
Mardi 23 Novembre 1926
(19-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Nhu, Hỉ Chư Tín Nữ,
Trung, Trang mai nầy hai
con biểu Tương và Hóa lên nghe Thầy dạy việc nghe.
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Nguyễn Văn Bảy:
Mặt sắt vô tư đã tiếng đồn,
Khai nên cơ nghiệp định kiêm môn.
Lòng thành một tấm nâng non nước,
Quyết dở ngửa nghiêng lách phúc bồn.
Sau trọng dụng.
Trương Văn Mùi:
Phúc bồn thế cuộc tưởng như in,
Cam khổ công khanh mới biết mình.
Oằn oại đôi vai trung nghĩa gánh,
Nên hư giúp thế để mình khinh.
Thâu
Nguyễn Văn Cảnh: Bình Trưng, Mỹ Tho.
Mình khinh hóa trọng đức hơn tài,
Một mảy lợi danh trối kệ ai.
Tâm tánh quan phòng mình biết lấy,
Ðẩy đưa mặt thế trổi khoe tài.
Thâu
Nguyễn Văn Ðài: Bình Trưng, Mỹ Tho.
Khoe tài phải có nét anh tài,
Dưới thế xem tường chẳng đặng hai.
Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,
Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.
Thâu
Trang Văn Keo: (Tây Ninh)
Cao bay xa chạy đã hay chi,
Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.
Ôm nết vó quàng lo khống khứ,
Cũng như
chú dốt đến trường thi.
Thâu
Trần Văn Liêng: (Tây Ninh)
Trường thi đã đỗ bốn vi ngoài,
Phải rán khi nên chức Tú tài.
Nhơn bởi ít công lo phận sự,
Mình nên chẳng rán đến cầu ai.
Thâu
Ðào Văn Xồi: (Bình Thành, Tân An)
Cầu ai mở đặng khiếu thông minh,
Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.
Công của đôi bên trao múc đủ,
Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.
Thâu
Trần Văn Huê:
Người binh con khá biết binh người,
Chớ chịu ơn dày phải hổ ngươi.
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.
Thâu
Lê Văn Khuynh:
Nên thời vương bá lúc ngồi câu,
Lựa phải cửa công đến chực hầu.
Thú vị tố nào chìu tố nấy,
Riêng vui Thuấn trước mến bầy trâu.
Thâu
Bùi Ngọc Hổ:
Bầy trâu đốt đít để gương xưa,
Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.
Quá sức trí người đừng ngưỡng vọng,
Thành gia nhiều kẻ đã nên chưa?
Thâu
Lê Văn Nhung:
Nên chưa giúp Hớn buổi hưng vong,
Gia Cát xưa kia chẳng khỏi vòng.
Thuận lý Trời nên hư mới rõ,
Qua rồi trọn kiếp biết anh hùng.
Thâu
Trần Văn Nên:
Anh hùng gặp thế rán đua chen,
Con giống như con bướm mến đèn.
Thầy hỏi như tu con khá nhớ,
Làm sao Thầy đặng để lời khen.
Thâu
Phạm Văn Lắm: (Long Thành, Tây Ninh)
Lời khen miệng thế quí chi đâu,
Bất quá như son lộn bả trầu.
Thành thật thôi thì mình xử lấy,
Ðèo bồng chi rộn trí không sâu.
Thâu
Ngô Văn Xiên: Lạ chưa? (Trường Hòa,
Tây Ninh)
Không sâu trí thức hiếu hơn người,
Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
Thâu
Trần Văn Hương: (Long Thành)
Cười như Lữ Vọng lúc suy thời,
Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.
Ðưa rước cho qua cơn khách đón,
Thân còn chẳng tiếc lựa là lời.
Thâu
Trang V. Khách: (Long Thành, Tây Ninh)
Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian,
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn.
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh
an nhàn.
Thâu
Nguyễn Văn De: (Long Thành)
An nhàn gió túi với trăng sân,
Ràng buộc cân đai chịu mạng thần.
Quân nhược thần cường đời trở vẻ,
Thanh thanh sĩ sĩ khó đai cân.
Thâu
Mắc! Mời Mắc, Ái nữ nghe.
Vợ Tư Mắc:
Thầy dạy:
Nắm chặt trăm năm một chữ đồng,
Hễ chồng thì của vợ thì công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
Thầy cám Ái nữ. Mắc! Vợ
con nó lại bị khiếm huyết mà biến nhiều bịnh; mùa nầy chẳng nên uống thuốc Tàu,
Thầy dặn con tuân theo toa Thầy mà cho nó uống Bilinne.
Trịnh
Thị Thình:
Cân đường tội phước đấp nền nhân,
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
Mình lánh kẻ tà mình ắt chánh,
Khốn chi tính thiệt với so hơn.
Thâu
Lê
Thị Chánh:
So hơn đức hạnh mới nên giành,
Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hóa làm lành.
Con nghe mà cư xử
đời nghe.
Ngô
Thị Chuộng:
Làm lành để đức hưởng thân sau,
Ðừng tiếc chi mang lấy sắc màu.
Lầm lũi ai đi mình cũng bước,
Mau chơn tới trước chửa chi cao.
Lý
Thị Chi:
Cao sâu máy Tạo khó đong lường,
Thiệt bực mới vào cửa niệm hương.
Trăm nỗi khó khăn ngăn trở dạ,
Phải thương mình mới biết cao lương.
Lâm
Thị Kỉnh:
Cao lương đừng tưởng giống cao quyền,
Quyền lớn là vì trước có duyên.
Ðạo khó nắm tay nên mới quí,
Chẳng như củi mục mới xem thường.
( Cho kẻ ngoài )
Nguyễn Thị Tý:
Xem thường dưới mắt dở cùng hay,
Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.
Ðạo đức cũng như mua buổi chợ,
Dở ngon mắc rẻ miệng mình nài.
Thâu
Huỳnh Thị Hội:
Nài bao cực nhọc gắng tầm Tiên,
Thầy một điều khuyên ấy tập hiền.
Lỡ buổi trước kia chưa thấy Phật,
Còn nay công tội có người biên.
Thâu
Nguyễn Thị Ba: (Ðỗ Thị Mài)
Người biên ra vẻ nét nhà xưa,
Ðức hạnh trung trinh cũng khá thừa.
Giúp thế nhiều phen con sẵn dạ,
Nhơn là một nết của Thầy ưa.
Thâu
Phan
Thị Nghiêm:
Ưa nghe đạo đức ghét tà tây,
Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.
Chẳng mắc đưa lời vào dạ trẻ,
Thường ngày cầu nguyện dạ đừng khuây.
Thâu
Phạm
Thị Hiệp:
Ðừng khuây những tiếng thiện lời thành,
Tấc dạ con gìn một chữ trinh.
Lợi khổ danh nguy con chớ vọng,
Khá lo cho đặng chốn hiền lành.
Thâu
Bùi
Thị Khuê:
Hiền lành là phước dẫn nguồn Tiên,
Chưa đặng trọn chưng khách cửu tuyền.
Lo thế nhớ hồi lo phận trước,
Thân trăm tuổi chẳng trọn như nhiên.
Thâu
Ðặng
Thị Nẵm:
Như nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
Con muốn nên nhà lo lập nghiệp,
Muốn qua sông cả phải nương thuyền.
Thâu
Nguyễn
Thị Cung:
Nương thuyền qua thử khỏi sông mê,
Chẳng có công danh cũng có bề.
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
Thâu
Trần
Thị Vang:
Tu tề thì sửa vẹn gia đình,
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
Ðạo đức để gương con cháu học,
Trăm năm ngàn thuở phước nhà in.
Thâu
Trần
Thị Hạp:
In như Tề phụ chịu hàm oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
Dưới thế hiếm người toan hiếp đáp,
Thương thay một mạng bỏ nơi nhàn.
Thâu
Bùi Thị Nga: (Long Thành, Tây Ninh)
Nơi nhàn đâu đến đọa hồng trần,
Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.
Nơi mái tây hiên Trời ngó mắt,
Lúc nên khi đến cũng còn gần.
Thâu
***
Mardi
séance du 23 Novembre 1926 (18-10-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Các con chớ phiền hà chuyện Thánh Thất, chuyện
xảy ra ấy cũng là một bước trắc trở trong đường Ðạo của Thầy. Thầy còn phải đau lòng thay, nhưng cũng là nơi
Thiên cơ vậy, Thầy hằng biết công của các con, nhưng Thầy phải cực lòng chìu theo ý của mỗi đứa mà vun đấp nền Ðạo.
Vì vậy mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm
chí của các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức. Sự xảy ra nơi
Thánh Thất, tuy là nơi mối Ðạo
chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy
của nhiều đứa mà ra. Duy tâm trung chánh đáng thì là làm cốt cho Tiên Thánh;
còn tâm chí vạy tà là chỗ của tà quái xung nhập.
Chi chi cứ tưởng có Thầy giúp mà lập
xong nền Ðạo cho các con là đủ.
Thầy cũng có phép răn trị kẻ vạy tà. Các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước
đường cứ thủng thẳng đi lần tới, đừng gấp quá mà cũng chớ thối lui thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở nguyện.
Thầy ban ơn
cho các con. Thầy thăng.
Ngày 24-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn
dạy "... Từ khai Thiên lập Ðịa Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải bao
những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý,...".
Séance
du 24 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Các con, Thầy nghĩ lại việc hôm nọ tại Thánh
Thất biến ra một trường tà quái, mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các con thiết
nghĩ ra lẽ nào?
Mỹ Ngọc: Bạch Thầy tại vài ông Thiên Phong làm
chuyện lôi thôi nên mới có quỉ yêu xung nhập.
- Phải, bởi cái lếu của chúng nó mà sanh việc
ngày hôm nay.
Mỹ Ngọc: Bạch Thầy trong Môn Ðệ có nhiều người ngã lòng.
- Bất bình lắm hả?
- Nhưng trong Thiên Phong có vài ông mà thôi.
- Cũng có nhiều chớ sao
con nói ít vậy con? Ðó là bước Ðạo, đó là Thiên cơ, các con hiểu sao được,
nhưng Thầy buồn vì có nhiều đứa sàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng
nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương đó chút. Môn Ðệ của Thầy đứa
muốn bỏ Ðạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập
ghình khó tới nên mới ra cớ đổi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê
chữ vinh sang mà ngán.
Các con hiểu Thầy buồn,
nhưng ấy là máy Trời đã định, chạy sao cho khỏi? Thầy biết bao lần vì các con
mà chịu nhọc nhằn.
Từ khai Thiên lập Ðịa Thầy
cũng vì yêu mến các con mà trải bao những điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy
lúc vang mày nuôi nấng các con hầu lập nên nền Ðạo; cũng tưởng các con lấy đó
mà làm đuốc soi mình đặng bỏ tà qui chánh. Mấy lần vun đấp nền Ðạo Thầy đều
cũng bị bây mà hư giềng Ðạo cả.
Thầy buồn đó các con.
Thầy ban ơn
cho các con, Thầy thăng.
Ngày 25-11-1926 (âl. 20-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn
thâu Môn Ðệ và dạy "... Ðường càng dài, bước càng nhọc thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ...".
Mercredi 25 Novembre 1926 (20-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG
THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ, Chư Ái Nữ,
Chư Chúng Sanh,
Các con nghe Thầy: Sự biến
xảy ra đến nay đã trở thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền
Ðạo. Kẻ gọi tà, người nói chánh, nơi Thiên Thơ đã có dấu ràng ràng, các con có
đi tranh luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần người vô phước, tin tin, không
không cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.
Ðường càng dài, bước càng
nhọc thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ. Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy
con dại, muốn ra tay tế độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng
chúng nó đã nhiểm luyến đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy khó đã
ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền
vi để cơ Trời xây đổi, các con nên liệu lấy.
Nơi đây là Thánh Ðịa, Thầy
đã chọn chánh chỗ Thánh Thất là đây mà thôi.
Thơ! Con chẳng nên lo xa
nữa nghe. Thầy giao sự sắp đặt hành tàng về mọi sự Thánh Thất cho Trung, Tương,
Trang, Hóa, làm sao nơi đây cho đặng vững vàng khỏi điều trắc trở. Bốn con nên
lưu ý, nhứt là Trang, con hiểu Thầy chăng con? Bốn con điều đình chung lo, có
Thầy biết điều thiết yếu và sẽ làm cho các con đặng toại kỳ sở nguyện.
Trung! Nơi Ðàn thứ hai tới
đây, con nhớ cho các Thánh nội Sài Gòn và Chợ Lớn hay đặng đến hết cho Thầy dạy
nghe.
Thầy tưởng dùng máy đèn có
khi làm cho mất sự tịnh trong lúc hành lễ mỗi Ðàn, nhưng đã có rồi, con liệu
tùy tiện mà làm sao cho êm tịnh.
Trung! Cho
Chư
Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Ngô
Trung Bình:
Nguồn Ðạo tìm vào đã tận nơi,
Rán đưa chơn tục chí đừng dời.
Bao nhiêu lỗi trước tua kềm sửa,
Căn mạng nên Ta phải để lời.
Thượng.
Trương
Quang Huê:
Lời ngay mích bụng dạ đừng nao,
Mong mỏi đường theo cửa Ðạo vào.
Vào đặng thấy nguy đừng trở bước,
Bước an chí ấy mới thanh cao.
Thượng.
Nguyễn Hữu Trinh:
Thanh cao tập chí mắt xem thời,
Ðời thấy đã nhiều chán nữa thôi.
Thôi rán lần đường dò bước trễ,
Trễ lâu cũng tới chí đừng lơi.
Thượng.
Nguyễn
Văn Thành:
Chí đừng lơi mới đáng trượng phu,
Mượn nhành dương rưới khỏa cơn sầu.
Rừng chiều ác lặn con trăng lố,
Chậm rãi đường về bước trở thu.
Thượng.
Hà
Văn Hành:
Thu về Ðông vội trở màu sầu,
Sầu thảm chờ qua lúc đớn đau.
Ðau bước đường xa hầu đến chốn,
Chốn nao đạo hạnh tập tâm cầu.
Thượng.
Nguyễn
Văn Lục:
Tập tâm cầu Ðạo chớ sơ sai,
Chí ấy sau nhờ vận hội may.
Tòng lảnh chim chiều con lạc cánh,
Lần đường chớ nệ dặm đường dài.
Thượng.
Huỳnh
Văn Kiêu:
Ðường dài vắng bước nỗi quanh co,
Ðường bước từ nơi rán chí dò.
Dò đến hang Thần nghe hạc gáy,
Gáy
non Nam Việt có Trời lo.
Thượng.
Nguyễn Văn Út:
Trời
lo đâu nệ nhọc công trình,
Nhọc
sức vì thương đám chúng sanh.
Sanh dưỡng, dưỡng sanh rồi phải độ,
Ðộ cho trở bước lại đơn đình.
Thượng.
Mai
Văn Thành:
Ðình bước vì chưng ngán bước đường,
Ðường mơi thơ thới cỏ phơi sương.
Sương nồng nhánh liễu chim bay liệng,
Luyện đặng trường sanh thoát thế thường.
Thượng.
..... ...
Thường ngày cay đắng phải âu lo,
Ðộ dẫn nhằm nơi phải gắng dò.
Trau tánh ôn hòa chừa cải trước,
Dựa hơi rừng quế cũng thơm tho.
Thượng.
Lý
Thị Há:
Lý diệp chờ xuân nhánh trổ bông,
Thị thành chen lấn lại rừng tòng.
Há đem tấc nguyện làm công quả,
Bước tục nhờ may bước khỏi vòng.
Thượng.
Tô
Quế Tươi:
Khỏi vòng mê tín lại đường ngay,
Lạc nẻo mau chơn liệu trở quày.
Ðạo đức để lòng từ ấy giữ,
Chủ trung đã gặp Ðấng Cao Ðài.
Ðài các chưa từng miếng ngọt ngon,
Rán công hậu kiếp đặng vuông tròn.
Tròn nền đạo đức nghèo là quí,
Quí gặp hồng đem điểm bức son.
Thầy thâu hết hai bên Nam
và Nữ.
Trung, con gởi tin cho
Khỏe ở Bạc Liêu rằng: Thầy đã chứng và khen lòng thiết thạch của nó. Nó bị sự
cản trở chẳng đặng hầu Thầy mà thọ phong Thiên Ân.
Nhưng cứ việc độ rỗi làm
xong phận sự, Thầy sẽ gia phong. Thầy ban ơn cho các con.
Ngày 26-11-1926 (âl. 21-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu
Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 26 Novembre 1926 (21-10-Bính Dần)
Thinh danh mãn thế đức tồn linh,
Thanh trực nhứt triêu quán thế tình.
Hữu phước độ nhơn chiêu vạn tánh,
Cần lao thống hiệp hậu gia đình.
Hoàng triều hiệp nghĩa nam Thiên vận,
Phụ Hớn hưng
suy vấn Khổng Minh.
Nhựt nguyệt song quang thùy bạch chuyển,
Hồn quân vị vãn đáo hầu thần.
Con khá kiếm cao
xa mà hiểu nghe, còn nội trợ con, Thầy dạy:
Bạch truật tinh sao khả phục qui,
Tứ quân tu trạch khảo trần bì.
Thanh chi hữu hiệp tam phân phụ,
Liên thạch cầu đa bất phạt tì.
Trong ấy có bài thuốc và kiếm nghĩa bài thi,
nhớ lời căn dặn.
Nguyễn Thị Quít: (Cẩm Giang, Triêm Hóa)
Nên nhà đã lập hiếm phương hay,
Ðường Ðạo Thầy khuyên .... cúng tài.
Mới thấy con chưa từng phải quấy,
Khá chờ xem thử biết Thầy hay.
Thâu
Phạm Thị Hóa: (Long Thành, Tây Ninh)
Thầy hay thương mến lũ con hoang,
Song chớ ỷ y phải ngỡ ngàng.
Nếu biết tánh so đo đắn phận,
Dầu nhiều cay đắng cũng thanh nhàn.
Thâu
Trần
Thị Phụng:
Thanh nhàn nhờ hứng giọt Cam Lồ,
Ðâu bẵng vui riêng nết Lão Tô.
Cực nhọc buồn vui đời đã chán,
Thôi thôi tự toại niệm Nam Mô.
Thâu
Ðoàn
Thị Liên:
Nam Mô hai chữ dựa màu thiền,
Ðến nửa kiếp còn lắm lợi riêng.
Gia nghiệp đã an con cái đủ,
Khá tua cửa Phạm đến cầu duyên.
Thâu
Ðặng
Thị É:
Cầu duyên Phật khử oan gia,
Trái chủ đừng khinh gánh đến già.
Lựa chọn đã .... nơi đạo đức,
Sau quên ngước mặt ngó đầu nhà.
Thâu
Ðỗ
Thị Diệu:
Ðầu nhà có mắt ngó người hiền,
Con vốn giòng lành Lão mới khuyên.
Nếu muốn khử tiêu tai nạn đến,
Thì nên khẩn nguyện sợ oai quyền.
Thâu
Nguyễn
Thị Dự:
Oai quyền làm chủ Phật, Tiên, Thần,
Chẳng vị song cầm vững nét cân.
Hỏi kẻ còn ai hơn thế nữa,
Thì toan đến khẩn độ phàm thân.
Thâu
Lê
Thị Chi:
Phàm thân thương kẻ lắm lao đao,
Bởi kiếp tiền khiên trả chớ sao.
Thành dạ tu tầm Thầy sửa số,
Ðem qua biển khổ chẳng ba đào.
Thâu
Trương
Văn Ðộng:
Ba đào ngọn nước với nguồn sông,
Như một cây trôi ở giữa dòng.
Thấy vậy thương tình cho kẻ vớt,
Ðem về làm của với làm song.
Thâu. Thầy sẽ
trọng dụng, khá học Ðạo.
Trang
Văn Giáo:
Làm song ngăn đón
lũ gian hùng,
Mạnh yếu đánh thoi
cũng gọi hùng.
Quyết lập thân
danh tua sửa lưỡi,
Nói hiền kẻ dữ
nịnh thành trung.
Thâu
Trịnh Văn Kỳ: Thầy phong
con chức Giáo Hữu, nội một tuần con sắp đặt việc nhà cho an rồi đi phổ cáo
trong tỉnh Tây Ninh, cho khắp hết các nơi nghe con.
* * *
THẦY
Các con,
Thơ nó dâng sớ cầu...
Cười...
Thầy cũng thương đó chút.
Thầy đã nói cái lòng thương Thầy hơn biếm trách, nên Thầy chẳng hề biếm trách
các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh, Tiên, Phật, biết sao cứu rỗi cho
đặng.
Thầy lại phải làm thinh cho
kẻ mất lẽ công bình.
Thơ nó tưởng Thầy giận mà
nài xin tha thứ, Thầy thì đặng còn Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao;
nhứt là Thái Bạch Kim Tinh rất khó, Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi.
Các con chớ dễ ngươi phạm
thượng nghe à.
Chư Nhu thượng sớ.
M. Trung bạch Thầy về sự
cốt Quan Thánh Ðế Quân.
- Không giống chi hết...
Cười... làm cốt khác.
Ngô
Văn Nhạc:
Thân hay gánh vác nỗi nhà nên,
Chẳng chịu tìm ra kế vững bền.
Lập đặng rồi sợ ra đến đổ,
Nơi mình chẳng phải tội bề trên.
Nghe à... Thâu.
Nguyễn Văn Tàu:
Bề trên thương dưới dắt dìu nhau,
Ví lỗi muôn xe cũng nhục bào.
Thêm sức tại nhà nay đã sẵn,
Nhiều cây nên núi dạo nương rào.
Thâu
Nguyễn Văn Tám:
Nương rào tòng bá núp Trời đông,
Trí đủ ... chưa phải thiện lòng.
Nên nghiệp đôi khi chưa tính trước,
Năm tròn trở ngại có mùa Ðông.
Thâu
Trg Văn Thành: (Cẩm Giang, Giai Hóa)
Ðong đầy đức cả hóa kho vàng,
Ðừng thấy phận nghèo chiếp miệng than.
Cái cửa Thiêng liêng chưa dễ đặng,
Ðỉnh chung thế sự trấu cùng than.
Thâu.
Huỳnh Văn Ngay:
Than chưa ngún lửa cuộc đời qua,
Nhưng bởi mến con hứa đặng nhà.
Vợ dữ đưa lời đừng trả giọng,
Khen hiền trước phải biết chê tà.
Thâu
Trần Văn Chí:
Chê tà trừ bạo lẽ như nhiên,
Song lưỡi gươm chưa sánh dạ hiền.
Ðức mạnh ba ngàn thâu thế giái,
Lòng thành làm khép mặt Thần Tiên.
Thâu
Ngày 27-11-1926 (âl. 22-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn
thâu Môn Ðệ.
Vendredi 27 Novembre 1926 (22-10-Bính Dần)
Hỉ các Ðẳng Nhơn Sanh,
Trung thượng sớ, lấy toa
số 2 để sau con.
Phạm Văn Danh:
Vì thương nhơn loại cực lòng Ta,
Ta hỏi
nhơn sanh có biết à?
À Ðất Trời kia ai Tạo hóa,
Hóa sanh chung hưởng há quên già.
Thâu
Nguyễn Văn Chung:
Quên già, già cũng một cười thôi,
Thôi kẻ quên ơn nói chẳng rồi.
Rồi cuộc tuần hườn sau mới rõ,
Rõ rồi hối hận việc thôi rồi.
Thâu
Võ Văn Nhàn: (Cẩm Giang, Tây Ninh)
Thôi rồi một giấc biệt ngàn thu,
Thu muốn xuân về phải rán tu.
Tu luyện tua bền lòng sắt đá,
Ðá bền cũng phải đổ về Thu.
Thâu
Nguyễn Văn Quyến: (Cẩm Giang)
Về thu chạnh dạ nhớ hồi xưa,
Xưa đã cam lòng đã rõ chưa.
Chưa rõ nay còn tìm tỏi đến,
Ðến nơi cửa Phật biết rồi chưa?
Rán tu kẻo muộn.
Thâu.
Huỳnh Văn Ngô: (Hiệp Ninh, Tây Ninh)
Rồi chưa Nhơn đạo đến cầu tu,
Tu ấy nặng nề lắm công phu.
Phu phỉ lòng kia phàm chưa dứt,
Dứt lòng trần tục sẽ xin tu.
Thâu
Ðoàn Văn Nuôi: (Hòa Hưng, Rạch Giá)
Xin tu phải rõ Ðạo là gì,
Vì
chẳng đồi phong nẻo phải đi.
Ði đến
tầng cao rồi biết thấp,
Thấp
cao hai lẽ rõ là chi.
Thâu
Ngô Văn Hồng: (Hòa Hưng, Rạch Giá)
Thấp cao hai lẽ rõ là chi,
Chi
cũng chẳng qua biết thế thì.
Thì
đặng thân hiền trăm tuổi thọ,
Thọ
như ông Thọ sướng li bì.
Thâu
Phạm Văn Ðể: (Cẩm Giang, Tây Ninh)
Li bì
cảnh ngộ dạ hằng lo,
Lo
chẳng đặng mà cũng rán lo.
Lo cửa
lo nhà lo sức kém,
Kém vì
chưa biết Ðạo
nên lo.
Phải
xét mình cho lắm nghe! Thâu.
Trang Văn Khánh: (Long Thành, Tây Ninh)
Nên lo cho đặng mối cang thường,
Thường bữa trau giồi cái tánh cương.
Cương trực lòng như người Thánh trước,
Trước làm quân tử tánh phi thường.
Thâu
Nguyễn Văn Liểng: (M. Trực, Lộc Ninh, Tổng
Thanh Hóa, Rạch Giá)
Phi thường hạnh ấy nghĩ mà lo,
Lo hết sức người mới thấy cho.
Cho cái kiếp trần danh với lợi,
Lợi gì cho bằng Ðạo Tiên Nho.
Rán tu hạnh. Thâu.
Ngô Văn Nho: (Cẩm Giang, Tây Ninh)
Tiên Nho cũng học Phật chung nền,
Nền Ðạo tu tâm chí cũng nên.
Nên đạo hạnh mình, mình cạn xét,
Xét cho tột lý Ðạo nhà nên.
Thâu
Nhà nên cũng tại gái lòng lành,
Lành dữ khuyên ai chớ cạnh tranh.
Tranh lắm bà con đều ghét nết,
Nết na tề chỉnh ấy khôn lanh.
Thâu. Rán tu hạnh,
việc chi sẽ có Thầy.
Nguyễn Văn Tám:
Khôn lanh cho biết Ðạo mà theo,
Theo đặng kịp người khỏi ngặt nghèo.
Nghèo ngặt bởi lòng không chứa đức,
Ðức là cây cội dục lòng theo.
Thâu
Ðặng Văn Nẵm:
Lòng theo mây gió ngậm ngùi thay,
Thay đổi cuộc kia có mấy ngày.
Ngày lại tháng qua đời chóng chạy,
Chạy quanh chưa mệt đã qua ngày.
Thâu
Huỳnh
Thị Bài:
Qua ngày đã thấy giấc chiêm bao,
Bao nhiêu tình cảnh luống thêm sầu.
Sầu dã dượi lòng ta tuổi lớn,
Lớn nhỏ khuyên lo Ðạo khá cầu.
Thâu
Lê Thị Chánh: (Phú An Hòa, Mỹ Tho)
Khá cầu mà học Ðạo cao xa,
Xa chốn tục phàm khá bước qua.
Qua khỏi đem người lên Nữ phái,
Phái chi cho có ít người cao.
Thâu: Cẩm Giang.
Cũng thâu: Long
Thành, Hòa Ninh.
Thầy ban ơn cho các con.
Ngày 27-11-1926 (âl. 23-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu
Môn Ðệ và dạy "Trước cầu cơ phải đọc
Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe...".
Samedi 27 Novembre 1926
(23-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ, hỉ Chư Nhu,
Chư Tín Nữ,
Thầy dặn một lần nầy, từ
đây tuân y theo vậy.
Trước cầu cơ phải đọc
Thánh ngôn cho Thiện Nam, Tín Nữ nghe, chúng nó mới biết Ðạo Thầy là Ðạo gì.
Nếu các con không cho biết trước thì Thiện Nam, Tín Nữ thất lễ đã đành, chớ
chúng nó biết Thầy là ai mà kiêng nễ.... nghe à.
Phải chỉnh Ðàn lại cho
nghiêm, cái biến hôm Rằm các con chưa sợ sao, còn thất lễ nữa?
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy tức cười cho các con,
đọc Thánh ngôn cũng là biếng nhác. Lời tiên tri Thầy, trong sự biến quỉ lộng là
cần ích cho chúng sanh nghe, mà các con lại chẳng đọc... đọc lại.
Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Thầy hỏi các con, bài nào
trúng?
Thơ, Ðạo Quang! Một lát
nữa cầu Thái Bạch, cho nó nói chuyện với hai con nghe à....
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ,
kẻ cầu việc chi khác để sau nghe.
Võ
Văn Phẩm:
Nên hư chịu lắm rủi cùng may,
Thời vận đã nên khiến đến nài.
Thầy dạy một điều lo tích đức,
Ðức kia đầy đủ mới sanh tài.
Thâu
Lâm
Văn Lịch:
Sanh tài thì nghiệp cũng gầy nên,
Toan tính ra sao kế vững bền.
Trăm tuổi chưa ai quen nết Thánh,
Biết toan đem dưới thuận cùng trên.
Thâu
Ngưng:
Cùng trên với dưới giữ khiêm cung,
Kẻ nghịch con toan kế phục tùng.
Rộng đức tánh quyền hành ắt rộng,
Ðừng quen thói tục mượn oai hùm.
Thâu
Lê
Trí Huệ:
Oai hùm ai ví Hạng Vương xưa,
Hớn đảnh gầy nên thế đón ngừa.
Thời đạt đầu xanh dầu chẳng toại,
Bảy mươi Lữ Vọng chẳng chờ trưa.
Thâu
Trần Văn Chiếu:
Chờ trưa e nỗi bóng Trời nghiêng,
Lỡ bước e đưa chẳng gặp thuyền.
Thành chẳng chừng năm ba phút chót,
Ðợi mau qua chóng lỡ làng duyên.
Thâu
Trần
Văn Lý:
Lỡ làng duyên phận chớ buồn rầu,
Phải có cực nên mới tước cao.
Nương dưới bá tòng chờ tuyết mãn,
Non già đầu phải nhúng qua đầu.
Thâu
Cao
Văn Phu:
Ðầu xanh chí khí lập danh cao,
Phải ở sao ra mặt khí hào.
Dựng đứng cột đồng ai đã xướng,
Ðảnh Nam sừng sựng vững bền trào.
Thâu
Mai Văn Thành: Con kiếm
phương thế nào cho thuận theo nghề nghiệp con, thì Thầy giúp đỡ cho con lập
thành sự nghiệp nghe à.
Còn Mắc thì Thầy sẽ sai
Vinh lại hốt thuốc cho nó.
Trung, con nhớ nói với em
rằng Thầy cấm nó uống rượu nghe. Nó cảm nặng là vì rượu đó nghe.
Chiu
Ngùy:
Triều thiên nhứt lộ định phong quang,
Bát nhã trần ai khả quí nhàn.
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc bình an.
Thâu
Nguyễn
Văn Chánh:
Bình an nhà nội mới an thân,
Hữu phước
từ gia đã định phần.
Hết buổi truân chuyên nên buổi sướng,
Ðài mây có lúc cũng đưa chân.
Thâu
Phạm
Trung Tín:
Ðưa chân đến cửa Khổng Trình xưa,
Nét hạnh muốn nên phải gắng ngừa.
Lời nói kẻ khùng cùng đứa ngộ,
Rằng sao trời nắng khó kêu mưa.
Thâu
Nguyễn
Văn Tự:
Kêu mưa Thầy buộc rưới mưa vào,
Ngặt hạnh chưa nên biết tính sao.
Rõ nỗi nhà thung gìn đức cả,
Nên toan tiếp trẻ khỏi ba đào.
Cư, chấp bút nhang
đặng Thầy giải tà cho nó.
Trung, con viết thơ cho Ba
Thảo - Mỹ Tho đặng nó lên hốt thuốc cho Tự nghe à.
Tắc ! con cũng vì con cầu
khẩn nghe.
Hồ
Văn Nhứt:
Ba đào tuổi trẻ nhẫn linh đinh,
Con khá gìn ân kẻ giúp mình.
Rán sức đua chen trong thế sự,
Song thường sợ sệt phép Trời linh.
Thâu
Nguyễn
Văn Dệt:
Trời linh mới có thưởng người lành,
Nếu chẳng thế gian cứ cạnh tranh.
Hột thóc chưa
ai khoe biến sẵn,
Của kia xin nhớ phép Trời dành.
Thâu
Trương
Văn Hòa:
Trời dành đến chết chẳng ai tranh,
Tưởng trọn mình thôi nghĩ quá thành.
Hiệp chữ đoàn anh lo giúp thế,
Thì con mới đặng buổi nên mình.
Thâu
Nguyễn
Văn Ngọc:
Nên mình đừng ghét nỗi nên người,
Phải phải phân phân khá thức thời.
Một miếng mồi ngon câu cá lớn,
Mình nên con khá giúp nên người.
Thâu
Nguyễn
Công Ân:
Nên người khá vẹn nợ quân thần,
Nghèo khó tuy vân đã phải phần.
Trung hậu thế thường đời ít có,
Ham chi kết bạc gọi là lân.
Thâu
Ðỗ
Văn Nghị:
Lân ra ắt có Thánh quân ra,
Nhiều gốm vòng Nam hiệp một nhà.
Phải nhớ sang hèn con cái Lão,
Ðừng quen chê nhạo chánh cùng tà.
Thâu
Nguyễn
Ngọc Lẳm:
Chánh tà có thế dễ chi phân,
Hễ có quân vương ắt có thần.
Mượn vẻ cân đai kìa mấy mặt,
Ðua tài cậy sức để an dân.
Thâu
Nguyễn
Văn Nhâm:
An dân ắt cũng đặng lòng Trời,
Phàm thế chưa người đó hỡi ngươi.
Thà núp thú quê nghề phó nghị,
Thà theo Hạng Võ đỡ nâng ngôi.
Thâu
Nguyễn
Hữu Ðại:
Ngôi hiền khó đoạt ví ngôi vua,
Nhà của ông Ngô quá nóc chùa.
Mình biết trọng mình Thần, Thánh trọng,
Ai xua ai đuổi đức ăn đùa.
Thâu
Nguyễn
Thành Hoa:
Ăn đùa rẻ bán Lữ Vi vinh,
Một xảo trước kia sử giữ gìn.
Thà đọc sách xưa hiền bảy Lão,
Tại nơi rừng trước hưởng khương bình.
Thâu
Lê
Minh Tuấn:
Khương bình mình một chẳng chi hay,
Phải kiếm trăm năm kẻ nhắc tài.
An nước
an dân toan bủa đức,
Sửa cơn nắng tối lại mưa mai.
Thâu
Lê
Tâm Hảo:
Mưa mai nắng tối biết bao lần,
Lựa lọc chưa rồi nẻo các lân.
Tính lại mấy thu man mác phận,
Còn chi mong
mỏi nghiệp hồng trần.
Thâu
Lê
Văn Hội:
Hồng trần là biển khổ con ôi,
Cực nhọc đời kia quá ngán đời.
Những nỗi lợi xin cùng lộc mượn,
Hôm trông có vận buổi trông thời.
Thâu
Trần
Văn Tài:
Trông thời Nghiêu Thuấn dễ chi trông,
Nên mặc ai chưa biết gã Tòng.
Chận kế đốt thơ khêu Mạnh Ðức,
Nghiêng mình ai ví gã Châu Công.
Thâu
Trương
Văn Giáo:
Châu Công đưa nghiệp nối Nho phong,
Thánh đức còn nêu trí hoán phòng.
Thạnh nước câu văn hơn tiếng sấm,
Không trung đố kẻ thấy chim Hồng.
Thâu
Trương
Văn Keo:
Chim Hồng thuận gió mới xa bay,
Thánh đức mới hay Ðạo nhiệm bày.
Thương kẻ nhơn sanh hơn xác thịt,
Chẳng lo cầu cạnh cũng ngồi ngai.
Thâu
Lê
Minh Thức:
Ngồi ngai biết phận ấy ngồi chông,
Giữa tuyết lạnh đông buộc tưởng nồng.
Xác thịt Thầy vì không giáng thế,
Nên nhờ con giúp Ðạo nâng bồng.
Thâu
Lê
Văn Nơi:
Nâng bồng qua khỏi chốn mê tân,
Mượn chiếc thuyền Tiên lánh tục trần.
Lời lẽ tuy Thầy chưa để dặn,
Nhưng tên tuổi trẻ ở Ðài Vân.
Thâu
Lê
Văn Mẹo:
Ðài Vân quan võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Thâu
Ðặng
Văn Có:
Phần Tiên Phật khó hiệp phần đời,
Phải biết diệt trần mới đến nơi.
Tiên cảnh nét đường không rước tục,
Thành không con dại cứ nghe lời.
Thâu
Lê
Văn Ða:
Vâng lời Thánh ắt đặng siêu phàm,
Trần thế là chi để dạ tham.
Mua đức khá tua gieo cửa tục,
Chừng mô đức vẹn mới siêu phàm.
Thâu
Nguyễn
Thị Kinh:
Siêu phàm nết gái để hơn trai,
Mượn nước nhành dương rửa cảnh đài.
Nắm phép Âm Dương đưa bóng lệ,
Thạnh cân bào huyễn đắc Thiên nhai.
Thâu
Võ
Thị Giác:
Thiên nhai nào phải tại trần nầy,
Chẳng phải giữa trời chẳng khỏi mây.
Ðưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo chơn dõi bước níu sau Thầy.
Thâu
Nguyễn
Thị Ðược:
Sau Thầy hứa chắc đỡ nâng con,
Thiên Ấn Thái Sơn cũng chẳng mòn.
Thành kính khá tua lo đạo đức,
Thêm công phái nữ lập vuông tròn.
Thâu
Thị
Duyên:
Vuông tròn đạo hạnh gái toan lo,
Học giỏi thì chi cũng bởi trò.
Nói ít biết nhiều là trò giỏi,
Hay làm chẳng nạnh ấy là lo.
Thâu
Trần
Thị Ni:
Lo cho con để đức hơn vàng,
May rủi cũng trừ đứa ngỗ ngang.
Trăm kiếp yên nhà vì Ðạo mến,
Thường đem chén ngọc đựng ngao vàng.
Thâu
Võ
Thị Hiển:
Ngao vàng chứa sẵn nước Cam Lồ,
Thánh đức nhớ nguyền cái sắc cô.
Vải trọc hơn trang Hoàng Hậu thế,
Cửa chùa yên tịnh chẳng như đô.
Thâu
Trần
Thị Tròn:
Như đô dời đổi nghiệp vua truyền,
Mình một phong quang mặc ngửa nghiêng. (quan?)
Ðóng cửa tụng kinh xem thế cuộc,
Bên lưng
con chớ tưởng mang tiền.
Thâu
Phạm
Thị Thành:
Mang tiền cỡi hạc đến Dương Châu,
Chiếp miệng còn than nỗi buổi đầu.
Thiên định lẽ kia ai cũng chịu,
Hỏi người hỗ mặt giữa vườn dâu.
Thâu
Hồ
Thị Diệp:
Vườn dâu đừng để thẹn thân mai,
Nét Ðạo khuyên con gắng chí mài.
Sửa tánh cũng như toan vá áo,
Thâu


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét