II- Bộ Tiểu Phục: “Bộ Tiểu Phục cũng toàn bằng hàng trắng, có thêu chữ BÁT QÚAI bằng vàng, cung KHẢM ngay Hạ Ðơn Ðiền, cung CẤN bên tay mặt, cung CHẤN bên tay trái, cung ÐÒAI bên vai mặt, cung TỐN bên vai trái, cung LY ngay trái tim, cung KHÔN ngay giữa lưng”.
Pháp Chánh Truyền dạy sắp các Cung
trên Áo Tiểu phục Giáo Tông, phải đặt đúng vào vị trí như trên, vì mỗi Cung này
nó có giá trị khác nhau. Hơn nữa đây là BÁT QUÁI LUYỆN ĐẠO, tức là bản đồ dùng
làm kim chỉ nam cho con đường trở về của người TU trong ĐẠO CAO ĐÀI.
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Thầy dạy:“Con phải chỉ cho Hiếu nó
sắp mấy Cung kia đặng thêu vào áo, ấy là Ðạo. Thầy sẽ coi lại.Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Trung kiếm thử (là kiếm thử cái bùa
Bát Quái) đặng sắp may trong áo Giáo Tông.
Trung bạch cùng Thầy rằng chẳng
hiểu.!
- Thì con coi mà định
luật luyện Ðạo nơi đó. Con lại phải cho thanh tịnh, kể từ nay diệt tận phàm
tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng…”
Áo Giáo Tông có các Cung
tức là Quẻ của Bát Quái:
- Càn ☰ ở trên đầu (thêu chữ Càn trên mão) .
- Cung Khảm ☵ ngay Hạ Ðơn Ðiền (Rún)
- Cung Cấn ☶ bên tay mặt,
- Cung Chấn ☳ bên tay trái,
- Cung Ðoài ☱ bên vai mặt,
- Cung Tốn
☴ bên vai trái,
- Cung Ly
☲ ngay trái tim,
- Cung Khôn ☷ ngay giữa lưng.
Đây là 8 Cung của Bát Quái Luyện
Đạo, tức là BÁT QÚAI HƯ VÔ, mà Kinh Phật Mẫu xác định qua câu:
“Chuyển luân định phẩm cao thăng,
“HƯ VÔ BÁT QUÁI trị Thần qui nguyên.”
Những Cung này là các Quẻ Dịch. Bát
Quái có 8 QUẺ như trên làm căn bản, không bao giờ thay đổi các ký hiệu.
Nhưng do cách dùng những QUẺ này cho Bát Quái nào thì nó sẽ thay đổi tùy theo
vị trí đứng của nó.
Trừ quẻ Càn trên Mão, còn lại tất cả đặt trên áo. Khi
nhìn vào đồ hình về việc sắp các
Cung BÁT QUÁI trên Áo Tiểu phục Giáo Tông có vẻ phức tạp; phân tích sẽ thấy rõ:
- Cung CÀN ☰ tượng Cha, ngôi cao nên đặt trên Mão phía
trước trán; hễ lạy xuống thì Càn (Dương) hiệp với Khôn (đất -Âm). Ấy là Âm
Dương tương hiệp.
- Quẻ KHÔN ☷ tượng Mẹ là Âm, đặt trên lưng áo, khi lạy
xuống thì hiệp với trên là trời (Dương) cũng là tương hiệp. - Quẻ LY ☲ (Hỏa) đặt trên áo ngay
trái tim
- Quẻ KHẢM ☵ (Thủy)đặt nơi Hạ đơn điền (Rún)
Trên dưới hiệp nhau.
- Cung Ðoài ☱ bên vai mặt,
- Cung Tốn
☴ bên vai
trái (Hai vai hiệp nhau)
- Cung Cấn ☶ bên tay mặt,
- Cung Chấn ☳ bên tay trái (Hai tay hiệp nhau)
Đấy là giờ phút qui hiệp, trong chu kỳ “Vạn thù qui nhứt bổn” nghĩa là:
*CÀN là
cha, KHÔN là mẹ, hiệp lại với nhau,
*LY là
con gái giữa họp với KHẢM là con trai giữa.
*ĐÒAI
là con gái út họp với CẤN là con trai út,
*TỐN là
con gái trưởng họp với CHẤN là con trai trưởng.
Như thế
từng đôi, từng đôi một họp với nhau, là sự đòan
tụ.
Đối với người tu là giờ phút đắc Đạo đó vậy.
Tám quẻ
này xem như một đại gia đình: trên hết có Cha Mẹ, tượng cho Âm-Dương. 6 Quẻ còn
lại là 6 con chia ra: Nam, Nữ
-Tam
Âm (3 gái): TỐN, LY, ĐÒAI ở về
phía trên.
-Tam
Dương (3 trai): CHẤN, KHẢM, CẤN ở
phía dưới.
Tất cả
đều theo vòng thuận nghịch của lý Âm Dương đó.
Làm sao phân biệt quẻ thuộc Âm hay Dương ?
Ấy
là: - quẻ nào ít Dương (1 Dương) thì Dương làm chủ
- quẻ nào ít Âm (1 Âm) thì Âm làm chủ.
Xem để phân biệt, còn sự biến hóa một cách nhiệm mầu sẽ bàn sau khi triển khai các BÁT QUÁI (Xem trang 69).
-“Ðầu
đội mão Hiệp Chưởng (Mitre)”
Hiệp
chưởng nghĩa đen là hai bàn tay úp lại vào nhau. Hình Mão dưới đây là Mão Hiệp
Chưởng được đặt theo hướng nhìn trực diện.
-“Cũng
toàn bằng hàng trắng, Bề cao ba tấc ba phân ba ly (0m333). Màu trắng là màu Đại Đồng. Bề cao 0m333, cũng có nghĩa là (3+3+3)
hay 3x3 hay 32 (3 bình phương) là
cấp bực tam ngôi biến-hóa, vận hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ
tột cùng vận động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0
là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên thủy. Số 9 gọi là
số
gấp 3 tam nguyên, tức Thái cực biến hóa ba ngôi, mỗi ba
ngôi lại biến hóa nữa thành ra Cửu chuyển.
Số 3 là
căn bản: đầu tiên Đức Chí-Tôn đến xưng AĂÂ. Ngài xưng là Tam, mà
Tam là Càn khôn vũ trụ định thể, ba chấm nói rõ là số ;
Con số thiêng liêng tạo-đoan vạn vật là vậy”.
Số 3 là cơ sở của Tam thể: PHẬT-PHÁP-TĂNG nên nó vừa có năng lực huy động mà
cũng vừa có năng lực dung hòa. Mão Bề cao ba tấc ba phân ba
ly (0m333). Ba con số 3 tức là (3x3=9) tượng 9 từng Trời, ấy là Cửu
Thiên Khai hóa: GIÁO TÔNG Chưởng Quản Cửu Trùng Đài là đây.
-
“May giáp mối lại cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường
xếp (ấy là Âm Dương tương hiệp) cột dây xếp hai lại, nơi bên
tay trái có để hai dải thòng xuống, một mí dài một mí vắn (mí dài bề ngang
0m03, bề dài 0m30). Trên mão ngay trước trán có thêu chữ cung CÀN ☰
LUẬN:
“Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài, một
mí vắn, mí dài 3 tấc”.Thầy còn dặn “Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt
rời ra”, kích thước qui định 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang.
Đây là biểu hiện quyền hành từ Chí Tôn chia ra, không cho một người nắm quyền
nhứt thống, nhưng Giáo Tông và Hộ Pháp tuy hai mà một. Ba tấc, ba phân tức 33,
là con số biểu hiệu "Tam thập tam thiên". Cũng từ lý Thái-cực sanh
Lưỡng-Nghi tức Tam Thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam Thập Tam
Thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời,
nên gọi là Tam Thập Lục Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia Chơn linh, có một vị
Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản”.
Quyền
Giáo Tông đứng đầu 36 Phối sư (hàng Thánh)
“Còn
bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài, một mí vắn”: Là độ lệch nhau 3/2 chứng tỏ hai quẻ: Càn 3, Khôn 2;
Người nắm quyền Chưởng quản, bên trái là Dương, quyền uy đối về mặt Đạo là
Chưởng quản CTĐ.
Trở lại
con số 3, nếu:
3x3=9
(chỉ Cửu Thiên khai Hóa) cũng là Thái Dương
3+3=6
là Thái Âm
3:3=
1 chỉ ngôi Thái cực
3-3=
0 chỉ vô cực (trở lại vô vi: qua bốn lần biến hóa)
Kết:
lời Thầy dạy may Mão Giáo Tông:
Ngày 7-3-Bính Dần (dl:
18-4-1926)
TRUNG –CƯ -TẮC, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ
Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội Mão
trắng có chữ CÀN ☰ thêu bằng chỉ vàng. Dặn
nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy.
HIẾU,
lại phải nhọc công nữa. Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp, rằm
phải có nghe con! Hiếu, lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu Mão cho con
coi.
Bà
Hiếu bạch Thầy: Mytre (Mão)
- Mão nầy là Mão Giáo Tông. Trước ngực ngay trán phải để chữ cung CÀN ☰ chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái áo, con
phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy CUNG kia trên áo.
Nghe
và tuân theo nghe con.!
TRUNG, đêm nay đừng cầu Thầy nghe con.!
TÁI CẦU:
- Mừng
sắp con.
Hiếu
quì bạch Thầy chỉ dạy may áo Đức Giáo Tông
bề cao bao nhiêu và mang giày thứ
nào ?
- Thầy
sẽ nhứt định mọi việc.
Thầy
dạy: Mão bề cao 3 tấc 3 phân 3 ly thước Lang-sa
(thước Tây), may giáp mối lại thì thế nào cho có trước một ngạnh, sau một
ngạnh, hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp. Hiếu biết mà
! Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có 2 dải thòng xuống một mí dài, một
mí vắn, mí dài 3 tấc. Giáo Tông, thảo hài.
TÁI CẦU:
(Có
tạo đỡ một cái Mão bằng giấy dưng lên cho Thầy xem) Cười ! Đặng phải vậy, ba
con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà
làm theo. Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra, nghe con ! Con giỏi
lắm Hiếu ! Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang,
phải vậy rồi.
CƯ,
để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may Mão Giáo Tông) Hiếu dâng Mão Giáo Tông
may xong rồi cho Thầy xem.
- Trúng, mà ai đội con phòng lật đật !.
(Đức Chí Tôn biết là Ông Chiêu không lãnh chức Giáo Tông nên mới có câu nầy)
(ĐS. I. 106)
PCT: -“Chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trước mũi có chữ Tịch
Ðạo Nam Nữ. Tỷ như Ðức Lý Giáo Tông đương thời thì nơi trước mũi giày của Ngài
phải có chữ Tịch Ðạo là "Thanh Hương
Vô ưu 無憂 là không buồn phiền. Người
mang Giày vô ưu là diệt được lục dục thất tình. “Trước mũi có chữ Tịch
Ðạo Nam Nữ”. Trong thời Giáo-Tông này
là Tịch Đạo THANH HƯƠNG. (Xem Tr. 96)
II- TIỂU PHỤC GIÁO TÔNG: BÁT-QUÁI
HƯ VÔ
Kinh Phật-Mẫu xác định Bát-Quái Hư Vô qua câu:
“Chuyển luân định phẩm cao
thăng,
“Hư-Vô Bát-Quái trị Thần qui nguyên”
Hỏi vậy người tu-hành luyện Đạo để làm gì ?
- Phải chăng là mong đoạt lý Hư-Vô ? Bát-Quái Hư Vô chính là hình ảnh các
quẻ sắp trên áo Tiểu phục Giáo Tông đó! Những quẻ mà Thầy dạy sắp trên áo TIỂU
PHỤC, đây chính là khởi từ vạch QUẺ cũng như SỐ là từ BÁT QUÁI TIÊN THIÊN mà
ra.
Đây nhắc lại sự thành hình Bát
Quái Tiên Thiên:
Bát
Quái Tiên thiên là thời kỳ “Nhứt bổn tán vạn thù” tức nhiên Càn Khôn ở hai đầu,
giữa là các con. Đặc biệt là hai quẻ đối nhau có tổng số là 9. Ví như:
Càn 1+ Khôn 8 = 9 Đoài 2 + Cấn 7 = 9
Ly 3 + Khảm 6 = 9 Chấn 4 + Tốn 5 =
9
Nhưng khi biến thành Bát Quái Hư vô thì bấy giờ là lúc qui
hiệp, là thời của “Vạn thù qui nhứt bổn”.
CÀN
KHÔN là hai quẻ chánh trong Bát-Quái:
CÀN tượng
cha, KHÔN tượng mẹ làm chuẩn. Hai quẻ này giao nhau, như cha mẹ
phối-hợp tạo ra 6 con:
- Lần thứ nhứt Càn giao với Khôn, Càn cướp đi của Khôn một hào Âm
mà thành ra TỐN đặt bên vai trái.
- Lần thứ hai Càn giao với Khôn cướp đi của Khôn một hào Âm mà
thành ra quẻ LY đặt nơi trái tim.
- Lần thứ ba Càn giao với Khôn và cướp đi của Khôn một hào Âm,
thành ra quẻ ĐOÀI nằm bên vai mặt.
Ba hào
Âm: Tốn, Ly, Đoài tất cả đều nằm ở phần trên của thân người
(Âm: ở phần trên)
Bây giờ
tiếp theo đây:
*KHÔN giao với CÀN lần thứ nhứt, Khôn cướp đi của Càn
một hào Dương thành quẻ CHẤN ở tay trái.
*Lần thứ hai KHÔN cướp đi của Càn một hào Dương thành ra quẻ
KHẢM đặt ở hạ đơn điền (hay là rún)
*Lần thứ ba KHÔN giao với Càn cướp đi một hào Dương của Càn
thành ra CẤN đặt bên tay mặt.
Ba hào Dương: CHẤN, KHẢM,
CẤN
đều nằm ở phần dưới của thân người
(Dương: ở dưới)
Các Quẻ được sắp theo lời dạy trong
Pháp Chánh Truyền, đặt trên Áo Tiểu-phục của Giáo-Tông, hình ảnh đó cho thấy
từng đôi một đi liền với nhau: Càn Khôn, Khảm Ly, Đoài Cấn, Chấn Tốn.
Phương hướng vẫn là:
- Đông Tây làm trục đứng,
- Nam Bắc làm trục ngang,
Theo hướng của Bát-Quái Cao-Đài
(Bát-Quái Đồ Thiên), làm tượng trưng, chứ khi đã gọi là Hư-Vô thì không có
phương hướng, thậm chí cũng không có Quẻ làm hình ảnh nữa. Nhưng khi người mặc
phẩm-phục vào thì quẻ CÀN ở trên trán, lúc lạy đầu cúi xuống hiệp với Khôn
là đất.
Đứng về số thì vẫn lấy theo
số của Bát Quái Tiên Thiên là: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5,
Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8.
* * *
1- Bát-Quái Hư-Vô thành hình:
Từng đôi quẻ đơn đi liền với nhau tạo thành Quẻ kép đều có tổng-số là 9.
Ví như:
Khôn 8 + Càn 1 =
9 Khảm 6 +
Ly 3 = 9
Đoài 2 + Cấn 7
= 9
Chấn 4
+ Tốn 5= 9.
Đây có tất cả 4 lần tổng-số 9 (4 x
9 = 36).
Chính là sự ứng hợp với Kinh khi đã
chết rồi:
“Ba
mươi sáu cõi Thiên-Tào,
“Nhập
trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư”
Nếu
không thông hiểu Bát-Quái không thể vào Ngọc Hư-Cung, là không về đường Trời
được.
Tại sao Kinh đã chết rồi có câu ấy
?
Người chết thực sự đắc Đạo mới về
Ngọc Hư. Nhưng khi còn xác thân này đây mà không học hỏi, không biết "chết
Đời sống Đạo" thì cũng như người thuỷ-thủ đi biển mà không có địa-bàn, vẫn
phải lênh đênh trong sự vô định mà thôi. TU là để tìm về, là học hỏi trước con
đường tấn-hoá của tâm-linh vậy.!
Sự kết hợp các quẻ của Bát-Quái Hư-Vô:
- Hai quẻ Càn- Khôn:
*KHÔN vi địa số 8, đặt
lên CÀN vi thiên số 1 thành quẻ kép có tên: Địa thiên Thái (Thái số
81 là hanh thông). Nếu đặt ngược lại là Thiên Địa Bĩ (Bĩ số 18-
là xấu, thời bế tàng).
- Hai quẻ Khảm - Ly:
*KHẢM vi thuỷ số 6, đặt
lên LY vi Hỏa số 3, quẻ kép số 63: Thủy hỏa Ký-Tế (Ký
tế là giao nhau)
Nếu đặt ngược lại là Hỏa-Thủy
Vị-tế (Vị-tế số 36- là chưa giao, vẫn xa lìa).
- Hai quẻ Đoài - Cấn:
*ĐOÀI vi trạch số 2, đặt lên
CẤN vi sơn số 7, thành quẻ kép: Trạch sơn Hàm (Hàm= số
27 là bao gồm). Nếu đặt ngược lại thành quẻ Sơn-Trạch Tổn (Tổn số
72, là hao mòn, tổn thất)
Hai quẻ Chấn - Tốn:
*CHẤN vi Lôi số 4 đặt lên TỐN vi
phong số 5, thành ra quẻ kép Lôi phong Hằng (Hằng số 45-là
thường, bền chặc). Nếu đặt ngược lại thành ra quẻ Phong Lôi Ích Ích số
54, là lợi cho riêng mình, chỉ sự chưa thành đạt.
2- Tính chất của Bát-Quái Hư-Vô:
Đây là thời-kỳ qui hiệp: Nếu nhìn
riêng về Quẻ thì quả là:
*CÀN là Cha, KHÔN là Mẹ đến lúc họp lại với
nhau.
*Đoài là
thiếu-nữ, Cấn là
thiếu-nam họp nhau.
*Khảm là trung nữ,
Ly là trung nam họp nhau.
*Chấn là trưởng
nam, Tốn là trưởng nữ họp nhau.
Xem như một gia-đình đoàn-tụ:
hạnh-phúc, vui-vầy.
Đó là tinh cách lấy Âm bao Dương, nên Bát-Quái Hư Vô thành hình là
kết hợp bởi 4 quẻ kép là: Địa Thiên Thái, Thuỷ-Hoả Ký-Tế, Trạch Sơn Hàm, Lôi
Phong Hằng. Ấy là tượng cho cảnh thăng. Bằng trái ngược lại là tượng cho cảnh
Đoạ.
Tại sao như vậy ? Vì Đức Chí-Tôn có nói: Trên Tam Thập Lục Thiên còn có Quỉ mị
lẫn lộn thay!
Con đường Qui hiệp đó là trách-nhiệm của GÍAO TÔNG, Ngài có bổn-phận “dìu-dắt
con cái của Thầy trên Con đường đạo-đức của chính mình Thầy khai tạo và
trên
con đường Đời cơ Đạo gầy nên” là Ngài đã hoàn
thành hai BÁT-QÚAI. Hay nói khác đi:
- Ngài lo giáo-hóa nhơn-sanh
trên con đường hành thiện.
- Vừa độ dẫn nhơn-sanh về với Hư
vô: thành Tiên tác Phật.
Hai con đường đó qua hai Bát-Quái
Cao Đài là con đường Thiên-Đạo:
1-Là Bát-Quái Đồ-Thiên (xem trang 81) là
hành Thể-pháp của Thiên-Đạo.
2-Là Bát-Quái Hư-Vô (hình ảnh trên bộ
Tiểu phục của Giáo-Tông) là theo Bí-Pháp Thiên-Đạo.
Tại sao phải lấy Âm
bao Dương ?
Cũng có thể nói rằng: Nếu đặt Càn Khôn làm chủ, mỗi hào có 3 vạch lần-lượt
thay đổi và biến-hóa. CÀN KHÔN là quẻ chủ của Bát-Quái. Nếu:
Qui hiệp có nghĩa là từng cặp Âm Dương đi liền nhau và hợp số với nhau, như Càn
Khôn là hai ngôi chủ tể của vũ-trụ, giống như hai Cha Mẹ đã gần nhau hay gọi là
một sự đoàn tụ, tức như người tu được trở về với Thượng Đế. Gần là hiệp một
gia-đình, cao xa hơn là lúc đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, là hiệp nhứt với
Đại ngã, là Trời.
Tuy nhiên không phải Tu là đạt
liền, mà phải tu đúng cách. Trong cõi đời này không hiếm người tu mà sao không
thành đạt hết. Như học trò học nhiều mà thi đỗ đạt ít. Vì nếu biết trau giồi
đạo-đức, hàm dưỡng tánh tình thì dầu không thành Phật, cũng vào hàng Tiên; rớt
Tiên còn được Thánh; rớt Thánh cũng vào Thần; rớt Thần cũng được Hiền, chứ đừng
để sa vào Quỉ vị.
Đức Chí Tôn nói (TNI/31: "Cửa Bạch Ngọc Kinh ít kẻ, chớ chốn A-Tỳ vốn
nhiều người. Con liệu mà hành đạo, Thầy thương con chừng nào, ngày sau con càng
ăn năn hối tiếc chừng nấy".
* * *
3- TỔNG LUẬN
BÁT QUÁI HƯ VÔ (Bát Quái luyện Đạo)
Bát Quái Hư vô lấy theo số thứ tự của Bát Quái Tiên Thiên, tức là Càn 1, Đòai 2, Ly 3, chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8
Bát Quái tòan đồ dưới đây bao gồm
hết 4 Bát Quái, nhưng khi vào đồ hình này thì tất cả thành quẻ kép, chỉ khác là
gấp đôi quẻ đơn, mỗi quẻ có 6 hào, còn tính chất quẻ thì không khác. Nếu
là quẻ Kiền đơn ☰ ký hiệu bằng 3 nét
dương, Số 1; khi thành quẻ kép thì có 6 hào Thùân Càn số
11; tương tự quẻ Thùân Khôn số
88.
Bát Quái
Hư Vô nằm
trong “Bát Quái biến hóa tòan đồ” cho thấy rõ qua các con số “đóng khung” ứng
với:
Số 11 trên đỉnh là quẻ Thùân KIỀN
(cung Càn ☰ ở trên đầu (thêu
chữ Càn trên mão Giáo Tông).
Số 88 dưới cùng là quẻ Thùân KHÔN
(Cung Khôn ☷ đặt ngay giữa
lưng áo Tiểu phục Giáo Tông)
Ở ngòai trông vào: từ trái nhìn qua ở hàng trên, các số trong khung:
Số 22 là quẻ Thùân ĐÒAI (Ðoài ☱ bên vai mặt)
Số 33 ở giữa là quẻ Thùân LY
(Ly ☲ ngay trái tim)
Số 55 là quẻ Thùân TỐN (Tốn ☴ bên vai trái)
- Hàng trên, vì vòng
tròn, nên nhìn ngược lại.
- Hàng dưới: từ trái
nhìn qua, ở các con số trong khung:
Số 44 là quẻ Thùân CHẤN (Chấn ☳ bên tay trái)
Số 66 ứng với quẻ Thùân KHẢM (Khảm ☵ ngay hạ Ðơn
Ðiền (Rún)
Số 77 ứng với quẻ Thùân CẤN (Cấn ☶ bên tay mặt).
Những chữ “Trái” “Phải” ở trên là
lời dạy trong Pháp Chánh Truyền; về việc sắp các Cung trên áo Giáo Tông (là
đứng về mặt phẳng, hình ảnh của người mặc áo).
Vị trí “Bát Quái biến hóa tòan đồ” là
nhìn các quẻ qua đồ tròn, tất cả đều qui tâm. Những chữ “Trái” “Phải” là trên
mình của người mặc áo, tức nhiên phải nhìn nghịch lại vì là hướng của người
ngòai nhìn vào Bát Quái Hư vô nằm trọn trong BÁT QUÁI TÒAN ĐỒ
như dưới đây:
Bát
Quái Tòan Đồ này là tất cả 64 quẻ kép
đã hiện rõ trên đồ hình, thì có 32 cặp có các quẻ nằm trên trục xuyên tâm đối,
khi cộng từng đôi một có tổng số là 99. Trong Tâm của vòng tròn là Thái cực số
1 vi chủ, là Thượng Đế. Cộng (1+99=100), thành số là 100 ức nguyên nhân của Đại
Đạo.
Đức
Hộ-Pháp xác nhận: "Đã qua hai thời kỳ mở Đạo cũng vì số nguyên nhân
ấy mà Đức Chí-Tôn đã cho xuống thế 100 ức nguyên nhân để độ dẫn
nhơn-sanh, mà còn làm tội lỗi hơn chúng sanh nữa, nhưng trong hai lần ấy
chỉ độ về được có 8 ức nguyên nhân (Nhứt kỳ độ 6 ức + Nhị kỳ độ 2 ức) còn lại
92 ức nguyên-nhân đang còn chơi vơi trên biển trần, lần này Chí-Tôn lo cứu
vớt".
- o0o -
C -
Thầy ban cho THI là xác nhận quyền-hành
của Đức
Quyền GIÁO-TÔNG
Buổi
tiền khai Đại-Đạo: ngày 5 tháng 12 Ất Sửu (dl: 28-1-1926) Đức Lê Văn-Trung được
Đấng Thượng Đế tá danh AĂÂ ban cho nhiều bài Thi trong lúc còn Xây bàn do ba
Ông: Cư, Tắc, Sang tiếp điển (Sau là Thượng Phẩm,
Hộ
Pháp, Thượng-Sanh - Hiệp Thiên Đài)
Riêng Đức Lê Văn Trung lần lượt được Thiên phong vào phẩm Thượng Đầu Sư Thượng
Trung Nhựt cùng với hai vị Đầu-Sư nữa là Thái Minh Tinh và Ngọc Lịch Nguyệt.
Sau đó Ngài được nhận phẩm QUYỀN GIÁO TÔNG, tức là đứng đầu Cơ quan Cửu Trùng
Đài, là một trong hai Cơ-quan hữu hình để giáo-hoá nhơn sanh.
Buổi đầu: Đức Chí Tôn tá danh AĂÂ cho biết rằng Ngài đã sai Lý Bạch dìu dắt ông
TRUNG nơi đàn Chợ Gạo đã lâu rồi. Đức Ngài dạy rằng:
“TRUNG, nhứt tâm
nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa
cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng sủa của con mà suy lấy”.
Thầy
cho THI:
Một
Trời, một Đất, một nhà riêng.
Dạy-dỗ
nhơn-sanh đặng dạ hiền,
Cầm
mối Thiên-Thơ lo cứu chúng.
Đạo
người vẹn-vẻ mới thành Tiên.
LUẬN: Sự sáng sủa” đây là Chí Tôn ban huyền diệu cho ông Trung
được sáng mắt. Bấy giờ, khi Ngài LÊ VĂN TRUNG nắm Quyền GIÁO TÔNG mới nhận ra
bài thơ trên là lời tiên tri, xác định quyền hành to lớn ấy. Bởi:
Trong cửa Đạo ngày nay thì ngôi-vị:
-
“Giáo-Tông Đạo Cao-Đài do Đức Lý cầm quyền gìn-giữ Thánh-chất
dung-hòa nửa Thánh nửa phàm.
- “Còn tạo ngôi-vị tại thế là Thượng-Trung Nhựt đó. Ấy vậy,
Thượng-Trung-Nhựt tạo ngôi-vị Giáo-Tông cho Đạo Cao-Đài như ông Thánh Pière tạo
ngôi THÁNH HÒANG cho Phapha tại ROME vậy”.
1- Đạo có GIÁO và TÔNG:
- GIÁO là những phương-tiện mượn để
biểu thị một cách gián-tiếp. TÔNG là chơn-lý nội tại.
- GIÁO
là hình tượng kinh sách, chữ nghĩa, lời nói.
TÔNG là tâm, là hình.
Hiện
nay thì:
- Giáo
Tông hữu hình là Quyền Giáo Tông Lê văn Trung
- Giáo Tông vô vi là Đức Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ.
Hữu hình là Âm, vô vi là Dương. Âm Dương không xa lìa nhau, là đủ cả xác hồn
thật là hòan hảo.
Vô vi là Trời trị hồn. Hữu hình là Người trị xác
Giáo-Tông
có ngai và Long vị để thờ vào hàng NHƠN ĐẠO (trong Ngũ Chi)
Xét kỹ ra mới thấy quyền-hành GIÁO-TÔNG quá ư quan-trọng. Nhất là khi Thầy dạy
làm bảy cái Ngai cho Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, việc thực hiện Thầy giao cho ông
Kiệt, ngày 12 tháng 8 năm Bính-Dần, như sau:
“Kiệt, con phải giúp Thơ trong việc lập Thánh Thất, Thầy giao cho con phải
săn-sóc mướn thợ làm bảy cái Ngai:
- Một cái trọng hơn cho Giáo-Tông.
- Ba cái cho ba vị Chưởng-Pháp.
- Ba cái cho ba vị Đầu-Sư.
*Nhất
là cái Ngai của Giáo-Tông phải làm cho kỹ lưỡng, chạm trổ TỨ LINH, nhưng chỗ
hai tay dựa phải chạm hai
con
RỒNG.
*Còn
của Chưởng Pháp chạm hai con PHỤNG.
*Của Đầu-Sư chạm
hai con LÂN, nghe à!” (TNI/44)
Vậy là
mỗi mỗi vẫn có đủ đôi, là âm dương hòa hiệp;
khi
Hộ-Pháp hỏi Thầy về sự sắp đặt bảy cái ngai.Thầy dạy: “Tòa-Thánh day mặt
ngay hướng TÂY là chánh cung ĐOÀI ☱ ấy là Cung Đạo. Bên mặt Thầy là cung KHÔN ☷ bên trái Thầy là cung
CÀN ☰.Đáng lẽ phải để 7 cái ngai của phái Nam bên trái Thầy
là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-Đạo cho đủ NGŨ CHI nên Thầy
buộc phải để Cung Đạo là cung Đ0ÀI cho đủ số”.
Đây là vị trí của ba cung mà Thầy đã dạy, hợp với phương hướng của Đền
Thánh hiện nay:
- ĐOÀI
chánh Tây
- CÀN
Tây Nam
- KHÔN
Tây Bắc
Hình
bên là Bát Quái Đồ Thiên cắt ra, chỉ lấy ba cung. Khi hiểu Bát Quái Thầy dạy
như vậy rồi, các Cung còn lại cứ sắp theo thứ tự của nó vào là đúng.
2- Cửu-Trùng-Đài
là cơ-quan Quản-trị
Càn
Khôn Thế-Giới
Pháp Chánh truyền qui định về quyền hành GIÁO TÔNG nếu vẽ bằng hình sẽ
thấy rõ:
Thầy mở
Đạo kỳ này chọn: nhứt Phật, Tam Tiên đó
là hàng
Tiên vị, gồm: 1 Giáo Tông, 3 Chưởng
Pháp, 3 Đầu
Sư. Thế nên dưới quyền Giáo-Tông có hai con số 3, tượng:
Tam
Âm tam Dương
- Như đã biết đó là hai quẻ Càn ☰ Khôn ☷.Nếu xếp các đường thẳng của Quẻ CÀN - KHÔN đâu cạnh
vào nhau sẽ thành hai tam giác đều có ba cạnh bằng nhau và 3 góc bằng nhau,
bằng 60o, xong đặt nghịch chiều nhau, như
- 3
ngôi Chưởng-Pháp (là người của Hiệp
Thiên Đài, tượng cơ Dương) đỉnh tam giác quay
lên.
- 3
ngôi Đầu-Sư (Chức-sắc
Cửu-Trùng-Đài, tượng cơ Âm) đỉnh tam giác quay xuống
dưới.
Hai tam giác đặt chồng lên và nghịch chiều nhau là biểu hiện bằng 3 ngôi
Chưởng-Pháp và 3 ngôi Đầu-Sư: Ấy là trong Âm có Dương và trong Dương có
Âm; Âm Dương tương hiệp, tương đắc, tương điều hòa. Từ đó mới biến sanh ra hằng
hà sa số.
Mỗi phẩm có ba phái, trừ ngôi Giáo-Tông chỉ có
một và đặc biệt Ngài mặc sắc phục trắng.
(Phân biệt: khi Ngài Lê văn Trung mặc phẩm-phục xanh là còn ở ngôi
Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt, là phẩm được thọ phong trước. Sau đó Ngài mới
được ân phong phẩm Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung, là Giáo Tông chưa vào chánh
vị. Giáo-Tông mặc phẩm phục màu trắng, là chủ Cửu Trùng Đài, đặt giữa đồ hình).
*Hình
vẽ làm biểu-tượng:
- Chữ A, tượng ngôi Thượng Chưởng-Pháp.
- Chữ B, tượng ngôi Thái Chưởng-Pháp.
- Chữ C, tượng ngôi Ngọc
Chưởng-Pháp
Như
vậy, ngôi Chưởng-Pháp thuộc về Đạo, nên đỉnh Tam giác quay lên trên (tượng tam
Dương)
Ba ngôi Đầu-sư là Đời trong Đạo nên đỉnh tam giác quay xuống phía dưới (tượng
Tam Âm). Do đó:
- A’ là
tượng cho ngôi Thượng Đầu-Sư.
- B’ là
tượng cho ngôi Thái Đầu-Sư.
- C’ là tượng cho ngôi Ngọc Đầu-Sư.
Ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tức là đại diện cho Tam-giáo Phật- Tiên- Thánh. Tuy
nhiên:
-
Chưởng-Pháp thế quyền cho Hộ-Pháp nơi Cửu Trùng-Đài thuộc về Đạo.
- Đầu-Sư đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp trước mặt nhơn-sanh thuộc
về Đời trong Đạo.
Hai hình tam-giác này là tam-giác đều nội tiếp trong vòng tròn, gát chồng lên
nhau, tượng trưng lý Âm Dương, Đạo Đời tương-đắc. Điểm quan
trọng là đây, luôn hiển hiện trong pháp Đạo Cao Đài thật hòan tòan khoa học !
*Tại sao lại đặt chữ Thượng trên
đỉnh
của tam giác?
Bởi Đạo lúc nào cũng lấy
chữ trung, chánh làm điểm yếu-trọng, mà ba phái
theo thứ tự thì:
- Thái chỉ về Phật, bên trái
(hay là trước hết)
- Thượng chỉ về Tiên ở
giữa;
- Ngọc chỉ về Thánh, bên phải; sau.
(Nhìn đối diện)
Mỗi tam-giác được thành hình là do
1 sanh ba, 3 sanh vạn vật thuộc về cơ-quan Chưởng-Quản; do đó mà ngôi GIÁO TÔNG
ở vào tâm của vòng tròn, mà vòng tròn chỉ
Càn
Khôn vũ trụ, cho nên Cửu
Trùng Đài là cơ quan quản trị Càn-Khôn vũ-trụ thuộc về
TRỜI là vậy.
Mỗi phẩm có 3 ngôi mà “Pháp-luật Tam giáo tuy
phân biệt nhau, song trước mặt Thầy
vẫn coi như một.” Vốn cũng đồng quyền, đồng đẳng nhau, nên là thế !.
Ngôi Giáo-Tông ở vào vị-trí tâm của vòng tròn, do Thầy qui-định trong Pháp
Chánh Truyền:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà
dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không
có quyền về phần hồn.
Nếu Tâm 0 tượng cho Thượng Đế thì vòng tròn là Càn Khôn vũ trụ, nhưng Thầy
dạy “Giáo-Tông là Anh Cả các con”. Vòng tròn này tượng-trưng
cho cơ-quan Cửu Trùng Đài thì Tâm 0 là ngôi-vị Giáo-Tông (giữa vòng tròn). Vậy
Giáo Tông là chủ của Càn Khôn vũ trụ là vậy.
*Tam Âm Tam Dương tượng TRỜI:
GIÁO-TÔNG
làm chủ con số 3, là tam Tiên trong hàng TIÊN VỊ, gồm cả 3 phẩm Chưởng Pháp và
3 phẩm Đầu Sư. Như trên, hình tam-giác biểu tượng cơ Dương mà chính nó cũng tự
có Âm Dương của nó nữa, vì thế mới có Tam Âm, Tam Dương. Do vậy mà thể
Dương tượng Trời tạo nên hình sao sáu cánh trên ứng với “Một Trời” trong câu thơ mà Đức Chí-Tôn cho Ngài buổi
ban đầu: Một trời, một đất, một nhà riêng.” (xem bài thơ
trên, trang 71)
Nhưng
luật vũ trụ khi nói đến Dương tất có Âm, hay nói
khác đi: ngoài ra còn có Tứ Âm Tứ Dương nữa.
*Tứ Âm tứ Dương tượng ĐẤT:
Âm
Dương không xa lìa nhau, thế nên hình vuông là biểu tượng cơ Âm, cũng có tứ Âm,
tứ Dương của nó. Hai hình này nội tiếp trong vòng tròn
tạo thành một hình có tám
cạnh,
Dịch gọi là BÁT QUÁI. Ngôi Giáo Tông ngự
trị
giữa
hình vuông là ý chỉ “Một Đất” trong câu thơ “Một trời, một
đất, một nhà riêng” (xem thơ trang 71)
*Tại sao lại có số 4 này ?
Pháp
Chánh Truyền định phần Tiên vị nơi Cửu Trùng Đài là ngoài một ngôi Giáo Tông
ra, còn lại mỗi phẩm có ba vị: 3 Chưởng Pháp, 3 Đầu-Sư.
Thực tế mỗi phẩm lại có 4 vị (là 4 Chưởng Pháp, 4 Đầu Sư) nên số 4 thuộc Âm
phải có mặt.
Hiện có 4 Chưởng Pháp:
1-Thái Chưởng Pháp Nguyễn văn Tường (1864-1939)
là Hòa-Thượng Như Nhãn (hay Huề Thượng Giác Hải) Quảng Pháp Thuyền Sư Thích Ðạo
Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ. "Chưởng Pháp phái Thái". Về
sau bỏ Đạo.
2-Thượng
Chưởng Pháp Nguyễn-văn Tương (1897-1927) (Minh
Sư) Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái
Thượng" Thiên phong ngày 24-07-Bính Dần.
*Ngọc
Chưởng-Pháp có hai vị:
3-
Trần-văn-Thụ (1857-1927)
4-
Trần-Đạo-Quang (1870-1946) về sau bỏ đạo.
-Ngài Trần
văn Thụ (Minh Sư: Vĩnh Nguyên tự) Nho Tông Chưởng Giáo
Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ "Chưởng Pháp phái Ngọc" Ngày
10-9-Bính Dần.
-
Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần
Thanh Nhàn, sanh năm Canh Ngọ (1870), tu theo Minh Sư đến chức Thái Lão Sư, trụ
trì ở Linh Quang Tự, Gò Vấp. Ngài được Ðức Chí Tôn giáng cơ độ Ngài theo Ðạo
Cao Ðài. Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương qui Thiên,
Ngài
được phong làm Quyền Thượng Chưởng Pháp.
Giữa năm 1927, khi Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ qui Thiên, Ngài Trần Ðạo
Quang được ân phong là Ngọc Chưởng Pháp chánh vị. Nhưng về sau Ngài
tách rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh và lập Chi Phái riêng.
NHỰT- NGUYỆT-TINH: TAM BỬU CỦA TRỜI
Trong
thời khởi khai Đại Đạo thì Chức-sắc Cửu Trùng-Đài Nam-phái được một đặc-ân là
ba vị Đầu Sư có Thánh-danh mang chữ: NHỰT- NGUYỆT- TINH tượng trưng Tam bửu của
Trời.
Nhưng
thực tế lại có 4 Đầu Sư. Thế nên:
-
Thái Đầu-Sư có hai vị:
1-
Thái Đầu-Sư Thái-Minh TINH (Thiện-Minh) Thiên phong ngày 13-10-Bính Dần. Về sau bị Đức Lý cách chức (mất năm
1927)
2- Thái Đầu Sư Thái-Nương-TINH. Thế
danh Dương Văn Nương (1870-1929) Tri Huyện hàm tại
Sa-Đéc, sanh năm Canh Ngọ (1870) tại Sa-đéc và mất tại đây ngày 25-10-Kỷ Tỵ
(dl: 25-11-1929) hưởng thọ 60 tuổi.
-Thượng
Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT. Thiên phong ngày Rằm tháng 3 Bính-Dần. Thế danh
Lê-văn-Trung (1876-1934). Sau là Quyền Giáo Tông Đại Đạo TKPĐ.
- Ngọc
Đầu-sư Ngọc-Lịch-Nguyệt. Thiên phong ngày Rằm tháng 3 Bính-Dần. Thế danh
Lê-văn-Lịch (1890- 1947).
Nay Đức Chí-Tôn đặt Tam bửu của Trời
vào cơ quan Cửu Trùng-Đài Nam phái là điều hạnh phúc cho Đạo.
Ngày
ông Thiện-Minh được ân-phong, Thầy dạy: “Thiện-Minh, con
há ! Mừng con,
“Con
ôi! Khi Thầy giáng sanh lập Đạo Thánh, Thầy đổ máu mà rửa tội cho
chúng-sanh, đến đỗi phải lấy thân làm
của
tế mà cầu-khẩn cho chúng sanh. Hai ngàn năm chưa
qua,
giọt máu Thầy đã trôi hết!
“Nay con vì ma khảo phải đổ máu mà rửa tội cho toàn phái
Thái, thì sự vinh-diệu con trước mắt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đã đặng
so-sánh cùng Thầy rồi …Cười!
“Con phải lấy hiệu Thiên-ân là Thái-Minh-Tinh làm Đầu-Sư”
Nhưng Đạo là lý, mà lý vũ-trụ vốn vô cùng.
Nếu kể Tam Thiên Thế-Giới và Thất Thập Nhị Điạ là Tinh-tú thì có đến 3.072 vì
sao. Do vậy phái Thái (mang chữ Tinh= sao) phải có đến hai vị như vừa nêu
trên làm đại diện.
Ngày
12-12 Bính-Dần (dl: 15-01-1927)
Thầy giáng dạy rằng:
“NƯƠNG, Thầy
dặn con, con chẳng hề nghe đến, Thầy muốn bỏ, song vì cựu vị nên chẳng đành. Từ
đây phải lo Đạo nghe ! Thầy phong cho con chức Thái-Đầu Sư, phải hành-Đạo và
hiệp sức phổ-độ phái Thái, Thái Minh Tinh bị Lý Thái Bạch cách chức”.
Đức Lý dạy: “NƯƠNG phải sắm
Thiên-phục như Thơ Thanh vậy nghe!” (ngày: 13-12-Bính Dần)
Như vậy: Tam-bửu của Trời mà các vị ĐẦU SƯ có Thánh
danh được biểu tượng qua các hình ảnh của:
“Một
Trời, một Đất, một Nhà riêng”
Trên đã
chứng minh bằng hình (ở trang 76) rằng:
- Tam Âm tam Dương (Tam giác) tượng TRỜI
- Tứ Âm tứ Dương (hình vuông) tượng ĐẤT.
Bấy giờ
ghép cả hai phần trên lại thành một hình tòan diện
biểu
tượng “Một nhà riêng” như câu thơ của Đức Chí-Tôn
đã ban
cho Ngài (xem lại bài thơ trang 71)
Các hình trên cùng nội tiếp trong vòng tròn: là BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN do Đức Quyền
Giáo Tông Chưởng Quản, ứng hợp với quyền hành được qui định trong:
Pháp
Chánh Truyền:“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con
trong đường Đạo và đường Đời. Có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần
hồn.”
Chữ “Đường Đời” giờ đây đã ứng với Bát Quái
Đồ Thiên, chính là quyền hành của Giáo-Tông phải đảm trách “Một nhà
riêng” đó! Hay nói khác đi đó là phần hành của Giáo Tông là phải thực
thi THỂ PHÁP THIÊN ĐẠO, tức là Bát quái Đồ Thiên hay Bát Quái Cao Đài vậy.
3-
Bát-Quái Đồ Thiên thành hình
“Nhà riêng” đây là BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN
đã thành hình!
Khi hai
hình tam-giác và hai hình vuông phối hợp vào nhau trong đồ tròn sẽ thành một
hình duy nhứt, mà ngày nay chính Đức Chí Tôn sử dụng trong Đạo Cao-Đài, mà chỉ
riêng Đạo Cao Đài mới dùng Bát-Quái này nên cũng còn gọi là Bát Quái Cao Đài
(trước đã có Tiên Thiên và Hậu Thiên rồi, nay Bát Quái này đứng vào Trung
Thiên. Ông Trần Cao Vân gọi là Trung Thiên Dịch- Trung Thiên Đạo; chính Đạo Cao
Đài gọi là Bát Quái Đồ Thiên đó !.
GIÁO TÔNG là Người làm Chủ Bát-Quái Đồ Thiên.
Khi đã có một Bát-Quái toàn diện, chúng ta có quyền đặt tên các quẻ còn
lại vào các góc cạnh tương ứng, sẽ được đồ hình dưới đây là do lời dạy của Thầy
khi Thánh-ý của Chí-Tôn dạy sắp 7 cái ngai:
Bát-Quái dưới đây, tức nhiên có các Cung được
xác
định
qua trục đứng là Đông Tây, trục nằm là Nam Bắc, ấy là đúng như phương hướng của
Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh hiện có 3 Quẻ được xác định là:
ĐÒAI chánh Tây (cung Đạo, ở chính giữa, là mặt
tiền của Đền-Thánh).
CÀN Tây Nam (trong Đền nhìn ra, tay trái của Thầy)
KHÔN Tây Bắc (trong nhìn ra, bên phải của Thầy)
Ba Cung đã được định hướng rồi thì những Cung còn lại của Bát-Quái Đồ Thiên cứ
theo thứ-tự của Bát-Quái Hậu-Thiên mà xếp các quẻ còn lại vào vị-trí.
*Thứ-tự
& Số lấy theo Bát-Quái Hậu-Thiên:
- Thứ
tự của Bát Quái Hậu Thiên là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn,
Đoài; vận hành theo chiều thuận với kim
đồng-hồ.
Chỉ
riêng Bát-Quái Đồ Thiên đi nghịch
với chiều kim đồng-hồ, là nghịch chuyển, dấu hiệu Đạo về nguồn.
Về Số: lấy theo số của Bát-Quái Hậu-Thiên: Nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly.
theo
Thánh-ý của Thầy, có 4 phương chánh:
ĐÒAI Chánh Tây
CHẤN Chánh Đông
LY
Chánh Bắc
KHẢM Chánh Nam
Phương hướng của Bát-Quái Đồ Thiên
đặt nghịch chuyển với Bát-Quái Hậu-Thiên và lật ngược lại, nên bấy giờ khác hẳn
với Bát-Quái Hậu-Thiên là Ly ở Bắc, Khảm ở Nam.
*Tại sao Bát-Quái Cao-Đài phải đặt
nghịch chuyển với Bát-Quái Hậu thiên ?
-Thứ nhứt là đường Đạo phải đi nghịch lại như vậy mới gọi là trở về nguồn, Thầy
cũng dạy “Tu-hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng
gần ánh thiêng liêng”.
- Thứ hai là chính Thầy đã “chiết Khảm điền Ly phản vị Càn” chúng
ta sẽ bàn đến: vì trước đây Bát-Quái Hậu-Thiên là ở thời "Người tìm
Đạo" nên Ly ở Nam, Khảm ở Bắc. Ngày nay người Tu là "Đạo tìm
Người" nên nghịch chuyển. Cao Đài là Qui nguyên Phục nhứt, Thầy muốn nền
Đạo này là của Thế-giới Đại Đồng, lại nhằm cơ Đại Ân-Xá của Chí-Tôn nên việc tu
hành có phần rộng rãi hơn mới độ tận 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị và nền Đạo
có khả năng phổ truyền khắp năm Châu Thế giới.
Thầy đến chuyển đổi lại Khảm ☵ ở Nam, Ly ☲ ở Bắc. Do đó mà vị-trí
của các Cung Bát-Quái Đồ-Thiên nằm vào các hướng sau đây:
CÀN là hướng khởi ở Tây Nam
(thay vì Càn tam liên Tây Bắc Túât
Hợi của Hậu-Thiên)
Như vậy, Bát-Quái mà Giáo-Tông làm
chủ đây là Bát-Quái Đồ-Thiên, chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có; đó là
tổng hợp
của hai lý Âm Dương hỗn-hợp trong
cơ sanh biến Vạn linh. Vậy kỳ khai Đại-Đạo này Ngài đã đặt Ly lên Khảm và đặt
Khảm lên Ly để tất cả thành CÀN là vậy.
Trong nguơn hội mới của Đạo Cao-Đài người tu đúng nghĩa là phụng sự cho Vạn
linh tức Phụng sự Chí linh. Phụng sự Chí-linh là phụng sự Trời đó vậy.
Một người đứng đầu của nhơn sanh để giáo hóa nhơn-sanh là
GIÁO-TÔNG, nên“Giáo-Tông có quyền thay thế cho Thầy mà dìu-dắt con cái của
Thầy trong đường Đạo và đường Đời.”
Đường Đời đã chứng mình bằng Bát Quái Đồ Thiên
Đây là phương hướng của
BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN:
Kết luận
Trách-nhiệm Thiêng-liêng của Ngài Lê Văn Trung là được sự lựa chọn, đặt để
trước, giờ đến đây để làm sứ mạng, vì vậy bài thơ đầu tiên Chí-Tôn ban cho, xem
như là một bản-đồ được để trước mắt Ngài để nhắc nhớ, đồng thời nhơn-loại
nhìn vào đó để do theo cử chỉ, lời dạy của Ngài mà làm “bài học tắt” trong việc
tu hành.
Ngài chính là một trong những lương sanh được chọn để cứu vớt quần-sanh: Thế
nên bài thơ trên đủ yếu
lý:
- Câu 1 “Một trời, một đất, một nhà riêng” đó là đầy-đủ ý-tứ
trong các đồ hình về Bát-Quái Cao-Đài rồi.
- Câu 2 “Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ hiền” đó là
trách nhiệm giáo-hóa nhơn-sanh trong con đường hành thiện của kỳ ba
chuyển thế và cứu thế của Cao-Đài mà
Giáo Tông là ANH CẢ của nhơn-sanh.
- Câu 3 “Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng”.
Thiên-Thơ là quyển sách trời. Hiện nay trong cửa Đạo này chính là hai
quyển “Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển”, trong đó xuất phát những yếu-lý của Đạo là
TÂN-LUẬT và PHÁP CHÁNH TRUYỀN làm thước khuôn cho người tu-hành để thành Tiên
tác Phật. Vì tính cách quan-trọng đó nếu ai sửa đổi chơn truyền phải đắc tội là
vậy !.
Quyển sách nơi tay Ngài là hình ảnh của Ngài đặt trên bức Tượng ở mặt tiền
Đền-Thánh (nơi lầu chuông tức Bạch-Ngọc Chung-Đài) là cuốn Thiên-Thơ đó vậy.
Vai trò của Ngài là chuyển thế, cứu thế và bảo tồn Vạn linh…
- Câu 4 “Đạo người vẹn-vẻ mới thành Tiên”.
Bổn-phận của Giáo-Tông là giáo-hóa nhơn-sanh do theo Thánh-ý của Thầy, mục đích
dẫn dắt nhơn sanh trở về Thầy tức thành Tiên tác Phật, làm theo Đạo Trời
mà thôi.
a/- Sự mầu nhiệm của Bát Quái Đồ
Thiên:
Qua
đồ hình trên CHẤN ☳ Sổ 3 ở về
phương Đông. Dịch nói “Đế xúât hồ Chấn” nghĩa là vua ra ở cung Chấn, mà “Vua
Đạo” hiện giờ là hình ảnh của Giáo Tông đó. Quyền Giáo Tông là con Cả của Đức
Chí-Tôn về hữu hình. Phần vô vi là Đức Lý Giáo Tông. (rồi đến Di Lạc)
Cũng như con gái Út tượng cung Đòai ☱ (số 7) (Thiếu nữ) qua hình ảnh
Đức Phật Quan Âm, nhưng Phật Quan Âm thời này không đến được, mới ủy thác cho
Đầu Sư Lâm Hương Thanh thể thiên hành Đạo trong buổi này.
Thế nên, hiện giờ về vô vi:
- Thái Bạch Kim Tinh: Nhứt Trấn Oai
nghiêm
- Quan Âm Như Lai:
Nhị Trấn Oai Nghiêm.
Hữu hình: hai vị qua bức tượng trước Hiệp Thiên:
- Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung
(lầu Bạch Ngọc).
- Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh (lầu
Lôi Âm Cổ)
Khi Đức Hộ-Pháp Trấn Thần Tượng Đức
Quyền Giáo Tông và Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh, có dạy rằng: “Nhị vị ngự
thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh
giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức
Chí-Tôn”.
4-Tại sao lại có một số Chức sắc bỏ Đạo ?
THẦY dạy tại Cầu Kho ngày 19 Février 1927:
“Thầy vì lẽ công mà phong Chức sắc
cho mỗi đứa là cũng do Tòa Tam Giáo xin, chớ xem lại trong hàng Môn đệ đã thọ
tước cũng chưa đặng thấy mấy đứa cho xứng đáng. Vậy các con đứa nào đã được thưởng
phong cũng chẳng nên vội mừng mà quên phận sự; còn mấy đứa chưa đặng phong
thưởng cũng không nên vội buồn mà thất đạo tâm. Các con hiểu à ?
Thầy ước sao các con biết tự lập
thì Thầy mới vui lòng; chớ các con Nhập môn cho đông, lãnh Thiên phong cho
nhiều mà không đủ tư cách, thì các con phải tự hỏi mình coi có bổ ích vào đâu
chăng – Hiểu à !”
5- Lý thất phản cửu hoàn và giá trị các số:
Xem thế, Pháp Chánh Truyền qui con
số 3 là con số Thiên định, nhưng khi hành sự thì đây là sự biến dịch bởi con
người, dù biến đổi thế nào cũng trong vòng luật định của Thượng Đế mà thôi. Vì
vậy hình vuông ứng với cơ Âm. Điều này cũng cho ta thấy rằng:
- Trong hình ngôi sao, thực-tế là sáu cánh, nhưng có tâm ở giữa, cộng
chung là 7 điểm.
- Đồ hình có hai hình vuông
họp lại tuy có 8 mà có 1
tâm, thành ra 9 điểm.
Đây cũng trở lại số 7, số 9 tức là nằm trong lý “thất phản cửu hoàn”.
Vậy (7+9=16) trở về hai con
số Bát Quái, ấy là chỉ:
- Bát Quái Đồ Thiên (Thể pháp Thiên Đạo)
- Bát Quái Hư
vô (Bí pháp Thiên Đạo).
Hai
Bát Quái này chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có.
Hai số: 7- 9 giống như hình ảnh mỗi
người đều
có trên mặt:
Người
là một sản-phẩm hoàn hảo nhất của Thượng Đế: có trên mặt 7 khiếu Dương và ở
dưới hai khiếu Âm cộng chung 9 khiếu. Thánh nhân do theo nét chẵn, lẻ; Âm,
Dương đó để diễn-tả sự chuyển biến trong vũ-trụ này: nét đứt biểu thị hào
Âm, nét liền làm hào Dương.
Nhờ bảy khiếu Dương (khiếu là lỗ) ở trên mặt là dương-điển, nên tất cả con
người dù ở xứ nóng hay xứ lạnh đều chịu được thời tiết mỗi nơi khác nhau, nếu
khí Âm lên đến đầu hay mặt, là bịnh.
Phải chăng cũng vì lẽ ấy mà Đức Chí-Tôn trúât hai phẩm Giáo Tông và Chưởng Pháp
của Nữ phái ?
Con số bảy có liên-hệ đến thất tình và thất khiếu sanh quang của người. Do các
số này đã làm nên phương trình Đạo-học, đang áp-dụng trong thế giới lòai
người:
Xưa Phật chỉ độ phần Dương: tức là độ hồn mà không độ xác, độ tử không độ sanh,
độ Nam mà không độ Nữ; nên Phật-giáo chỉ làm tuần thất (7x7=49 ngày) nghĩa là
trong nghi thức cúng thì tính đến 7 ngày mà thôi.
Nay,
chính Đức Chí-Tôn mở Đại Đạo, là cơ quan
tận-độ
chúng-sanh, là thực hiện cả con số 9 (hình ảnh của toàn Cửu khiếu = 7 khiếu
dương +2 khiếu âm) tức nhiên kỳ ba này độ cả hồn lẫn xác, độ sanh
và độ tử, độ cả Nữ và Nam, độ toàn cả nhân-loại trên Càn khôn Vũ trụ, không
phân biệt giống dân, vì tất cả đều là con của Thượng-Đế.
Bởi thế, Thầy lập Cửu-Trùng-Đài là con đường
vào Cửu-Trùng-Thiên, từng bước lên nấc thang tiến-hóa qua Cửu-Phẩm Thần-Tiên để
đến Con đường Thiêng liêng Hằng Sống, theo Phật giáo là nơi
tuyệt-phẩm, là Niết bàn.
a/-
Sự liên quan đến Tòa Thánh:
Nhìn vào Đền Thánh có hình 7 chữ SƠN (thất sơn vô vi)
con số 7. Ngó ra phía trước là Cửu Trùng Thiên, con số 9. Hai
con số này cũng tạo nên con số “Thất phản Cửu hòan” vậy.
Nghi-thức
cúng kính của Đạo Cao Đài là làm tuần Cửu (9x9=81). Nghĩa là bắt đầu
từ ngày chết đếm đủ 9 ngày thì làm tuần một lần, mỗi lần cầu siêu như vậy là
đưa hồn lên một từng trời, qua 9 lần là đến chín từng trời. Tinh thần của
Đại-Đạo là nhất quán từ nghi-thức, cúng kính …tất cả đều do Đức CHÍ-TÔN
giáng dạy.
Thể-pháp của Đạo đã hiện hình Bí-pháp đó
!
Con số 9 là bội-số của 3 (3x3=9). Con số 3 là sự thành hình của vạn-vật định
thể, cho nên khi thể hiện đủ 3 nét liền đó là quẻ Càn ☰ tượng trưng sự tròn đầy, cao
cả, trong sáng, lớn mạnh: Là Cha, là Trời mênh-mông vô hạn. Trong khi đó
hiệp đủ 3 nét đứt, họp thành quẻ Khôn để chỉ một sự bao dung, đầm-ấm,
yêu-ái như tình mẹ thương con. Thế nên, dưới mắt người Á-Đông Càn là Cha, Khôn
là Mẹ; Là hai cánh cửa để đi sâu vào ĐẠO DỊCH .
Từ đây về sau những con SỐ đóng vai trò trọng yếu.
Do đó khi
ghép hai hình tam giác và hai hình vuông vào
vòng
tròn đó là thành hình của BÁT QUÁI ĐỒ THIÊN.
Phải chăng Đức Lê văn Trung là Quyền Giáo Tông, tức là chưa chánh vị, nên Thầy
giáng cho Thi là để xác định quyền hành của Ngài thêm vào Pháp Chánh Truyền:
b/-
Các con số biến-hóa đối với Ngôi vị
Đức
Quyền Giáo-Tông:
Thực-tế Ngài đã làm chủ con số 7, con số 7 là con số chỉ Thất tình đó vậy:
Bởi hàng Tiên-vị là gồm:
1
Giáo-Tông + 3 Chưởng-Pháp + 3 Đầu-Sư = 7 vị.
Nhìn
vào Bát-Quái Đồ Thiên thì số 7 là quẻ Đoài, Đoài ở chánh Tây, tượng hình là cái
miệng; miệng phát ra lời nói là chữ NGÔN 言 (7
nét) Có câu “đánh lưỡi 7 lần trước khi
nói”. Trong thời buổi này là thực hiện Cơ Phổ-độ chúng sanh, thì mới hoằng
dương chánh pháp trong thời Thầy khai Đại-Đạo. Tất cả các hình tượng con vật
đều hả miệng!
Số 7 là số ngưng kết: 1+2+4=7 tức là Thái cực cộng Lưỡng-Nghi và Tứ Tượng.
Thái-cực là Dương, Lưỡng nghi là cơ biến tướng, Tứ tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng
cơ biến tướng và sanh-hóa chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt
không có biến động, có nghĩa là trạng thái yên-tịnh ngừng nghỉ, nên nó cũng ám
chỉ vào thể Âm.
Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình, trong thân người nó
là Thất khiếu ở trên đầu. Số 7 ấy là do 3
ngôi
cọng 4 biến hay là 1+2+1+2+1 nên Vô-cực vi-chủ.
Nhưng, Giáo-Tông Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài tức là đứng đầu Cửu-phẩm Thần Tiên
là con số 9. Hai con số: 7 và 9 trong trường hợp này gọi là “Thất phản Cửu
hòan”. Thất phản là cứ chu-kỳ đi đến 7 là trở lại (như một tuần-lễ 7 ngày, giáp
một vòng lại trở lại), cửu hoàn là sự luân-lưu của sự biến dịch không ngừng
dứt. Cho nên nói “thất phản cửu hòan” là điểm mấu chốt: cùng cực cái động để
trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.
Ngôi số 1 là chỉ trời, là Thái-cực. Từ 1 sanh 3, ba sanh vạn-vật. Như vậy một
mà ba, ba cũng là một. Thế nên
ngôi
Giáo Tông có ba vị là vì lý do ấy.
Nhìn vào Bát-Quái Đồ Thiên thấy quẻ CHẤN mang số 3, chánh Đông, đó là biểu
tượng ngôi trời mà Giáo Tông thay Trời tạo thế “Đế xúât hồ Chấn” là con
trai trưởng.
Thử làm
một việc so-sánh quyền-hành của Giáo Tông có những điểm tương-đồng nào với lời
chiêm-đoán về Quẻ CHẤN mà tiền Thánh đã để lại cách đây hàng sáu ngàn năm coi
có trùng khớp với nhau không ? - Nếu trùng hợp nhau thì ngôi vị GIÁO TÔNG
quả là Thiên mạng !
c/- Việt Nam là Quốc-gia Thiên
định:
Đức Thượng-Đế cũng chuẩn-bị cho
Việt Nam có những điều-kiện để hoàn thành một Quốc-gia Thiên định, đó là Thất
sơn hữu hình ở Châu-đốc (con số 7) và Cửu Long-Giang (con số
9) tức là “Sơn tiền điểm long mạch” những con số ấy y như hình
ảnh của con người vậy.
Lại nữa các số này trùng hợp với số trên Bát Quái:
Số 3 (cung Chấn) là núi Tam Đảo ở miền Bắc.
SỐ
5 ở giữa là Ngũ Hành Sơn ở Quảng Ngãi; con số này là do tổng số của
hai số thuộc Chấn- Đòai chia hai (3+7: 2= 5) đứng vào Ngũ trung.
Số
7 (Cung Đòai) là dãy Thất Sơn ở miền Nam .
Đây là một trong nhiều yếu tố để Việt Nam trở thành một Quốc gia
Thiên Định: Thánh Địa trong tòan cầu
Các số: 3-5-7 nằm trên trục Đông- Tây của
đồ hình mang hai cung Chấn- Đòai, thật là mầu nhiệm: Ấy cũng là:
"Sở
dĩ Đức CHÍ-TÔN chọn đất nước Việt-Nam này làm
làm Thánh-Địa để Phổ-Độ chúng sanh
kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết hợp được tinh hoa của tất cả các nguồn Văn
minh trên thế giới, Việt-Nam là nơi tổng hợp các ngành đạo đức: Nho- Lão –
Thích và cũng là nơi gặp gỡ
của hai nền văn minh Đông
Tây".
d/- Khai triển các con số trong đồ hình:
Qua Đồ
hình trên các con số của Quẻ kết hợp lại có một giá trị vừa khoa học vửa mầu
nhiệm: đó gọi là Ma Phương số: Nhìn vào Bát-Quái này ta thấy ngay một bảng
ô số, đó là những con số ứng với các quẻ. Tỷ như số 1 là Khảm, 2 là Khôn, 3 là
Chấn, 4 là Tốn, 5 ở chính giữa, 6 là Càn, 7 là Đoài, 8 là Cấn, 9 là Ly. Gọi là
con số Ma phương vì nó hiện biến và thay đổi một cách lạ thường.
Bài thơ sau, cốt-yếu là cho dễ nhớ vị-trí các con số ấy, đọc theo hàng
ngang của bảng số, là:
Tứ
hải, Tam sơn, hội Bát Tiên
Cửu long ngũ hổ nhứt đoàn
viên.
Nhị tướng thất trì phò lục quốc.
Nếu cộng những số này theo các chiều ngang, chiều dọc, đường chéo đều được một tổng-số là 15. Nghĩa là có tất cả 8 lần tổng-số 15 như vậy: Thử xem:
8 lần tổng-số 15 như vậy có nhiều ý-nghĩa:
Từ đó suy ra các việc ứng nghiệm trong đạo pháp:
Sở dĩ
có các con số tương ứng này là lấy theo số của Bát Quái Hậu Thiên mà các bậc
tiền Thánh đã lập ra trước đây 6.000 năm, là nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ
Tốn, Ngũ trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly. Do vậy mà Bát Quái Hậu
Thiên chỉ có 9 con số mà thôi. Dịch quan trọng ở Nho, Y, Lý, số.
Suy
ra: Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì: ngày 15 tháng 8
- 8 lần tổng-số 15: Lấy số 15 làm ngày, số 8 làm tháng là Đại Lễ Hội Yến Diêu
Trì Cung của Phật Mẫu hằng năm. Theo Âm lịch là ngày 15 tháng 8 (Rằm Trung
Thu). Bởi mùa Thu là mùa gặt hái. Phật Mẫu sản xúât ra Bát phẩm chơn hồn
(Họăc 3 lần con số Ngũ: ngũ Khí, Ngũ hành, ngũ Tạng )
*Ngày
Khai Đạo:
- Nếu
cộng như trên các số qua tâm của hình, nhưng
không
cộng số 5 ở giữa, sẽ có các tổng số là 10:
4+6
=10, 3+7=10, 8+2=10, 1+9=10.
Họp hai số 15 và 10 ở trên lại sẽ là ngày Khai Đại Đạo (Rằm tháng 10). Tổ chức
hằng năm tại Tòa Thánh.
*Đại
Lễ Chí-Tôn: 9 tháng 1 (Giêng)
Hai quẻ Khảm Ly là cái dụng của Càn – Khôn là Đạo của Trời, mà Trời vốn tự hữu
hằng hữu nên lấy hai con số này làm biểu tượng cho ngày Đại Lễ Đức Chí-Tôn:
Số 1 là Thái Dương của Bát Quái Tiên Thiên
Số 9 là Thái Dương của Bát Quái Hậu Thiên.
Nói cho
đúng phải là “Đại Lễ Đức Chí-Tôn”, “Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung” chứ không nói
là “VÍA” được, vì các Ngài là Đấng tự hữu, hằng hữu, không có ngày
sanh, tử.
d/- Số Ma phương kết thành chữ ĐIỀN 田
Hình
vuông trong đồ hình có dạng chữ ĐIỀN 田 nghĩa
là ruộng. Ruộng bên ngòai sản xúât lúa gạo nuôi thể xác. Ruộng trong Tâm là nơi
sản xúât mọi hiểu biết, khôn ngoan, là túi khôn của lòai người dùng tô điểm cho
đời mỗi ngày thêm xinh lịch. Nhất là người Đạo Cao Đài giờ này Đức Thượng Đế
khai thác “Tâm Điền” một cách rộng rãi và để cho người người gặt hái: chính là
triển khai tất cả các Bát Quái làm hành trang cho lúc còn sanh tiền một triết
lý cao siêu, mà hữu ích cho chuyến “hồi quê” nữa.
Chính
đây là hai quẻ CÀN ☰ KHÔN ☷ kết hợp lại.
D- Giáo-Tông làm chủ hai Bát-Quái Cao Đài:
Pháp-Chánh-Truyền Chú-giải có dạy rõ về quyền hành của Giáo-Tông:
“Trên đây Thầy đã nói rằng: có quyền dìu-dắt
trong đường Đạo và đường Đời, thì Thầy đã chỉ cho rằng có quyền
dìu-dắt các con cái Thầy trên con đường Đạo đức của chính mình Thầy khai tạo và
trên con đường Đời cơ Đạo gầy nên, chớ chẳng phải nói trọn về phần Đạo và
phần Đời nghĩa-lý phân biệt nhau duy chỉ có chữ ĐƯỜNG và chữ PHẦN, xin rán
hiểu đừng lầm hai chữ ấy.”
Điều
này đã báo cho biết Đạo Cao-Đài có đến 4 Bát Quái, chứng tỏ thời THƯỢNG NGUƠN
TỨ CHUYỂN, trách-nhiệm của Giáo-Tông là chỉ đảm nhiệm hai Bát Quái Cao-Đài nói
về THIÊN-ĐẠO mà thôi, có nghĩa là Đức Chí Tôn mở Đạo kỳ này cho thêm hai Bát
Quái nữa tức là tạo con đường trở về, là con đường cho nhân loại được thành
Tiên tác Phật trong nguơn hội mới. Nói rõ hơn đó là Chơn pháp, Chơn-truyền của
Đại Đạo do Đức Chí Tôn khai mở.
-
Vậy Đường ĐẠO là Bí-Pháp của Thiên-Đạo,
-
Về Đường Đời là Thể-pháp của Thiên-Đạo.
Thầy
nói rõ “Nghĩa lý phân biệt nhau duy chỉ có chữ “Đường” và chữ “phần”
xin rán đừng lầm hai chữ ấy”.
Riêng
về quyền hành của ĐẦU SƯ thì chữ “Phần”
- Bởi
phần Đời của Thế Đạo, tức nhiên là Thể-pháp, tượng trưng Bát Quái
Hậu-Thiên.
- Phần
Đạo của Thế đạo là Bí-Pháp, tượng trưng Bát Quái Tiên Thiên (cả hai
thuộc về Thế-đạo)
Hai Bát-Quái này đã có cách nay 6.000 năm do Vua Phục-Hi sáng tạo, rồi đến
Văn-Vương, Châu-Công, Khổng Tử tiếp tục bổ cứu thêm, còn lưu lại đến ngày nay.
Giờ
phút này Đức Chí-Tôn đến ban cho nền Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam-giáo Qui nguyên
Ngũ Chi Phục Nhứt, không phải Ngài hủy bỏ các Bát-Quái ấy, mà chính là do theo
các Bát-Quái trước đây rồi mở thêm hai Bát Quái mới nữa, tức là tạo cho
nhân-loại một con đường trở về trong Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống an-nhàn.
Nay,
nhiệm-vụ của GIÁO-TÔNG là đảm nhiệm hai Bát-Quái Cao-Đài này, chính là
thực hiện cho được con “ĐƯỜNG THIÊN ĐẠO”.
- Đường
Đời tức nhiên Thể-Pháp của Thiên đạo là Bát-Quái Đồ thiên (khai triển ở quyền hành Giáo Tông "giáo hóa
nhơn sanh").
- Đường
Đạo tức nhiên Bí-pháp của Thiên-Đạo là Bát-Quái Hư-vô (thành hình trên Tiểu phục Giáo Tông)
Hơn nữa, Pháp Chánh-Truyền đã
qui-định:
“Giáo-Tông
thay mặt cho Thầy đặng bảo-tồn chơn đạo của Thầy tại thế thì Anh Cả nhơn-sanh
đặng dìu-dắt con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi quyền Thiêng liêng
đã định vậy”.
Trong
Hội-Thánh có chia ra hai phần hữu hình là
Cửu-Trùng-Đài
và Hiệp-Thiên-Đài:
Đây là hệ-thống tổ-chức của Cửu-Trùng-Đài từ trên xuống dưới là: cơ
quan giáo hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa theo ba bực, mỗi bực
có ba phẩm.
- Như trên đã nói về hàng Tiên-vị: tượng
trưng bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn
hết.
Các phẩm cấp lần-lượt từ: Tiên-vị, Thánh-vị rồi đến Thần-vị theo như Pháp Chánh
Truyền qui định.
Như
vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy về đường Đạo và đường Đời rằng:
- “Thể-pháp của
Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho
chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức
Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”
Ông
Lê Văn Trung là Qu. Giáo-Tông hữu hình
Ngày
03-10-Canh Ngọ (dl: 22-11-1930) Đức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệp với Đức Hộ Pháp
ra Đạo Nghị Định thứ hai, ban Quyền Giáo-Tông hữu hình tại thế cho Ngài Đầu Sư Thượng
Trung Nhựt; Đức Lý là Giáo Tông vô vi. Bấy giờ Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung
là Giáo Tông hữu hình thì Đức Hộ Pháp lo về vô vi.
Đức Lê văn Trung chưa vào Giáo Tông chánh vị: Đức Lý Giáo Tông nhường phân nửa
quyền hành Giáo Tông cho Ngài Lê Văn Trung điều khiển phần hữu hình, còn Giáo
Tông thiêng liêng vẫn do Đức Lý nắm giữ. Khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung
qui Thiên, Đức Lý đem nửa quyền hành Giáo Tông hữu hình ấy giao cho Đức Hộ
Pháp, nên Đức Hộ Pháp lúc đó là Chưởng Quản Nhị Hữu Hình
Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế.
Giáo Tông có hai: vô vi và hữu hình tức hiệp đủ Âm Dương. Hộ Pháp đứng giữa
thành ra Tam tài, Hộ Pháp là tượng chữ KHÍ là cơ Hòa. Lưới Trời thật nhặc nhiệm
!
Đạo
Nghị Định thứ 2 thăng phẩm Quyền Giáo
Tông
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ Ngũ niên)
Chiếu theo Pháp Chánh Truyền ban quyền hành cho Giáo Tông và Hộ Pháp,
Nghĩ vì chư Chức sắc Thiên phong có quyền đặc biệt ngoài luật đã định, còn
quyền hành Hội Thánh nữa.
Nghĩ vì
thiếu luật Hội Thánh nên quyền hành chánh chẳng đặng vẹn toàn.
NGHỊ
ĐỊNH
-
Điều thứ nhứt: Ban quyền hành
cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về
phần xác, còn phần thiêng liêng có Lão.
- Điều
thứ nhì: Chức sắc Cửu Trùng Đài, duy
bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần Chánh trị của Đạo, song
đặng thế mặt cho Đầu Sư, đương buổi Người cầm quyền Giáo-Tông của Lão.
-
Điều thứ ba: Mọi việc chi thuộc về
quyền Chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư.
-
Điều thứ tư: Chánh Phối Sư đặng trọn
quyền thông công cùng Chánh phủ và nhơn sanh, nhưng buộc phải có Hội viên Nhơn
sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.
-
Điều thứ năm: Nghị Định nầy sẽ ban
hành vào ngày 15-10-Canh Ngọ.
Làm tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 03-10-Canh
Ngọ.
GIÁO
TÔNG
HỘ PHÁP
Lý Thái
Bạch
Phạm công Tắc
Về lại nhà [1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét