Ðạo Sử Xây Bàn - 4 / 16 (Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)


Ðến ngày 16 tháng 11 Canh Dần (22-12-1950), Thánh Lịnh thăng phẩm Chánh Phối Sư, cũng còn trách nhiệm ba viện kể trên đến ngày nay.

Tôi viết thiên tiểu sử nầy, một là bước đường hành Ðạo trọn đời tôi, hơn nữa để lưu lại cho đoàn em Nữ phái thấy rõ công trình của người tiền bối trong buổi sơ khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
nhiều nỗi gian lao mà chư Chức Sắc Thiên Phong và người công quả buổi đầu vẫn không sờn tâm chí vì nền Chơn Giáo của Chí Tôn và Phật Mẫu hầu lưu lại cho đoàn hậu tấn làm gương để dọn mình tiến bước trên con đường hành Ðạo.

Thi
Tu hành gắng chí lập dày công,
Ðến buổi chung qui hưởng phước hồng.
Cửa Ðạo gay go trường khổ hạnh,
Ðường Tiên nhàn rỗi bước thong dong.
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội lỗi càng thêm nỗi chất chồng.
Cuộc thế chẳng qua trò ảo mộng,
Ngày về nhắm mắt nắm tay không.
Nữ Chánh Phối Sư
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU


ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tam Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Nữ Chánh Phối Sư
Chưởng Quản Nữ Phái Cửu Trùng Ðài
Kính thưa Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng Ðài.
Vấn đề may Thiên phục, tôi thú nhận rằng tôi không biết kiểu mẫu chi hết. Gặp dịp may Thầy giáng dạy quý Anh lớn hồi ở Sài Gòn rồi kêu tôi Thầy dạy luôn (may Thiên phục).

Cũng trong Thánh giáo ngày tháng nầy, nên tôi ghi luôn Thầy dạy tôi may Thiên phục, đặng Thầy ban áo mão cho quý Anh lớn cho kịp kỳ Ðại Hội Khai Ðạo tại Từ Lâm Tự Gò Kén Tây Ninh (Rằm tháng 10 năm Bính Dần 1926).
Nay kính,
Tòa Thánh, ngày 15-07-Quý Mão
(Le 2 Septembre 1963)
Nữ Chánh Phối Sư
(ấn ký)
HƯƠNG HIẾU

Kính Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài.
Tôi xin phép tường thuật Thánh giáo của Ðại Từ Phụ giáng cơ như dưới đây:

Le 30-10-1926 (24-09-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn đệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ.

Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con lên kêu Nhiều (bạn ông Phạm Công Tắc) đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà. Chư Tín nữ cầu Ðạo đắc vấn.

Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng mới biết liệu sao.

Hiếu bạch: Thưa Thầy con vâng. (1)
Nhiều, sao con? (Nhiều bạch Thầy còn mẹ già).

Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy, con cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho các con.
Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con.


(1) Tôi vâng sắc lịnh Thầy trên đây, tôi về chùa Từ Lâm Tự Gò Kén Tây Ninh nhằm ngày Khai Ðạo. Quý Anh lớn về, tôi đi chung một đoàn xe, về tới chùa đúng 5 giờ chiều ngày mùng 14 tháng 10 năm Bính Dần (18-11-1926).

Ngày 25-02-1926 (âl. 13-01-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy cách lạy.

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
Sài Gòn, Vendredi 25 Février 1926 (13-01-Bính Dần)
(Tại nhà Ðức Cao Thượng Phẩm, đường Bourdais số 134).

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Trung vô giữa bái lễ lạy Thầy coi .... Con làm lễ trúng, song mỗi gật con nhớ niệm câu chú của Thầy: Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Trung bạch hỏi: Ðại lễ là sao?
Thầy dạy: Ðại lễ là làm lễ ba lần.
Lần đầu tiên dâng hương và dâng hoa.
Lần giữa dâng rượu.
Lần chót dâng trà.

Phải chính mình con dâng các lễ ấy, khi bái lễ hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

Từ đây con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo Ðạo, nhưng dải gài chín mối, màu xanh da trời; khăn xanh chín lớp màu da trời. Sau Thầy sẽ lại thêm nữa, nghe và tuân theo. Con mang giày gai hầu Thầy, còn nhứt nhứt đều để chơn không.
Trung, con lạy quá hơn hai đứa bé nầy há!
Trung bạch: ...
Thầy nói: Phải vậy chớ nó đọc ở dưới cho ai nghe.

Trung bạch: (Hỏi về Thiên phục) Còn đồ sắc phục con duy để làm lễ cho Thầy mà thôi, nếu con bận nó đến nơi nào, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều phải tránh hết.

Giải nghĩa:
Ở nhà Ðức Cao Thượng Phẩm mỗi ngày đêm, Ðức Chí Tôn giáng dạy Ðạo. Lúc nọ Thầy sai ba ông đi trọn một tuần lễ, để tôi ở nhà nhớ Thầy buồn quá, Tôi cúng thời chiều, ngước lên Thiên Bàn khóc mà nói rằng: Con biết Thầy có ngự trên Thiên Bàn, nhưng Thầy vắng một tuần rồi, con không thấy lời Thầy dạy, con nhớ quá. Chiều chúa nhựt ba ông về, tôi thắp đèn nhang cầu Thầy, Thầy giáng nói với tôi như vầy:
              
   Hiếu muốn cầu Thầy hơn ai hết.
Trước vốn yêu,
Nay cũng yêu,
Con gái út,
Có bao nhiêu,
Khuyên con lòng vậy mãi,
Cái mến con thương Thầy đều.

Trung, con mặc thử đồ Ðại phục mới may rồi cho Thầy xem... Trung, con coi đẹp quá há!
Hiếu sửa mấy cái dải như Cư nói.
Bình thân Trung.

Còn một nửa, ba con sắm sửa rồi Thầy sai đi đòi nó đến.
Cư bạch Thầy: Thái Ðầu Sư ở nơi nào? - Ðừng hỏi con.

Trung, nội Rằm tháng tới đây, con phải nhóm Ðại Hội đòi luôn phái Ngọc đến đặng thọ Thiên tước nghe. Còn thiếu thảo hài, sắm cho đủ nghe. Hiếu chịu cực may bộ Hồng Y Thiên phục nữa cho kịp ngày Rằm nghe.

Tháng 04-1926 (âl. 03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy may Thiên phục.
Avril 1926

THẦY
Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu biểu nó phải sắm sửa liền một bộ Thiên phục màu trắng. Trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng có chữ Càn thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy, áo cũng vậy.

Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con. Con liệu cho kịp, Rằm phải có nghe con.
Hiếu lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.
Mme Cư bạch Thầy.... Mão nầy là mão Giáo Tông.

Trước ngực ngay trán phải để chữ cung Càn - chữ vàng, chữ Bát Quái - Còn cái áo con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.
Nghe và tuân theo nghe con.
Trung, đêm nay đừng cầu Thầy nghe con.

Ngày 18-04-1926 (âl. 07-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy may Thiên phục.
18 Avril 1926.

Mừng sắp con,
Hiếu quì bạch Thầy chỉ dạy may mão Ðức Giáo Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào?

Thầy sẽ nhứt định mọi việc.
Thầy dạy: Mão bề cao ba tấc, ba phân, ba ly thước Lang Sa; may giáp mối lại thì thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh hiệp lại có một đường xếp ấy là Âm Dương tương hiệp, Hiếu biết mà.

Sợi dây xếp hai lại còn bên trái có hai dải thòng xuống một mí dài một mí vắn, mí dài ba tấc.
Giáo Tông- Thảo hài.

Tái cầu: Ngày 19 Avril 1926 ( Nhà ông Cao Quỳnh Cư).

Có tạo đỡ một cái mão bằng giấy dưng lên cho Thầy xem.
Cười ....
Ðặng phải vậy, ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm theo.

Ngày 19 Avril 1926 - Mitre

Sợi dây viền ăn liền hai bên, chớ đừng cắt rời ra nghe con. Con giỏi lắm, Hiếu.
Hai dải thòng xuống vai ba tấc bề dài, ba phân bề ngang, phải vậy rồi.
Cư để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may mão Giáo Tông).

Cư con phải mua giấy vàng cắt miếng bề ngang ba phân, bề dài 9 phân, chấp bút bằng nhang, đặng Thầy họa phù cho thân tộc mỗi Môn Ðệ một người một lá bùa đốt vái Thầy bỏ vô tô nước lạnh mà uống, nghe và tuân theo. (Về vụ bệnh thiên thời)

Mừng chư Môn đệ.
Dạy Cư chấp bút như Thầy đã dặn.
Chư Môn đệ biết sợ há! Ta khen đó.

Trung bạch Thầy: Ðược phép dùng bùa mà cứu chúng sanh chăng?
- Nội gia quyến của Môn Ðệ; phải để luật thưởng phạt theo lẽ công bình của Trời Ðất mới phải chớ, các con.

Ngày 22 -04-1926 (âl. 11-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy sắp đặt ngày Thiên Phong và may Thiên phục.

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
Ngày 22 tháng 04 năm 1926 (11-3-Bính Dần)
Ðàn tại nhà Ðức Cao Thượng Phẩm (Sài Gòn).

   CAO ÐÀI
   Các con vui không.
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng, nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở; vậy thì ba con sắp đặt thế nầy:

Hiếu, con viết cho rõ con nghe.
Trung nghe, con dời bài vị của Lý Thái Bạch để dưới tượng Thầy. Con dọn dẹp trống hết để một cái ghế bên trang thờ Thầy, rồi để lên trên một cái ghế lớn của bộ ghế phòng khách con đó. Ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư.

Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết, còn bao nhiêu Môn Ðệ phân ra làm ba ban. Ngày ấy có Lịch sắp đặt.

Con đem bộ Thiên phục Giáo Tông mà để nơi ghế ở trên, còn bộ của con để giữa, bộ của Lịch bên hữu, còn ghế tả con phải viết một miếng giấy đề chữ Thái cho thiệt lớn mà dán lên chỗ dựa.
Con phải chỉ cho Hiếu nó sắp mấy cung kia đặng thêu vào áo, ấy là Ðạo. Thầy sẽ coi lại.
Trung kiếm thử (là kiếm thử cái bùa Bát Quái) đặng sắp may trong áo Giáo Tông.
Trung bạch cùng Thầy rằng chẳng hiểu.
Thì con coi mà định luật luyện Ðạo nơi đó. Con lại phải cho thanh tịnh, kể từ nay diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới đặng.
Con nghe và tuân theo.
Hiếu dâng mão Giáo Tông may xong rồi cho Thầy xem.

Trúng, mà ai đội con phòng lật đật (Ðức Chí Tôn biết trước là ông Chiêu không lãnh chức Giáo Tông, nên mới có câu nầy).

Ngày 22 tháng 4 năm 1926.

   CAO ÐÀI.
Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên Phong nghe. Chỗ bàn ngự của Thầy là phải để một cái ghế. Trước ngôi của ba vị Ðầu Sư vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy (là Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt).

"Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn", lại vẽ thêm một lá bùa "Kim Quang Tiên" để thòng ngay chính giữa, ai ngó vào cũng đều thấy đặng. Lịch biết ngôi ba vị Ðầu Sư ở sau bàn thờ Lôi Công Thiên.
Mấy con tối trí lắm nghe à.

Phải vào Bản, đem các bài Thánh ngôn Thầy dạy để đọc cho chúng nó nghe trước rồi mới cầu Thầy.
(Anh Ðốc Bản ở Thánh Thất Cầu Kho).

Ngày 24-04-1926 (âl. 13-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Ðại Ðạo... chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa." & "Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội hiệp cùng nhau, thương yêu nhau trong đạo đức của Thầy."

24 Avril 1926 (13-03-Bính Dần).

Lịch ái môn đệ quì như Trung.
Các con nghe dạy.

Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Ðại Ðạo là: Nhơn Ðạo, Thần Ðạo, Thánh Ðạo, Tiên Ðạo, Phật Ðạo.

Tùy theo phong hóa của nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhân loại duy có hành Ðạo nội tư phương mình mà thôi.

Còn nay thì nhân loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Ðạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên, phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh Giáo mà làm ra Phàm Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập chánh thể, có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo.

Vì vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông, nghĩa là Anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là Giáo Hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị của Thầy ban thưởng. Còn cả Môn Ðệ ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng; nhược kẻ nào phạm tội, thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn.

Chiêu đã có công tu, lại là Môn Ðệ yêu dấu của Thầy, nên Thầy muốn ban chức Giáo Tông cho nó, song vì lòng ám muội phạm đến oai linh Thầy mà ra lòng bất đức chẳng còn xứng đáng mà dìu dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con.

24 Avril 1926

Tái Cầu.
Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn loại là dường nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội hiệp cùng nhau, thương yêu nhau trong đạo đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia lìa các con là đứa thù nghịch cùng Thầy.

Chiêu đã hữu căn hữu kiếp; Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục độ rỗi nó trước các con, biết bao phen Thầy gom các Môn Ðệ lại, Thầy sở cậy nó ấp yêu dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con, song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách nhậm rất lớn của Thầy toan phú thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó, nghe và tuân mạng lịnh Thầy.
Ngày mai các con còn nghe thêm nữa (là ngày 25-04-1926).

Ngày 25-04-1926 (âl. 14-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn sắp đặt ngày Thiên Phong.
Ngày 25 Avril 1926 (14-03-Bính Dần).

Sắp Ðặt Ngày Thiên Phong
Lịch, con đã nghe đọc những lời Thầy dặn há?

Ngày mai lại để thêm một cái bàn dựa bên cửa sổ đằng trước ngó vô (tại nhà Anh lớn Lê Văn Trung) ở Chợ Lớn.
Cư nghe dặn, con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. Cười....
Ðáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo nên Thầy không biểu.
Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt vô cho ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đắp mặt nó lại, biểu Ðức, Hậu đứng gần em kẻo xuất hồn nó té tội nghiệp.
Khi chấp cơ rồi xong xả, hai con mặc Thiên phục vào rồi thì nó mới leo lên.
Lịch, con viết một lá bùa Giáng Ma Xử, đưa cho Tắc nó cầm. Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ Lôi và Hộ Pháp về rồi Thầy biểu mặc vô thề mới đặng.
Mấy con mai sẽ nghe dạy thêm.

25-04-1926 (14-03-Bính Dần)

Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn Ngũ Lôi. Khi giáng rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị vị Ðầu Sư quì mà thề.

Cư khi đem ba bộ Thiên phục để vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba cái ngai ấy rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó đặng Thầy vẽ phù vào mình, rồi biểu Giảng xướng lên "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi. Cả thảy chư Môn Ðệ đều quì xuống; biểu Tắc nó leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy trục xuất chơn thần nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức xông hương tay của chúng nó. Như em giựt mình té thì đỡ, rồi mới biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai quì, đến trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu cúi ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng: Làm tròn Thiên Ðạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn Ðệ của Cao Ðài Ngọc Ðế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành Tả Ðạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt".

Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy điều câu sau thì như vầy:
"Như ngày sau phạm Thiên Ðiều, thề có Hộ Pháp đọa Tam Ðồ bất năng thoát tục".

Rồi mới biểu Giảng xướng lại nữa "Phục vị" thì Nhị vị Ðầu Sư trở lại ngồi trên ngai, chư Môn Ðệ đều đến lạy mỗi người hai lạy.

Tới phiên các Môn Ðệ từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:
"Tên gì ... Họ vì ... Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ, đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Ðệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục".

Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy Nhị vị Ðầu Sư.
Cư hỏi Thầy: Các Môn Ðệ đều đến bàn Ngũ Lôi và Vi Hộ Pháp mà thề và đến lạy Nhị vị Ðầu Sư, còn Anh Chiêu thì thế nào?

Thầy sẽ đợi lòng sám hối của nó, vì đã lo sợ cầu khẩn Thầy mấy bữa rày. Nó cũng phải lạy như các Môn Ðệ khác vậy.
Mười một giờ rưỡi Thầy giáng cơ, phải biểu Lịch nó lập nghi cho có lễ phép. Nghe và tuân theo.

Ngày 26-04-1926 (15-03-Bính Dần): Ðức Chí Tôn Phong Thánh lần đầu.
11 giờ 30 đêm 25 rạng 26 Avril (khuya 14 rạng 15 tháng 3 Bính Dần).

               CAO ÐÀI
               Hỉ chư Nhu,
Kim triêu dĩ đáo Thiên Trung Quang,
Am hiểu thế tình tánh đức nan.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.

Rán hiểu.
Ðức, Hậu: Phong vi Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
Phong Cư: Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ.
Phong Tắc: Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ.
Trung, Lịch: Ðã thọ sắc, cứ tước vị mà theo lịnh sắc mạng Ta.
Kỳ: Phong vi Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo Giáo Sư.
Bản: Phong vi Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư.
Trung: Xin phẩm vị để như cũ và xin đừng cho chư Môn Ðệ lạy.
Ta nhận lời trước, còn điều sau phải tuân. Chư Môn đệ đồng quì lạy Thầy "xin thứ tội cho Ông Chiêu".
Chiêu thiếu đức thiếu tài.
Trung, con sợ ai?
Ta không vị ai.
Ta biết hơn ngươi.
Ta há không biết thương sao?
Ấy cũng vì thiếu đức.
Nó đã biết Ta.
Cư tuân lời Thầy đã truyền mà thi hành.

Ngày 26 Avril 1926.

CAO ÐÀI.
Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, ai kiên? Ta chờ ngươi.
Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh? Ta đã nói người làm đầu Tam Giáo, đã bao phen Ta lập Ðạo sẵn cho, ngươi chê há.
Ta đã sở định, ngươi dám cải.
Chuyên quyền từ đấy bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
Sám hối Ta cho tu ít tháng,
Tài hay tài múa chớ đua lừa.

Ngày 29-04-1928 (âl. 10-03-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy "Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài càng khó thì đậu càng cao...".

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
Tòa Thánh, năm Mậu Thìn (1928).

   THẦY
   Các con.
Cư, Hiếu! Thầy thấy hai vợ chồng con chịu nhiều điều sầu thảm, Thầy mừng, mà cái mừng ấy lại đổ ra chứa chan giọt lụy!

Ðường đời khúc mắc chông gai là lẽ Thiên cơ đã định vậy; cái nơi để cho cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến kiến công lập vị mình chẳng khác nào con buôn trong buổi chợ. Cả sức lực, cả trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy nên mới mất chơn linh, thất ngôi diệt vị.

Bởi vậy cho nên nhiều bực Thánh, Thần, Tiên, Phật cam lòng thủ phận chẳng dám vọng cầu đem thân vào cảnh đọa, nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn thi, thế nào mong mỏi địa vị ra cao thượng.

Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá. Thầy tưởng như nơi thế gian nầy có đứa con nào Thầy cưng trọng hơn hết thì là các con, nhưng mà chẳng lẽ Thầy làm giám khảo lại cấp nấp bài thi lén cho mỗi đứa thì cái đậu của các con có ra chi.

Lại nữa, Thầy biết trước rằng: Không cần giúp các con cũng dư sức đậu đặng, thì dường ấy nếu Thầy giúp, tức hại thể diện các con, chớ không giờ phút nào Thầy xa các con.

Các con chịu khổ hạnh là Thầy muốn vậy.

Nhà nghèo hạnh tốt ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt; cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh; tâm thành là để giồi trau tánh tục; lòng đạo đức quí hơn là miếng đỉnh chung; tố bần hàn tùy mình mà hành Ðạo, thì công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con.
Thăng.

(Vì có người nghèo nên Thầy giáng cơ dạy).

Ngày 28-06-1928 (âl. 11-05-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy làm đường cát trắng để ví với khổ hạnh.

Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
Tòa Thánh, Le 28 Juin 1928 (Ngày 11 tháng 5 Mậu Thìn)

   THẦY
   Các con.
Hiếu! Con nghe Thầy nói chuyện làm đường cát trắng con.
Thầy đố con biết làm sao cho đường đen ra trắng... Cười ...
Nghe con, nè làm theo nghe.

Ðổ đường đen vào một cái hủ thọc lủng đít, rồi định chừng cho vừa hai phần hủ đường, còn một phần hủ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem phơi nắng chừng một tuần thì là đường trở nên trắng; gạt lớp bùn đi thì con đặng một thứ đường trắng phau phau rất ngon rất đẹp đó con.

Cái khổ hạnh của con giống như đường đó con à. Con có biết Thầy khóc như con vậy chăng con?!

Nếu con không vậy làm sao đáng con cái của Thầy. Con chỉ nhớ rằng Thầy thương con là đủ. Ðặng thế gian yêu mến ắt Thầy phải ghét, mà Thầy ghét con thì còn chi con, con khá nhớ!
Thăng.

Khổ Tâm Hành Ðạo của Ðức Cao Thượng Phẩm và Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu.
KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO: Nhiều nỗi khổ tâm của Ðức Cao Thượng Phẩm xin kể dưới đây:

Xây Bàn (Sơ khởi)
Thời kỳ Trời đến cứu thế tại Nam phương, năm Ất Sửu (1925).

Ðức Cao Ðài giáng cơ dạy chúng tôi phế đời hành Ðạo. Hai tôi vâng lịnh liền để trọn đức tin nơi Ðức Cao Ðài. Chúng tôi hết lòng hết dạ chỉ để tâm tôn sùng Ðấng Thiêng Liêng là Ðức Chí Tôn, nên hai tôi trọn vâng mạng lịnh phế đời hành Ðạo hồi năm 1926 (liền bỏ sở làm).

Khai Ðạo 14 tháng 10 Bính Dần (18-11-1926), mà chúng tôi hành Ðạo hồi năm Ất Sửu (1925), nghĩa là Ðức Chí Tôn khiến cho ba ông: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh ham mộ xây bàn đặng các Ðấng đến mở Ðạo.

Ông Cao Quỳnh Cư và Nguyễn Thị Hiếu vâng lịnh Chí Tôn phế đời hành Ðạo, bỏ sở làm và tém dẹp đồ đạc nhà cửa về một lượt với Chức Sắc cùng ngày 14-10-Bính Dần (1926).

Hành Ðạo tại chùa Gò Kén hơn 3 tháng, trả chùa Từ Lâm Tự Gò Kén, nhằm ngày 20-02-Ðinh Mão (23-03-1927). Dọn đồ dời chùa, thỉnh chư Phật về đất mới mua, hành Ðạo được 4 năm.... Bỗng đâu bão tố, đất bằng sóng dậy đưa tới làm khổ tâm chúng tôi hết sức buồn là không thể trở ra đời làm việc nữa, hổ thẹn với anh em làm việc trong sở, vì đã nhứt định phủi hết trần thế, công danh lợi lộc cũng chẳng màng, quyết chí tu hành để làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn sai khiến mà thôi.

Nghĩ lại hồi còn rừng rậm sầm uất không ai về, để Ðức Cao Thượng Phẩm chỉ dẫn người Miên phá rừng, đánh gốc, phá chồi, tạo tác Ðền Thánh tạm, nào là Ðông Lang, Tây Lang, Hậu Ðiện, nhà Thiên Phong, nhà ngang dãy dọc, nhà Dưỡng Lão, nhà trường, nhà khách.... tạo đâu đó xong xuôi rồi Ðức Cao Thượng Phẩm bị một trận khảo đảo khá dữ dội là: Có một nhóm người thiếu thương yêu gieo ác cảm hội nhau dưới Thủ Ðức, nước lã khuấy nên hồ, họ đồng lòng về Tòa Thánh đuổi Ðức Cao Thượng Phẩm kỳ 24 giờ ra khỏi Tòa Thánh, nếu không thì cột trong rừng bắn.

Làm Ðạo lúc mới phôi thai rất khổ sở trăm bề, có kẻ nghịch rình mò âm mưu với nhau hợp lại xúi giục gây rối, làm loạn, họ đồng lòng với nhau đuổi hai vợ chồng Thầy Tư (tức Cư và Hiếu).

Buồn cười... tuồng đời lạnh nhạt, thôi, họ dữ quá! Chúng tôi về Thảo Xá Hiền Cung là nơi căn cội của Chí Tôn dạy cất trước, nên Thảo Xá Hiền Cung là gốc.

Thưa quý Ngài, hai tôi bị đại khảo, lớp thì bị người bạc đãi, xua đuổi, lớp bị húng hiếp đủ điều, lớp thì khổ tâm trong gia đình, trong một năm chết ba người yêu mến nhất của đời sống tôi: chồng mất tháng 3, con mất tháng 8, mẹ mất tháng 9 năm Kỷ Tỵ (1929).

Tôi bơ vơ có một mình, khóc thầm tủi lén, nước mắt không ráo, quên ăn bỏ ngủ. Than ôi! Trong lúc tôi lâm nguy nhờ có Anh Cả, Ðức Thượng Ðầu Sư và Chị Lớn Thượng vô ra khuyên lơn tôi. Anh Cả gởi thơ cho Nữ phái các làng kế cận hạt Tây Ninh. Anh Cả dạy Nữ phái tới lui thường thường chuyện vãn với tôi đặng giải khuây trong cơn sầu não, thật không có bút mực nào cạn tỏ cho hết, nhiều nỗi đứt từ đoạn ruột (hồi năm 1929) thật là mạch sầu khó nỗi cản ngăn, tâm chí không toan dằn đặng lụy!!!

Thưa quý Ngài, bởi vì do theo luật của Tạo Hóa, hễ đàn bà liễu yếu đào thơ, phải nương dựa dưới bóng của ông chồng, chi chi cũng nhờ ông chồng, những khi đói rách, lành, muôn việc đều nhờ ông chồng mà thôi.

Trái lại trong gia đình chết hết, bỏ tôi ở lại có một mình, chỉ nương náu với mẹ già như trái muồi chín cây (Bà Nội An).
Tôi cũng phụng sự cho má tôi đến năm 1946 má tôi qui liễu.

Hết Phần Ðạo Sử Xây Bàn
    Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ] 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét