cắt ái ly gia
không mà cầu phong Giáo Hữu ?”
Nhiệm vụ chính của
Chức Sắc Thiên phong là vấn đề Súât Sư. Vậy Súât Sư là gì ?
5 - SUẤT SƯ 帥 師
(Suất 帥 là thống-lĩnh, còn đọc là Suý hay soái là tướng lãnh,
đứng đầu hết. Sư 師 là Thầy dạy)
nhưng ông Thầy dạy Đạo cũng là quan Đạo phải là người gương mẫu, vừa dạy đạo đức,
giáo-lý, giáo pháp của nền Tôn-giáo mà cũng vừa là mẫu mực về lối sống Đạo nơi
chính bản thân của Chức-sắc nữa. Cho nên người xưa viết hai chữ Suất-sư 帥 師 giống in nhau, chỉ khác ở chữ Sư có nét nhứt ở phần
bên phải của chữ, còn chữ Suất thì không có, tức là bảo “Tri hành hiệp nhứt” mà
nét nhứt bên chữ Sư là cái tâm mật pháp, mật truyền của người Thầy dạy đạo vậy.
“Những Chức-sắc Thiên-phong phải
ra Suất-sư 帥 師 tức là giáo-hoá là chánh vai trò, gọi là hành đạo địa
phương, nhưng cũng có thể ra ngoại-quốc nữa. Chức sắc hiểu rõ cái nhiệm-vụ “Suất
sư” thì việc đi hành-đạo mới hoàn-toàn được”.
Hỏi: Chức-Sắc ở
Tòa-Thánh 3, 4 năm mới bổ đi hành đạo một năm, kế được Hội Nhơn-Sanh thì mới
hành quyền ít quá rồi phải định sao?
LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP: “Chỉ
kể từ ngày Suất Sư khỏi Tòa-Thánh bao lâu đặng định công-nghiệp mà thôi.”
Hỏi: Chức-Sắc từ trước
giờ ở Tòa-Thánh mới được bổ đi cầm quyền sau khi Hội Nhơn-Sanh công nhận được kể
vào hàng Chức-Sắc có hành quyền đặng công nhận không ?
LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP: “Kể từ ngày bổ đi hành đạo tha-phương là đáng kể
công-nghiệp. Nếu đủ tài, đủ đức, đủ công nghiệp phi thường và đủ lệ năm năm là
cho thăng vị đặng, song để vào hàng Chức-Sắc mới Suất-sư khỏi Tòa-Thánh mà
thôi.”
&
B - ÐẠO PHỤC CỦA
GIÁO HỮU
CHÚ GIẢI: Ðạo Phục của Giáo Hữu có một bộ mà thôi, toàn bằng hàng,
tùy theo sắc phái không có thêu thùa chi hết, áo có ba
dải. Ðầu đội Ngưỡng Thiên Mạo, cũng tùy
theo sắc phái. Cái mão ấy bề cao phải cho đủ phân tấc là 0m150, ngay trước trán
có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh ba vòng vô vi, Giáo Hữu chẳng đặng bịt khăn.
Luận: - Ðạo
Phục của Giáo Hữu có một bộ mà thôi:
Bởi lẽ là phẩm Tiểu cấp của Cửu
Trùng Đài, mới được Đức lý nhắc “Hiền Hữu xem coi có cắt ái ly gia không mà
cầu phong Giáo Hữu” tức nhiên có thể chưa thật trọn vẹn, mà phải đủ điều
kiện:
- Phải chủân bị có một kiến thức
rộng để đủ khả năng Thuyết Đạo cho chúng sanh nghe mà học hỏi theo.
- Phải biết chết đời sống Đạo, được
Hộ-Pháp “ban phép giải thể” nghĩa là phế đời hành Đạo, cùng nghĩa với chữ ly
gia cắt ái; là chỉ chuyên lo về việc đạo pháp thôi.
Như vậy đã vào hàng Chức Sắc là
phải gìn nhặc nhiệm những điều kiện trên, là phải “chết đời sống Đạo”
- Áo có ba dải:
Đức Hộ-Pháp có lời phê: thẻ còn gọi là “Dải sau lưng” áo:
Chí-Tôn muốn định phận mình là Tam-Thừa. Phó-Trị-Sự hành quyền về Hạ-thừa chớ
chưa vào Thánh-Thể nên mang MỘT THẺ nơi lưng.
Còn Phối-Sư là bậc Thượng-Thừa nên có BA THẺ.
Trung-Thừa Chí-Tôn không cần định để cho mỗi người cố-gắng lập vị mình
mau chóng tới bậc Thượng Thừa”. Giáo Hữu đây đứng vào Trung thừa.
- Ðầu đội Ngưỡng Thiên Mạo: 仰 天 冒
(Ngưỡng: trông lên; Thiên:
Trời; ngưỡng thiên là trông trời; mạo: mão đội đầu) Ngưỡng
Thiên mạo là tên chiếc Mão của Giáo Hữu cao 0,15m, phía trước mão có thêu Thiên
Nhãn Thầy, bao quanh bởi ba vòng vô vi.
- bề cao phải cho đủ phân tấc là 0m150, ngay trước
trán có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh ba vòng vô vi:
Luận: Mão cao 0,15. số 15 là con
số Ma Phương nằm giữa Bát Quái Đồ Thiên (Cao Đài) có nghĩa là “Tâm điền” là tâm
đạo đức, có một ý nghĩa vi diệu (xem Bát Quái Đồ Thiên, trang 90). Thiên Nhãn là
biểu tượng Đấng Thượng Đế nay làm chủ mối Đạo Trời. Bao quanh “ba vòng vô vi”,
tức là người Học Đạo, hiểu Đạo, ban bố khắp nơi bằng huyền lực, bằng hào quang,
điển sáng gọi là Vô vi, nên “ba vòng vô vi” là hào quang của phẩm cấp dưới.
Đạo Cao-Đài khởi nơi đất nước Việt-Nam
này hân hạnh có được hồng-ân ấy.
C- QUYỀN HÀNH NỮ GIÁO HỮU
CHÚ GIẢI: Y như quyền hành Nam
Phái, song chưởng quản phần Nữ Phái mà thôi.
PCT: Giáo Hữu mặc Ðạo Phục
như Giáo Sư, nhưng không đội mão, giắt một bông sen, trên bông sen có Thiên
Nhãn Thầy.
CG: Giáo Hữu mặc Ðạo phục y
như Giáo Sư, song trên đầu không đặng đội mão Ni Kim Cô, chỉ giắt một bông sen
trên đầu tóc mà thôi, giữa bông sen có Thiên Nhãn Thầy
IX - QUYỀN HÀNH LỄ SANH
A- PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Lễ
Sanh là đứa có hạnh, lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ.
CHÚ GIẢI: Thầy đã nói Lễ Sanh thì
phải lựa chọn người có hạnh hơn hết trong chư Môn Ðệ của Thầy ắt buộc phải hạnh
nết hoàn toàn, huống chi phải vào bực Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc,
thì Lễ Sanh tất phải là người xứng đáng, có đủ tư cách, học thức mà làm một vị
Chức Sắc Thiên Phong ngày sau.
Tuy vẫn đã biết, lúc Thầy lập
Pháp Chánh Truyền, thì Thầy dạy hành lễ dường ấy mặc dầu, là bởi lễ nghi phong
hóa nhà Nam ta buộc phải vậy, chớ Lễ Sanh mà đối chức "Anh" (Frère) của
Thánh Giáo, thì phận sự cao trọng của Chức Sắc ấy là dường nào!
Sau đây
buộc Lễ Sanh phải có cấp bằng nơi trường Ðạo, mới mong dự cử vào địa vị ấy. Vậy
thì Lễ Sanh là người thay mặt cho Giáo Hữu, khi Giáo Hữu vắng mặt, mà hành lễ
cúng tế Thầy, song phải tùng quyền Giáo Hữu mà hành sự.
PCT: Chúng nó đặng đi
khai đàn cho mỗi Tín Ðồ.
CG: Lễ Sanh phải đi thăm viếng các nhà Ðạo Hữu, Thượng Tượng khai Đàn; dạy
cho biết lễ nghi cúng tế Thầy, thay quyền cho Giáo Hữu.
Như ngày kia Ðạo đã xuất dương ra
ngoại quốc thì sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Nam, phận sự của
Lễ Sanh đây mới ra sao? Tưởng chẳng chi khác hơn là đổi ra phần thăm viếng Tín Ðồ,
an ủi, dạy dỗ chăm nom dìu dắt trong đường Ðạo cũng như đường Ðời, thay quyền
cho Giáo Hữu.
PCT: "Thầy dặn các
con rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó".
CG: Thấy lòng bác ái của Thầy
bắt động lòng, vì Thầy đã biết rằng Lễ Sanh phải chịu tùng phục dưới quyền người
sai khiến, nên phải có hạnh đức, mới biết an phận mình, mà chịu phần lòn cúi,
quật hạ đặng. Thầy lại để lời dặn rằng:Lễ Sanh là người yêu mến của Thầy, ấy là
Thánh ý muốn không cho kẻ bề trên lấy quyền hiếp em dưới.
PCT: "Như đặng hàng Lễ
Sanh mới mong bước qua được hàng Chức Sắc".
CG: Câu nầy trên đã giải rõ,
nên chẳng cần lập lại, nhưng phải nhắc rằng Lễ Sanh, hoặc đặng đắc cử hay là có
khoa mục mới đạt vị.
PCT: “Kỳ dư Thầy phong thưởng
riêng mới qua khỏi ngã ấy mà thôi, "nghe à!".
CG: Phải
có cấp bằng Lễ Sanh mới vào hàng Giáo Hữu đặng, kỳ dư Thầy giáng cơ phong thưởng
riêng, mới qua đặng Pháp Chánh Truyền, Thầy quyết định với tiếng "nghe
à!" xin khá để ý (2).
Chú thích: (1) Nhiều khi chư Hiền Hữu lạm
dụng danh Lễ Sanh mà cho kẻ hiến lễ làm cho mất thể diện của vị Thiên phong. Vậy
Lão đặt tên cho kẻ hiến lễ ấy là Lễ Sĩ.
(2) Ôi! cái hại là do tại nơi lòng quá yêu của Chí Tôn phong thưởng ấy, mà gây loạn cho Chơn Truyền. Lão nhứt định cầu khẩn Chí Tôn chẳng cho như vậy nữa.
(2) Ôi! cái hại là do tại nơi lòng quá yêu của Chí Tôn phong thưởng ấy, mà gây loạn cho Chơn Truyền. Lão nhứt định cầu khẩn Chí Tôn chẳng cho như vậy nữa.
B - ÐẠO PHỤC CỦA LỄ SANH
CHÚ GIẢI: Ðạo phục của Lễ Sanh (Elève
Prêtre) cũng
y như của Giáo Hữu toàn bằng hàng tùy theo sắc phái, đầu đội Khôi Khoa
Mạo toàn bằng hàng trắng, dầu cho phái nào cũng vậy. Ngay trước trán
có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí, Lễ Sanh không đặng phép
đi giày.
LUẬN ĐẠO
Đây là Khôi Khoa Mạo trong
đạo phục của Lễ Sanh, “đầu đội Khôi Khoa Mạo toàn bằng
hàng trắng, dầu cho phái nào cũng vậy. Ngay trước trán có thêu Thiên Nhãn Thầy,
bao quanh một vòng Minh Khí.
“LỄ SANH: Thánh Giáo của Ðức
CHÍ TÔN nói rằng: Lễ Sanh là đứa có hạnh trong con cái của Thầy lựa chọn. Nhờ
ơn Ðức LÝ GIÁO TÔNG định cho, theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ ba, điều thứ hai cho Lễ
Sanh được cầm quyền Hành Chánh một Tộc Ðạo. Số Lễ Sanh thì
hằng hà, bao nhiêu cũng đặng, cũng chia ra 3 Phái: THÁI, THƯỢNG, NGỌC. Thảng
như có một vị Giáo Hữu Phái Thái qui liễu, tất cả Lễ Sanh xúm nhau công cử một
vị Phái Thái đặng thay thế, mà chỉ chọn một người của Phái Thái thôi, còn hai
Phái kia còn chờ đợi. Số Lễ Sanh không có giới định, bao nhiêu cũng được.
Phải vào hàng Lễ Sanh mới mong nhập vào Thánh Thể của Ðức CHÍ TÔN được”.
Đức Lý dạy: “Những vị Lễ Sanh tân
phong, ta cũng nên rộng ân phong thưởng, nhưng mà ra lịnh cho ba vị Quyền Chánh
Phối Sư xem xét lại hồ sở kỹ lưỡng đặng bôi xóa những vị mới phạm tội, còn những
vị không phổ tế, không giáo đạo thì nên đình đãi lại. Khi chỉnh đốn xong, cầu Lão
đến định phái”.
“Hộ Pháp, Hiền Hữu nghe Lão: Hiền
Hữu nhớ rằng Chí Tôn chỉ có lập Hội Thánh chớ không có lập Thế đạo. Hiền
Hữu nhớ rằng Lễ Sanh là tín đồ để hành lễ mà thôi. Bởi chúng
ta muốn nền Đạo đủ Thiên đạo và Thế đạo, nên Lão xin cùng Hiền Hữu,
buổi nọ lập nên Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự, rồi lại đem phẩm Lễ Sanh
vào hàng Chức sắc làm đầu nhơn sanh trong Quyền Vạn Linh đã lập. Hiền Hữu
có nghĩ vì tại sao Lão phải dâng quyền Giáo Tông cho Hiền Hữu, đặng có trọn quyền
Chí Tôn hữu hình tại thế chăng ?
Hộ Pháp: Xin Ngài dạy rõ.
-
Cười !...Thì cũng do lòng từ bi vô tận của Đại Từ Phụ
lo cho con cái của Người, chỉ sợ cái oai của Lão, vì còn cầm quyền thiêng liêng
mối Đạo quá chấp nê, tánh không dung thứ tội tình con cái của Người nên
phú giao cho Hiền Hữu, là bạn đồng sanh biết đau đớn, biết khổ cực với mảnh thi
phàm mà rộng dung cho họ.
Cười !...Quyền Chí Tôn trong tay
Hiền Hữu thì cứ tự dụng đặng định vị cho Thánh Thể của Người, Lão
chẳng nên can thiệp vào đó. Nầy Hiền Hữu, Lão nói thử: Hiền Hữu nghĩ coi có lẽ
nào Lão cầm cơ thăng vị cho những người như: Kiên, Chẩn, Thạch, Dược ?
Cười . . . Hiền Hữu tự mình định liệu lấy. Nếu cần, phò loan nơi Giáo
Tông Đường, Lão sẽ đến bàn luận”.
Chú thích (1) Luật cầu phong áp dụng từ hàng
Lễ Sanh, những người dự sổ cầu phong phải là Chánh Trị Sự có năm năm công nghiệp
đầy đủ và tròn trách nhiệm. Một đôi khi có lịnh ân xá cho những Phó Trị Sự hoặc
Thông Sự lâu năm được đem tên vào sổ cầu phong. Ðạo hữu có công nghiệp phi thường
cũng được dự sổ cầu phong. Và Chức Sắc Ban Thế Ðạo từ phẩm Hiền Tài được cầu ân
phong vào phẩm Giáo Hữu đổ lên. Ngoài ra mọi người đều phải đi qua mặt luật
Chánh Trị Sự năm năm cả.
(2) Quyền CHÍ TÔN ân tứ cho các
Chi Phái gia nhập về Hội Thánh và do theo công nghiệp phi thường của họ. Cho
nên theo Thể Pháp, phẩm vị tại thế nầy đối với phẩm vị Thiêng Liêng trong Cửu
Phẩm Thần Tiên.
C - QUYỀN HÀNH NỮ LỄ SANH
CHÚ GIẢI: Y như quyền hành Nam
Phái, song chưởng quản về phần Nữ Phái mà thôi.
PCT: Lễ Sanh Nữ Phái mặc Ðạo
Phục như Giáo Hữu, nhưng choàng ngang trên đầu một đoạn vải mỏng cột ra sau ót,
thả một mí dài một mí vắn, ngay đầu tóc có giắt một bông sen.
CHÚ GIẢI: Lễ Sanh Nữ Phái mặc Ðạo
Phục y như Nữ Giáo Hữu, nhưng trên đầu thì choàng ngang một đoạn vải mỏng cột
ra sau ót, thả một mí dài một mí vắn, xuống cho tới khỏi trôn, ngay đầu tóc có
giắt một cái bông sen trơn chớ không Thiên Nhãn. (Phải sửa y phục của Lễ Sanh
như vầy chớ phần nhiều người sái về liên hoa ấy lắm).
X - TỔNG LUẬN VỀ CỬU TRÙNG ĐÀI
Kinh Di Lạc dạy:
“Tùng thị Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ Độ, tất đắc giải-thoát luân hồi, đắc-lộ Đa-La
Tam-Diệu Tam Bồ-Đề thị chi chứng quả Cực-Lạc Niết-Bàn”, nghĩa là gì ?
Thử nghiên cứu qua hệ thống Cửu
Trùng Đài sẽ rõ “Pháp-điều Tam-Kỳ Phổ Độ” quan trọng đến thế nào ?
A - Kinh nói:
“Thời thừa Lục Long du hành bất tức”
là gì ?
Đạo Dịch lấy CÀN-KHÔN là cha mẹ
sanh sáu con nên nói “Thời thừa lục Long dĩ ngự Thiên”. Kinh Ngọc Hoàng thì “Thời thừa lục Long du hành bất tức”時乘六龍遊行不息 Cả hai cùng một nghĩa là Đức Thượng Đế ngự trên sáu Rồng vận
hành khắp bầu trời không bao giờ ngừng nghỉ. .
Tìm hiểu sự vận hành của 6 Rồng
là tìm hiểu về quyền hành của Cửu Trùng Đài, tức là hệ thống hành chánh của nền
Đại Đạo, thay trời giáo hóa nhơn sanh.
Cửu-Trùng-Đài, tiếng Pháp là
Corps Exécutif; gồm có 6 phẩm tước đứng vào hàng Thánh Thể của
Chí-Tôn, nhưng có 7 (vì Chánh Phối Sư, chọn ra từ Phối-Sư) hiệp thành Hội Thánh
Cửu Trùng Đài, xem như phần thừa hành giảng viên hội các môn, các khoa do Cơ
Bút giáng dạy để thực thi con đường Thể Thiên hành-hoá. Bởi do theo Tôn chỉ Đạo,
nghĩa là xu hướng về phần giáo hóa mà thôi.
Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên các Chức sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự
giáo-hoá là chánh vai của mỗi người, như: Giáo Hữu, Giáo-Sư,
Phối-Sư, Đầu-Sư, Giáo Tông.
Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ “GÍAO” hay là chữ “ SƯ”.
Thế nên: - Giáo Tông
(1vị) là Anh Cả của nhơn sanh.
- Đầu-Sư (3 vị) là người đứng đầu của các vị Thầy,
- Phối-Sư (36 vị) là người phối-hợp với các vị Thầy,
- Giáo-sư (72 vị) là Thầy có bổn-phận giáo-hoá,
- Giáo-Hữu (3.000 vị) là người chỉ có bổn phận dạy Bạn.
- Riêng ngôi Chưởng-Pháp (3 vị) là
Chức-sắc Hiệp Thiên Đài hành quyền bên Cửu-Trùng-Đài. Bởi Cửu Trùng-Đài
vẫn là chánh-trị mà Chưởng-Pháp lại thuộc về luật lệ. Vậy thì Chưởng-pháp
là người thay mặt Hiệp Thiên-Đài nơi Cửu-Trùng Đài. Ấy là cơ Đạo cổ kim hãn hữu” (PCT).
Lời phê của Đức Hộ-Pháp: “Chưởng-Pháp
cũng là Giáo-Tông, mà còn trọng-hệ hơn, là vì Người thay mặt cho Hộ-Pháp nơi Cửu
Trùng-Đài".
Chưởng Pháp như thế đứng vào hàng
Nhơn Tiên.
Vậy thì Cửu-Trùng-Đài là
một Hội-Đồng Giáo-sư dạy-dỗ nhơn-sanh cả Đời lẫn Đạo,
chính:
- Đức Chí-Tôn là VIỆN-TRƯỞNG.
- Các giáo-khoa là Triết-lý của: Đức
Phật Thích Ca, Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Tử, Đức Chúa Jésus Christ (hay Da-Tô
giáo-chủ)
- Các phụ-tá khoa trưởng là
Tam-Trấn và hằng hà sa số chư Phật là Giáo-sư chuyên khoa.
- Đặc biệt hơn hết là Hội-Thánh
lưỡng Đài (Hiệp Thiên và Cửu-Trùng) là hình thể hữu vi của Đức Chí-Tôn, thay thế
phần hữu hình bất di bất dịch, truyền nối đến thất ức niên theo Pháp Chánh Truyển
qui định, trước qua sau tới luôn luôn đủ thành phần Hội Thánh hai Đài là Thánh
Thể của Đức Chí Tôn tại thế; không có ai là người độc nhất được gọi là Giáo Chủ
của Đạo Cao Đài cả.
Tuy nhiên, khi nào cả hai ông chủ
của hai Đài hữu hình này hiệp một tức là GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP hiệp
một sẽ là Quyền Vạn linh. Chỉ có Quyền Vạn Linh mới đối Quyền Chí
Linh của Thượng Đế mà thôi.
Do đó khi Đức Hộ Pháp cầm quyền
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng thì từ đó nhơn sanh mới gọi
Ngài là “Thầy” tức nhiên là Giáo Chủ về hữu hình. Phần thiêng liêng vẫn là quyền
hành của Đức Chí Tôn là Giáo Chủ vô vi của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Xem thế, buổi này ngòai Chí Tôn
ra, không ai là Thầy của mình và chính bản thân mỗi người cũng không làm Đệ tử
bất kỳ một ai cả, chỉ duy Đức Chí Tôn là Thầy !
Trong phần luận giải các quẻ sau
đây có hai phần:
- Một là theo lý Dịch của quẻ CÀN
mà các tiền Thánh đã giải trước đây 6.000 năm về ý nghĩa tổng quát,
- Hai, là đem áp dụng riêng
về Đạo Cao Đài phải qua sự luận giải thế nào cho thích hợp với lý Dịch.
B- 6 phẩm
Cửu Trùng Đài ứng với quẻ Kiền:
Đọc quẻ từ trên đọc xuống: trên
Càn thượng, dưới Càn hạ; gọi là Bát Thùân CÀN. Tính Hào từ dưới tính lên. Thế
nên quẻ kép có 6 Hào: Hào dương gọi là Hào Cửu. Hào âm gọi là Hào Lục: quẻ
Thùân Càn tòan là Dương.
- Hào dưới cùng là Sơ Cửu
ứng với Giáo Hữu
- Hào Nhị gọi là Cửu Nhị
ứng với Giáo Sư
- Hào Tam gọi là Cửu Tam
ứng với Phối Sư
Chánh Phối Sư đứng vào khỏan giữa của hai quẻ đơn.
- Hào Tứ gọi là Cửu Tứ ứng
với Đầu Sư
- Hào Ngũ gọi là Cửu Ngũ ứng
với Chưởng Pháp
- Hào Thượng là ThượngCửu ứng với Giáo
Tông
Thử điểm qua sự tương đồng của từng
Hào một đối với các phẩm cấp của Cửu Trùng Đài từ dưới lên trên:
1 - Sơ
Cửu:Tiềm long vật dụng 初九: 潛 龍 勿 用
Giải-nghĩa: Hào
Sơ Cửu: Rồng lặn chớ dùng. Từ đây nói về công dụng Hào từ của quẻ Càn (Kiền). Sơ là
hào vị ở dưới hết. Cửu là hào thể thuộc Dương.
Qủe Kiền là quẻ thứ nhứt, đầu
Kinh Dịch mà lại là quẻ thuần Dương. Hào này là vạch thứ nhứt của Kiền, bản thể
nó là Dương, mà ở vào vị trí cũng Dương, đặt tên bằng Sơ Cửu. Tiềm
long nghĩa là con Rồng còn nấp ngầm dưới thấp là giai-đoạn khởi đầu
cho cuộc hành-trình.
Bởi Dịch-lý gốc vô hình, nên
Thánh-nhân phải mượn một giống hữu hình để phát-minh Dịch-lý.
Long là một giống vật linh, biến-hoá
thuộc Dương, nên mượn chữ Long để tượng cái Đạo biến-hoá của Kiền.
Vì sao mà nói là Rồng lặn ? Là
“Tiềm long” ?
- Bởi vì hào này là bắt đầu vạch
ra và ở dưới hết của quẻ, tượng như Rồng nấp dưới vực sâu nên nói là rồng lặn.
Rồng mà còn ẩn sâu dưới vực tất sẽ không làm được những việc mây
mưa biến hoá; cũng như bậc Hiền nhân tại hạ, hoặc mới ra đời sức mỏng thế hèn,
chỉ nên hàm dưỡng đợi chờ cơ hội, chớ nên vội vàng mà ra gánh vác việc lớn, nên
chi Dịch bảo là chớ dùng, là “vật dụng”. Chớ dùng không có
nghĩa là không dùng, mà phải chờ cho đúng lúc mới dùng được. Bản thân của hào
Sơ cũng vậy không vội cấp tiến mà phải gặp trở ngại. Phải tự mình tu-dưỡng mà
chờ đủ điều-kiện mới dùng được một cách hữu hiệu.
B- Luận Đạo: Giáo-Hữu 教 友 là
Chức sắc Cửu Trùng-Đài, ứng hợp với hào SƠ là hào đầu của quẻ. Giáo Hữu mới bước
vào ngưỡng cửa Thánh Thể Đức Chí Tôn, đối với Địa Thánh. Đây là phẩm mà Chí-Tôn
cho mượn để lập công, nếu hành đúng như Pháp-Chánh-Truyền qui định thì cũng phù
hạp với Thiên-tước nơi cõi Thiên.
GIÁO HỮU 教 友 nghĩa chính là dạy bạn
Dịch nói Rồng ẩn đối với Giáo-hữu
là gì?
- Giáo-Hữu là phẩm đầu
tiên trong hàng Thánh Thể Đức Chí-Tôn, từ Lễ-Sanh mới thăng lên, phẩm nhỏ nhứt
trong hàng Chức-sắc Thiên phong như hào Dương non-nớt nằm ở phần dưới cùng của
quẻ Kiền. Giáo-Hữu chỉ có quyền khiêm-tốn là “dạy bạn”. Tuy
nhiên cái Dương nhỏ nhoi, non-nớt ấy mà rất nên yếu-trọng, vì dương có tính
năng động, phát tán và đi lên, thế nên:“Giáo Hữu là một phẩm vị rất trọng yếu” là
nền tảng của Thánh Thể Đức Chí-Tôn. Vì sự yếu trọng đó nên trong lúc khởi đầu,
chưa thể ra thi thố các quyền rộng rãi được. Dịch bảo “chớ
dùng”.
Pháp Chánh truyền định “Giáo-Hữu là người để phổ-thông
chơn Đạo của Thầy” nhưng Thầy buộc:
- Phải học cho lảu thông chơn Đạo
của Thầy.
- Phải có khoa-mục mới đặng.
- Phải thể Đạo cho xứng đáng
Tôn-chỉ của Đạo.
Vì sợ e còn khiếm-khuyết, chưa đầy
đủ mới “buộc”. Còn buộc tức là còn nghi ngờ, chờ sự kiểm-điểm, khảo-duợt, lừa-lọc;
lời chiếm là “vật dụng” nghĩa là chớ dùng.
Chớ dùng đây là vì vấn-đề trọng-yếu,
vì tính cách hào Sơ Cửu quẻ Kiền là Dương cương ở vào vị Dương đắc chính,
phẩm Giáo-Hữu ở vào thời “Chớ dùng” để:
- Tích-luỹ tài năng, đức độ cho
cao dày, sáng chói,
- Chờ sử dụng cho đúng với địa vị
và quyền hành,
- Chờ đúng thời-gian, vì mỗi phẩm
phải đủ 5 năm công quả mới thăng lên Giáo sư, chính thức là ông Thầy.
PCT: -“Cái phận-sự phổ-thông
là một phận sự lớn lao quí trọng. Nếu chẳng biết Tôn-chỉ của Đạo cho thông suốt,
lại đem xuống truyền-bá cho nhơn sanh những tư tưởng nghịch cùng chơn-lý của Đạo
là hại Đạo.”
-“Huống chi Thầy đã
nói: Giáo-Hữu là người thân cận của nhơn-sanh hơn hết, nếu chẳng lựa
chọn kẻ hạnh đức, tâm tu, có đủ tư cách mà bày gương Đạo cho rõ ràng, nhơn-sanh
chỉ để mắt vào đó mà khen, hay là chê Đạo”.
-“Vì sự chơn thật hay là giả dối,
nhơn-sanh chỉ coi đó mà quyết đoán: Trò phải như Thầy mà Thầy thế nào
trò phải thế nấy, nhơn-sanh xem trò mà đoán Thầy. Cái thể thống của Đạo
Thầy gọi là chơn thật, thì phải hành đạo thể nào cho ra chơn thật y như Thầy sở
định”.
-“Bậc trí-thức, muốn quan-sát một
nền Đạo nào, thì chẳng cần biết hết Chức sắc, chỉ lựa một phẩm-vị yếu trọng hơn
hết là bực Hạ-thừa, mà so sánh tư cách, hạnh đức đặng quyết đoán Tôn-chỉ
nội dung của Tôn giáo ấy”.
Tượng viết:Tiềm long vật dụng
dương tại hạ dã
象 曰 : 潛 龍 勿 用 昜 在 下 也
Lời tượng nói: Rồng lặn chớ dùng,
dương còn ở dưới.
- Vì đức Dương cương, Kiền kiện,
tuy vẫn là Long, nhưng vì địa vị và hoàn cảnh thấp kém, ở dưới hết, nghĩa là thời
còn lặn là phải lặn, tất không thể bay nhảy được, mới nói rằng “Tiềm
long” là vậy. Sở dĩ rồng lặn chớ dùng là vì điểm Dương còn ở dưới cùng của
quẻ. Về đạo-pháp: Giáo-Hữu cũng là phẩm dưới hết của Thánh-thể
Đức Chí Tôn. Dù là Thánh nhưng mới bước vào hàng Thánh.
2 - HÀO 2: Cửu
nhị: Hiện long tại điền, lỵ kiến đại nhân
九 二 : 現 龍 在 田 利 見 大 人
Giải-nghĩa: Hào Cửu nhị: Rồng hiện ở ruộng lợi thấy
người lớn. Hiện nghĩa
là thấy rõ. Điền là ruộng. Long chỉ vào bản
thân Cửu Nhị. Lỵ (lợi) là nên, là tốt. Chữ Điền có
nghĩa là ruộng, không có sự hẹp-hòi, ý như hội ngộ hay là hoan-nghinh. Đại-nhân là
người có đức độ lớn.
Lý Dịch: Hào Cửu nhị ở chính giữa quẻ Kiền nội
(quẻ Kiền dưới) là dương cương đắc trung. Vả lại dương hào ở vào dương quái, trông lên quẻ
trên có hào Cửu Ngũ là Bạn dương cương mà chính ứng với nó, thế là cương kiện đắc
trung mà lại gặp được chủ tốt, tượng như Long đã thoát nơi tiềm ẩn mà lại có cơ
hội làm mây mưa, chứng tỏ một vật Thần linh hiện ở trên mặt ruộng. Vậy nên nói
rằng Rồng hiện ở ruộng. Dịch nói “Hiện long tại điền” là thế.
Cửu nhị cương kiện đắc
trung, ấy là một bậc đại nhân. Ở đây Cửu Ngũ lại cũng được
tôn là đại nhân. Cả hai cùng chính ứng, tức là có sự “đồng” gọi
là “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Hai bậc đại-nhân đó đồng
tâm, đồng đức nhau mới có thể làm nên việc lớn trong thiên hạ. Khi nào hai bậc
đại nhân đó đã đồng và cùng xuất hiện, thời thiên hạ ai nấy cũng trông mong
vào, nên nói rằng “lợi kiến đại-nhân”.
- Nếu Cửu Ngũ là Vua, mong cho có
được tôi Hiền, thì:
- Đại-nhân Cửu-Nhị tôi trung,
mong được vua sáng “Quân minh Thần trung” ở vào trường hợp này là vậy.
Tuy nhiên, việc trong thiên hạ
không bao giờ chỉ một người mà làm nên, mà cũng không bao giờ làm việc
nên cho thiên hạ mà riêng một người hưởng.
Nhưng tại sao Thánh-nhân không
nói Rồng hiện ở mặt đất mà nói là hiện trên mặt ruộng?
- Người xưa nói Tâm điền là
nói ruộng tâm. Ruộng là nơi sản xúât lúa gạo nuôi sống dân lành. Ruộng tâm là
nơi sản xúât ra lời hay ý đẹp, đạo đức, chơn chất ngôn để làm túi khôn
cho lòai người; nhưng chữ Tâm Điền ở đây có ý nghĩa cao siêu hơn về Dịch lý
trong Bát Quái nữa.
Cửu Nhị tượng Giáo-Sư Cửu Trùng Đài:
Người tu cũng phải có một Tâm Điền.
Hãy nghe Bà Thanh-Tâm Tài-Nữ luận về chữ “Tâm điền” trong Thánh-ngôn,
ngày 23-4-1928, như sau:
“Ðạo mở rộng, giống Ðạo gieo đã
trót hai thu, mà người thiệt vì Ðạo chẳng có bao nhiêu, thế nên hồi chưa mở rộng
nền Ðạo, Ðức Phật Thích-Ca dòm vào thế cuộc mà than rằng:
“Lộ vô
nhơn hành, điền vô nhơn canh,
“Ðạo vô nhơn thức, ta hồ tận chúng-sanh”!
“Ðạo vô nhơn thức, ta hồ tận chúng-sanh”!
Sao gọi lộ vô nhơn hành? - Ðường
có người đi nhiều, mà không ai là người phải, đường đi dập-dìu thiên hạ, mà
toàn là ma hồn quỉ xác, tâm giả-dối, hạnh hung-bạo, mật chứa đầy tà khí, thế
nào gọi là người.!
Còn điền vô nhơn canh là sao? -Ruộng
đây, là tỷ với tâm, tâm không ai giồi trau. Ðạo nơi tâm, thì tâm ví như điền,
có điền mà chẳng có cày-bừa, đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột,
thì ruộng tất phải bỏ hoang; bỏ hoang thì sâu bọ rắn-rít xen vào ẩn trú; người
mà có tâm như vậy ra thế nào? Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có ra công
làm cho đất phì nhiêu, đặng cho buổi gặt hưởng nhờ mà không chịu làm, thế thì
phải diệt tận chơn-linh”.
Nhưng khi bàn Lý Dịch thì phải
bàn cho đến đích vì Dịch 易 là biến. Quẻ Kiền ☰ có ba nét Dương
có thể đặt đứng là chỉ không gian và ba nét Âm đặt nằm chỉ thời gian.
Hai quẻ Càn-Khôn phối hợp lại thành chữ Điền 田. Chữ Điền
này chính là tâm của Bát-Quái Đồ Thiên là chỉ sự biến hoá của muôn loài vạn-vật,
nên chi bậc đại nhân ở hào hai phải có được cái Tâm Điền ấy
nên nói “Rồng hiện ở ruộng” (xem tr. 91 Bát Quái Đồ Thiên)
Đây là chữ Điền trong tâm của Bát
Quái Đồ Thiên hay Bát-Quái Cao-Đài là của một nền Chánh-giáo.
Điều tiên quyết khi theo một Tôn-giáo nào thì phải biết đó có phải là một nền
Chánh-giáo không?
Đức Hộ-Pháp nói: “Chúng ta muốn quan sát
một Tôn-giáo nào được gọi là Chánh-giáo, thì Tôn giáo đó phải đủ yếu điểm
tạo nên người Chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của Ðạo ấy, đủ hạnh
kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho vững trên con
đường Hằng sống mới xứng đáng là Chủ của Ðại gia đình Càn-Khôn Võ-trụ.
Giáo-sư 教 師 ứng với
hào Cửu Nhị (Giáo là
dạy, Sư là thầy) là ông Thầy có quyền dạy-dỗ nhơn sanh do
Đức Chí Tôn uỷ thác. Bởi là một Chức-sắc Thiên phong đã qua cấp
Giáo-hữu khác nào như rồng được lên mặt ruộng. Người phải ra Suất-sư 帥 師 tức
là giáo-hoá là chánh vai trò, là hành đạo địa phương, nhưng cũng có thể ra ngoại-quốc
nữa. Chức sắc hiểu rõ cái nhiệm-vụ “Suất sư” thì việc đi hành-đạo mới hoàn-toàn
được.
Suất 帥 là thống-lĩnh, còn đọc
là Suý hay soái là tướng lãnh, đứng đầu hết. Sư 師 là Thầy dạy, nhưng
ông Thầy dạy Đạo cũng là quan Đạo phải là người gương mẫu, vừa dạy đạo-đức,
giáo-lý, giáo pháp của nền Tôn-giáo mà cũng vừa là mẫu mực về lối sống Đạo nơi
chính bản thân của Chức-sắc nữa. Cho nên người xưa viết hai chữ Suất
sư 帥 師 giống
in nhau, chỉ khác ở chữ Sư có nét nhứt ở phần bên phải của chữ, còn chữ Suất
thì không có, tức là bảo “Tri hành hiệp nhứt” mà nét nhứt bên
chữ Sư là cái tâm mật pháp, mật truyền của người Thầy dạy Đạo.
“Những Chức-sắc Thiên-phong phải
ra Suất Sư 帥 師 tức
là giáo-hoá là chánh vai trò, gọi là hành đạo địa phương, nhưng cũng có thể ra
ngoại-quốc nữa. Chức sắc hiểu rõ cái nhiệm-vụ “Suất sư” thì việc đi hành-đạo mới
hoàn-toàn được”.
Hỏi: Chức-Sắc ở Tòa-Thánh 3, 4 năm
mới bổ đi hành đạo một năm, kế được Hội Nhơn-Sanh thì mới hành quyền ít quá rồi
phải định sao?
LỜI-PHÊ của ĐỨC HỘ-PHÁP: “Chỉ kể
từ ngày Suất sư khỏi Tòa-Thánh bao lâu đặng định công-nghiệp mà thôi.”
Hỏi: Chức-Sắc từ trước giờ ở Tòa-Thánh
mới được bổ đi cầm quyền sau khi Hội Nhơn-Sanh công nhận được kể vào hàng Chức-Sắc
có hành quyền đặng công nhận không ?
LỜI-PHÊ
của ĐỨC HỘ-PHÁP: “Kể từ ngày bổ đi hành đạo tha-phương là đáng kể công-nghiệp.
Nếu đủ tài, đủ đức, đủ công nghiệp phi thường và đủ lệ 5 năm là cho thăng vị đặng,
song để vào hàng Chức-Sắc mới Suất-sư khỏi Tòa-Thánh mà thôi.”
Giáo-sư bấy giờ lo hoằng dương
chánh-pháp, như Rồng đã lên trên mặt ruộng thì mặc tình làm mây mưa biến hoá, tẩm
tưới ruộng đồng, làm cho mặt đất nở hoa, người người no ấm, nhà nhà yên vui.
Nhưng cái tự do đó phải trong chương trình của đạo-pháp mà Pháp-Chánh-Truyền đã
qui định, làm sao cho trên thuận lòng Trời, dưới hiệp được lòng của sanh chúng.
Làm một Tín đồ của một tôn giáo đã là khó,
mà làm một Chức Sắc Thiên phong càng thêm khó, vì đây là lãnh trách nhiệm với
Trời. Trời chưa từng dối ai, thì người Chức sắc phải học theo tánh trời “Tri
Hành hiệp nhứt”.
Câu“Phụ từ tử hiếu, Quân minh Thần trung” là sao?
Cha có hiền từ mới dạy con câu hiếu đạo; người con hiếu đạo phải học theo tánh
từ hòa của người cha. Vua có minh thì tôi thần mới trọn trung, hết lòng vì vua
giúp nứơc. Cho nên câu “Trung thần bất sự nhị quân” là tôi ngay không thờ hai
chúa vẫn đúng ngàn đời nếu biết áp dụng một cách sáng suốt. Nếu ngược lại vua
là một hôn quân vô đạo thì sao ? Một là trước sau gì dân chúng cũng phải đảo
chánh, theo như hiện tại các nước chỉ thấy biểu tình và biểu tình để đòi lập lại
cán cân công lý trong đời.
Hai là bất hợp tác để giữ sự
trung kiên trong tâm khảm con người. Nếu vẫn nhắm mắt làm liều mà gọi rằng trung
thì đó là “Ngu trung” mà thôi.
3 - HÀO 3: Cửu Tam Chung nhựt kiền
kiền, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu.
九 三 終 日 乾 乾 夕 惕 若 厲 旡 咎
Giải nghĩa: Hào Cửu Tam nói người quân-tử suốt
ngày chăm chăm chú chú, chiều hôm hằng lo lắng, nếu gắng sức thì không lỗi.
A- Lý Dịch:
Hào này ở trên hết Kiền nội, vạch
đơn, thể dương, là hào dương ở vào vị dương, nên gọi là Cửu Tam. Theo ước-lệ
sáu hào được chia ra Tam tài:
- Hào Sơ, hào Nhị ở phần dưới
là Địa.
- Hào Tam, hào Tứ ở giữa là Nhân.
- Hào Ngũ, hào Thượng ở trên cùng
là Thiên.
Theo về toàn quẻ thì ba hào quẻ
ngoài là quẻ ngoại, ba hào trong là quẻ nội.
Xét vị thế hào Tam thì rất chông
chênh. Nếu nói rằng trên, thì nó thuộc về quẻ dưới; khi nói rằng dưới thì nó lại
thuộc về hào trên, Dịch nói hào Tam ở vào cảnh
“bán thượng lạc hạ” (nửa trên nửa dưới).
Người ở vào thời của hào Tam thật
rất là khó xử, nếu bản thân mình không đủ bản lĩnh thì bị cảnh trên níu dưới trì,
e dễ rơi vào chỗ truỵ lạc.
Tuy khó xử như vậy mà tính chất Cửu
là Dương cương lại ở vào vị Tam cũng Dương cương. Nó không đứng vào hàng trung
như Nhị và Ngũ nên gọi là “Trùng cương nhi bất trung” tức là một
người quá cứng mạnh như thế mà ở vào cảnh bán thượng lạc hạ thì nguy hiểm biết
chừng nào! Sở dĩ có sự khó khăn ấy nên Thánh nhân mới để lời răn là người đạo đức, chính
nhân quân tử, suốt ngày chăm chăm, chiều hôm hằng lo-lắng,
gắng sức thì không lỗi. Nếu làm người mà đủ đạo-đức, khiêm cung, hoà-ái, hằng
ngày biết tu-chỉnh thân mình thì sẽ vượt qua tất cả không còn lo ngại gì. Lưu ý
ba chữ Lệ, vô cữu. Nghĩa là dầu có chuyện hoạ cũng đổi thành
phúc, việc dữ cũng hoá lành, không lỗi vậy.
Hào này vẫn là một hào tốt nên đặt
chữ “quân tử” là người có đạo-hạnh hoàn-toàn. Bởi hào Tam không có đức trung,
người phải làm ra đức trung. Chữ trung 中 là ở
giữa, người nên để cái tâm vào nơi ấy thành ra chữ Trung 忠 là
sự trung hậu, trung thành, thì dù ở vào hoàn cảnh nào cũng thích-ứng được.Có
Trung mới sinh ra Hiếu và Nghĩa. Ba đức tính: Trung, Hiếu, Nghĩa rất quan-trọng
trong đời. Nhất là đạo làm người và riêng người làm Đạo khá nhớ!
Điều đáng lưu-ý là toàn quẻ đều
dùng chữ “Long” cho các hào, riêng hào Cửu Tam lại tượng “Quân-tử” là có ý bảo
cho người xử vào thời này phải có thật tâm Bác-ái, Từ-bi mới thắng nỗi những trở
ngại không tránh khỏi.
Luận Đạo: PHỐI-SƯ 配 師 trong
hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn, ứng hợp với lời Dịch nên nói đến đức
độ đại nhân quân-tử, biết xử thế
của hào Cửu Tam
Pháp Chánh truyền nói quyền-hành của Phối-sư:
-“Phối-sư, mỗi phái là 12 người,
cọng chung là ba mươi sáu, trong ba mươi sáu vị ấy, có ba vị Chánh.
- “Phối sư là người lãnh quyền
của Chánh Phối Sư ban cho, đặng đồng quyền đồng thể cùng Chánh Phối Sư khi Người
giao trách-nhiệm cho mình, chẳng đặng làm điều chi không có lịnh của Chánh-Phối-sư
truyền dạy: nhứt nhứt đều phải tuân mạng lịnh của Chánh Phối-sư khi đặng sai trấn-nhậm
các nơi; mọi điều canh cải là phạm Pháp Chánh-Truyền, ắt bị giải ra
Toà Tam-giáo”.
Vậy thì bậc Phối-sư phải chăm-chú
điều gì?
Tại sao Dịch cho rằng hào Cửu Tam
ở vào cảnh “bán thượng lạc hạ” ? Phối-sư khó-khăn gì ?
Pháp-Chánh-truyền nói rõ: Phối-sư
đứng vào Tam thập lục Thánh, tức nhiên con số qui định cho phẩm này chỉ có 36 vị
mà thôi, chia ra làm ba phái; mỗi phái phải đủ số 12. Nhưng trong số 12 vị
Phối-Sư ấy phải chọn ra một người đủ tài-năng, uy tín làm Chánh
Phối-sư.
Vị Chánh-Phối-Sư này từ trong hàng phẩm Phối-sư mà ra, nhưng quyền-hành rất lớn,
liệu có được tất cả 11 người còn lại tâm phục, khẩu phục hết hay không? Nếu có
sự bất đồng chánh kiến liệu có phương hoà-giải một cách êm đẹp không? Một nhiệm-kỳ
là 5 năm dài-dẳng liệu có đủ tinh-thần kiên nhẫn, chí công, hoà-mục hay không?
Những cái trớ trêu đó là cảnh “Trên không ra trên, dưới không phải dưới” gọi là
bán thượng lạc hạ, nguy hiểm lắm vậy.
Nhất là câu răn này: “Phối-Sư”
chẳng đặng làm điều chi không có lịnh của Chánh-Phối-sư truyền dạy: nhứt
nhứt đều phải tuân mạng lịnh của Chánh-Phối-sư khi đặng sai trấn nhậm các nơi;
mọi điều canh cải làphạm Pháp Chánh Truyền, ắt bị giải ra Toà Tam-giáo”.
Chánh-Phối-sư cũng ứng với hào Cửu
Tam này, tất nhiên cũng chịu vào cảnh bán thượng lạc hạ nhưng ở vị thế cao hơn
và đơn-độc hơn.
PCT:-“Ba vị Chánh-Phối-sư đặng
phép thế quyền cho Đầu-sư, song không đặng quyền cầu phá luật lệ”.
Bởi:“Hễ trái mạng lịnh
Thiêng-liêng, sửa cải luật lệ mà hành sự, hoặc thêm, hoặc bớt, thì là
phạm phép Thiên điều, làm cho Thánh-giáo trở nên phàm giáo. Nhơn sanh là
phàm, Hội-Thánh là Thánh, nếu không Hội-Thánh phê chuẩn thì những điều chi sửa
cải bởi Chánh-Phối-Sư; nghĩa là nhơn-sanh đều là phàm cả, mà hễ phàm thì khó
mong lập vị Thánh cho đặng (Hay! Lời khen của Đức Lý).
Bởi cớ ấy nên Thầy không cho Chánh Phối sư lập Luật ấy cũng là cơ mầu-nhiệm diệt
phàm của Đạo vậy
Chánh-Phối-sư thật là khó xử vô
cùng như Dịch nói: Trên không tới Trời, dưới không tới ruộng, tức “Thượng bất
tại thiên, hạ bất tại điền” là thế. Trên không tới Trời là chỉ hào Cửu
Ngũ, dưới không tới ruộng là chỉ hào Cửu Nhị. Vị thế chông chênh ấy là hào Cửu
Tam, nên:
CG: “Ba vị Chánh-Phối-sư
phải lựa chọn cho đủ ba phái là: Thái, Thượng, Ngọc. Ba vị ấy chẳng phải làm đầu
ba mươi ba vị Phối-sư kia mà thôi, mà lại là người thay quyền
cho Đầu-sư mà hành sự, y như quyền Đầu sư vậy.
Ấy là người thay mặt cho cả Hội-Thánh
Cửu Trùng Đài và cả nhơn-sanh.
Người nắm trọn quyền hành sự nơi
tay, chỉ tùng lịnh Đầu-sư phán dạy thế nào thì phải tuân theo thế ấy; chẳng đặng
cải mạng lịnh tự mình chế biến; nhứt nhứt đợi lịnh Đầu-sư, song Đầu-sư cũng
không đặng phép giành quyền hành-sự của ba vị ấy. Hễ Đầu-sư lấn quyền hành-sự
mà không do nơi Chánh Phối-sư thì là quá quyền mình, ắt phải phạm Pháp
Chánh-Truyền”(Hay! Lời Đức Lý khen )
Tóm lại: Cái khó của phẩm
Chánh-Phối-sư là:
- Người từ trong hàng phẩm
Phối-sư mà ra.
- Khi được tuyển làm Chánh-Phối-sư
chỉ khác có chữ “Chánh” mà quyền hành quá ư rộng-rãi: là thay quyền cho Đầu-sư
mà hành sự.
- Ba vị Chánh Phối-sư phải
đầy đủ uy-tín để cho 33 vị Phối sư còn lại kính phục.Nếu không phải là bậc
thiên mạng, bậc chân tu thì cũng gặp phải sự khảo-đảo không ít.
Sở dĩ hào từ dùng chữ “quân-tử”
là có ý xác định hào ba, bốn thuộc về Nhân trong Tam tài. Phải
đạo-đức nhân-hậu mới xứng phẩm “người quân tử”. Là người quân tử không bao giờ
để cho thất nhân tâm, nghĩa là làm bậc Thầy thì gương mẫu cho trò, Cha làm gương
cho con. Vì thế mới nói là trở đi trở lại với đạo là vậy. Hơn
nữa kỳ ba Phổ-Độ này điều quan yếu hơn hết cho Hào Tam quẻ Càn:
- May duyên
cho dân Việt-Nam được Chí Tôn trao cho chiếc chìa-khoá vàng, làm chủ mối Đại-Đạo.
- Là người Việt-Nam được thấm-nhuần Đạo giáo Cao Đài trong cái thời khởi điểm:
Việt-Nam làm chủ về mặt văn-minh tinh thần của nhân-loại.
- Phối-sư và Chánh-Phối-sư là
người trên, bậc Thầy của Giáo-sư, trong hàng Thánh-Thể của Chí-Tôn thể
Thiên hành Đạo, đại diện cho tòan
cả nhơn sanh.
Về Đạo-lý thì Phối-sư ứng
với hào cửu Tam thật là một hạnh-phúc vô đối, là một bước ngoặc lớn-lao
vô cùng.
Riêng quyền-hành của Chánh
Phối sư thật trọng hệ.
PCT:-“Ngài ban quyền hành-sự trọn
vẹn cho Chánh Phối sư, lại buộc cả ba đều để sáu bàn tay vào cho đủ,
tức là buộc cả ba hiệp một mới đặng. Đầu-sư cũng vậy, mà Chưởng
Pháp cũng vậy, phải hiệp một mới phù hạp câu Thánh ngôn “Một thành ba,
mà ba cũng như một”
Tại sao mỗi phẩm có ba vị phải cho đủ sáu bàn tay?
Thứ nhứt là thể hiện cái lý Qui
Nguyên Hiệp nhứt. Vì:
- Ba vị Chánh-Phối-sư, phải
lựa cho đủ ba phái là Thái, Thượng, Ngọc.
- Ba vị Đầu-sư: “Ba chi của Đạo là Nho, Lão,
Thích; ba chi tuy khác mà quyền lực vẫn so đồng, bởi cũng theo Tân-luật. Ấy
là một thành ba mà ba cũng như một”.
- Ba vị Chưởng-Pháp “Chưởng-pháp của ba phái
là Đạo, Nho, Thích. Nghĩa là mỗi phái là một vị, mà ba Đạo vẫn khác nhau. Nội
dung, ngoại dung đều khác hẳn, luật-lệ vốn không đồng, chỉ nhờ Tân-luật làm cơ
qui nhứt, cho nên Thầy mới nói: “Pháp-luật Tam-giáo, tuy phân biệt nhau, song
trước mặt Thầy vẫn coi như một”.
Vậy: mỗi phẩm có ba vị, mà
ba phẩm có đến 9 vị. Đó là họp thành con số 9 là hình trạng Cửu Trùng-Đài.
Ví như: quẻ Càn có ba nét ☰ đó là một mà thành
ba, mà ba nét làm thành quẻ Càn, tuy ba mà một.
-
Kế nữa mỗi phái có ba vị, mỗi vị có hai bàn tay thành sáu bàn tay, mà
ba phẩm như vậy tất cả là 18 (6x3). Số 18 suy ra là 1+8=9
Số 9 là chỉ về Cửu-Thiên khai
hoá, nhờ nương theo quyền lực này các vị mới đoạt Cửu-phẩm Thần Tiên mà về cảnh
Thiêng-liêng hằng sống, hòan thành hai con số: 99
“Cửu Cửu Càn
Khôn dĩ định,
“Thanh Minh thời
tiết hoa tàn”
6 và 9 có một giá trị lớn trong
buổi Đại Đạo này:
Hình ảnh của LONG MÃ PHỤ HÀ ĐỒ
với hình trạng chạy từ Đông sang Tây là tạo thành Thế Đạo, nghĩa là tạo nên một
nền văn minh vật chất cực kỳ cho nhân loại. Rồi cũng chính Long Mã ấy ngó ngoáy
về Đông, là quay về nguồn, về với quê hương tinh thần, là phản bổn huờn nguyên,
thành hình bước kế là Thiên Đạo thật vẹn tòan..
4 - Cửu Tứ:
Hoặc dược tại uyên, vô cữu.
九 四 或 躍 在 淵 旡 咎
Giải-nghĩa: Hào Cửu Tứ: Rồng
nhảy trong vực, không lỗi.
Lý Dịch: Hào Cửu Tứ ở thể dương lại là vị Âm. Trong sáu hào thì Cửu
Tứ là hào thứ tư, thuộc về số chẵn, Âm, bản thân là hào dương nên gọi là Cửu Tứ.
Dương hào mà ở Âm-vị, có hiềm nghi vì bất chánh. Kể về toàn quẻ thời Cửu Tứ
ở vào quẻ trên. Thế là xử vào vị thế bất trung.
Trông lên thời nó
không được như Ngũ, nhìn xuống thì nó không được như Nhị. Thế là bản thân Cửu Tứ
đã bất trung lại bất chánh, nhưng ở vào quẻ Càn tính nó cương kiện, vẫn cũng là
bậc quân-tử, hòan cảnh như vậy nên muốn tiến cũng khó, muốn lui không dễ. Thế
nên gặp lúc tiến thì cứ tiến, khi phải thoái thì nên thoái, tức là tuỳ thời mà
tiến thoái. Tượng như Long dược tức Rồng nhảy. Long đã “dược”chẳng mấy lúc cũng
đến “phi” thôi. Người xử vào thời này biết tuỳ thời thì không lỗi. Dịch nói “Vô
cữu”.
Hào Tứ giống như
Tam: là ở vào cảnh bán thượng lạc hạ, nhưng Tứ được thế hơn Tam, là đã lên quẻ
trên, nên có hướng tiến thủ được, chứ không như Tam dẫu muốn tiến mà không tiến
dễ dàng. Thánh-nhân dùng chữ “hoặc” nghĩa là không nhất thiết phải khó-khăn như
Cửu Tam.
Luận Đạo: Đây là
bước tiến mới trong Đạo pháp, hào này ứng với phẩm Đầu-sư của
Cửu Trùng-Đài, là đã lên hàng Tiên vị, nhưng còn dưới Giáo Tông và Hộ
Pháp.
Tất cả được pháp
Chánh Truyền qui định:.
- “Ba chi tuy khác, chớ quyền
lực như nhau.
- “Như luật-lệ nào Giáo-Tông
đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật-lệ ấy phải trả lại
cho Giáo Tông, Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng pháp xét nét lại nữa. Chúng nó
có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy
chi chi phải có ấn mới
thi-hành, nghe à!
Đầu-sư đứng vào Địa Tiên nhưng không tự chuyên bất cứ việc gì, tất cả mọi việc
đều phải do nơi Giáo-Tông.
PCT: “Đầu-sư
có quyền cai-trị phần Đạo và phần Đời của chư Môn-đệ “Chí Tôn”.
CG: “Đây
Thầy dùng chữ “phần Đạo” và “phần Đời” đặng định quyền-hành của Đầu-sư, thì
là Đầu sư có trọn quyền về phần chánh-trị của Cửu Trùng Đài và phần luật
lệ của Hiệp-Thiên-Đài
PCT: “Nó đặng
quyền lập Luật, song phải dâng lên cho Giáo-Tông phê chuẩn.”
PCT: “Luật-lệ
ấy lại phải xem xét một cách nghiêm nhặc, coi phải hữu ích chi cho nhơn
sanh chăng?
Lại nữa:
Trước khi Ðầu Sư lãnh quyền chấp chánh buộc người phải lập minh thệ nơi Tòa
Thánh, hằng giữ dạ vô tư hành đạo, y như Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đã lập thệ.
QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi Minh thệ rồi, Ðầu Sư đặng cầm quyền
luôn cả về Chánh Trị cùng Luật Lệ. Nhờ quyền lớn lao này; Ðầu Sư sẽ có đủ thệ lực
mà ngăn ngừa tà quyền hại Ðạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư
không đủ sức chống ngăn, thì Ðầu Sư đặng dùng Quyền Thống nhứt ấy mà điều khiển
Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải phục mạng, dầu cho
Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy.
Giáo Tông và Hộ
Pháp hiệp Một là quyền Chí Tôn tại thế, các Ngài hiệp lại chỉ định ba vị làm
Quyền Đầu Sư:
- Thái Chánh Phối
Sư Thái Thơ Thanh hành quyền Thái Đầu Sư,
- Thượng Chánh Phối
Sư Thượng Tương Thanh hành quyền Thượng Đầu Sư,
- Ngọc Chánh Phối
Sư Ngọc Trang Thanh hành quyền Ngọc Đầu Sư.
5 - Cửu Ngũ: Phi
long tại Thiên lợi kiến đại nhân.
九 五 飛 龍 在 天 利 見 大 人
Giải-nghĩa: Hào Cửu Ngũ: Rồng bay trên trời,
lợi thấy người lớn.
Lý Dịch: Cửu là hào
Dương, Ngũ là vị Dương, dương hào ở dương vị là đắc chánh.
Hào Cửu Ngũ: hào
dương ở ngôi dương cao quí nhất, tượng Rồng bay trên trời, như “Long vân gặp hội”
tung hoành bốn cõi. Đây, Thánh-nhân muốn tượng hình cái đạo đức Thiêng-liêng
như Rồng bay trên trời.
Ngũ ở chính
giữa ngoại quái là đắc trung, hễ đắc trung là đắc chính; ở
vào quẻ Kiền là có tánh cách cương kiện. Vừa cương kiện lại vừa trung
chính là đức tính của Thánh-nhân, mà ở vào vị Ngũ là địa-vị Chí-Tôn ở trong quẻ,
ấy là Thánh-đức ở thiên vị, như Rồng bay giữa trời, hào tốt nhất trong sáu hào:
nói rằng “Phi long tại thiên”.
Thánh-nhân ở vị trên phải có Thánh nhân ở vị dưới trợ lực cho nhau, tức
hào Nhị ứng với hào Ngũ là như thế.
Nhưng nếu Rồng cứ bay bổng trên trời, hay cái đạo đức cứ mạnh tiến ở trên thì
không ích lợi cho ai.
Luận Đạo: Đây là ngôi Chưởng-Pháp ứng vào hào Cửu Ngũ là
ngôi tôn quí nhất trong quẻ Kiền. Phẩm này là đối phẩm với Nhơn Tiên ở hàng
Tiên-vị.
-“CHƯỞNG-PHÁP cuả ba
phái là Ðạo, Nho, Thích.
-“Pháp luật Tam-Giáo tuy
phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vốn coi như một. Vậy một thành ba, ba cũng
như một.
- “Buộc cả Tín-đồ phải
vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời. Thầy khuyên các con phải xúm nhau vùa
giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng”.
- “Ba ấn phải có trên mỗi luật
mới đặng thi hành.
Ấy vậy, hai phẩm
này phái nữ không dự vào, nghĩa là Thầy trúât quyền của Nữ phái không được lên
Giáo Tông và Chưởng Pháp; tức là không để Âm thắng Dương. Âm thạnh tắc suy. Các
nước trên thế giới ngày nay không hiểu qui luật này nên lắm khi các Nữ Tổng Thống
làm đầu khiến cho đất nước chịu nhiều ly lọan mà thôi.
6 - Thượng Cửu:
Kháng long hữu hối.
上 九 : 亢 龍 有 悔
Giải-nghĩa: Thượng Cửu nói Rồng
bay quá có ăn năn.
-Lý Dịch: Hào này Dương, ở
trên hết quẻ, gọi tên nó bằng Thượng Cửu vẫn có đức cương kiện,
là quân-tử, tượng là Long, nhưng địa-vị hào này ở cuối cùng quẻ Càn, là cao đến
tột bực. Thế là chỉ sự cao quá mức thì việc sắp hoàn thành, gọi là “Thượng
chi cực, sự chi chung”.
Bậc quân-tử xử vào địa-vị hào này tất phải răn đường danh vị, giữ lối khiêm-nhường
mới tránh khỏi hoạ, tức nhiên cứng quá thì gãy,
gọi là “thái cương tắc chiết”.
Nếu không thế, đầy quá mà chẳng biết dè, tiến hoài mà chẳng biết thoái, ấy là
kháng Long. Kháng 亢 là cao tột,
khó lui được: đầy ắt tràn, phải ăn-năn, gọi là “hữu hối”.
Long ở
Thượng Cửu cũng là Long như các hào kia, hào này răn ngừa là có lỗi, chẳng phải
lỗi tại chữ Long mà chữ “kháng”. Vì Thượng Cửu đến lúc thái-quá, nếu không biết
biến thông tất có hoạ hại. Thánh-nhân dạy về xử thế.
Luận Đạo: Trong cửa Đại-Đạo,
hào Thượng Cửu chỉ vào quyền-hành của Giáo-Tông.
PCT: “Giáo-Tông là
Anh Cả các con”.
CG: Giáo-Tông
thay mặt cho Thầy đặng bảo tồn chơn Đạo của Thầy tại thế, thì Anh Cả nhơn-sanh
đặng dìu-dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền
Thiêng-liêng đã định vậy. Tuy trong Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu hình là
“Cửu Trùng-đài”và“Hiệp Thiên đài”, mà nơi Hiệp Thiên đài, dầu cho Hộ-Pháp cũng
phải là Em của Giáo-Tông, song Hộ-Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên
đây chớ phần Thiêngliêng thì đồng vị.
Tại Thảo xá Hiền
cung ngày 23-12-1931 , Đức Chí-Tôn ban
quyền CHÍ TÔN tại thế cho hai ông: Thầy giáng dạy:
“Các con nghe lời Thầy dặn cần yếu này mà nhớ rằng: Toàn thế giới Càn
khôn chỉnh có hai quyền:
- Trên là quyền
Chí-Tôn của Thầy,
- Dưới là quyền-hành
của chúng sanh.
Thầy đã lập hình thể hữu vi của
Thầy nghĩa là Hội Thánh của Đại Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban
quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng-sanh,
còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh chúng dưới quyền hành chuyển thế của
Đời, nghĩa là toàn nhơn-loại đều đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hoá vạn linh vốn
là con cái của Thầy, vậy thì Vạn linh cũng có thể đoạt vị vào hàng Thần, Thánh,
Tiên,Phật đặng
Trong quyền-hành ấy có nhiều đẳng cấp nên khỏi phải chịu phẩm người, ấy vậy
Người là chủ quyền của Vạn-linh. Thầy nói rõ: Quyền Chí-Tôn là Thầy,
quyền Vạn-linh là sanh chúng. Ngày nào quyền-lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng Vạn
linh thì Đạo mới ra thiệt tướng.
Thầy đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông
và Hộ Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông
cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn loại thì là QUYỀN VẠN LINH, quyền-hành
Chí-Tôn của Thầy duy có quyền-hành Vạn-linh đối phó thôi.”
Đức Chí Tôn
mở Đạo đã phân đôi quyền hành cho Giáo
Tông và Hộ Pháp, là không còn
“kháng Long hữu hối”nữa
Dụng Cửu:
Kiến quần Long vô thủ. Cát
用 九 見 群 龍 旡 首 吉
Giải-nghĩa: Dùng số 9 Thấy đàn Rồng không đầu, tốt.
-Lý Dịch: Dụng Cửu có nghĩa là hễ là hào
dương thì gọi là “Cửu” nên nói là “dụng Cửu”là biết cách sử dụng số
9. Dụng Cửu vẫn không phải là một hào, nhưng phần này để làm
rõ nghĩa cho người tìm về Dịch không có sự bỡ ngỡ.
Theo nguyên-tắc: trọng-yếu nhất là sự biến dịch. Bởi có biến mới có thông.
Trong phép xem quẻ luôn có biến thông, do chỗ hễ động là biến: hào Âm biến
thành hào Dương, hào Dương biến thành hào Âm.
“Kiến quần
long vô thủ” là nghĩa làm sao?
- Long là
dương hào, quần Long là sáu hào dương, “vô thủ” là không đầu. Cả một đàn
rồng đều không đầu tức nhiên là Dương tượng Long, mà Long sở dĩ hoạt động khác
thường là nhờ vào cái đầu, nhưng khi biến là có sự đổi thay.
Nhờ vào sự đổi thay để tiến hoá. Ví như: hào Sơ: Tiềm long, là thời kỳ mới-mẻ,
phải tạo đức để tiến lên Nhị là Hiện long, qua hào Tứ là “Dược” tức nhiên “nhảy”
rồi, lên nữa là “phi” là bay cao. Chính thời bay cao cũng phải biết định hướng
mới khỏi lầm lạc.
Vạn-vật vốn dĩ được trường tồn và
tăng tiến hơn lên trong trường tấn-hoá là nhờ có được cái linh. Ở người gọi đó
là linh tâm hay lương-tâm, tức là tìm về “đầu rồng” vậy.
- Luận Đạo: sáu phẩm tước của Cửu Trùng Đài ứng
với 6 hào của quẻ Càn tượng Rồng, nói rằng đàn Rồng không đầu.
Lý-do dễ thấy nhứt là các phẩm này không một phẩm nào có tính cách độc lập cả,
mà phẩm này lại phụ thuộc vào phẩm kia theo một hệ-thống hàng dọc hoặc hệ-thống
hàng ngang, giống như đàn rồng không đầu vậy. Ví như:
-“Giáo-hữu phải tùng quyền Giáo-sư”
-“Giáo-sư buộc phải tùng quyền Phối-sư.
-“Phối sư tùng quyền Chánh-Phối-sư.
-“Chánh-Phối sư tùng quyền Đầu-sư
dạy thế nào thì phải tuân theo thế ấy.
-“Đầu-sư chỉ có tuân mạng lịnh của
Giáo Tông mà thôi”.
- Cửu-Trùng-Đài vẫn là chánh trị, mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật
lệ, vậy thì Chưởng-pháp là người thay mặt Hiệp-Thiên-Đài nơi Cửu-trùng-đài.
- Quyền Giáo-Tông nay lại chia đôi ra, không cho một người nhứt
thống: tức nhiên:
- Cửu Trùng-đài dưới
quyền Giáo Tông Chưởng quản
- Hiệp-Thiên-đài dưới quyền Hộ-Pháp Chưởng-quản.
Chung qui tất cả đều chịu dưới luật Thiên điều của Đức Chí-Tôn là Bát
Quái Đài. Luật Thiên-điều ấy về mặt hữu hình hữu thể là TÂN-LUẬT đó vậy.
Lập Pháp-Chánh-truyền đã tỏ đủ
quyền-hành của Chức-sắc Thiên-phong, thế nên Cửu vị nó phù hạp với Cửu phẩm làm
sao!”
C- BA THỜI KỲ PHỔ ĐỘ
Theo giáo lý Cao Đài thì từ thời
tạo thiên lập địa tới nay có 3 lần Thượng Đế phân thân giáng trần lập Đạo:
1- Nhứt kỳ Phổ Độ:
2- Nhị kỳ Phổ Độ:
- Đức Phật Thích Ca giáng
sinh ở Ấn Độ, chấn hưng Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Độ, mở ra Thích
giáo với một giáo lý rất phong phú, thiết thực để giải khổ nhân sinh.
- Đức
Thái Thượng Đạo Tổ giáng sinh ở Trung Hoa là Lão Tử,
mở ra Lão giáo hay Đạo giáo để
chấn hưng Tiên giáo.
3-Tam Kỳ Phổ Độ:
Thời kỳ này Đức
Chí-Tôn không giao Chánh giáo cho tay phàm nữa mà chính mình Thầy giáng trần lập
Đạo bằng Huyền Cơ Diệu Bút.
Trong thời kỳ này
có Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Tam Giáo mà lo cơ Phổ Độ kỳ
ba:
- Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (thay quyền
Phật giáo) là Nhị Trấn Oai nghiêm.
- Đức Lý Thái Bạch (thay quyền
Tiên giáo) Nhứt Trấn Oai nghiêm kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Đức Quan Thánh Đế Quân (thay Nho
giáo) Đệ Tam trấn.
D- HÌNH THỂ ĐẠO CAO ĐÀI
Về hình thể của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây
Ninh có 3 Đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài:
- Bát Quái Đài: Thể
hiện Linh Hồn, thuộc THẦN, là quẻ CÀN ☰ thùân Dương,
vì là nơi ngự của Đức Chí Tôn
- Hiệp Thiên Đài: Thể hiện
Chơn Thần, thuộc KHÍ, quẻ Ly ☲ do tuổi của Tam Đầu
chế Hiệp Thiên Đài họp lại.
- Cửu Trùng Đài: Thể hiện xác
thân, thuộc TINH, là quẻ Khảm ☵ do tuổi của Tam Đầu
chế Cửu Trùng Đài, lấy ý nghĩa của ba chữ: NHỰT- NGUYỆT- TINH hiệp lại.
I - Bát Quái Đài:
Bát-Quái-Đài là ngôi thờ
phượng Đức Chí Tôn Ngọc Hòang Thượng Đế cùng các Đấng Giáo-Chủ Tam Giáo, các Đấng
Thiêng Liêng trong Ngũ Chi Đại-Đạo; nay Ngài tá danh là “Cao-Đài Tiên Ông
Đại-Bồ-Tát Ma-Ha Tát Giáo Đạo Nam-phương”
Bát-Quái-Đài dưới
quyền chủ tể của Đức Chí-Tôn, là Chủ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn-linh, Tại
Bát Quái Đài đã chánh thức trình diện BÁT QÚAI ĐỒ THIÊN hay gọi là Bát Quái
Cao-Đài.
Đây là dấu ấn của
Tam Kỳ Phổ Độ đối chứng với:
- Bát Quái Tiên
Thiên (Nhứt Kỳ Phổ Độ)
- Bát Quái Hậu
Thiên (Nhị Kỳ Phổ Độ).
-Bát Quái Cao Đài
(Tam Kỳ Phổ độ) là hồn của Đạo ngày nay Đức Chí Tôn vi chủ.
Bát-Quái-Đài là
nơi phát xúât giáo pháp của Đại Đạo; là cơ quan lập Pháp của Đạo.
Pháp Chánh Truyền phát xuất từ nơi đây (phần vô vi).
2 - Hiệp Thiên
Đài:
Đức CHÍ TÔN là Đấng
tối cao, sản sanh ra muôn lòai, song ngài đã nói rằng “Thầy là các con, các con
là Thầy” ý nghĩa nói rằng: quyền Vạn linh bằng với quyền của Chí Linh. Ý muốn của
Vạn linh (Créatures) tức là ý muốn của Chí linh ( Créateur): Ý muốn của “con
cái” tức
là ý muốn của “Cha
lành” đó vậy. Vì thế mới có lập Quyền Vạn linh (tức
ba Hội lập Quyền: Hội Nhơn sanh, Hội Thánh, Thượng hội) để Vạn linh tự Lập Luật
lấy, đặng tự kềm chế mình trong con đường tu, hầu qui hồi cựu vị, hội hiệp cùng
Thầy.
Hiệp-Thiên-Đài là cơ
quan Lập Pháp (hữu hình) và Tư pháp của Đạo, là nơi để
thông công cùng Đức Thượng Đế và các Đấng Thiêng liêng bằng CƠ BÚT do Chức sắc
Hiệp-Thiên-Đài phò loan tiếp các Thánh ngôn và Luật Pháp Đại-Đạo của các Đấng
Thiêng Liêng giảng dạy (trung gian giữa Trời và Người)
3 - Cửu Trùng Đài:
Cửu-Trùng-Đài
là cơ quan Hành Pháp của Đạo. Cửu-Trùng-Đài do Đức Giáo-Tông làm chủ Hội
Thánh. Ba ông chủ ấy, có hai ông này: Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài nếu riêng
ra thì không có thế gì dâng sớ cho Bát Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi
Bát Quái Đài.
Hai Đài: Cửu-Trùng và Hiệp-Thiên hiệp nhứt là quyền Chí Tôn tại thế này, không
có một quyền cai-quản nào cải qua quyền Bát-Quái được. Hội Thánh Cửu Trùng
Đài gồm chức sắc Thiên phong tuân theo các phẩm trật
.
Cửu Trùng Đài là
phần xác của Đạo, có hai phần: vô vi (do Thiêng liêng nắm) và hữu hình (do Tín
đồ công cử hoặc Đức Chí Tôn ban thưởng). Về phần hữu hình, Cửu Trùng Đài có hai
nhiệm vụ Hành pháp và Lập pháp, là Chánh trị của Đạo (giáo hóa).
Cửu Trùng Đài phân
theo Nam , Nữ (theo giới
tính)
Cửu-Trùng-Đài thể
hiện cơ vô-vi Tinh- Khí- Thần: Ngọc là TINH, Thượng là KHÍ, Thái là THẦN. Nếu cả
ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng mà chớ!
Từ phẩm Chánh-Phối-Sư trở xuống thuộc về Thế là Đời, từ Đầu-sư trở lên thuộc về
Thánh nghĩa là Đạo.
Bên Hiệp-Thiên-Đài
cũng có đời và Đạo; mà Bát Quái-Đài cũng phải vậy, tức là trong Đạo có Đời mà
trong Đời cũng có Đạo. Nghĩa là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Con số 3
đã đứng vào vị-thế tối ư quan trọng trong TÂN LUẬT này.
Cửu Viện:
Cửu Trùng Đài có 9
viện nghiên cứu là: Học Viện, Y Viện, Nông Viện, Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện,
Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.
- Phái Thái trách nhiệm
ba viện: Hộ, Lương, Công.
- Phái Thượng trách nhiệm
ba viện: Học, Y, Nông.
- Phái Ngọc trách nhiệm
ba viện: Hòa, Lại, Lễ .
Công cử Chức Sắc Cửu
Trùng Đài: khởi đầu
từ Lễ Sanh (chọn trong hàng Tín đồ: người có đạo hạnh tốt). Chức Sắc Cửu Trùng
Đài mỗi khi cầu phong hay cầu thăng đều phải qua ba giai đoạn:
- Quyền Vạn Linh
chấp nhận. (Từ
Chưởng Pháp xuống đến Hội Nhơn Sanh).
- Quyền Chí Tôn tại thế (Giáo Tông và
Hộ Pháp) chấp nhận.
- Cơ bút nhìn nhận
tại Cung Đạo: Sau, Hội Thánh Cao Đài có mở thêm một số các cơ quan
khác: Nhân sự từ Đầu Phòng Văn, Lễ Sĩ, Giáo Nhi…là những người phục vụ theo
chuyên môn và đủ thời gian qui định, được cầu phong vào Lễ Sanh. Đặc biệt là Hiền
Tài, Ban Thế Đạo nếu có công nghiệp hành Đạo được cầu thăng qua Giáo Hữu).
Hội Thánh hữu hình
gồm 4:
1- Hội Thánh Hiệp Thiên Đài: từ
Truyền Trạng trở lên.
2- Hội Thánh Cửu Trùng Đài: từ
bậc Giáo Hữu trở lên.
3-Hội Thánh Phước Thiện: từ bậc
Chí Thiện trở lên
4-Hội Thánh Hàm Phong: Chức sắc
thuộc các Hội Thánh trên, đến tuổi 60 về hưu sẽ vào Hội Thánh Hàm Phong.
Dù không trực tiếp
tham gia Hành chánh Đạo, nhưng nếu có thể đóng góp trong quá trình an dưỡng và
có công trạng đặc biệt vẫn sẽ được xét để thăng phẩm vị.
Chức Sắc Hiệp
Thiên và Cửu Trùng hợp lại là Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Hội Thánh Cao
Đài.
Về Hành chánh:
- Hội Thánh Cao
Đài gồm các bậc phẩm từ Giáo Hữu (của Cửu Trùng Đài) đổ lên.
- (Các bậc phẩm ở
Hiệp Thiên Đài “hay các cơ quan khác” thì đối phẩm tương đương với phẩm Giáo Hữu).
- Từ Phối Sư trở
lên hành Đạo ở tại Tòa Thánh.
- Từ Lễ Sanh đến
Giáo Sư hành đạo ở địa phương. (Tộc đạo, Châu đạo, Trấn đạo).
Hội Thánh ở
trung ương được gọi là Hội Thánh Anh.
Bàn Trị Sự tại Hương Đạo
gọi là Hội Thánh Em, gồm 3 vị: Chánh, Phó và Thông Sự. Đạo Luật qui định: dù là
một phẩm nhỏ nhất (Phó Trị Sự hoặc Thông Sự) nơi ấp Đạo cũng phải trường trai
và phải từ bỏ quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhậm Đạo.
Đạo Luật Mậu Dần (1938) bố
trí bốn cơ quan trong Hành Chánh Đạo (4 cơ quan trong chánh trị đạo).
1-Hành Chánh: là cơ quan để
thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê
chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường Đạo Đức
Thống quản cả các
hoạt động của nền Chánh trị đạo. (Chương hành chánh có 17 điều).
2-Phước Thiện: là cơ quan bảo
tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ
cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, (Phước Thiện lấy điều
10&11 của Hành Chánh tạo thành).
3-Phổ tế: là cơ quan
để cứu vớt những người lạc
bước thối tâm, cùng an ủi những
kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự (điều 14 của Hành
Chánh).
4-Tòa Đạo: là cơ quan bảo
thủ Chơn Truyền, gìn Luật Pháp, chăm
nom chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu thi hành phận sự (điều 15 của chương
Hành Chánh).
Tùy theo phân cấp
hành chánh mà bố trí nhân sự và tổ chức các cơ quan.
Phân cấp hành
chánh:
Đạo Cao Đài có
Trung ương và địa phương:
- Cấp trung ương đặt
tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Hội Thánh Cao Đài
có các cơ quan như: Cửu Viện, Phước Thiện, Phổ Tế, Bộ Pháp Chánh, Hàn Lâm Viện,
Ban Thế Đạo, Đại Đạo Thanh Niên Hội….
Tổ chức Hành Chánh
Đạo tại Châu Thành Thánh Địa (trung ương) với 1 vị Giáo Sư là Khâm Thành.
Trong Châu Thành
Thánh Địa có các Phận Đạo. Đầu Phận Đạo là Lễ Sanh. Phận Đạo có nhiều Hương Đạo.
- Cấp địa phương:
-Trấn Đạo: gồm nhiều Châu Đạo
(Giáo Sư: Khâm Trấn).
-Châu Đạo: gồm nhiều Tộc Đạo
(Giáo Hữu: Khâm Châu)
-Tộc Đạo: gồm nhiều Hương Đạo(Lễ
Sanh: Đầu Tộc Đạo)
-Hương Đạo: nhiều ấp Đạo (Chánh
Trị Sự: Đầu Hương)
- Ấp Đạo: có Phó Trị Sự và Thông
Sự đứng đầu.
Những tính chất khác:
Khi xưng hô với nhau, Tín đồ Cao
Đài sử dụng các từ “Huynh”, “Đệ”, Tỷ”, “Muội” (xem như là anh chị em một nhà),
tuỳ theo Thiên chức (Giáo phẩm), tuổi tác, giới tính. Khi kính cẩn, họ còn thêm
“Hiền” phía trước những đại từ nhân xưng trên (“Hiền huynh”, “Hiền Tỷ”...).
Một cơ sở Tôn giáo Cao Đài được gọi
là “Thánh Thất” hoặc Mỗi cơ sở có chương trình truyền bá Giáo lý.
Một Tín đồ Cao Đài nếu tham gia
các hoạt động của
Đạo sẽ được giữ chức vụ tương ứng
như Thủ quỹ, Thư ký. ... Nếu tình nguyện lo cho Đạo thì sẽ vào hàng Chức việc
hay Chức sắc, sẽ được cử vào Chánh, Phó Trị Sự, Lễ Sanh.
Đạo Cao Đài có được sự bình đẳng
bình quyền giữa Nam và Nữ về các chức phẩm trong Tôn giáo đến xã hộ.
Về Tôn giáo, Nữ: giới hạn
hai ngôi Chưởng Pháp, Giáo Tông. Đây là lệnh của Đức Thượng Đế, vì trên nguyên
lý: Nam tượng Dương, Nữ tượng Âm. Nếu Âm thịnh thì Dương suy, nền Đạo sẽ đi vào
sự hủy diệt.
Giải câu trong Thánh
Ngôn Hiệp tuyển:
….Vì vậy,
Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông, nghĩa
là Anh Cả ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy
còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Còn cả
Môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng, nhược kẻ nào phạm tội thì
Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn” (TNHT: 24-4-1926)
Câu ấy có ý nghĩa gì?
Hình vẽ cho thấy rõ: hàng Tiên vị
có 3 phẩm: Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư, đặt trên tam giác có đỉnh quay lên,
tượng Chí linh, đồng thời hàng Thánh vị có ba phẩm: Phối Sư, Giáo Sư,
Giáo Hữu tượng Vạn linh, tam giác đỉnh quay xuống, cho thấy ngôi Giáo Tông và
Giáo Hữu cùng nằm trên trục đứng cũng là xuyên tâm đối.
Hoặc vẽ theo cách khác: Giáo Tông là tâm của sao
sáu cánh:3 phẩm Chưởng pháp là cơ
quan Hiệp Thiên Đài thuộc Dương, đỉnh quay lên tượng Chí linh; ba
phẩm Đầu Sư thuộc Cửu Trùng Đài, thuộc Âm, đỉnh tam giác quay phía dưới, tượng Vạn
linh; nhưng phái Thượng vẫn đặt ở đỉnh của Tam giác, vì nó được chính
và trung.
PCT: Thầy mới lập ra có một
phẩm Giáo Tông, nghĩa là Anh Cả ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu.
Về quyền hành Giáo Hữu thì: “Ðiều
chi chúng nó (Giáo Hữu) xin, thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn hơn hết.
CHÚ GIẢI: Ðã nói Giáo Hữu là người thân mật với nhơn sanh hơn hết, mà kể từ phẩm
Giáo Hữu đổ lên cho tới Giáo Tông thì xa lắm; ấy vậy, Giáo Hữu thì gần với nhơn
sanh, còn Giáo Tông thì xa nhơn sanh, nếu Giáo Tông muốn gần với nhơn
sanh thì phải cần mẫn giao thân cùng Giáo Hữu. Giáo Hữu là người biết
nhơn sanh hơn hết, nếu Giáo Tông muốn biết nhơn sanh, thì phải nghe lời Giáo Hữu.
Thánh ý muốn cho Giáo Tông đặng gần nhơn sanh cũng như Giáo Hữu, cho nên dặn
Giáo Tông phải để ý cần mẫn, xét nét mỗi điều của Giáo Hữu cầu xin hơn hết song
mỗi điều chi Giáo Hữu cũng không đặng phép loạn đẳng cấp, nghĩa là phải nương
theo các phẩm cấp trên mình mà dâng sớ”.
Lời Thầy dạy:“không đặng
gây phe lập đảng” ấy là tất cả điều kiện mà Thầy đã cấm hẳn
việc chia phe lập đảng rồi, vậy ai bảo là Thánh ý Thầy cho lập 12 Chi phái cho
đủ số 12 là số riêng của Thầy? Tuy nhiên, luật Âm- Dương thì có tốt ắt có xấu,
có sáng thì có tối. Điều cần yếu
là người tu phải biết phân biệt
hai lẽ chánh- tà, kẻo bị lầm.
E- TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH ÐẠO
Cửu-Trùng-Ðài:
Sự tổ chức bắt đầu từ dưới lên
trên. Nền móng của Hành Chánh Ðạo Cửu-Trùng-Ðài là Hương Ðạo. Nhiều Hương Ðạo họp
thành Tộc Ðạo (hay Họ Ðạo), nhiều Tộc Ðạo họp thành Châu Ðạo, nhiều Châu Ðạo họp
thành Trấn Ðạo. Các Trấn Ðạo liên lạc trực tiếp với Cửu Viện.
Từ Trấn Ðạo trở xuống thuộc về
Hành Chánh Ðạo địa phương, từ Cửu Viện trở lên là Hành Chánh Ðạo Trung ương đặt
tại Tòa Thánh TN, cầm quyền nền Ðạo.
Hành-Chánh-Ðạo Cửu-Trùng-Ðài chia
hai riêng biệt: Nam phái và Nữ phái. Mỗi phái chỉ điều khiển riêng phái mình mà
thôi.
A. Hành Chánh Ðạo Cửu-Trùng-Đài
Nam phái:
1- Hội-Thánh EM
Ðơn vị Hành Chánh Ðạo nhỏ nhứt là
Hương Ðạo gọi là Hội-Thánh Em. Hiện nay số tín đồ còn ít nên lấy số tín đồ ở
trong một xã làm Hương Ðạo. Khi đông hơn thì sẽ
lấy số tín đồ trong một Ấp làm
Hương Ðạo.
*Ðầu Hương Ðạo, phẩm Chánh Trị Sự.
Mỗi Hương
Ðạo chia ra nhiều Ấp Ðạo. Ðứng đầu
mỗi Ấp Ðạo có 1 Phó Trị Sự và 1 Thông Sự. Phó Trị Sự coi về hành chánh và Thông
Sự coi về luật pháp.
Nếu Hương Ðạo ấy có 4 Ấp Ðạo thì
số Chức Việc Bàn Trị Sự của Hương Ðạo ấy có 9 vị:
- 1 Chánh
Trị Sự (正 治 事)
- 4 Phó Trị Sự (副 治 事)
- 4 Thông Sự. (通 事)
- 4 Phó Trị Sự (副 治 事)
- 4 Thông Sự. (通 事)
Ðầu
Tộc Ðạo, phẩm Lễ Sanh, do Hội Thánh bổ nhiệm.
Đây cũng đi vào qui luật số 9 của Cửu Trùng Đài.
2- Hội-Thánh Anh (Hội-Thánh
Trung-ương)
- Ðầu Châu Ðạo là Khâm Châu Ðạo, phẩm
Giáo Hữu, do Hội Thánh bổ nhiệm.
- Ðầu Trấn Ðạo là Khâm Trấn Ðạo, phẩm
Giáo Sư, cũng do Hội Thánh bổ nhiệm. Khâm Trấn Ðạo nhận lệnh trực tiếp từ Cửu
Viện Trung Ương Tòa Thánh, do ba vị Chánh Phối Sư cầm quyền.
Cửu Viện là 9 Viện gồm: Hòa, Lại,
Lễ; Học, Y, Nông; Hộ, Lương, Công. Mỗi Viện có nhiệm vụ chuyên môn đặc biệt.
Ðứng đầu mỗi Viện là một vị Thượng
Thống, phẩm Phối Sư, có một hay hai vị Phụ Thống giúp việc.
Cửu-Trùng-Đài Nam phái có 3 Chánh
Phối Sư nên mỗi vị điều khiển 3 Viện:
- Ngọc Chánh Phối Sư điều khiển 3 Viện: Hòa, Lại,
Lễ
- Thượng Chánh Phối-Sư điều khiển 3 Viện: Học, Y,
Nông
-Thái Chánh Phối-Sư điều khiển 3 Viện: Hộ,
Lương, Công
Ba vị Chánh Phối Sư tùng quyền Ba
vị Ðầu Sư.
Ba vị Ðầu Sư tùng quyền 3 vị Chưởng
Pháp và Ðức Giáo Tông. Ðức Giáo Tông chưởng quản Cửu-Trùng-Ðài cả Nam và Nữ
phái.
3- Hành Chánh Ðạo Cửu-Trùng-Ðài
Nữ phái:
Tổ chức Hành Chánh Ðạo Cửu-Trùng-Đài
Nữ phái giống hệt và song song với Hành Chánh Ðạo Nam phái, từ cấp địa phương
cho đến cấp trung ương, nhưng chỉ hoạt động về bên Nữ phái mà thôi. Hành Chánh Ðạo
Nữ phái chỉ có 1 Nữ Ðầu Sư và 1 Nữ Chánh Phối Sư cai quản Cửu Viện Nữ phái. Nữ
Chánh Phối Sư tùng quyền Nữ Ðầu Sư và Nữ Ðầu Sư thì tùng quyền ba vị Chưởng
Pháp và Giáo Tông. Sự tổ chức cơ quan Hành Chánh Ðạo riêng biệt cho Nam
phái và Nữ phái thể hiện sự phân quyền rõ rệt và sự bình đẳng giữa Nam - Nữ. Ðây
là một nét đặc biệt tân tiến của Ðạo Cao Ðài mà các Tôn giáo khác không có.
4. Cơ quan Phổ Tế:
Hành Chánh Ðạo Cửu-Trùng-Đài có
nhiệm vụ truyền Ðạo ở trong nước, gọi là Cơ quan Phổ Tế, Cơ quan này thành lập
theo Ðạo Luật Mậu Dần (1938). Hội Thánh ban hành ngày 16-Giêng-Mậu Dần (dl:
16-2-1938).
5. Cơ quan Truyền giáo Hải Ngoại:
Cơ quan Truyền giáo Hải Ngoại được
Ðức Chí Tôn giao cho Ðức Hộ Pháp thành lập tại Nam Vang vào tháng 4 năm Ðinh Mão
(1927) khi Ðức Hộ Pháp lên làm việc ở Nam Vang. Cơ quan Truyền giáo Hải Ngoại
(Mission étrangère) đầu tiên được gọi là Hội Thánh Ngoại giáo, Giáo Sư Thượng Bảy
Thanh (Lê Văn Bảy) được bổ nhiệm làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại giáo, chịu dưới
quyền Thiêng liêng của Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, mà Ðức Chí Tôn đã phong cho
Ngài làm Chưởng Ðạo cầm quyền Hội Thánh Ngoại giáo.
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét