Ðạo Sử Xây Bàn - 13 / 16 (Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)


Ngày 22-01-1927 (âl. 19-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Biến hóa Thập Nhị Khai Thiên), thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 22 Janvier 1927 (19-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh, Thượng Trung Nhựt, đốt sớ "Hành Hương".

... Cười ... Hộ Pháp Hiền Hữu bảo hộ há? ... Kêu Hành Hương quì ngay cơ.
Chịu vậy khá tuân vậy, phải trở lại ngày kỳ hẹn... em nghe... em lui.
Thượng Trung Nhựt xin phép khai đàn cho chư Ðạo Hữu nhà ở gần Thánh Thất Long Thạnh.
- Ðừng làm như vậy mất phép công bình và mất Luật lệ Ðạo, để phận sự Kỳ...

Nghe dạy văn:
Số 3: Trên là Lưỡng Khí, giữa là Cửu Thiên.
Lợi bỏ,
Không lo,
Cướp to,
Giựt nhỏ.
Trường thương lấp ló ít người,
Nơi tay dị chủng như Trời nắng mưa.
Quốc dân ăn thẩy uống thừa,
Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.
Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang giành phần xuất cảng.
Dùng mưu phản gián Nam Bang,
Ðoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn.
Nọc ăn máu nước thúi ruồng,
Khô khan lạc khí hao mòn hồn tinh.
Tính toán vốn lời mình, đừng chịu làm thinh e lỗ vốn.

Un don pour échanées prenez garde aux pertes.

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh. Bình thân.

Thái Bính Thanh, Hiền Hữu tức cấp về đem Tiếng lên vì nó bị rầu mà sanh bịnh. Lên rồi Lão sẽ chỉ thuốc... Cười....
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu phải viết thơ cho Ðạo Quang - quyền Thượng Chưởng Pháp - nói rằng: Cũng vì lỗi xưa của người nên bị ma khảo nói rằng hai đứa quái ấy sẽ làm một món binh khí của Lão hành phạt kẻ xúi giục chúng nó; lại nói rằng: Chẳng một ai phạm đến oai linh Thầy mà không bị hình phạt. Lão sẽ cho chúng ngây ngây dại dại trước mắt muôn người cho biết quyền hành của Lão. Sự chết chẳng phải hình phạt, muốn chết há dễ chết sao?

... Ðem giấy vàng và son... bằng bàn tay.
Thái Bính Thanh, đem theo bỏ vào mình đặng dắt nó lên... Ðuổi người Thổ nhơn điên ra... Lui. Nữ phái thượng sớ.

                          Trầm:
Trầm luân khổ phận lắm hay không,
Chẳng nghĩ xưa kia mến bụi hồng.
Non núi trời mây sao chẳng nhớ,
Lo theo hạc nội với qui đồng.
                                                                         Thâu hết.
                          Diêu:
Diêu phong mấy khúc khách phàm trần,
Những mến phụng lầu ngự các lân.
Mến lộc đua chen trong biển khổ,
Thiên niên chẳng quản một duyên phần.
                                                                         Thâu hết.
                          Ðầy:
Ðầy tai đã lắm thị cùng phi,
Não trí phàm nhân há biết gì.
Ðạo đức nâng cao nhơn vị nữa,
Chưa vô .... giữa lại khinh khi.
                                                                         Thâu hết.
                          Nam, Tiếng:
Tiếng sấm vang tai đã hoảng hồn,
Nay khen tỉnh ngộ chọn mưu khôn.
Ba đời nhơn nghĩa duyên còn hưởng,
Gắng để đức bền đến tử tôn.
                                                                         Thâu
                          Vượt:
Vượt gió hồng đương trở cánh về,
Chừng qua khỏi nạn hết hồn mê.
Trăm non ngàn biển tuy chưa chán,
Cũng đứng vân phong trổi cánh sè.
                                                                         Thâu
                          Ðậu:
Ðậu Yên Sơn để mấy giòng truyền,
Truyện tích xưa còn để tiếng khuyên.
Ðạo cả đức cao non nước nhuộm,
Cũng như Tô Võ đến Huyền Thiên.
                                                              Thâu
                          Châu:
Châu về hiệp phố dễ ai hay,
Có đức tiếc cho chẳng có tài.
Nửa cánh gươm phơi gan tuấn kiệt,
Chậm chơn đợi gió thổi vân đài.
                                                              Thâu
                          Tôn:
Tôn nghiêm đã dạy nết xưa sao,
Nay lại không kiêng giữ chút nào.
Ai nói cha thầy con bán sách,
Nên danh đợi thuở huyệt kia đào.
                                                              Thâu
                          Trọng:
Trọng mình trước hết trọng người đời,
Cả khí Càn Khôn kẻ hưởng hơi.
Bảy bước chưa nên tài xạ kích,
Công danh đâu lại đợi người mời.
                                                              Thâu
                           Soi:
Soi lòng khá mượn kiến minh tâm,
Biết xét biết suy phải hổ thầm.
Ðạo đức một nhà mình dở hết,
Buồn đời mà hỏi tuổi bao lăm.
                                                                                                 Thâu.

   Nhiều lắm chẳng thể cho thi đủ, cứ kêu tên. Thâu: Thạnh, Ðường, Thêm, Cận, Rùm, Ðó, Ðiện, Thổ, Hoằng-Sen, Xao, Hiếm.

                                      Ðại:
Ðại công khá lập độ nhơn sanh,
Cải ác mà theo mối Ðạo lành.
Chức Giáo Hữu phong cho đáng mặt,
Bỏ đời theo Phật gẫm nên đành.
Ðại phải trai giái tu hành, sau ta trọng dụng.

Ngày 23-01-1927 (âl. 20-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Biến hóa Thập Nhị Khai Thiên), thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Dimanche 23 Janvier 1927 (20-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Ngồi kiết tường nghe Lão dạy văn:
Ngụ đời Số 4: Trên là Thập Nhị Thời. Giữa là Thập Ðiện Diêm Cung. Gọi là điệu văn Thập Ðiện.
Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hổn.
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn, tiền ngàn không sợ tốn.
Cửa công huyện mãn nha còn,
Dạ thưa lưỡi mỏi, cúi lòn lưng cong.
Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ mến vòng tôi con.
Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,
Rủi phải cơn thốn thiếu, chịu người níu kẻ đòi.
Ðã quen tiếng buộc lời lơi,
Gian làm ra phải lỗi dời thành ngay.
Dày công đếm số mề đay,
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.
Có chi ham ....

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Chúng Sanh. Bình thân.
Tường, Hiền Hữu dặn chư Sơn thủ trai. Thổ nhơn quì.... Thâu ... Lui. Nữ phái thượng sớ.

                          Rỡ:
Rỡ ràng đặng thấy Ðạo khai thành,
Ðộ tử cũng còn tính độ sanh.
Ðặng sống ngày nay xem tạng mắt,
Công phu dành để dạ làm lành.
                                                                         Thâu ... Lui.
                          Thê:
Thê hiền còn thuở lập chồng sang,
Phải biết tôn trong mới tới làng.
Gìn dạ nhớ chồng là chúa vợ,
Ðừng lời phạm thượng thói nghinh ngang.
                                                                         Thâu
                          Phận:
Phận còn nhiều nỗi chịu buồn vui,
Phải biết gian truân mới biết mùi.
Trần tục lắm điều cay đắng ẻ,
Chôn thân đừng để kiếp căn vùi.
                                                                         Thâu
                          Ngàn:
Ngàn năm ít kẻ để danh nêu,
Ðạo đức nên trang phải biết điều.
Danh lợi là tuồng đày đọa phận,
Thương thân phải hiểu máy Thiên Ðiều.
                                                                         Thâu
                          Tre:
Tre tàn măng mọc cuộc đời in,
Ðánh lận mưu sâu khá giữ mình.
Già chết chớ còn bầy trẻ sống,
Tham người, người cũng biết tham mình.
                                                                         Thâu
                          Sương:
Sương bay sáu tháng bởi người oan,
Bổn tánh phàm nhân ít hiểu nhàn.
Công khó hay than cho nỗi khó,
Ðiều sang tánh lại hám mùi sang.
                                                                         Thâu
Thêu dệt hay lo nói chuyện người,
Nhiều phen hại kẻ tưởng là chơi.
Ðừng đừng có nết hay chê lẫn,
Phán đoán người duy có một Trời.
                                                                                                 Toàn thâu. Lui ...

Ngày 24-01-1927 (âl. 21-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Biến hóa Thập Nhị Khai Thiên), thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 24 Janvier 1927 (21-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Ngồi kiết tường.... Hộ Pháp, Hiền Hữu ngâm mấy bài trước cho Lão chỉ tên bốn bài chót.
Thượng Phẩm Hiền Hữu có đề số 1:
No 1 - Trên là "Tứ Thời" giữa là "Tam Tài", gọi điệu văn Tam Tài.
No 2 - Bài nhì, trên là Bát Tuyết giữa là Ngũ Hành, gọi điệu văn Ngũ Hành.
No 3 - Bài ba, trên là "Lưỡng Khí" giữa là Cửu Thiên.
No 4 - Bài tư, trên là "Thập Nhị Thời" giữa là Thập Ðiện Diêm Cung, gọi là điệu văn Thập Ðiện. Chỉ rõ ràng Bát Quái, Bát Quái đã biến đủ nhứt âm, nhứt dương.

Lão tiếp thêm cho đủ 12 điệu văn, gọi là "Thập Nhị Khai Thiên" Ðộng Ðình Hồ....

                           Ngụ đời Số 5:
Nguồn nước cấm
Thủy lợi thâu
Chiếc thuyền câu
Ra thủ phạm
Nghề xưa hạ bạc đã nhàm
Nay dân đói khó ra làm không no
Lúc giăng lưới khi đóng nò
Mảng lo tàu chặn, nhẫn dò bè trôi.
Cá chê mồi
Bởi quen muối,
Không tránh lưới
Nào khi nguyệt giỡn sóng cười
Thú hay mặt nước chơn trời ngửa nghiêng
Kinh luân đứt nối khó truyền
Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư Công.
Song cũng vẫn một lòng....

THÁI BẠCH
Ô trược, ô trược! Bửu Phước Kỳ, Lịch đuổi chư Nhu ra ngoài, coi ai không uống rượu mới để cho vô.
Thượng Trung Nhựt, từ đây phải nhớ trước khi vô Ðại Ðiện phải đuổi những kẻ say nghe.

Bình thân..... Cấm nhang đầu cơ. Thâu Thổ nhơn. Tường, dặn chúng nó năng làm phước nghe. Trung Huê ngũ nhân thính ngã:
Trung Huê tự hữu Thánh quyền phân,
Ðộc lập nhứt triêu đắc khánh thần.
Dị chủng phạm thường nan hối cập,
Tùy phương định đắc hiệp giang sơn.
                          Chi:
Chi lan tự hữu có mùi hương,
Phải thế tay ai hết gọi thường.
Mến bạn còn chờ ngày hội ngộ,
Vui vầy chốn tịch hưởng an khương.
                                                              Thâu bỏ Bữu.
                          Ðẩu:
Ðẩu giai phải chịu nạn binh đao,
Người dữ xem ra chẳng khác nào.
Cây cả còn chờ ngày rựa cốt,
Chẳng qua báo ứng chậm cùng mau.
                                                                         Thâu hết.
                          Nguyên:
Nguyên nhơn mà chịu phận dường này,
Khéo lựa coi ngày đặng đến đây.
Thôi mắt chán chường về định liệu,
Mau chơn theo giỏi kịp cùng Thầy.
                                                              Thâu
                          Ðiệp:
Ðiệp lạc qui căn tiếng đã rằng,
Còn ngươi ngươi có biết sao chăng?
Làm người chẳng bổn là người lạc,
Ví tựa ông Hồ ghét chú Tăng.
                                                              Thâu
               Hà Văn Giáo:
Giáo dân tuy chẳng mặc đai cân,
Chớ phẩm linh quang lớn cũng gần.
Bằng bảy công hầu chưa sánh kịp,
Phong làm Giáo Hữu thỏa lòng chăng?
                                                                                                 Bỏ Xem. Toàn thâu.

Ngày 25-01-1927 (âl. 22-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy thi văn (Ðiệu văn Ðộng Ðình: Biến hóa Thập Nhị Khai Thiên), thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 25 Janvier 1927 (22-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu,

Ngồi kiết tường. Thượng Phẩm, Lão tiếp 5 tiếng. Ðiệu văn "Thập Nhị Khai Thiên Ðộng Ðình Hồ".
               Ngụ đời số 6:
Thân đói khô như nhộng,
Hỏi ăn chi đặng sống.
Rằng hớp khí thanh không.
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng cao hết củi nồi còn không cơm.
Lão Lục ngó lườm lườm,
Chú Săn đơm khẩu súng.
Non xanh vắng gót anh hùng,
Bỏ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương.
Thành Thang buông mặt lưới trương,
Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.
Nạn củi quế gạo châu, Thiên sầu Ðịa thảm ...

*  *  *

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Bình thân. Thâu Thổ nhơn.... Lui.
Thượng Trung Nhựt, chư Nhu cũng còn uống rượu? Thôi để Lão đuổi. Nữ phái thượng sớ.

                          Cường:
Cường tranh chẳng mất đức hao thần,
Phủi trọn nợ trần mới khỏe thân.
Ham buộc nhiều ngoai thêm khó mở,
Ðến nhiều phận phải mất hao phần.
                          Siêu:
Siêu phàm chẳng khó đó đời ôi,
Chẳng quá ba phen cứ nhịn lời.
Lòng chánh tự nhiên sanh chất chánh,
Ðua chen đường Ðạo giống đua đời.
                                                                         Thâu
                          Bưởi:
Bưởi bồng đừng mượn tiếng khua lời,
Dưới thế ai ai cũng một Trời.
Thương lẫn nhau còn xem xét lẫn,
Mình đi phải nẻo chỉ người đời.
                                                                         Thâu
                          Thu:
Thu về năm mãn chẳng lo xuân,
Cái phấn thiên hương vẫn có chừng.
Quá lứa lựa nơi thưa thất nguyện,
Phẩm hàng chánh thất liệu cân phân.
                                                              Thâu
                          Son:
Son sắt một lòng vẹn tiết trinh,
Dầu Trời xem xét tấm lòng mình.
Thay hương chưa phải thay nguyên kiếp,
Mất xác dễ nào mất vẻ linh.
                                                              Thâu
   Trung Nguyên nhơn thượng sớ:
Nhơn linh địa kiệt đáo tùy thì,
Mạc hám tâm truyền thị giữ phi.
Nhứt mạch đồng môn hồi nhứt Ðạo,
Thiên khai dĩ định tảo vi trì.
                          Tịnh:
Tịnh tâm rán hỏi thử lại mình,
Ðã chịu bao phen chúng dễ khinh.
Biết đặng lòng người đời khó độ,
Ðể đôi mắt thịt cứ xem hình.
                                                              Thâu
                          Trọng:
Trọng thân thì ắt biết trọng đời,
Cả hết loài người cũng vốn người.
Nâng đỡ thương nhau trong xã hội,
Nghịch nhau lẽ phải nghịch cùng Trời.
                         
                          Dương:
Dương danh chẳng phải tại trường quan,
Nước Ðạo là danh hưởng lạc nhàn.
Lãnh chức Lễ Sanh lo phận sự,
Ngày sau chức trọng sẽ dành ban.
                                     
                                      Cảnh:
Cảnh xưa ra vẻ có oai linh,
Khen bụng có nhơn lại có tình.
Giáo Hữu chức ban lo độ chúng,
Trị người trong Ðạo lấy công bình.
   Thầy dặn có điều nói với Hộ Pháp, chư Ðạo Hữu lui hết thảy ....

Ngày 26-01-1927 (âl. 23-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch Thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercredi 26 Janvier 1927 (23-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

   Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Cười.... Chư Ðạo Hữu biết ngày nay là ngày Ðại Hội Bạch Ngọc Kinh, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều về mà còn cầu.... Nếu chẳng phải Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan thì quỉ đã nhập rồi.
   Toàn thâu.

Ngày 27-01-1927 (âl. 24-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Quan Âm Như Lai thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 27 Janvier 1927 (24-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Lão chẳng ở lâu đặng nhứt là chánh Tý Lão phải chầu. Vậy chư Ðạo Hữu thâu hết kẻ cầu Ðạo, bỏ tên: Chính, Hoài, Vị.

Bần Ðạo biểu Thái Bính Thanh cứ lo thuốc cho Tiếng, nhưng trước khi uống phải dâng lên Ðiện mà cầu Thầy nghe à! Dầu Tiếng uống thuốc độc cũng mạnh... Cười... Kêu hết Ðạo Hữu Soài Riêng vào mau.

Chư Ðạo Hữu đừng vì buồn riêng mà làm cho Ðạo phải mang tiếng. Phải ẩn nhẫn nhịn nhục mới đắc kỳ sở nguyện. Chẳng ai phạm đến oai linh Thầy mà thoát khỏi hình phạt.
Thượng Trung Nhựt viết thơ cho Le Fol hay.

*  *  *

Tái Cầu: THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Chư Ðạo Hữu thất nghiêm, thất kỉnh mạng lịnh Lý Ðại Tiên hà cớ.
... Lý Ðại Tiên đại nộ.

Chư Ðạo Hữu Thủ Dầu Một khả thính:
Lập thành Ðại Ðạo tại Nam phương,
Bả đắc kỳ mưu nhược thắng cường.
Lân hiện châu U chơn Thánh xuất,
Tự quân vấn đắc chiếm hà phương.

Khả lập đại công, hậu nhựt trọng dụng. Kim nhựt Ðại Hội Bạch Ngọc Kinh, ngã bất thế duy trì.

Ngày 28-01-1927 (âl. 25-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Vendredi 28 Janvier (25-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Toàn thâu Chúng Sanh.
...Vâng mạng Thầy, phong cho Hiền Hữu chức Giáo Hữu. Cả chư Thiên Phong có mặt tại đây đêm hôm qua cầu Lão trong giờ Tý (trừ ra Thượng Phẩm) hai người Lễ Sanh đều bị phạt quì 5 nhang.

Ngày 29-01-1927 (âl. 26-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 29 Janvier (26-12-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Khi Lão chào ít nghe chư Ðạo Hữu trả lời lắm há?... Bình thân.
Thổ nhơn lại gần... Thâu... Lui.
   Toàn thâu chư Chúng Sanh.

                          Hoạch:
Hoạch địa dĩ tri Ðạo diệu mầu,
Năng thừa quyển hạnh đoạt thiên thâu.
Mỹ quan hạnh đắc thời thông hiệp,
Khả tịnh tâm kiên thế đáo đầu.

Ngày 31-01-1927 (âl. 28-12-Bính Dần): Quan Âm Như Lai dạy đạo.
Lundi 31 Janvier 1927 (28-12-Bính Dần).

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Hà sự cầu cơ. Bạch Ngọc Kinh đại hội cải luật Tam Kỳ Phổ Ðộ Lý Ðại Tiên hữu trọng trách, trọng nhậm, vấn đáp chơn lý Tam Kỳ cứu tận chúng sanh, nhựt nhựt thường tại, bất đắc hạ trần giáng cơ chỉ giáo.
Chư Ðạo Hữu vật khi mạng lịnh, chí tứ nhựt tân niên Ðại Tiên tái hiệp... Kỉnh lễ...

Ngày 02-02-1927 (âl. 30-12-Bính Dần): Thượng Chưởng Pháp Tương & Quan Thánh & Quan Âm Như Lai & Khương Thượng Tử Nha & Thái Bạch & Ðức Chí Tôn dạy đạo.
Mercredi 2 Février 1927 (30-12-Bính Dần).

Ðinh Mão niên, Chánh ngoạt - Sơ nhứt nhựt - Tý thời.

THƯỢNG CHƯỞNG PHÁP TƯƠNG
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Mầng mầng mầng, vui vui vui...
Ðại phước cho cả nhơn sanh, đại hạnh cho quả địa cầu 68 nầy.
Em còn phải công quả phổ độ mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, nhờ Ðại Từ Phụ cứu độ. Em khuyên nhủ cùng chư Huynh khá coi Thiên vị mình là trọng vì là của quí báu vô giá. Còn sụt sè đường Ðạo xin nhớ lấy danh em mà cự chống cùng Tà ma Quỉ mị cám dỗ.
Tương đây công cán chẳng chi mà còn đặng địa vị nầy huống lựa là mấy anh, độ rỗi toàn cả cửu thập nhị Nguyên nhân thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm thế nào.
Xét lấy đủ vui lòng hành Ðạo.

QUAN THÁNH GIÁNG CƠ
Quan Thánh Ðế tọa vị.
Thượng.

THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Thiếp đăng Ðiện.

KHƯƠNG THƯỢNG TỬ NHA
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Lão thăng Ðiện.

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Lão xin chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội khá giữ lễ cho Ðại Từ Phụ đến. Khen bấy mấy Ðạo Hữu, Ðạo Muội biết kỉnh lễ dâng trong lúc hành lễ, tuy thô sơ coi chẳng ra vẻ chi mặc dầu, mà lòng thành cảm động, Lão khen đó.
Phải sắp từ mười, mười người vào kiến giá Ðại Từ Phụ, đừng một tiếng ồn ào làm thất lễ, Lão sẽ trọng phạt nghe à.

Lão ngự Ðiện.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con! Mừng các con ...
Trung, Cư, Tắc, mấy con có nhớ đêm nay năm rồi thế nào, còn nay ra thế nào chăng?
Trịnh Thị Ái Nữ, Hiếu, hai con đã thấy Thầy giữ lời hứa thế nào chưa?
Thầy lập Ðạo năm rồi ngày nầy thì Môn Ðệ của Thầy chỉ có mười hai đứa, mà bốn đứa vào nơi tay chúa Quỉ, chỉ còn lại tám. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Ðạo.
Thầy hỏi, nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh nhờ tay có sáu đứa Môn Ðệ trong một năm cho đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết bốn muôn Môn Ðệ của Thầy.
Thơ, con đã ngoan Ðạo, mà sự ngoan Ðạo của con đó còn độ lắm kẻ, Thầy khen con.
Bính, Thầy thưởng công con cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến con. Thầy cám ơn lòng đạo đức con, sanh linh còn chờ công con mà thoát qua khổ hải.
Bản, Thầy thăng chức Giáo Sư. Trò, Thầy cho lên Giáo Hữu.
Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng chín Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
Thầy ban ơn hết trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. Thầy dở Cơ lên cho các con đều chun ngang qua cho Thầy ban phép lành...

Thầy cầu cho các con đặng ngoan Ðạo như Thơ vậy; sửa mình cho nên chí Thánh vì Ðạo năm nay sẽ rõ thấu khắp cả hoàn cầu, Môn Ðệ tăng thêm hằng hà sa số. Phận sự các con lại còn nặng nề hơn nữa, nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ biết thương Thầy thì ắt thương Ðạo, mà hễ thương Ðạo thì ắt thương hết Chúng Sanh. Các con biết Thầy là trọng, thì biết trọng Ðạo, mà hễ trọng Ðạo thì cũng phải trọng cả hết Chúng Sanh. Trong tháng Giêng này Thái Bạch sẽ hội Nữ phái đặng lập cho hoàn toàn. Thầy trông công các con lắm đó.
Thầy ban ơn cho các con một lần nữa.
Ngày 05-02-1927 (âl. 04-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Samedi 5 Février 1927 (Mùng 4 tháng Giêng Ðinh Mão).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh.
Hãy hội hiệp.
Thảm cho nhơn loại! Khổ cho nhơn loại!
Ðời quá dữ, tội tình ấy hình phạt kia cũng đáng đó chút.

Lão đã vì thương yêu nhơn sanh, hội mười ngày nơi Bạch Ngọc Kinh, cải cho qua tại nạn nhơn loại, nhưng luật Thiên Ðiều chẳng dễ chi sửa đặng.

Nạn tiêu diệt hầu gần, hết sức chém giết lẫn nhau tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng rán chịu, lạy lục khẩn cầu, chư Ðạo Hữu đâu rõ thấu!

Ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn thấy càng thảm thiết. Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng danh Thánh Ðịa là nước Nam nầy mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Huế, Hải Phòng, Hà Nội thay.
Thảm thảm thảm. Toàn thâu.

Ngày 06-02-1927 (âl. 05-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Dimanche 6 Février 1927 (5-01-Ðinh Mão).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Bình thân. Thổ nhơn nhập nội.... Chư Ðạo Hữu mới dang ra... Thâu.... Lui.
Nữ... Thâu ... Lui. Nữ phái thượng sớ từ 10 người. Mai đọc tên.

               Nguyễn Thị Ðầy:
Ðầy đủ đức kia mới cận Trời,
Lòng thương đâu lại có lưng vơi.
Năm chầy đã vẹn ngừa ngày vận,
Ðặng chỗ nên trao hết nợ đời.
                                                              Thâu
                                                  Tông hành lễ.
               Võ Tuấn Tú:
Tú cắm thêm hoa đợi vẻ màu,
Xem sau nhắm trước hỡi dường bao.
Công danh há dựa gần Thiên vị,
Học thiện đua chen bước Hứa Sào.
                                                              Thâu
                          Hổ:
Hổ cử Nam San vắt vẫy vùng,
Cân đai rạng vẻ giữa trời không.
Buôn Tần ví biết đôi hồi vận,
Ðoạt địa đừng ngơ vổ cánh hồng.
                                                              Thâu
                          Ðành:
Ðành trau nét tục lại màu thiền,
Phải mặt thơ sanh chẳng gặp duyên.
Bãi biển đưa chơn chưa đáng buổi,
Trần hoàn trả vẹn nợ tiền khiên.
                                                              Thâu
                          Phòng:
Phòng xưa lánh Hớn biết hưng suy,
Người có trí ngoan biết thế thì.
Ðất khách tuy rằng nương náo phận,
Ðồng môn khá nghĩ nghĩa đồng chi.
                                                              Thâu
                          Chi:
Chi lan ngộ tuyết sắc nan thường,
Phản khách kiều lan ngộ chủ trương.
Hoan lạc khả tu tri tỉnh ngộ,
Trần ai hữu nhựt đoạt phi thường.
                                                                                                 Thâu
Tông khá nói lại rằng: Lão mầng kẻ đồng hương.
Chẳng một ai biết hành Ðạo hết, Lão buộc còn phải dạy lắm điều.
Tường, biếng nhác thối chí há, thôi thì về.
Mai, phải rán hành Ðạo nghe.
Tông, ăn mặc chẳng lễ nghi chi hết.
Phải liệu đấy, đợi Lão dùng oai linh thì chẳng một ai đắc Ðạo đặng.
Trung ....
Ngày 07-02-1927 (âl. 06-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 7 Février 1927 (Mùng 6-01-Ðinh Mão).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,

Nho Chưởng Pháp tọa vị.
Thượng Trung Nhựt hành lễ.

Chư Ðạo Hữu nới ra. Thâu Nam. Nữ vô.
Tường dặn chư Sơn thủ trai nghe.
Thâu Nữ phái Thổ nhơn.
An Nam... Nữ trước. Mai đọc tên.

                          Thị Sum:
Sum vầy đã đủ một nhà hiền,
Tiếng tục gọi rằng dự Ðịa Tiên.
Chẳng phải trăm năm vui vẻ mãi,
Có cơn cũng chịu sự đeo phiền.
                                                                         Thâu hết.
                          Thị Vững:
Vững vàng ráng bén cội nhơn nhà,
Trời Ðất dầu qua Ðạo chẳng qua.
Nỗi thưởng mắt phàm chưa dễ thấu,
Chẳng gần thì ắt cũng chờ xa.
                                                                         Thâu
                          Phạm Thị Ðều:
Ðiều hay khuyến khích dạy nên người,
Sanh đứng giữa Trời chẳng dễ chơi.
Nối nghiệp xưa Hiền nay đến Thánh,
Trông non cảnh tịnh chẳng xa vời.
                                                                         Thâu
               Nguyễn Thị Cầu:
Cầu may đâu dễ đặng gần Trời,
Biết Ðạo mới tìm đặng trúng nơi.
Vạn kiếp xưa còn lo lắm nỗi,
Xác tiêu hồn luyện chẳng nên đời.
                                                                         Thâu hết.
               Phan Thị Chanh:
Chanh ranh làm rộn đến người mời,
Chẳng biết phận mình chịu tả tơi.
Mặc ấm ăn cao bằng ý muốn,
Lão khuyên nghe Ðạo một đôi lời.
                                                                         Thâu hết.
                          Ðinh Thị Ðuổi:
Ðuổi xô cửa Phạm chẳng từng quen,
Chẳng nễ ai sang, chẳng bỏ hèn.
Lấp ló như người mang tội trộm,
Ta không nỡ để đến nhiều phen.
                                                                         Thâu
                          Nguyễn Thị Sang:
Sang như Tử Lộ đạo không lo,
Nghèo đặng nên trang sửa nghiệp trò.
Ai hỏi tu chi thì nói lại,
Bên cầu thế giái một bên lo.
                                                                         Thâu hết.
                          Huỳnh Thị Xuân:
Xuân qua chưa đặng cổi màu xanh,
Mang một tình riêng rất nhọc nhành.
Hai nẻo lo đền thân nghĩa vẹn,
Ðo đường tội phước với khuôn xanh.
                                                              Thâu
                          Nguyễn Thị Ân:
Ân xưa chưa vẹn vội đi đâu,
Thà nhắm mắt xem sự đáo đầu.
Tránh nắng che mưa thân há vẹn,
Thà câu cứu khổ miệng thường cầu.
                                                                                     Thâu hết.
                          Nguyễn Thị Ca:
Ca diêu thường ví sự đời như,
Một giấc Nam Kha tỉnh sật sừ.
Chẳng vẹn nghiệp nhà đừng thối chí,
Ðợi thời noi chước Lạn Tương Như.
                                                                                     Thâu hết.
                          Vương Văn Huấn:
Huấn giáo xưa sao đặng trọn tôn,
Nay đem Ðạo Thánh vốn không hồn.
Muôn đời còn để danh hiền triết,
Dầu chẳng nên Tiên cũng chức Hiền.
                                                                         Rán tu nghe ... Thâu.
                          Phạm Văn Ðắc:
Ðắc thế thì toan chước đắc thời,
Ðừng cho mạnh cũ chịu lưng vơi.
Mấy phen cam khổ cùng thân phận,
Phải trách mình quê, chớ trách Trời.
                                                                                     Thâu
                                                                         Phải liệu mà hành Ðạo, sau Ta trọng dụng.
                          Hồ Văn Thứ:
Thứ dung mấy lượt Phật Trời thương,
Cứ thói lung lăng chẳng kính nhường.
Tội trước sờ sờ chưa kết án,
Ðạo đâu há chịu để người nương.
                                                                          Bỏ.
                          Võ Văn Vạn:
Vạn sự nên hư vốn tại mình,
Chẳng phân lẽ trọng với lời khinh.
Ôm lòng khí khái tôn mình giỏi,
Họa đến đòi lần chẳng thất kinh.
              
                          Võ Văn Ðoan:
Ðoan chánh khen ưa xử sự rành,
Nay ta cũng dụng cải khôn lanh.
Phong làm Giáo Hữu lo truyền Ðạo,
Dạy dỗ nhơn sanh một dạ lành.
Tường, Sơn quì mỗi người 5 nhang.

               Dương Văn Trọng:
Trọng câu nhơn nghĩa bỏ tiền tài,
Thế sự như người cũng ít ai.
Một đức đủ nên Trang Tử trước,
Nên hiền đâu dụng cũng nhơn tài.

               Thái Văn Danh:
Danh hư đáng trọng cũng đôi khi,
Chưa phải cân đai chịu lạy quì.
Cái phẩm Thiêng Liêng so phẩm tục,
Cũng như vàng thiệt với đồ xi.

               Ðặng Văn Ngọc:
Ngọc ngà chưa quí đến mua lòng,
Có Ðạo phải gìn kiếm chút công.
Chưa rảnh nợ đời còn bận bịu,
Muốn toan thoát tục tính sao xong.
                                                                                                             Toàn thâu.
   Kêu Chín vào nghe. Ta phong cho Hiền Hữu chức Giáo Hữu phái Ngọc.


Ngày 08-02-1927 (âl. 07-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 8 Février 1927 (Mùng 7-01-Ðinh Mão).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Sơn, chư Thiện Nam, chư Tín Nữ,
Lão dặn chư Hiền Hữu giữ Ðàn cho nghiêm như vậy luôn luôn, đặng tiếp giá Thầy ngự đến; nếu sơ thất Lão trọng phạt nghe à!

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Chư Môn Ðệ bình thân,
Trung, con kêu hai người Thông ngôn Thổ vào, để một đứa trước chùa, một đứa trong Ðiện, Thầy nói thì nói lại nghe.

Kêu Gồng... Cựu Mẹ Sóc... Không phải, Gồng! Con thông ngôn lại nghe.

Ðứng dậy con. Thầy mừng lũ con yêu dấu Thầy. Căn đày của các con hầu mãn. Thầy đến lập một nền chánh Ðạo nầy tại cõi Ðông Dương là cốt làm cho kẻ bị hiếp đáp đặng mạnh mẽ, kẻ hiền lương làm Thầy kẻ hung bạo, ấy là lẽ công bình Thiêng liêng Tạo Hóa.

Hết phạt tới thưởng là thường lệ.
Các con thoát đặng khỏi nơi u ám là bởi đạo đức. Các con sẽ đặng trọng kỉnh cũng bởi đạo đức. Thầy bồi đắp một sự ghét bỏ các con gần trên một trăm thế kỷ. Vậy các con phải chung hiệp cùng nhau. Nam-Thổ chẳng còn phân chia nòi giống nghe à!
Thầy ban ơn cho hết thảy các con.
Thầy dặn tái cầu cho Thầy dạy người Nam.

Tái Cầu: THÁI BẠCH
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu kêu Gồng và Niên. Gồng, Lão phong cho Hiền Hữu chức Giáo Hữu đặng phổ độ Thổ nhơn nghe à. Tuân mạng.

... Lão chớ không phải Thầy.
Niên, Lão phong cho chức Giáo Hữu, tuân mạng. Nhị vị Hiền Hữu lui ra ngoài lấy tên người Thổ chẳng kịp cầu Ðạo. Niên lui đi. Nữ phái toàn thâu.
Nam đọc sớ; hỏi ngoài còn sót sớ nhiều. Mai, đọc sớ.

               Trần Văn Thàng:
Thàng lòng từ bớt phép tinh ma,
Trời Phật không thông với lũ tà.
Khá mượn gươm Tiên bình thế tục,
Ðưa thuyền Bác Nhã khỏi võng la.

                                                  Thâu trọn hết, trừ tên Cần và Thới. Phải kêu Ðó vào.

Ðó, Biểu, Ta vẫn thấy công ngươi vừa muốn ban thưởng, lại thấy liền đó ngươi thối chí. Chừ phải sao đây? Thì cũng phải như thường vậy, Lão hạ bút.

Tường, xuống một bực phong làm Giáo Hữu phái Ngọc. Ðó cũng vậy, phong làm Giáo Hữu phái Thượng. Khá gắng công hành Ðạo mà thâu hồi chánh sắc mình. Bằng sơ thất Lão trục xuất nghe à!

Ngày 09-02-1927 (âl. 08-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy " Ðạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn chánh đã vững gốc...".
Mercredi 9 Février1927 (Mùng 8-1-Ðinh Mão).

THÁI BẠCH

Mầng chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Ðại hỉ! Ðại hỉ!
Lão đã nói, Ðạo đã lập thành, vậy cây cờ chơn chánh đã vững gốc đặng làm biểu hiệu cho cả chúng sanh dòm lấy đó mà đến nơi Bạch Ngọc Kinh. Nghĩ mà mừng, mà hễ mừng thì lại càng thêm giận lẫn vào trong. Nhưng nhiều vị Ðạo Hữu chỉ lãnh chức mà chơi chứ chưa hề hành Ðạo.

Ngọc Trang Thanh, Hiền Hữu đã chán chường mắt thấy một nơi tội lỗi là nội thành Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Ðịnh, mà một mình Hiền Hữu hết lòng hành Ðạo độ rỗi chưa ắt trọn cả chúng sanh nơi đó cho đặng.
Hiền Hữu rất nên vô phước.

Thượng Trung Nhựt, Lão đã nói, mà Thầy cũng đã nói trước rằng: Khi thành Ðạo, nghĩa là khi Tân Luật phát hành thì trong hàng Môn Ðệ may lắm còn lại nửa phần. Trong đám Thiên Phong nhiều kẻ e còn bị trục xuất thay. Thầy vì lòng từ bi can gián Lão, bằng chẳng Lão đã dụng hình phạt mà răn những kẻ giả dối ấy. Và nay là ngày Vía của Chí Tôn, nhiều kẻ cầu Ðạo không đáng thâu nạp, nhưng mà Từ Bi biểu Lão ân xá, nên toàn thâu không đuổi ai hết.
Ban phước cho cả chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội.
Chư Ðạo Muội khá hội đủ ngày nạp Luật, đặng Lão ban Thiên phục. Ðường Thị bị trục xuất.

Ngày 10-02-1927 (âl. 09-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 10 Février 1927 (Mùng 9-1-Ðinh Mão).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thiên Phong bình thân.
Tường, dặn chư Sơn thủ trai nghe, đặng tháng ba Ðại hội thọ phong. Toàn thâu Nam, Nữ.

Ngày 11-02-1927 (âl. 10-01-Ðinh Mão): Ðức Thái Bạch dạy đạo.
Vendredi 11 Février 1927 (Mùng 10-1-Ðinh Mão).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thổ nhơn Nam, Nữ ... nhập nội. Chư Ðạo Hữu bình thân.
Tường, nói lại tiếng Thổ chư Ái Hữu từ đây đặng nơi tay một quyền hành trọng hậu là điều đình trọn phái Thái.
Khá thủ trai đặng thọ phong nghe.

Ngày 15-02-1927 (âl. 14-01-Ðinh Mão): Ðức Chí Tôn Phong Thánh Chức Sắc Nữ phái kỳ nhứt.
Cơ Phong Thánh ngày 14 tháng Giêng năm Ðinh Mão,
Chùa Gò Kén, Tây Ninh (Dl 15 Février 1927).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu, từ tạo Thiên lập Ðịa chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng vậy. Cốt để ban thưởng cho các con, thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao? Ôi, mà hại thay! Thảm thay! Ðau đớn thay!

Hòn ngọc đẹp đẽ quí báu dường nầy, Thầy đến cho các con; các con lại học kiêu căng trề nhún. Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành Ðạo thế nào. Biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận. Muốn chẳng lập Nữ phái mà làm gì, nhưng trai hay gái cũng đồng con, Thầy không nỡ đành lòng từ bỏ. Thầy lại thương con nên lắm phen lấy khảo trừ công cho con trở lại phẩm cũ. Bởi một lời đã hứa với Quan Âm, Thầy mới nhứt định dành phần công quả ấy cho con. Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm lỗi lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm.

Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu. Thầy giữ phái Nữ lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến. Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp mà bụng cũng chẳng đành.

Con là chị, Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ Ðộ chỉ vụ một chữ Hòa; con liệu đứa nên dùng đẹp lòng con kêu tên cho Thầy phán đoán. Trung, con giúp em nghe.
   Thăng.

Xin phép dẫn giải:
Hồi mở Ðạo, chư vị Nữ phái Sài Gòn chưa hiểu Ðạo cho lắm, cũng vì có bổn phận tề gia nội trợ nên hành sự Ðạo bê trễ, vắng mặt mấy kỳ Ðàn nên bị Thầy quở.

Bài Thánh giáo trước đây, Ðức Chí Tôn nói với Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh. Do bài Trường Thiên của Ðức Phật Bà cho biết chơn linh Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh.

Chơn linh Bà Nữ Ðầu Sư là Bà Long Nữ, hầu Phật Bà Quan Âm Bồ Tát. Lúc Bà Long Nữ tình nguyện lãnh lịnh nơi Ngọc Hư Cung xuống thế độ Nữ phái, Bà Long Nữ hứa với Phật Bà nên Thầy mới nhứt định dành phần công quả lại cho Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh.

Xin xem kỹ câu văn Thầy nói: "Một phen lầm lỗi, lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm", nghĩa là Thầy định lập Tam Kỳ Phổ Ðộ mười ngàn năm nay, không vì sự lỗi của Nữ phái mà bỏ cho đành. Nhận xét lòng bác ái Thầy vô tận, vô biên; Thầy quở mà Thầy thương, rồi lại ban thưởng nữa; nên Thầy kêu Bà Nữ Ðầu Sư lập Thông qui kêu Nữ phái cho Thầy chấm phong.

Tóm lại, nhờ Bà Nữ Ðầu Sư tất cả Nữ phái có hầu Ðàn đêm 14 tháng Giêng năm Ðinh Mão (15 Février 1927) đặng thọ phẩm tước hết.
Người giải
Nữ Giáo Sư Hương Hiếu
(Ký tên)

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Ðệ Nhị Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Phò loan:
Hộ Pháp-Thượng Phẩm.
Thánh danh chư Chức Sắc Nữ phái kể tên dưới đây thọ Thiên Ân ngày 14 tháng Giêng năm Ðinh Mão (15-2-1927), chùa Gò Kén, cơ Phong Thánh kỳ nhứt.

Phối Sư:
Phối Sư: Lâm Hương Thanh - Vũng Liêm.
Phối Sư: Lê Thị Ngân, Cô Sáu Minh Ðường (Hạnh Thông Tây), đệ tử ông Ðạo Quang.

Giáo Sư:
Giáo Sư: Bùi Thị Giàu (c) Bà Phủ Tương.
Giáo Sư: Trịnh Hương Huệ (c) Bà Thân Ðức Cao Thượng Phẩm.
Giáo Sư: Nguyễn Hương Hiếu, bạn Ðức Cao Thượng Phẩm.
Giáo Sư: Ðãi Hương Huệ (c) bạn Ðức Quyền Giáo Tông.
Giáo Sư: Lê Thị Lộc, cô của Phủ Tương.
Giáo Sư: Huỳnh Thị Hồ, con gái Bà Nữ Ðầu Sư.
Giáo Sư: Huỳnh Khiếu Chênh, ở Chợ Cầu.
Giáo Sư: Ðào Thị Bốn, ở Chợ Cầu, Long Khánh (Tây Ninh).

Giáo Hữu:
Giáo Hữu: Tống Thị Cẩm (c) Bà Kinh Hối, Sa Ðéc.
Giáo Hữu: Trần Thị Chọn (c) Bà Ðốc Dương, bà thân B. Thế.
Giáo Hữu: Trịnh Thị Thị (c) Bà Ðại Hương Cả (Tây Ninh).
Giáo Hữu: Trần Thị Lựu (c) cô Ba Mỹ Ngọc.
Giáo Hữu: Lê Thị Xiềm.
Giáo Hữu: Phạm Thị Thôi, bạn Ba Sanh.
Giáo Hữu: Lê Thị Ngân.
Giáo Hữu: Lương Thị Thể.
Giáo Hữu: Hà Thị Tỵ, Bà Hội Ðồng Lâm (Vũng Liêm).
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Hương, bạn Ðức Lưu Thương.
Giáo Hữu: Trần Thị Bường.
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Ân.
Giáo Hữu: Phan Thị Tám (c).
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Nhiều, bạn Ðức Hộ Pháp.
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Nhuần.
Giáo Hữu: Ðặng Thị Ngân.
Giáo Hữu: Trương Thị Tròn, bạn Ông Tạ.
Giáo Hữu: Thái Thị Kiều, Bà Trương Ngọc Diêu.
Giáo Hữu: Cao Thị Thê (c).
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Lang (c).
Giáo Hữu: Tô Thị Ðến.
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Huyền, con ông Chưởng Pháp Tương.
Giáo Hữu: Huỳnh Thị Hảo (c).
Giáo Hữu: Nguyễn Thị Gần.
Giáo Hữu: Phan Thị Dựa (c).
Giáo Hữu: Phan Thị Ðẹp.
Giáo Hữu: Trương Thị Màu.
Giáo Hữu: Lâm Thị Tiếng (c), con ông Cả Bính.

Lễ Sanh:
Lễ Sanh: Phạm Thị Nở.
Lễ Sanh: Trương Thị Quý.
Lễ Sanh: Lê Thị Út (lên Giáo Hữu).
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Thơm, bạn ông Tiếp Thế.
Lễ Sanh: Ðặng Thị Nẳm.
Lễ Sanh: Trần Thị Thành.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Săng.
Lễ Sanh: Ðặng Thị Nuôi.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Sang.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Sô.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Ðể.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Tư.
Lễ Sanh: Trần Thị Bùng.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Tâm.
Lễ Sanh: Hiểu Thị Lâm.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Sanh, bạn ông Hiến Pháp.
Lễ Sanh: Lý Thị Kiều.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Ký.
Lễ Sanh: Ðoàn Thị Sửu.
Lễ Sanh: Võ Thị Tước, bà thân cô Hai Huyền.
Lễ Sanh: Phạm Thị Khanh.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Kiều.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Hội.
Lễ Sanh: Lâm Thị Hầu.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Hòa.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Nhiều.
Lễ Sanh: Lê Thị Son.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Thanh, cô Ba Thanh.
Lễ Sanh: Hồ Thị Ðiệp.
Lễ Sanh: Lê Thị Chô.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Lại.
Lễ Sanh: Dương Thị Ngại.
Lễ Sanh: Mai Thị Luật.
Lễ Sanh: Phạm Thị Màu.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Khá.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Ngân.
Lễ Sanh: Phạm Thị Trà.
Lễ Sanh: Dương Thị Kiếm (sau thăng Giáo Sư hàm).
Lễ Sanh: Trịnh Thị Ðiều.
Lễ Sanh: Trà Thị Cam (Thạnh Ðức Tây).
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Hóa.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Ngọt.
Lễ Sanh: Dương Thị Nhi.
Lễ Sanh: Phạm Thị Tớ.
Lễ Sanh: Phạm Thị Thê.
Lễ Sanh: Lý Thị Ðọt.
Lễ Sanh: Phan Thị Hơn.
Lễ Sanh: Ngô Thị Nho (sau thăng Giáo Hữu).
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Mẹo.
Lễ Sanh: Lại Thị Liền.
Lễ Sanh: Phan Thị Gần.
Lễ Sanh: Nguyễn Thị Khánh.
Lễ Sanh: Ngô Thị Chuộng.
Lễ Sanh: Bùi Thị Tho.
Lễ Sanh: Bùi Thị Dung.
Lễ Sanh: Trần Thị Nhuộm (c).
Lâm Thị Ái Nữ, con và Ðạo Minh lên chức Phối Sư. Con nói lại với Nữ Thánh rằng: Thầy ban ơn cho chúng nó.

Cả Hội Thánh Nam phái tung hô mừng lớn rằng: "Vinh diệu thay cho cả Nữ phái".
Thầy ban ơn cho các con.
Giải nghĩa: Ðức Chí Tôn giáng kêu Ðầu Sư Nữ phái tên là Lâm Thị Ái Nữ, Ðạo Minh là cô Sáu ở Minh Ðường.
Giải rõ về việc Chí Tôn dạy cất Tòa Thánh.

    Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ] 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét