Ðạo Sử Xây Bàn - 9 / 16 (Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)


Ngày 18-12-1926 (âl. 14-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật.
Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Ô trược lắm, ô trược lắm .....

Sinh Thanh, Hiền Hữu xuất ngoại kẻ ẩm tửu.
Chỉnh đàn lại cho tinh khiết đặng Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Các con, chư Nhu thượng sớ. Bình thân.
                                     
                          Tiền:
Tiền căn đã có sẵn công tu,
Biết đạo lý cao khá vận trù.
Kế thế xây thêm nền đạo đức,
Xen vào phẩm cũ khá cần cù.
                          Muôn:
Muôn năm ít kẻ để danh nêu,
Hết chí cứ lo có một điều.
Vợ tốt rượu ngon và thịt béo,
Ham ưa vật chất chẳng hề kiêng.

               Nguyễn Quốc Biểu:
Hiến sách cường tranh khổ tụ quần,
Ái ngôi hám vị thị phi quân.
Ðồng tâm hựu chí mưu mô hiệp,
Vô đạo nan tri sự bất phân.
                                                              Thâu
Thiên địa tối linh sanh Thánh chất,
Quân vương háo nghĩa tác Hiền thần.
Hữu công trì chí Thiên cơ toán,
Mạc nại lao lung trạch hảo nhân.
                                                              Thâu
               Trần Phát Ðại:
Ðạo tâm phải biết đạo làm người,
Ðời đó là ngươi đó hỡi ngươi.
Niên kỷ chưa qua cơn hoạn đến,
Mà che miệng lén nhẫn cười đời.
                                                              Lui.
               Võ Văn Sanh:
Sanh nhằm buổi khổ khá lo lường,
Biết phận mình hèn chúng mới thương.
Láo táo đừng không qua kẻ dại,
Phải khinh mình trước kẻ ngoài nhường.
                                                              Thâu
                          Vân:
Vân đài có thuở đặng nêu tên,
Nghèo khổ hiền lương giữ dạ bền.
Chưa phải thời lai con ẩn nhẫn,
Dầu sao làng xóm cũng ngồi trên.
                                                              Thâu
               Phan Văn Vịnh:
Vịnh theo thời thế ở theo người,
Ðừng tưởng ở đời cứ việc chơi.
Mình ích chi cho nhơn loại đỡ,
Ðừng ngồi toại hưởng lộc nhà Trời.
                                                              Lui.
               Nguyễn Văn Bời:
Bời lời lòng những luống lo toan,
Lo đến Tổ tông chốn suối vàng.
Lo vợ lo con lo sự nghiệp,
Lo đâu lo đó Ðạo không màng.
                                                              Thâu
               Trần Văn Vẽ:
Vẽ mày khéo đến hỏi xin tu,
Vợ chịu sao kham với vợ ngu.
Hỏi thử ăn chay thì ngán miệng,
Ðeo theo thịt rượu với bôn xu.
                                                              Lui.
               Hạnh:
Hạnh đức làm gương dắt lũ sau,
Một nhà đạo đức khá thương nhau.
Ðã nên người trước đời trông cậy,
Gắng sửa nhà tranh hóa động đào.
                                                  Thâu. Sau Thầy trọng dụng.
               Bùi Văn Kinh:
Kinh sách cha ông để lại đâu,
Mà con chữ viết chẳng nên câu.
Một nhà hiền đức ngày mòn mỏi,
Sao chẳng đường tu đến nẻo cầu.
                                                              Thâu
               Trần Thị Mai:
Mai xưa trổ nhụy đã hai lần,
Tại ái nữ không biết giữ thân.
Có phẩm phải lo trân trọng phẩm,
Quyền xô thành ngã dễ bao lần.
                                                              Thâu
               Huỳnh Xiếu Chuyên:
Chuyên gìn Tứ đức với Tam tùng,
Làm hiệu dạy lần bọn nữ trung.
Ðạo đức là nền làm phẩm cách,
Mượn nhành dương tịnh lửa sôi lòng.
                                                              Thâu
               Bùi Thị Sùng:
Sùng tu nên nết ấy là danh,
Cái hạnh trau tria mới đặng thành.
Ðã hiểu lẽ hơn hơn lẽ thiệt,
Thì toan bỏ dữ bỏ cho đành.
                                                              Thâu
               Xiếu Ngó:
Xiếu Ngó mà nên bởi có người,
Dắt dìu rồi lại dạy thông đời.
Lửa hương ví bẳng ngày sao đượm,
Phải nhớ công ơn của Ðất Trời.
                                                              Thâu
               Trương Thị Nhờ:
Nhờ âm chất đủ mẹ cha xưa,
Nên hưởng giàu sang cũng đã thừa.
Biết Ðạo con tua gìn tánh đức,
Trong cơn nắng hạn khá là mưa.
                                                              Thâu
   Khá phổ độ con cái Trung Huê của Thầy nghe.
Sĩ hổ con đừng thẹn với đời,
Thầy đây còn phải chịu mang lời.
Nên hư sang trọng nhờ căn trước,
Dầu phải chi chi cũng có Trời.
                                                              Thâu
                                                  Hổ thâu, khá phổ độ Nữ phái, Thầy sẽ trọng dụng.
               Ðỗ Thị Du:
Du hành là kẻ bỏ đường tu,
Con sáng đừng nghe phỉnh lù mù.
Thiệt thiệt hư hư đời dễ thấu,
Có khi thấy mực gọi là chu.
                                                              Thâu
Samedi 18 Décembre 1926 (14-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe dạy:
Phải viết thơ cho các Thánh nói rằng: "Buổi lập Luật phải ngưng sự phổ độ lại đôi chút" lo cho xong Tân Luật thì mới truyền bá chơn Ðạo rõ lý hơn.

Vậy ngày Ðại Lễ Thánh Giáo Giáng Sanh phải có mặt tại đây cho đủ và nạp luật cho kịp ngày ấy. Làm lễ xong qua ngày kế thì Chư Thánh mặc Ðại phục vào điện bái rồi Hiền Hữu biểu sắp ghế vòng theo Ðại điện. Hiền Hữu và Ngọc Lịch Nguyệt lên tọa bửu vị, rồi theo chức phận Chư Thánh ngồi vòng hai bên như lúc Hiền Hữu còn tại Thượng Nghị Viện đặng cải luật đó vậy.
Hiền Hữu Chưởng Quản làm chủ Hội, mỗi vị Thánh đều đặng quyền cải lẽ nghe à....
Phải giữ phép kẻ trước người sau, tùy phiên nhau cho có lễ: Phái Thái trước, phái Ngọc giữa, phái Thượng chót.
Phải viết thơ cho Tương và Trang nạp luật cho kịp một lượt với Thơ nghe à....
Thượng Kỳ Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu, như không tuân lịnh xuất ngoại.
Thầy cho làm lễ Cầu siêu cho cha Mục Thanh.




Ngày 19-12-1926 (âl. 15-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo & Về sự chuyển kiếp của con người và của tà quái. Nếu không tu hành thì không khỏi luân hồi.
Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Chúng Sanh,
Phân ban. Ngọc Lịch Nguyệt, Lão khen Hiền Hữu hành lễ.
Chỉnh đàn Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thơ xin in 2000 Thánh ngôn, 4000 thi văn.
Thầy khen con. Ðặng.
Hương Thanh xin dịch bộ Tam Thiên Thế Giái.

Kinh điển dịch đặng bộ nào hữu ích bộ nấy. Thầy cho con song phải đem đến Chưởng Pháp cầu lịnh nghe con.
Thơ xin dịch Minh Thánh Kinh.
Cũng phải đem nạp cho Chưởng Pháp phê chuẩn.
Tín Nữ cầu Ðạo:

               Nguyễn Thị Yến:
Yến anh phải lỡ lứa khi xưa,
Vì chẳng tu tâm tội cũ chừa.
Nếu trẻ biết lo trau tánh đức,
Vào đường tu niệm khá răn chừa.
                                                              Thâu
               Nguyễn Thị Sa:
Sa vào đường tội khó nên hiền,
Cải ác xưa từng chiếm bực Tiên.
Hối hận trăm năm trong một buổi,
Thành tâm Thầy cũng nạp lời nguyền.
                                                              Thâu
               Châu Thị Huê:
Huê đào từ trở sắc tươi cười,
Chẳng giữ gìn duyên kẻ một nơi.
Thương chẳng ai cầu thương hóa ghét,
Lời hay chẳng nạp, chẳng nên lời.
                                                              Thâu
               Lê Thị Ngần:
Ngần ngại từ đây hết hỏi đon,
Thân mình dầu tuyệt Ðạo không mòn.
Phải duyên kêu khách ngoài ngàn dặm,
Lỡ hội đừng mong buổi cúi lòn.
                                                              Thâu
                          Ðiểm:
Ðiểm viên một khắc hết hồi mơ,
Tưởng tượng chi chi tánh dật dờ.
Nửa chiếu không rồi thân phận tục,
Ðường Tiên ngần ngại bước bơ thờ.
                                                              Thâu
                          Vẹo:
Vẹo trăm nết hạnh kiếp thơ đào,
Ðừng để thường tình chịu sóng xao.
Lỡ lối tang thương thôi phải phận,
Cũng căn cũng kiếp buổi xưa sau.
                                                              Thâu
               Phạm Thị Ðiều:
Ðiều đình để bước nguyệt canh thâu,
Nét bóng phù du đã đủ màu.
Lừa lọc nỗi thân cùng nỗi nợ,
Tưởng tình âu yếm dạ thêm đau.
                                                              Thâu
               Hà Thị Nho:
Nho nhã con tua tập tánh thành,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
                                                              Thâu
               Trần Thị Rạng:
Rạng mình một kẻ biết khôn đời,
Ta hỏi cùng ngươi quả thiệt lời.
Tánh dữ không trừ Trời với Phật,
Than mình nhiều lúc hổn đưa hời.
                                                              Thâu
               Phan Thị Thôi:
Thôi đừng đeo đắng cái tình đời,
Biết tuổi mình xưa khá lánh nơi.
Mưa thảm nắng sầu dày dẽ phận,
Toan đường đạo đức đến cùng Trời.
                                                              Thâu
               Trần Thị :
Gương lành trẻ khá giữ mình hoài,
Làm khách Tiên phong biết Thiên Thai.
Lợi hám danh ưa tua lánh chốn,
So đo sang trọng với Bồng Lai.
                                                                                                 Thâu

Lịch, con phải kêu những chư Nhu còn lại hầu bên Nữ phái. Bính xin in kinh tạm và Thánh Tượng chữ "Bài vị". Ðặng con. Thầy dạy Ðạo.

Tái Cầu:
Dimanche 19 Décembre 1926 (Rằm tháng 11 năm Bính Dần).

Thầy cho chư Môn Ðệ miễn lễ. Bài ban.... Các con nghe.
Một sự các con chưa hề biết đến đặng hiểu Ðạo là quí trọng dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.

Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não cũng tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi các con chết, rồi các con ra thế nào? Các con đi đâu?
Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy.
Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi, từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.

Nhơn phẩm nơi thế gian nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bực Ðế Vương nơi trái địa cầu nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẵng cấp dường ấy. Cái quý trọng mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ nhứt cầu, Tam Thiên Thế Giái. Qua khỏi Tam Thiên Thế Giái thì mới đến Tứ Ðại Bộ Châu, qua Tứ Ðại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng đến Bạch Ngọc Kinh là nơi đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con có nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị. Còn phẩm trật Quỉ vị cũng như thế ấy, nó cũng noi chước Thiên cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các ngôi các phẩm đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con.

Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó. Thầy đã thường nói: Hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý, luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy, Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Thầy đã chỉ rõ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi khỏi lầm lạc.... Các con hiểu rằng trong Tam Thiên Thế Giái còn có quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là Thất Thập Nhị Ðịa nầy sao không có cho đặng.

Hại thay, lũ quỉ lại là phần nhiều nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc mà dỗ dành các con. Vì vậy Thầy đã nói tiên tri rằng: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng xúi biểu nó cắn xé các con, song trước Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Ấy vậy đạo đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị, lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không Ðạo thì là tôi tớ quỉ mị. Thầy đã nói: Ðạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắt cho các con leo tới phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn Thầy nữa.

Vậy Thầy lại dặn các con, nếu kẻ không tu làm đủ phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào mới hội hiệp cùng Thầy. Nên Thầy cho một quyền rộng rải cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giái nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. Mà hại thay, mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy. Vậy Thầy dặn: Ðạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.
Cả chư Thiện Nam hầu Ðàn ngày nay Thầy lấy lòng từ bi mà thâu hết.

Ngày 20-12-1926 (âl. 16-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 20 Décembre 1926 (16-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thơ Thanh Hiền Hữu, Thánh ngôn in ra chỉ để phát cho trong mỗi Thánh Thất và Chức Sắc Thiên Phong giáo Ðạo mà thôi.
Hiền Hữu lo lập Luật, còn Thượng Trung Nhựt?
Chỉnh đàn, Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con, đáng kiếp cho mấy con nghé, phải có hình phạt như vậy các con mới biết sợ, chớ dỗ dành ngon ngọt các con không sợ, còn Thái Bạch hăm trừng thì các con đều kinh khủng.... Khi Thầy và Thái Bạch khác nhau xa lắm con há?

Nhiều đứa sẽ còn bị Thái Bạch nữa, mấy đứa nhỏ rán giữ hạnh không thì bị xuất ngoại mà chớ....
Chư Nhu cầu Ðạo....
Nỉ đỏ chỉ vàng con.
Trung Nhựt vì đó phải bị phạt, chẳng một điều các con tuân theo Thánh ý. Thầy biểu điều gì các con cũng làm nghịch. Vậy thì Ðạo mới thế nào. Con phải nói lại với nó khi nó đến, phải cầu cơ cho Thái Bạch dạy dỗ nghe à. Thượng sớ.

               Nguyễn Văn Lạc:
Lạc hoan chưa phải buổi cho mình,
Nghĩa mặn tình nồng chớ dễ khinh.
Nửa mái tóc tơ còn buộc trói,
Ðem mình toan gởi cửa anh linh.
                                                              Thâu
               Lương Văn Hòa:
Hòa vinh hòa khổ cũng chung nhau,
Ai xúi đem lê đến đổi đào.
Nương cảnh cũ nép cây đợi thỏ,
Ngọn nguồn ai rõ nỗi âm hao.
                                                              Thâu
               Nguyễn Văn Ngãi:
Ngãi nhân cam phận chịu bần hàn,
Mình biết trọng mình mặc kẻ sang.
Mấy ngón tri âm thưa thớt bạn,
Mà trong ngựa bạc cửa sơn vàng.
                                                              Thâu
               Trần Văn Khuyên:
Khuyên về để chữ lại thơ đình,
Chừng đến ngựa mời đặng hiển vinh.
Ðào quế sum suê xuân vẽ sắc,
Hết cơn phàm tục bước Thiên đình.
                                                              Thâu
                          Lê Văn Ðiều:
Ðiều hay lẽ phải khá gìn lời,
Một điểm đức dồi một vẻ tươi.
Con cái muốn nên đường hiếu hạnh,
Con tua trước biết sợ oai Trời.
                                                              Thâu
                          Trần Văn :
Sáng đèn cánh bướm phải tiêu tàn,
Phải biết gần quan mới hiểu quan.
Thinh thế mượn con tua trả lại,
Thủ chơn danh noi Ðạo tìm đàng.
                                                              Thâu
                          Nguyễn Văn :
Thảo chi sang lượm với danh mua,
Chẳng hiểu chánh tâm cứ nói đùa.
Ðứa nịnh năng gần người chánh lánh,
Phải ngươi sanh dưới phép nhà vua.
                                                              Lui.
                          La Văn :
Lựa nên một giống máu anh hùng,
Chẳng phải phen người đủ lược thao.
Chính giữa ba quân không lãng trí,
Việc nhà lại chịu nỗi tầm phào.
                                                              Thâu
                          Trần Văn :
Thình lòng ẩn nhẫn đợi đôi năm,
Con khá từ đây biết kiệm cần.
Ðại phú do Thiên tuy đã vậy,
Ðủ no không thiếu bởi nên cần.
                                                              Thâu
                          Ðá:
Ðá thử vàng kia rõ tuổi cao,
Phải nên danh cả chớ tự cao.
Ðường quan lắm nỗi điều gay trở,
Chước lánh nhàn tìm mới chí cao.
                                                              Thâu
                          Mùi:
Mùi chua ngọt bả sang hèn,
Ðời chác một điều dụ tiếng khen.
Trăm tuổi áo là còn gắng điếu,
Công trình cửa phạm chả hề quen.
                                                              Thâu
                          Võ Bá :
Nhạc hay một giọng phải đồng hòa,
Muốn mạnh có người với có ta.
Ðừng ỷ mình hay toan gánh vác,
Xưa nay tiếng xóm chả không nhà.
                                                              Thâu
                          Cẩn:
Cẩn ngôn cẩn hạnh khá gìn hoài,
Ðừng phụ ai cũng chẳng khinh ai.
Ðóng cửa dạy nhà nên đạo nghĩa,
Chẳng vui phong tặng cũng vui tài.
                                                              Thâu
                          Trị:
Trị đời con thử nghĩ cho đời,
Ác trọng mình làm cũng gọi khinh.
Kẻ mất lưỡi cày hô mất cán,
Thành ngôn là biết chánh ngôn thình.
                                                              Thâu
                          Chác:
Chác điều buồn thảm dẫy đầy lòng,
Hết kiếp phận mình cứ long đong.
Dựa cột cột xiêu nhà sập nóc,
Kham tai cái kiếp cửa nhà không?
                                                                                                 Thâu
                                                                                     Cả Nữ phái thảy đều thâu.

Ngày 21-12-1926 (âl. 17-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mardi 21 Décembre 1926 (17-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu nghe Lão dặn phạt há. Nếu chẳng vậy thì quyền Lão để trị ai. Không một điều nào Thầy dặn Hiền Hữu tuân y theo. Thử đọc Thánh ngôn lại thì là cử chỉ Hiền Hữu sái hết.
Hiền Hữu không tuân mạng lịnh Thầy, ai tuân?
Hiền Hữu lỗi trước sau trị ai? Phải làm gương cho em út thì mới phải là anh Cả.
Cái quyền mình nó cũng phải đồng với hình phạt mình, biết lỗi mình mới đặng trị lỗi người... nghe à. Nội đêm nay phải quì hương.
Chỉnh đàn nghiêm trang đặng Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Thiện Nam, Tín Nữ,
Trung, cho các Thiện Nam Tín Nữ ngoài vào, dặn chúng nó làm thinh thủ lễ nghe. Thượng sớ.
Hoài, con xét xem Ðàn cho nghiêm nhặt nghe.

               Nguyễn Thị :
Hậu nhựt công khanh để nối đời,
Thảnh thơi non hứng gió thanh chơi.
Ðua đường Nhơn đạo coi mòn sức,
Công quả đường tu đã phải thời.
                                                              Thâu
               Cao Thị :
Nho phong một cửa để khuyên người,
Tháng lụn ngày qua đã bỏ trôi.
Sự nghiệp cha xưa không gắng giữ,
Hỡi đâu là hiếu khá đền bồi.
                                                              Thâu
               Nguyễn Thị:
Huệ trí phải lo dưỡng tánh chơn,
Ðừng lo âm ấp thiệt cùng hơn.
Khuyên lòng khá niệm vài câu kệ,
Bể Thánh nghiêng tai lóng tiếng đờn.
                                                              Thâu
               Huỳnh Thị :
Ðào hoa mang mặt chịu đông trêu,
Của cải thế gian có một điều.
Chuộc tội mua oan đưa kiếp đọa,
Thành thân khá nhớ lợi danh thiêu.
                                                              Thâu
               Khưu Thị :
Viện trong đảnh túc của son pha,
Một cảnh sao nay chí một nhà.
Ít đức trách Trời chưa phải lẽ,
Tại mình oan nghiệt trổ sanh ra.
                                                              Thâu
               Trần Thị Mài:
Mày dày mặt dạn đến dòm Trời,
Thiệt quá sức rồi chớ phải chơi.
Ta dặn về nhà lo cúng tế,
Tổ tông hoang phế bấy lâu rồi.
                                                              Thượng.
               Trần Thị :
Cận hiền như ở lộn chi lan,
Chọn lựa người ngay kết nghĩa vàng.
Miệng ngọt lòng chua ai dễ thấu,
Chen vào tội chướng mất an nhàn.
                                                              Thâu
               Nguyễn Văn :
Ðầy đủ đừng toan để đến tràn,
Công trình gầy dựng nghiệp nhà an.
Chia lo đã lắm công chồng đỡ,
Mái tóc nhớ nay nửa trở vàng.
                                                              Thâu
               Phạm Thị :
Tảo tần con khá gắng chung lo,
Ðẹp thiếp mới ra nở mặt trò.
Hai gánh chia đồng khi nhẹ bớt,
Coi theo thiên hạ học nên trò.
                                                              Thâu
               Huỳnh Thị Kẻ:
Kẻ câu chót núi tính nên gì?
Chưa đứng mà toan muốn tính đi.
Của cải đầy đồng không biết hết,
Cứ ngồi xó ró kiếm phân bì.
                                                              Thâu
               Ðặng Thị Xược:
Xược lên cho khỏi đảnh non cao,
Rồi trở xuống lo nỗi té nhào.
Danh lợi đừng rằng đời nễ mặt,
Mình còn lắm kẻ đội trên đầu.
                                                              Thâu
   Võ Thị Cận, Nguyễn Thị Huệ:
Huệ lan chung đứng mái Tây hiên,
Biết phải cùng nhau dữ hóa hiền.
Kẻ đố người làm đôi đứa hại,
Trăm điều nhẫn nhịn mới là Tiên.
                                                              Thâu
               Ðoàn Thị :
Ðịnh chi trước phải đủ ba lo,
Ðừng tính như đui bước phải dò.
Một tới ba lui hơi ngất ngưỡng,
Nên chi cho đặng nghiệp nhà to.
                                                              Thâu
               Lê Thị Ðèo:
Ðèo bồng lắm kẻ xúi con hư,
Hễ biết nên hư khá khử trừ.
Nhẫng giận nhẫng than thêm nỗi khóc,
Biết bao gặp mặt kẻ sanh thơ.
                                                              Thâu
               Trần Thị Ới:
Ới hợi mình nay tuổi đã già,
Chết đây ắt sẽ trở ra ma.
Nghe Trời đến dạy điều đạo đức,
Tới học may khi gỡ tánh tà.
                                                              Thâu
               Nguyễn Thị Xuyên:
Xuyên dương trăm bộ đấng nên tài,
Vùi lấp bấy chầy chí khí trai.
Dựa cửa rán xem ngoài thế giái,
Nên danh nào phải ngủ nằm dài.
                                                              Thâu
                          Xích:
Xích Bích thắng Tào cậy gió Ðông,
Nhà cao nghiệp lớn bởi khuôn hồng.
Phàm thân chưa vỗ tay nên sấm,
Thiên lực hòa nhơn khá giữ phòng.
                                                              Thâu
                          Chánh:
Chánh tâm thân mới vẹn đường tu,
Phải sánh đời này tỉ hữu ngu.
Thanh tịnh thân vào thanh tịnh điện,
Chẳng quen đỉnh núi thấy cao mù.
                                                                                                 Thâu

Ngày 22-12-1926 (âl. 18-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercredi 22 Décembre 1926 (18-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu viết thơ cho mấy Thánh Thất lục tỉnh nói: Thượng Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn Ðệ, chẳng còn quyền hành truyền Ðạo nữa.

Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt: Tả Ðạo Bàn Môn thì chịu nghe à. Ðã lập Pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên Ðiều tránh sao cho khỏi tội.
Hộ Pháp, Hiền Hữu khá an lòng. Chỉnh Ðàn cho Thầy ngự.

Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con Nam phái cầu Ðạo thượng sớ.
Trung, có lắm đứa chí quyết đến xin hỏi gia đạo và thử thánh Thầy. Con khuyên chúng đừng vọng động tà tâm lắm vậy mà phải bị tội với Thiên Ðình.... nghe.

Tái Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Nam phái thượng sớ: Kẻ ở xa trước, Thầy miễn lễ.

               Nguyễn Văn Kỳ:
Kỳ ba Ðại Ðạo mở đưa lời,
Lánh tục đem thân đến cảnh Trời.
Vở lối đường xưa ngăn đón khách,
Thương sanh dạy lẫn Ðạo đưa lời.
                                                              Thâu
               Yos (Ðàn Thổ):
Vô hành bất thức Ðạo dương khai,
Hữu dụ nhơn sanh khá cảm hoài.
Chánh lý hằng tâm tu tín thiện,
Thân vô nhựt hỷ nhiểm trần ai.
                                                              Thâu
               Khách Trú (Soài Riêng):
Tông môn hậu nhựt đoạt vinh hoa,
Khả trạch quả nhân tánh thuận hòa.
Hữu đạo tự nhiên tâm khoái lạc,
Chí công khả độ khách Trung Hoa.

Khá dịch bài thi đưa cho Thổ nhơn xem nghe. Bính viết chữ Nho đưa cho nó.

                          Ngọc:
Ngọc không trau chuốt khó nên hình,
Người chẳng kiên tâm trọng hóa khinh.
Thánh đức chưa ai sanh đủ sẵn,
Ðừng xa chánh Ðạo mất oai linh.
                                                              Thâu
                          Vi:
Vi bằng nào rõ chánh ra ngoài,
Hơn phép cao xanh thiệt rất hay.
Trong thế còn người mong thoát tội,
Kỳ trung chưa lọt kẻ ra ngoài.
                                                              Lui.
                          Thêu:
Thêu phụng nên xinh chỉ nhuộm màu,
Mình không đạo hạnh mới ra sao.
Như người trần lổ đi đầu chợ,
Như kẻ mang gông muốn nhảy rào.
                                                                                                 Lui.

Ngày 23-12-1926 (âl. 19-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Jeudi 23 Décembre 1926 (19-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Quới, xuất ngoại, chừng khăn áo trang hoàng sẽ vào chầu.
Thánh Thất nhỏ há, Hiền Hữu Thượng Trung Nhựt đáng lẽ Ðại điện nới vào trong mới phải. Hiền Hữu sai kẻ làm song ly bao vòng nới ra cho tới tượng Phật Tổ làm bái đình nghe.... Cười....

Trung bạch về sự Như Nhãn đương đau nghe phụ nữ cản trở và đòi Thánh Thất. Nó chẳng ăn năn thì phải chết mà chớ. Chỉnh đàn Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Các con ....
Trung, con cho một sắc dân rất yêu dấu của Thầy là người Thổ vào hầu nội, mời Tông.
Tông: Phải giải nghĩa cho chúng nó nghe con.
Chơn thần cửu biến giáo nhơn gian,
Tịnh giả tâm thanh đắc lạc nhàn.
Nhứt kiếp Như Lai kinh Phật Tổ,
Nhị căn Lão Tử phẩm Tiên ban.
Tam ngươn chuyển thế truyền Chơn Ðạo,
Khảo tánh tùng hoan độ khách phàm.
Luyến ái hậu tình khuynh thủ đảo,
Thâu hồi chủng tử thoát hồng trần.
Vui, cười Trung. Thầy toàn thâu.

Ngày 24-12-1926 (âl. 20-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy lập Tân Luật.
Vendredi 24 Décembre 1926 (20-10-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Ðại hỉ, đại hỉ. Lão mừng cho chư Ðạo Hữu. Chỉnh đàn Thầy ngự. Trung, Hiền Hữu nhớ mời hội từ 6 giờ mơi chí 11 giờ nghỉ; từ 2 giờ tới 6 giờ nghỉ. Tối từ 8 giờ tới 11 giờ nghỉ.
Như chưa hoàn toàn ngày mai cũng phải vậy. Thầy dặn phải tuân y theo lời. Luật lệ truyền lâu dài, chư Ðạo Hữu phải rán cẩn thận nghe à.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Thầy mầng các con.
Các con ôi, nếu nói rằng Thầy đã chịu cực nhọc từ ngày Khai Ðạo đến chừ, Ðạo đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ Thầy mừng cho các con lắm mới phải, sao Thầy lại buồn?

Các con ôi, các con đã chịu lắm khổ não nơi biển trần nầy, từ mười ngàn năm rồi đã ở dưới quyền tà quái áp chế, vì vậy mà Thầy phải phế Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con. Chớ chi Thầy đến mà làm giảm bớt sự khổ não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào lại còn lập "Tân Luật" ràng buộc các con thêm nữa, vì cớ mà Thầy buồn.

Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Thiên phong, Phật sắc của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật lệ thì là trái phép, mà trái phép thì làm thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng.

Vậy các con gắng làm phận sự cho hoàn toàn rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật.
Chư Nhu thượng sớ.

               Nguyễn Văn Công:
Công trình tay trắng lập nên nhà,
Chẳng kể quyền quan vụ nết tà.
Thương kẻ lao lung nhiều ít giúp,
Còn thân khá gỡ gánh oan gia.
                                                              Thâu
               Dương Văn Thọ:
Dị cảnh tâm đồng khách biệt hương,
Châu qui Hớn phục mộng trinh tường.
Quả căn dục hối tiền khiên kiếp,
Mạt vọng lợi danh đoạt thế cường.
                                                              Thâu
               Dư Tăng:
Tăng môn xuất Thánh thế nan tri,
Lộc biến bất lao thị văn trì.
Tâm nội bất hồi hương vọng quốc,
Ðiểu hồ ký thử hậu cao phi.
   Thầy vui gặp các con ... Cười....
Trung, con phải tính với Tông dịch Thánh ngôn ra tiếng Thổ... nghe à.

Ngày 25-12-1926 (âl. 21-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy về việc lập Tân Luật, phong chức Giáo Sư cho ông Latapie (Thượng Latapie Thanh) và thâu Môn Ðệ.
Samedi 25 Décembre 1926 (21-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Frère Latapie. Je vous nomme Evêque d'epuipe Francaise c'est au rang des Giáo Sư que vous êtes placé. Vous diréz aux Francaise que le Maitre ne vient pas aujourd'hui. J'ai à régler quelques organisation intérieures du sacerdoce. J'aurais du recourir à vos aides, si votre équipe était formeé.

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu khai hội trọn ngày chẳng có chi là hữu ích hết. Việc tán thành Tân Luật nếu Thầy để cho Lão nội trong hai giờ hoàn thành tất cả. Ngặt một điều là nếu Lão lập luật, chẳng một ai trong hàng Ðạo Hữu hành Ðạo đặng. Vì vậy Thầy giao trọn quyền cho chư Ðạo Hữu lập thành là chủ ý để phần nhơn lực vào đó chút ít, rồi lấy huyền diệu làm ra Thiên Luật, ấy là một hạnh công bình đó.

Vậy Lão giao ba bộ Luật hiệp một cho Thái Thơ Thanh trước, nội trong một tuần lễ phải hiệp thế nào cho ba bộ phải chung vô làm một; qua tuần nữa tới Thượng Tương Thanh; kế một tuần nữa tới Ngọc Trang Thanh, nghĩa là trong ba tuần nữa phải lập thế nào cho rồi luật lệ, đem về Thánh Thất đặng cải lại nữa.... chư Thiên Phong.

Tái Cầu: Vous méritez bien cette récompence. Chez frère Latapie. Vous frère connaitre à tous vos compatristes le pardon de Dieu.
Sauvez les de tous pêches antérieurs qui les amènent à la perdition.
Toàn thâu chư Chúng Sanh; nghe dạy. Thây kệ đứa ngu.

Ngày 26-12-1926 (âl. 22-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Dimanche 26 Décembre 1926 (22-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Trung, Hiền Hữu nhớ viết thơ cho chư Thánh ngày cải luật phải đủ mặt, bằng ai chẳng tuân mạng Lão trục xuất nghe à.... Chỉnh đàn Thầy ngự.
Trung bạch về sự lập thệ cno Minh Tân....
Ngày nào lập luật xong mới đặng. Thăng.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Chúng Sanh,
... Con rán phạm giái cấm với ăn bậy bạ cho thường con nghe. Thầy duy có một thế là mỗi phen để cho các con chịu hình phạt, như vậy họa may dạy các con mới đặng mà thôi.

Phải ăn cháo thương hàn, trùm cho ra mồ hôi thì hết.
Chư Nhu thượng sớ.

                          Vĩnh:
Vĩnh viễn chi chi cái cuộc đời,
Mà lo gánh vác đã mòn hơi.
Chưa xong nồi gạo sanh ba kiếp,
Mua thảm chác hờn lắm hỗi ôi.
                                                              Thâu
                          Viện:
Viện cũ tòa xưa đã đổi dời,
Phải thương lấy phận mới nên nơi.
Mua Tần bán Sở đôi hồi nghiệp,
Ðể bước đường tu khá nhớ lời.
                                                              Thâu
                          Bút:
Bút văn chương để phỉnh người hèn,
Nếu Lão công bình chẳng dám khen.
Cái chí chơn thành chưa thấy mặt,
Ðồng tâm múa miệng đã nhiều phen.
                                                              Lui.
                          Tỉnh:
Tỉnh giấc đường quan ngán ngẩm duyên,
Ðôi bên phận nghĩa khó như nguyền.
Lửa hương đã lắm điều cay đắng,
Trách chút tài ba nhẫn chứa phiền.
                                                              Thâu
                          Ngỡi:
Ngỡi nhân mãn tính vẹn đôi đường,
Ngặt nỗi không tài bộ bẳng dương.
Thành tín khen lòng trung nghĩa đủ,
Thánh tâm âu cũng lúc nên dường.
                                                                                                 Thâu
Toàn thâu: 91 Thiện Nam, 41 Tín Nữ. Vương Thành Tông, Hương Cả làng Ba Vệt, S. R.




Ngày 27-12-1926 (âl. 23-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy "... Thầy đến chỉ độ kẻ vô Ðạo, chớ không phải sửa Ðạo."
Lundi 27 Décembre 1926 (23-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Chúng Sanh,
Thượng Trung Nhựt, Ðạo Hữu khá khuyên những kẻ đến đây chẳng lòng thật tình kỉnh lạy Chí Tôn nên xuất ngoại nghe. Chỉnh đàn Thầy ngự.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Trung, con nên cho cả Môn Ðệ yêu dấu Thầy hầu nội hết.... Cười... Không cần nói chúng con cũng hiểu, Thầy rất vui mừng. Vậy Thầy dặn con, mỗi khi chúng nó đến phải tiếp rước trọng hậu nghe à.

Chư Nhu thượng sớ.
Bốn ông Lục và chín người Ðàn Thổ - Thâu hết.
Kỳ,... xin đi cúng nơi các nhà đặng khai đàn cho chư Ðạo Hữu trong các làng hạt Tây Ninh.
Ấy là phận sự nó.
Trung xin về.... Chánh phủ - Phải.
Lịch xin cúng cơm cho ông Lão.
Ðặng.... Cười. Nếu Thầy định thì Thầy sẽ dạy con đừng cúng kiến chi hết vì chơn nhơn chẳng còn hưởng của phàm bao giờ. Con làm tiệc đãi chớ chẳng nên gọi cúng.

                          Ðại:
Ðại bi chẳng quản một phần riêng,
Thấp thỏi phàm tâm chác dạ phiền.
Ðại độ khá lo giồi tánh đức,
Quảng tâm mới hạp đức Thiêng liêng.
                                                                         Thâu
                          Hạp:
Hiệp chung mấy Ðạo lại nên giềng,
Tỏ rõ nên quyền Ðấng quản Thiên.
Dưới mắt rõ ràng trăm phép lạ,
Nào ai chối đặng một Thiên quyền.
                                                                         Thâu
                          Cẩm:
Cẩm tú giang san một gánh nâng,
Ðường xưa nẻo cũ đã quen chừng.
Dưới Trời chưa rõ nền chơn thật,
Hư thiệt xem qua giống đám rừng.
                                                                         Lui.
                          Tị:
Tị hiềm chi những tiếng gièm pha,
Ngó vách chưa hay đã khỏi nhà.
Ðôi mắt phàm phu đâu biết đặng,
Huyền vi tối trọng Ðấng cao xa.
                                                                         Thâu
                          Thiệt:
Thiệt thiệt hư hư thế lộn hoài,
Từ xưa lầm lạc dễ ai hay.
Trên không biết dưới đâu nên phía,
Trái địa cầu xây cứ vậy hoài.
                                                                          Thâu
                          Cang:
Cang trực lòng trong cũng đáng khen,
Tuy vân nghèo khó đức không hèn.
Hơn thua trối mặc đời bao biếm,
Nửa kiếp dầu qua hết lấn chen.
                                                                         Thâu
                          Sửa:
Sửa mình khá giữ Ðạo cho tròn,
Ðức hạnh làm gương sửa cháu con.
Mượn phép thiên nhiên làm phép tục,
Từ nhiên giòng họ hết hao mòn.
                                                              Thâu
                          Thao:
Thao lược từ xưa đã mấy nhà,
Ðời qua tên tuổi cũng đều qua.
Nền nhân ví bẳng nêu danh thế,
Thánh đức đem so mới thế nào.
                                                              Thâu
                          Thông:
Thông tri thời thế xét soi mình,
Biết tội mà chừa phải trọng khinh.
Hai lẽ một đàng tà với chánh,
Bên thì làm dữ phía làm lành.
                                                              Thâu
                          Ðâu:
Ðâu hay trần thế Phật Trời vào,
Lập Ðạo dắt dìu phép luật trao.
Cửa Phạm dầu xưa xem lạ nẻo,
Ðường Tiên từ đấy hết ngăn rào.
                                                              Thâu
                          Hồ Liên Hương:
Mười hai bến đậu đã nên duyên,
Phải gió êm đưa vững chiếc thuyền.
Cỡi phụng chờ ngày tu đắc Ðạo,
Phi thường há để khuất thuyền quyên.
                                                                                                 Thâu

Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải lập một nền Ðạo mới mà đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần, Quỉ vương sắp đến, Thánh ngôn các Ðạo đã khai từ thuở tạo Thiên không đủ kềm thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Ðời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giả, bịnh chướng biến sanh, thiên tai rấp đến. Ấy là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến. Thầy đã tạo thành trọn đủ Pháp Luật. Thầy đến chỉ độ kẻ vô Ðạo, chớ không phải sửa Ðạo. Con hiểu à.
    Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ] 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét