Ðạo Sử Xây Bàn - 11 / 16 (Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)


Ngày 03-01-1927 (âl. 30-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 03 Janvier 1927 (30-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt,
đem người Thổ nhơn bịnh vào tới nữa.... đem một chén nước cho uống... Lui.

Oan nghiệt, đời vì có biết tội, không biết phước vì nghiệt chướng bên mình. Than ôi! Biết bao giờ cho hết oan oan tương báo.
Giữ Ðàn nghiêm như vậy đặng Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con,
Chư Môn Ðệ bình thân. Thâu sớ Thổ nhơn.
Trung, đứng. Thổ nhơn... lui. Nữ phái thượng sớ. Hiếu, hành lễ con.

                          Quế:
Quế hương đưa ngát một mùi thơm,
Chẳng biết trọng thân để dạ hờn.
Lớn thế còn ngày mòn mỏi thế,
Nay hơn sau có biết buồn hơn.
                                                                                                             Thâu
   Toàn thâu: 202 Nam, 46 Nữ, 3 Thổ nhơn = 251.

Ngày 04-01-1927 (âl. 01-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 04 Janvier 1927 (01-12-Bính Dần).
THẦY
Các con,
Trung, hỏi chi con? Trung bạch về sự Cơ Bút tại Trà Vinh....

Thầy hiểu, Tín không tội lỗi chi, duy tại lũ cầm cơ không huyền diệu, dám cả gan học chước muốn làm "Tả Ðạo Bàng Môn". Thầy đương coi quỉ mị dối danh làm cho chúng nó phải điên cuồng, con phải nói cho Tín nó hiểu.
Chi nữa? Trung bạch về sự Giác Hải và Thánh Thất....
Thầy chẳng qua yêu mến Ðạo Thuyền, quyết gom tóm các con lại làm một, nên giữ Thánh Thất đến ngày nay đặng qui tụ các em con nó đến cho đủ mặt.

Như Thiên Cơ phải y như lời xin của Phổ Hiền Bồ Tát thì chẳng ép lòng bỏ chết phái ấy. Thầy sẽ coi ngày Như Nhãn dời Thánh Thất lại thế nào rồi mới trả. Phần nhiều trong các con chẳng vừa lòng Thánh Thất, nguyện xin trả lại. Thầy sẽ dạy Thơ.
Thái Bạch sẽ lập Thánh Thất theo kiểu vở Thiên Ðình.
Thầy ban ơn cho các con.

Mardi 4 Janvier 1927 (01-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình thân.
Thượng Trung Nhựt, kêu ai cầu riêng việc Lão cho vào.... (Có người lầm Lý Ðại Tiên là Thầy...). Lão chẳng phải là Thầy, đừng xưng hô lộn. Ðạo muội khá nhớ Hóa đương tìm tòi gặp Chơn Tiên.... Cười....
                          Hóa:
Hóa đương tìm tõi gặp Chơn Tiên,
Ðạo muội đừng lo chác dạ phiền.
Lưng trống đôi ngày về Ðốc Bản,
Thìn lòng nhớ lấy Lão lời khuyên.

Ðửa, từ đây Lão cấm Hiền Hữu uống rượu nghe.... như phạm giái Lão trục xuất nghe à.
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu không tuân mạng lịnh Lão há?
Ðuổi Quới nghe à.... Chỉnh Ðàn Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Chư Môn Ðệ Nữ phái thượng sớ. Chư Môn Ðệ bình thân. Hiếu hành lễ.

               Phan Thị Lài:
Lài thơm đâu để mọc ngoài rào,
Hiền đức đâu dè đến đổi sao?
Chẳng biết tu tâm thân đến thế,
Như ao mắc gió mặt lao xao.
                                                              Thâu
               Lang:
Lang dương gặp lúc gió xuân qua,
Cảnh cũ đường xưa lập nghiệp nhà.
Mơ mộng đừng chờ Trời để lộc,
Sanh tài phải đủ sắc tài ba.
                                                                                                 Thâu
               Lê Văn Thiệt:
Thiệt hư là tiếng thế đưa oan,
Chẳng rõ cho xa để trí bàn.
Thương ghét chưa ai đem khỏi sự,
Răn đời lấy một tấc gan vàng.
                                                              Thâu
               Trần Thị Hương:
Hương huê đã nực bóng thiều qua,
Tưởng chút nghĩa xưa thắt ruột rà.
Cảm lối mây giăng ngô ngã bóng,
Tư tư nết hạnh phú trăng già.
                                                              Thâu
               Lê Thị Số:
Số mạng đào hoa sức gió dồi,
Tưởng thân đến thế nghĩ thì thôi.
Người sang mình bận điều nhằn nhọc,
Phối nghĩa cùng người bạc quá vôi.
                                                              Thâu
                          Nhứt:
Nhứt đem nhẫn mảng độ canh gà,
Từ buổi xuân xanh đến tới già.
Mang mển nợ đến vai nặng trịu,
Còn thân còn chịu mối ta bà.
                                                              Thâu
               Lưu Thị Chuộng:
Chuộng danh đã đặng gặp danh chưa,
Hay nỗi ở ăn của bỏ thừa.
Một cảnh một tình xưa chẳng chịu,
Mang câu tuyết ngọc ít người ưa.
                                                                         Thâu
               Nguyễn Thị Vi:
Vị tình nên phải phận nghèo hèn,
Lòng dạ như dường Lão cũng khen.
Rán ở cho bền lòng đạo đức,
Ðường Tiên sau cũng gặp người quen.
                                                                         Thâu
               Lê Thị Hay:
Hay lo những chuyện gọi bao đồng,
Một tánh mạng mình tính chẳng xong.
Lo nợ đôi thân đôi ngoại nội,
Lo con lo cháu tới lo chồng.
                                                                         Thâu
               Nguyễn Thị Lợi:
Lợi không ích kỷ lợi Trời ban,
Phải tính trí kia xử vẹn toàn.
Cứu khổ trợ nguy âm chất chuộc,
Dầu không ngôi báu cũng giang san.
                                                                         Thâu
               Phan Thị Bề:
Bề ăn cách ở đã an nơi,
Cuộc thế dường ni đủ toại rồi.
Mua Sở bán Tần nương cảnh thế,
Ngàn muôn giàu lớn hạn nơi Trời.
                                                              Thâu
               Huỳnh Thị Thới:
Thới lai bỏ lúc khổ khi xưa,
Những đức tài đông phải tính vừa.
Thương khó khá nhìn mình thuở trước,
Chơi sang mặt quí giúp cơn mưa.
                                                                         Thâu
               Khu Thị Tại:
Tại hay quá đổi mới hư nhà,
Chẳng biết lợp nhà lúc gió qua.
Trốc lá như ai chơi khuấy rối,
Lủng chuồng kẻ trộm đến quơ gà.
                                                                         Thâu
               Ðoàn Thị An:
An bề sửa trấp với nâng khăn,
Ðã đính nghĩa nhau cũng tiếng rằng.
Lo lắng chung cùng lo lập nghiệp,
Lo chàng dù lộng thiếp đai cân.
                                                                          Thâu
               Lê Thị Tịnh:
Tịnh tâm con khá gắng công tu,
Cái nợ duyên kia chớ vận trù.
Kẻ biết Ðạo Ðời thì ít mặt,
Những quân xảo láo hiếm phàm phu.
                                                                         Thâu
               Vựa:
Vựa vàng chưa ắt để cho con,
Chứa đức muôn năm hưởng cũng còn.
Nếu tính tham tâm giành giựt mãi,
Dầu giàu như núi cũng tiêu mòn.
                                                                         Thâu
               Nghĩa:
Nghĩa nhơn con khá giữ lòng lành,
Hễ tính sự ra ắt sự sanh.
Mình muốn an vui đừng nhọc trí,
Ham theo tục thế vụ đua tranh.
                                                                                                 Thâu
Toàn thâu: 38 Nam+18 Nữ+17 Thổ nhơn =73.

Ngày 05-01-1927 (âl. 02-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercredi 05 Janvier 1927 (Mùng 2-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thổ nhơn vào hầu. Thâu.
Nữ phái thượng sớ. Hiếu Hương hành lễ.

                          Ðiều:
Ðiều hay lẽ phải đã tường nghe,
Phước tội đôi bên khá dặt dè.
Trăm phước chưa hay lòng chí thiện,
Lựa là trên gió mảnh hương hoe.
                                                              Thâu
                          Nhàn:
Nhàn trung kiểm điểm sự bình sanh,
Gương bể chưa ai kết đặng lành.
Muôn đức tiêu hao vì một ác,
Chẳng ai giữ vẹn nợ ba sanh.
                                                              Thâu
                          Ca:
Ca diêu đã ví giấc Nam Kha,
Kiếp sống dữ răn nết vạy tà.
Chít mát oan gia đôi lứa cách,
Chẳng lo tu tánh đặng từ hòa.
                                                                                                 Thâu
   Toàn thâu: 42 Nam+17 Nữ+3 Thổ nhơn = 62.

Ngày 06-01-1927 (âl. 03-12-Bính Dần): Ðức Chí Tôn & Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn & Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 06 Janvier 1927 (3-12-Bính Dần). Vĩnh Nguyên Tự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ. Lịch ngã nhậm ngôn.
Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn nhập cơ Lê Văn Tiểng.

NHƯ Ý ÐẠO THOÀN CHƠN NHƠN GIÁNG CƠ
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, Chúng Ðẳng thính ngã.
Ðạo bất vị tế hưởng, vi hiếu giả.
Ngã thị nhứt sanh bất tri Thiên ý, hành Ðạo vô công. Nhị Ngọc Ðế ái chư quần sanh như phụ ái tử. Ngã vấn hà tất, vĩ di công quả hồ?

Nhứt nhơn biến nhị, nhị biến thập; thập biến bá, bá biến vạn, vạn biến hằng hà sa số nhơn sanh. Nhơn sanh nhứt nhứt hữu chơn thần. chơn thần thị Thiên; Thiên giả hà tại.

Thiên giả tại tâm. Ðắc nhơn tâm tấc đắc Thiên ý... tri hề.....
Ðạo dĩ khai thời kỳ bế môn, tụng niệm di vãng. Cửu thập nhị nguyên nhân kiêm triêu đọa lạc tại thế bất thoát mê đồ. Bất tri Chơn đạo, đẳng chúng bất độ, hà thế thành Ðạo hồ? Vật dĩ cựu luật vi căn bổn hội đắc Tam Kỳ Phổ Ðộ, nhứt thuyết chúng sanh hữu căn hữu kiếp đắc kỳ qui vị, vật dĩ trí tri văn chương bác ái, ngộ kiếp đắc qui Phật vị.

Ngã vấn cổ ngữ hữu ngôn, thiên tâm vô ngữ, luật tại trị thế, nhơn nhơn bất tu bất thành Ðạo, tu giả hà vi.
Tu giả độ nhơn, độ nhơn độ kỷ, độ kỷ độ Cửu Huyền Thất Tổ, thị chi hiếu giả.
Ngã thường giáng cơ tại thử, khả tái cầu giáo Ðạo.

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu,
Bình thân. Chư Nhu thượng sớ, Thổ nhơn trước. Thâu....
Bính xin thuốc cho chị. Cười..... đau thì uống thuốc, chẳng chi lạ. Kiếm lá cách đốt với da trăn, bỏ vào tán chung lại chưng cách thủy; lấy nước cho bịnh nhân ngậm, nuốt nước lần lần thì khỏi.
Thượng sớ.

                                      Kỳ:
Kỳ tâm đã sẵn tánh ôn nhu,
Ðưa bước rừng văn đã tối mù.
Ðai mão chưa quen đường hoạn lộ,
Công linh rèn dạ lắm công phu.
                                                              Thâu
                                      Chỗ:
Chỗ riêng chớ để kẻ dòm hành,
Thà rách mà cam phận rách thanh.
Giữ nghĩa xưa còn chia tấm mẳn,
Nay không đành kết bạn đua lành.
                                                              Thâu
                                      Hạc:
Hạc mây nhẹ túi gánh phong ba,
Biết hết Thần Tiên phải phế nhà.
Ðặng cảnh Bồng Lai xưa ít khách,
Nhẫn ngờ Lục Ðộng bước ta bà.
                                                              Thâu
                                      Oai:
Oai linh cửa Ðạo sấm rền Trời,
Thương kẻ có tròng lại chẳng ngươi.
Một trái địa cầu chưa mấy nặng,
Nâng luôn thế giái một tay dời.
                                                              Thâu
                                      La:
La lết mà theo cũng cuối đường,
Thấy người tâm Ðạo chạnh lòng thương.
Phất trần đưa sẵn bền tay níu,
Cửa tịnh đã đành phận náu nương.
                                                              Thâu
                                      Hiệp:
Hiệp sức làm đôi tát biển Ðông,
Tuy không phải vợ cũng ông chồng.
Riêng lòng thì ắt ra riêng nghiệp,
Phải phải phân phân khá giữ đồng.
                                                              Thâu
                                      Học:
Học hỏi làng văn rất nhọc nhằn,
Cũng như đường Ðạo bước xung xăng.
Một ngày qua khỏi không lui lại,
Kẻ bước khỏi tu hết ngại ngần.
                                                              Thâu
                                      Bầu:
Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,
Mình quê chưa ắt biết cao sang.
Tẻ vui thú vị riêng mùi hưởng,
Ðừng tưởng vinh hoa khó phụ phàng.

   Toàn thâu: 42 Nam+ 7 Nữ+ 17 Thổ nhơn = 66.

Ngày 07-01-1927 (âl. 04-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Vendredi 07 Janvier 1927 (04-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình thân. Kêu Thổ nhơn vào. Thâu.
Nữ phái thượng sớ.

               Hiếu Hương, Hiền Muội hành lễ.
Trà mi đã ngậm nửa vành rồi,
Một kiếp nhơn sanh đến đó thôi.
Lo đạo đức dồi lo kiếp tới,
Còn chi mong mỏi sự chơi bời.
                                                              Thâu
                          Tý:
Tý thời nghịch lẫn Ngọ đưa oan,
Mấy lúc chung lo cái vẻ nhàn.
Nỗi nợ nỗi duyên đưa thảm đến,
Thành gia nào kẻ dạ ưu toan.
                                                              Thâu
                          Niên:
Niên canh chẳng hiệp mạng nghèo hèn,
Bởi đạo đức nhiều mới lấn chen.
Ðổi thế chẳng người lo giữ phận,
Chánh tâm Thiên Ðịa để lời khen.
                                                              Thâu
                          Chuốc:
Chuốc trau cho vẹn đạo Tam Tùng,
Chẳng quí phận chàng thiếp chịu chung.
Hương lửa ba sanh Trời đã định,
Căn duyên phải phận giữ cho cùng.
                                                              Thâu
                          Kiểu:
Kiểu chăm gia nội đặng an rồi,
Phải biết xét mình đến đó thôi.
Sau đặng nên nhà công chớ nại,
Khiến điều oan trái chớ than ôi.
                                                              Thâu
                          Sảnh:
Sảnh sẹ hay lo gánh việc người,
Công linh chẳng để tỉnh thân ngươi.
Quen trò khi bạn lời ganh ghét,
Nể mặt không kiêng có Ðất Trời.
                                                              Thâu
                          Nguyệt:
Nguyệt tà bóng lặn ngã Tây hiên,
Hỏi cớ gì đâu chịu nỗi phiền.
Trước chẳng nghe thân đôi lúc khó,
Nay đem thân gởi cửa vô duyên.
                                                              Thâu
                          Nguyện:
Nguyện lo cho hết nợ song thân,
Cái khó nhọc kia đã định phần.
Phẩm gái chưa ai toàn chữ hiếu,
Nên mình phải vẹn nợ thâm ân.
                                                              Thâu
                          Nghi:
Nghi nan chớ chác lấy lòng phàm,
Hễ biết Ðạo mầu mới biết ham.
Mắt thịt thấy Trời coi thấp chủm,
Hỏi ai cho thấu Ðạo khôn tầm.
                                                              Thâu
                          Còn:
Còn thân còn nợ cõi trần nầy,
Cứ nhướng mắt tìm cảnh hạc mây.
Cõi tục đã rằng là tục thế,
Bồng lai nào phải nước non nầy.
                                                              Thâu
                          Tư:
Tư lự không qua số mạng Trời,
Phải tìm cảnh tịnh mới an nơi.
Ðưa chơn hiềm nỗi đời gai góc,
Khó nỗi đi tu khó ở đời.
                                                              Thâu
                          Mực:
Mực ngay khó nỗi đoán cây cong,
Biết chút công tu đặng thoát vòng.
Thế sự ép oan thêm buộc nghiệt,
Ðời kia với Ðạo chẳng so đồng.
                                                              Thâu
                          Lan:
Lan chung cỏ chạ ít ai tường,
Bởi kẻ hiền lương chác nỗi thương.
Thương mẹ thương cha thương chủng tộc,
Thương Tông thương Tổ hết Môn Ðường.
                                                              Thâu
                          Quí:
Quí sang mặc kẻ võng dù riêng,
Phận bạc lo cho hết kiếp khiên.
Lớn thế tùy người là lớn chức,
Mình là phần khó khá tùy duyên.
                                                              Thâu
                          Võ:
Võ môn mấy lượt đã từng qua,
Nên nghiệp giang san bởi chữ hòa.
Ðịnh thế nên hư lòng chẳng đổi,
Ðoán thời cách bức lánh chơn ra.
Nước non vùng vẫy đem thân gởi,
Vàng đá làu làu tấm thiết tha.
Ôm ấp gánh đời đời há biết,
Thương lang nước Thánh tấm thân già.
                                                                         Thâu
                          Chỗ:
Chỗ hiền khá gởi mảnh thân sau,
Chẳng giữ Ðạo nên phụ kẻ giàu.
Mấy mối oan gia còn trước mắt,
Chẳng ghê nghiệp chướng kiếp mình sau.
                                                                         Thâu
                          Lễ:
Lễ kinh đã dạy kính nhường người,
Cái thói kiêu căng chẳng khó noi.
Bực Thánh Châu Công xưa vẹn đức,
Nếu kiêu đời chẳng gọi nên người.
                                                                                                 Thâu.
                          Khuê:
Khuê tinh chiếu diệu tại Tây phương,
Phải biết ăn năn Ðạo liệu lường.
Phẩm giá người cao sa xuống thấp,
Phải coi thời thế lánh tai ương.
                                                              Thâu
                          Sáng:
Sáng trăng nhà nội chẳng hơn đèn,
Mặc kẻ cười đời tiếng để khen.
Múc biển dùng ngao thương trẻ dại,
Láo lua lấc xấc tánh từng quen.
                                                              Thâu
                          Nghĩa:
Nghĩa kia khá trọng quá hơn vàng,
Biết đặng mình sang ấy mới sang.
Dầu khó bữa mơi lo bữa tối,
Nghĩa gìn trọn Ðạo ấy giang san.
                                                                                                 Thâu
   Toàn thâu: 48 Nam+ 14 Nữ+ 7 Thổ = 69.

Ngày 08-01-1927 (âl. 05-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 08 Janvier 1927 (05-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu khá nói cùng kẻ đến đây chẳng tâm Ðạo, chỉ đến cầu gia đạo và cầu thuốc, biết rằng: Ðây vốn là Ðền thờ Ngọc Ðế chớ chẳng phải là nhà thương hay là tiệm bói, nghe à!....
Thượng Hoài Thanh! Vì lời nguyện Hiền Hữu, Lão vị đó chút.

               Hứa Thị Quý:
Long cốt mộc dung bả nhứt chi,
Xà bì phàn vị hiệp trần bì.
Mật phong tu thủ dung hồi vị,
Kỳ thọ hàm dương mãn nhựt thì.
               Hứa Thị Mục:
Lao tâm hỏa vọng thượng đầu tiêu,
Khả dụng lục căn hiệp mộc điều.
Khử hỏa thủy tu tam xích hiệp,
Nhãn trung tẩy uế nhựt hoan thiều...
               Hứa Thị Lang:
Thanh chi bạch truật hiệp sài hồ,
Phấn tuyết tùy thời đải thiệt cô.
Nhứt nhựt khả dùng tam đảnh được,
Tam viên bất nạp hữu phong hồ.
               Trì:
Nể nữ song quang hỏa lậm trung,
Bất cầu vượt thế khả Thiên tùng.
Nhứt tâm khẩn đảo Cam Lồ thủy,
Hòa hiệp nhứt tràng bạch lão ông.

Nghe à ...
Thượng Hoài Thanh, Hiền Hữu mời phu nhơn của Hiền Hữu kiến ngự Thầy khi chư Nhu xuất ngoại.
Tường cũng vậy. Thổ nhơn thượng sớ.... Nữ phái loạn Ðàn há?

                          Anh:
Anh phong nhứt thế chiếm quan trường,
Hữu thế hữu thời Ðạo khả dương.
Niên ngoạt nhựt thì Thiên dĩ định,
Hữu căn tắc hữu định cao lương.
                                                              Thâu
                          Viết:
Viết thầm thì ắt hóa văn hay,
Có chí bình sanh ắt có tài.
Muôn một ít đời lòng khá nhớ,
Trị nhà phải nhớ nước non dài.
                                                              Thâu
                          An:
An thân ngự đặng chốn cân đai,
Hai chữ vô tư rán sức nài.
Nở mặt Tông đường gìn đạo đức,
Nên mình là biết phận làm trai.
                                                              Thâu
                          Thiền:
Thiền môn hữu số khả trì tâm,
Chơn Ðạo lưu niên hữu chí tầm.
Thánh hạnh mạc vong ưu thế tận,
Thiên thơ dĩ hứa phận cao thâm.
                                                              Thâu
                          Vưng:
Vưng theo sở lượng của Thiên Công,
Cửa tuyết chen chơn lánh khỏi vòng.
Nặng vẻ công danh thêm nặng phận,
Thà ôm cầm đến chốn rừng tòng.
                                                              Thâu
                          Tú:
Tú cẩm chưa khoe đặng rỡ màu,
Rán theo đạo hạnh lập thân sau.
Nghèo hèn đừng đổi lòng thành thật,
Mới đặng khi may mặc cẩm bào.
                                                              Thâu
                          Sum:
Sum sê trước cửa quế hòe đưa,
Tuổi ấy đi tu gẫm cũng vừa.
Mượn nước Cam Lồ lau tục trái,
Ðường Tiên nẻo Phật sớm đưa chơn.
                                                              Thâu
                          Ngà:
Ngà ngọc chưa phen đổi đức tài,
Giá trong ai dám độ nên hay.
Mình vàng chưa phải toàn trong sạch,
Biết chữ chưa hay đủ gọi tài.
                                                                                                 Thâu
   Toàn thâu: 30 Nam+ 8 Nữ = 38.
   Thầy ngự, mời chư Nhu ra hết khỏi Ðàn. Ðóng cửa lại.

Ngày 09-01-1927 (âl. 06-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Dimanche 09 Janvier 1927 (06-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt bình thân. Thổ nhơn ... thâu. Nữ Thổ nhơn vào. Ðem con chúng nó vô. Ðem con nó lại gần. Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu khá nói lại với kẻ đến đây chẳng tâm Ðạo, chỉ quyết đến bói, ra khỏi Ðàn, để Lão đuổi bị nhục đừng trách, Nam Nữ cũng vậy.

Kẻ muốn xin Lão chẳng cho; kẻ không xin Lão cho; ấy cũng là một phương pháp phạt răn những kẻ vô Ðạo thôi. Thượng sớ.

                          Phú:
Phú hữu thiên gia bất thoát trần,
Vinh thê ấm tử độ cô thân.
Hào gia hữu sở thiên niên đọa,
Bất dĩ nhơn sanh, bất dĩ Thần.
                                                                         Thâu
                          Nhạn:
Nhạn trầm có thuở nhạn cao bay,
Tài đức vinh huê cũng có ngày.
Rường cột mặc ai đưa nổi núi,
Mình chen vào đám phế cân đai.
                                                                         Thâu
                          Hườn:
Hườn hành Hớn thất buổi xưa sao,
Chẳng vững giang san chúng đổ nhào.
Ít đức Ðạo cao thêm vẻ gấm,
Thần Tiên Thánh Phật cũng như nhau.
                                                                         Thâu
                          Dụng:
Dụng nhơn chẳng khác dụng cây sang,
Quí trọng cùng chăng một buổi nhàn.
Ðế nghiệp vào tay chưa đủ phước,
Chẳng bằng vai quảy trọn giang san.
                                                                         Thâu
                          Huất:
Uất lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng là một trả đổi xưa vay.
                                                              Thâu
                           Văn:
Văn chương cái thế mãn đời còn,
Ðức hạnh vững bền sánh nước non.
Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,
Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.
                                                              Thâu
               Khách Trú Ðịnh:
Thiên nhiên tánh đức chí công bình,
Hữu số hám tâm thủ địa linh.
Qui phục kim môn thân ngọc mã,
Chỉ tồn hư thiệt bất quang minh.
                                                              Thâu
                          Viết:
Viết Thiên viết Ðịa viết nhơn hòa,
Mộng mị thế tình ngữ thập đa.
Bất kiến kỳ nhơn tâm ái chúng,
Thâu danh thủ lợi mảng sinh tà.
                                                              Thượng.
                          Thiên:
Thiên căn chánh kiếp chỉ tâm hành,
Thán thế bất hòa chỉ cạnh tranh.
Bắc hướng loạn ly nhơn thán oán,
Hành tàng vấn đắc kiến kỳ thanh.
                                                              Thượng.
                          Cho:
Cho bền dạ sắt với lòng son,
Non nước xưa kia cũng vẫn còn.
Một chiếc xuồng con không chạy biển,
Thầm lo chi hiệp giống nòi còn.
                                                              Thâu
                          Phát:
Phát tài cứ tưởng dẫy đầy đầu,
Tài có là đâu Ðạo ở đâu.
Có Ðạo không cầu Trời thưởng lộc,
Không lo chí thiện mạng không cầu.
                                                              Thâu
                          Khương:
Khương ninh nhứt kiếp tại Thiền môn,
Khả chí tâm tu ngã độ hồn.
Mạc nại Thiền môn tăng dối thế,
Thoát trần chủ định tại Thiên Tôn.
                                                              Thâu
                          Thành:
Thành tâm khả tụng kệ Di Ðà,
Bất vấn trì môn ngữ thậm đa.
Chuyển thế nhứt thời sanh chúng độ,
Nhứt môn toàn hiệp Ðạo đồng hòa.
                                                                                                 Thâu

Nam toàn thâu. Thượng Phẩm Hiền Hữu nhớ: Khi Lão đề "Thất" trước, nghĩa là thơ 7 chữ, Ngũ năm chữ, Tam ba chữ; Bát tám chữ. Dặn Sĩ Tải phải nhớ.

                          Ðây:
Ðây chẳng phải nhà thầy tiệm bói,
Ấy là đèn chói rọi đường tu.
Hạnh Tiên xưa lắm công phu,
Ngoài tai đã chán mắt mù thấy chi.
Việc đời khi....
                                                                                                 Thâu

Ngày 10-01-1927 (âl. 07-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 10 Janvier 1927 (Mùng 7-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình thân.
Chư Nhu "giữ lễ nghe".
Thổ nhơn... thâu. Nữ phái thượng sớ. Thượng Phẩm dặn Sĩ Tải nghe.

                          Hiếm:
Hiếm sầu bi,
Cuộc thế mị,
Ham phú quí,
Nhiều phen đổ lụy ngậm hờn,
Trăm cay ai để gieo đờn tri âm.
Ruột gan bầm....
                                                                                                 Thâu

                          Tại:
Tại nơi chít mát bóng tùng,
Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.
Chức Nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,
Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.
Tri hoan rượu chén cờ bàn,
Cảm cơn hội hiệp mơ màng lúc ly.
Nghe giọng tỳ ....
                                                                         Thâu
                          Nghe:
Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,
Chạnh cơn thất thố với ly hương.
Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,
Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.
                                                                         Thâu
                          Vàng:
Vàng chìm đáy biển nghĩ khôn tầm,
Biết phận tùy thời chốn gửi thân.
Truân chuyên đã bấy nhiêu lần,
Nỗi oan chín khúc ruột dần chạnh đau.
Cha mẹ nơi nào....
                                                                         Thâu
                          Chín:
Chín chữ cù lao,
Thì mộng Nam giao,
Tịch sinh nan đào,
Phi thường một dự anh hào,
Ðạo trăm hạnh cũng lần vào nẻo Thiên.
Ðặng trọn quyền....
                                                                         Thâu
                          Kiển:
Kiển thanh há sửa bởi tay phàm,
Biết Ðạo mà sao Ðạo chẳng ham.
Uổng kẻ nhiệt thành chiu chít phận,
Phải duyên có thuở gặp Quan Âm.
                                                                         Thâu
                          Vĩnh:
Vĩnh tồn mạng số tới chừng nầy,
Tu kịp cùng chăng mó đến đây.
Khí chất tiêu hao không thế phục,
Rán lo âm chất chứa cho đầy.
                                                                         Thâu
                          Triệu:
Triệu triệu nam nhi một gánh đời,
Chưa rồi công nghiệp đã mòn hơi.
Tánh trung cang đó chưa nên mặt,
Vì thuở cờ Mao chẳng phải hồi.
                                                                         Thâu
                          Hào:
Hào hiệp lòng quen kết nghĩa cùng,
Anh hùng tứ hải bước thung dung.
Ðưa thuyền đầu núi tuy chưa đáng,
Cái dạ trượng phu sánh bá tòng.
                                                                                                             Thâu
   Toàn thâu. Chư Hiền Hữu văn từ dở lắm, trưa bữa nào cũng cầu Lão dạy.

Ngày 11-01-1927 (âl. 08-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Thái Cực) & thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 11 Janvier 1927 (08-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy:
Lão viết chậm, Thượng Phẩm Hiền Hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận. Lịch rán đọc cho tử tế, bằng chẳng Lão đuổi ra ngoài ... nghe à.

Ðiệu văn Ðộng Ðình của Lão dạy chư Tiên, chư Phật, sau có truyền cho Bạch Vân Ðạo Sĩ gọi là Trạng Trình, song người học đặng có một điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân. Lão lấy đề "Ngụ Ðời" nghe.

                          Ngụ Ðời:
Ðời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Ðạo truyền.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Ðem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.
Sắc,
Tài,
Tửu,
Khí,
Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vụ chữ nhàn....

   Giải nghĩa: Thầy là cội, chúng sanh là lá.... Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.

Mardi 11 Janvier 1927 (08-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình thân.
Thổ nhơn Nam và Nữ nhập nội đồng quì. Chư Sơn trước... toàn thâu... lui. Nữ phái thượng sớ.

                          Cân:
Cân câu tội phước sửa mình lành,
Cửa ngục Diêm Ðình chẳng kể danh.
Thế cuộc như trò khoe mắt tục,
Tội tình khó rửa với khôn lanh.
                                                                         Thâu
                          Rẩy:
Rẩy bái thà quen thú dốt mình,
Thà là giữa chợ lắm đua tranh.
Nên hư một kiếp nhờ gần gũi,
Kẻ thiện học gương đặng sửa mình.
                                                                         Thâu
                          Kế:
Kế trăm chước khéo chẳng bằng hiền,
Tu bởi biết mình chuộng nết Tiên.
Mối Ðạo đỡ nâng phàm hóa Thánh,
Căn xưa bồi sức giúp lòng Thiền.
                                                                         Thâu
                          Vàng:
Vàng tuy quí giá chẳng bằng lòng,
Phật tự thuở chừ mến chữ không.
Ham lợi hiếp cô đâu phải Ðạo,
Còn gầy oan nghiệt Ðạo chi mong.
                                                                         Thâu
                          Liêng:
Liên trì mai nở sắc sen sưa,
Cải ác ngày nay nghĩ cũng vừa.
Có vị đừng mê phàm mất vị,
Thiên Ðình phải phận chịu dư thừa.
                                                                         Thâu
                          Ðó:
Ðó đăng phải giữ phận nghèo hèn,
Dầu có rách lành vụ tiếng khen.
Thanh bạch một lòng vì đạo hạnh,
Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.
                                                                         Thâu
                          Phượng:
Phượng thờ cha mẹ vẹn đôi bên,
Rán chuộc gái ngoan bởi nết hiền.
Chẳng đợi người khen Trời thấy bụng,
Họa may gỡ vẹn nợ tiền khiên.
                                                                         Thâu
                          Bảy:
Bảy mươi chưa biết trọn mình lành,
Ðừng thị khi đời ỷ miệng lanh.
                                                                         Lui.
                          Nhạn:
Nhạn chiu chít phận một phương Trời,
Kêu bạn canh tàn chẳng mỏi hơi.
Ðưa bóng tuyết càng thêm thắt dạ,
Thân lao lục chịu lắm mùi đời.
                                                                         Thâu
                                      Ý:
Ý chẳng phải tu đến hỏi đời,
Ta cho đặng kế thử lòng ngươi.
Có nơi chẳng tưởng gầy oán để,
Ðem tiếng thị phi rải lắm lời.
                                                                         Thâu
                                      Nữ:
Nữ trung đã trọn một lòng thờ,
Trinh liệt giữ bền thuở bé thơ.
Nhơn Ðạo đã xong lo phận Thánh,
Tham chi cuộc thế vọng rồi ngơ.
                                                                         Thâu
                                                  Toàn thâu Nữ phái. Nam thượng sớ.
                                      Ðâu:
Ðâu là cửa Thánh với đâu phàm,
Mà cứ để lòng tính tứ tam.
Học thiện là nguồn gieo Chánh Ðạo,
Nghe chi miệng quỉ luận tam xàm.
                                                                         Thâu
                                      Mẫn:
Mẫn thế khá tua tính ích đời,
Ích đời chẳng vụ một mình ngươi.
Mình ngươi đặng thỏa trăm người thiếu,
Thiếu sót lòng tu chẳng độ đời.
                                                                         Thâu
                          Châu:
Châu về hiệp phố buổi xưa sao,
Nay nghiệp nhà ngươi có khác nào.
Có đức của rơi còn lượm lại,
Không duyên phẩm hạnh khó nâng cao.
                                                                         Thâu
                          Thiền:
Thiền cao chưa đủ đỡ muôn linh,
Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.
Chước khéo là thâu lòng với đức,
Xưa Tần vong nghiệp bởi không lành.
                                                                         Thâu
                          Sơn:
Sơn là cao đã có lời rằng,
Ta thấy tên ngươi ... nghiến răng.
Học hỏi chưa thông ngoài chái bếp,
Nhẫng lo cỡi phụng với đua tranh.
                                                                         Lui.
                          Thay:
Thay đời chẳng phải một tên ngươi,
Thấy phách lối kia bắt nực cười.
                                                                         Lui.
                          Hào:
Hào phú chưa ai dám sánh bằng,
Dầu nghèo mà giữ Ðạo làm ăn.
Trời soi dạ thẳng trăm oan thoát,
Có lúc vinh huê bỏ nhọc nhằn.
                                                                                     Thâu. Sau trọng dụng.

   Toàn thâu, bỏ tên: Thiện, Ðào, Ðài.
Ngày 12-01-1927 (âl. 09-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Lưỡng Nghi) & thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercredi 12 Janvier 1927 (09-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu,
Thượng Trung Nhựt! Hiền Hữu phải dặn Lễ Sanh ra Ðại Ðiện phải đủ lễ, bằng chẳng có ngày Lão cho chư Thần vật chết nghe à.
Thượng Phẩm! Hiền Hữu nhớ đã đặng một điệu văn Ðộng Ðình rồi, chừng nào đến điệu Bạch Vân, Lão sẽ nói....

                                      # 2:
Mến giang san
Phế bủa quan
Ngừa trị loạn
Xem qua như chốn hí tràng,
Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung.
Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng,
Thành nghiêng khôn đỡ vạt rùng khôn nâng.
Sĩ dân,
Soái Tướng,
Quân Thần,
Chinh chuyên thay! phận phàm nhân,
Ðỡ nương chẳng biết dựa gần người binh.
Nghe thấy bắt động tình.

   Chú giải: Rùng là sung sướng. Thư Hùng Kiếm của Trương Tử Phòng dâng cho Hàn Tín. Cái phận phàm nhơn chịu lắm nỗi chinh chuyên.

Mercredi 12 Janvier 1927 (09-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Chư Nhu thượng sớ.... Bình thân.
Thổ nhơn..... thâu.
Lão dặn phải nhớ nghe, cái tượng của Lão tại Ðiện ngó thấy mọi kẻ như người sống kia vậy, nghe à....

                                      Hổ:
Hổ ngươi đừng cố tội khi xưa,
Cải hóa ăn năn lỗi cũ chừa.
Trước mắt Thần Tiên chưa dễ dấu,
Lẽ thường nào dứt nắng cùng mưa.
                                                              Thâu
                                      Sàng:
Sàng lấy gạo trơn bỏ trấu ra,
Nay qui Tam Giáo cũng in là.
Giác đời cậy một lòng thành thật,
Trừ tuyệt tiêu điều lũ quỉ ma.
                                                              Thâu
                                      Mơn:
Mơn lòng cho thuận tấm chơn linh,
Quyết đoán đừng theo thói thế tình.
Lấy mắt thiêng liêng xem Thánh Ðạo,
Ðừng ngờ ngoài ngõ đón yêu tinh.
                                                              Thâu
                                      Hương:
Hương huê quá giấc chẳng lui chơn,
Chẳng phải khó thân để bụng hờn.
Nguồn cội khá gìn lòng hiếu hạnh,
Tu thân trước phải sửa nhà hơn.
                                                              Thâu
                                      Tri:
Tri cơ phải kiếm thấu cơ mầu,
Hỏi thử Ðạo nầy gốc bởi đâu.
Bởi kiếp nhơn sanh bày biến dữ,
Nên Trời xuống phước vớt con hư.
                                                              Thâu
                                      Bản:
Biểu đừng tham phú lại khi bần,
Cái phận nếu hiền dựa các lân.
Trăm chước không nên vì khiếm đức,
Hư như cơ nghiệp của nhà Tần.
                                                              Thâu
                                      Thôi:
Thôi thì phận vậy cũng là an,
Ðủ mặc đủ no kiếm chữ nhàn.
Ðường thế trông qua nhiều khúc mắc,
Ðưa chơn thử viếng núi Kỳ San.
                                                              Thâu
                                      Soạn:
Soạn sành lại đủ nét nhà ngươi,
Sợ nói ra đây chúng xúm cười.
                                                              Lui.
                                      Cơ:
Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,
Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.
Ðừng ỷ văn chương khi ngoại vật,
Trên đầu người hỏi chẳng lời phân.
                                                  Phải sửa mình. Thâu.
                                      Ðâu:
Ðâu là phước tội phải phân minh,
Biết tội phước kia phải xét mình.
Trước muốn hại người mình hỏi thử,
Như ai toan chước hại nơi mình.
                                                                         Thâu
                                      Liền:
Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,
Sao nỡ để gương kép hại đào.
Mở lối vườn xưa ong vắng dạng,
Hại người uống thảm với ăn đau.
                                                                         Lui.
                                      Ðeo:
Ðeo đai chi lắm cái oan gia,
Mà chẳng nghĩ thương nối nghiệp nhà.
Chia sướng sớt vui ai khác hưởng,
Trêu hờn nuốt thảm một mình ta.
                                                                         Thâu
                                      Lợi:
Lợi lộc công danh đã thấy chi,
Ðày thân tóc quắn với da chì.
Cơm ngày hai bữa vừa no dạ,
Bạc chứa vàng chôn chẳng ích gì.
                                                                         Thâu
                                      Thành:
Thành tâm sám hối một đôi ngày,
Cải quá những lời chú nói sai.
                                                                                                             Lui.
                                      Tiếc:
Tiếc công trước với mẹ cùng cha,
Hỏi thử chú em đã biết nhà.
Dựa khách chê thân mang tội trọng,
Về lo cho đặng tiếng từ hòa.
                                                              Ðợi trở lại sẽ thâu.
                                      Mạnh:
Mạnh đặng yếu thua ấy lẽ thường,
Phải lo đồng chủng để lòng thương.
Phò nguy trợ yếu anh hùng chí,
Giúp khó làm nên ít thấy thường.
                                                              Thâu
                                      Niên:
Niên canh chẳng hạp phận nghèo hèn,
Biết Ðạo như vầy Lão cũng khen.
Rửa sạch lòng trong nhờ nước Thánh,
Soi lòng minh mẫn phải nhờ đèn.
Ngày 13-01-1927 (âl. 10-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Tứ Tượng và Bát Quái) & thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 13 Janvier 1927 (10-Tháng Chạp Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu,
Ngồi kiết tường.

Hộ Pháp Hiền Hữu ngâm hai bài trước, Thượng Phẩm Hiền Hữu hãy đề hai bài số 1 và số 2 Lão còn kết.
Chú giải: Chinh chuyên: chinh là nghiêng; chuyên là chở. Chở nghiêng nghĩa là chở nặng nề.
Thần Huệ Kiếm: Huệ trí vỉ vi kiếm tác Ðạo giả: Lấy huệ trí làm gươm mà hành Ðạo...

                                      # 3:
Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nền giao cỏ láng sân chầu sương phong,
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công,
Vua chẳng phải giòng,
Về Ðông hết kế Tử Phòng,
Ðoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?

                                      # 4:
Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam,
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.

                          Bát Quái:
Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
... Ấy cũng gọi đời .......

Lão dặn Thượng Phẩm phải biên số, là vì điệu văn Ðộng Ðình chẳng phải mỗi điệu vậy là dứt, Lão còn kết thêm nữa.

   Tỷ như:
   Bài số một, gọi là điệu Thái Cực.
   Bài thứ nhì, gọi là điệu Lưỡng Nghi.
   Bài thứ ba, gọi là điệu Tứ Tượng.
   Bài Lão nói là điệu Bát Quái.
   Vậy Lão làm tiếp rồi sẽ chỉ....

   Bài số 4:
   .... Hộ Pháp giải nghĩa.... Vậy thì gọi là điệu Thái Cực là sao? Lão chỉ cho Thượng Phẩm: - Ðọc bài số 1, khi nhập đề như vậy, thì là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập: Hư Vô. Thái Cực là vì đó một tiếng. Nhập lại Hư Vô.
Bài số 2 ba tiếng là Tam Giáo. Sĩ dân hai tiếng ấy là Lưỡng Nghi.
Bài số 3, ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi. Bốn chữ ... Tứ Tượng là đó.
Bài số 4, chín chữ là Cửu Lưu đó. Tám chữ ... ấy là Bát Quái.

Lão sẽ tiếp điệu Biến Hóa Vô Cùng rồi mới kết cho toàn điệu.

Chư Ðạo Hữu lấy điệu văn ấy làm ra mỗi người một bài cho Lão sửa. Phải tùy theo từ chữ, từ giọng, vậy mới trúng niêm luật; bài của Lão chỉ dùng làm kiểu đó thôi...

    Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ] 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét