
Ngày 21-02-1926 (âl. 09-01-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy
đạo và bài thi kỷ niệm chỉ tên 12 người Môn Ðệ đầu tiên.
Qua đến ngày mùng 9 tháng Giêng (21-2-1926), nhằm ngày Vía Ðức
Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết Ðàn riêng tại nhà ông số
80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia Long)
. Ðêm ấy có mời Chư Nhu và mấy
vị Ðạo Hữu hầu Ðàn, Thượng Ðế giáng cơ dạy như vầy:
Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm
chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài, ấy là
lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy.
Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy,
phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gỗ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý
Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.
Khi ấy, Quan Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng Ðế lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài
thi kỷ niệm.
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu, Ðức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.
Thượng Ðế lại phán: "Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ..."
Nguyên 12 chữ lớn trong ba
câu trên là tên của 12 vị Môn Ðệ trước hết của Thượng Ðế. Có hai tên Sang, Thầy
điểm chung một tên. Còn ba chữ lớn câu chót là tên ba vị Hầu Ðàn.
Khổ tâm Hành Ðạo của Ðức
Cao Thượng Phẩm.
KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO CỦA ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
Kể từ Rằm tháng 10 Bính
Dần (1926) tới Rằm tháng Giêng Ðinh Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm
Tự (Gò Kén) là ba tháng, nhưng tới tháng hai năm Ðinh Mão, đã quá hạn kỳ một
tháng mà Hội Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn
ông Huề Thượng Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài.
Vì sự đòi chùa ấy nên Ðức
Lý Giáo Tông giáng dạy quí ông Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng đi kiếm đất mua đặng
dời chùa.
Ðức Lý dạy: " Mai này
chư Hiền Hữu lên đường trên gọi là đường dây thép (là đường từ Mít Một chạy tới
cửa Hòa Viện bây giờ) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền Hữu
có thấy đặng chăng cho biết. Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi chi đều bày trước mắt
nhơn sanh hết".
Qua ngày sau, quí ông đi
tìm đất. ông Thái Thơ Thanh cho mượn một chiếc xe, Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh
cho mượn một chiếc.
Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu
Trùng ngồi trên hai chiếc xe hơi thì có Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm, Anh
cả Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, Anh Thái Thơ Thanh, Anh Thượng Tương Thanh,
Anh Ngọc Trang Thanh.
Khi xe chạy tới Cửa Số Hai
hồi trước còn rừng rậm cạnh góc ngã ba có cây vừng, Ðức Cao Thượng Phẩm ngó
thấy nơi cây vừng có tấm bảng treo đề tên Cao Văn Ðiện. Ông nầy là bạn học của
Ðức Thượng Phẩm hồi thuở nhỏ.
Trong lúc bối rối kiếm đất
không được, bất ngờ thấy tên bạn mình đứng tên trên miếng đất nầy, nên Ðức Cao
Thượng Phẩm nói với Hội Thánh rằng: Ðể tôi đi tìm ông Cao Văn Ðiện nhờ bạn tôi
điềm chỉ giùm chủ đất nầy. Và cũng nhờ ông Cao Văn Ðiện điềm chỉ mới biết ông
chủ đất nầy là ông Kiểm lâm người Pháp tên Aspar.
Khi kiếm được đất rồi, tối
lại quí ông cầu Ðức Lý về dạy coi Hội Thánh đi kiếm đất như vậy có trúng không.
Ðức Lý giáng dạy như vầy:
"Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa tưởng chư
Hiền Hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Ðịa. Sâu hơn
ba trăm thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn
làm như 6 con Rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục
Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu; một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ; hai
đầu nữa bên cụm rừng bên kia. Người Lang Sa chỉ đòi có hai mươi lăm ngàn
đồng".
Khi phá đám rừng nầy thì
Ðàn Thổ (*1) xuống cả ngàn người để phá rừng, làm cho ông Chánh Tham Biện người
Pháp nghi ngờ mời Ðức Cao Thượng Phẩm ra Tòa Bố. Ông hỏi Thượng Phẩm chớ làm
cái gì mà đông đảo như vậy. Ðức Thượng Phẩm trả lời rằng: Tôi mua miếng đất đó
đặng trồng cao su. Ông Tham Biện hỏi trồng mấy mẫu? Ðức Thượng Phẩm trả lời:
Tôi trồng hết sở đất tôi mua phá tới đâu tôi trồng tới đó, nên ngày nay trong
Nội Ô có cây cao su là do nơi đó.
Khổ tâm hơn hết là Ðức
Thượng Phẩm bị người Pháp cật vấn đủ điều cho đến đổi tới giờ cúng cũng không
vô Chánh Ðiện cúng được, buộc phải rào song ly ngăn lại. Trong Chánh Ðiện chỉ
có một mình ông Lễ Sanh Thượng Xường Thanh cúng mà thôi, còn ở ngoài thì vài ba
ông thợ mộc quì trên dăm bào lạy vô Bửu Ðiện; vì lúc nầy Chánh Phủ Pháp nghi
ngờ bắt Ðạo và bó buộc không cho tụ họp đông, như vậy mà ông Tham Biện người
Pháp còn mời Ðức Thượng Phẩm ra Tòa Bố ngày một.
Phụ ghi: (*1) Chỉ người Cam Bốt
lúc bấy giờ.
GIAI ÐOẠN DI CỐT PHẬT TỔ
Cốt Phật Tổ vì nặng quá,
bởi con ngựa Kiền Trắc của Ðức Phật Tổ cỡi lớn và dài nên Ðức Thượng Phẩm phải
kết hai chiếc xe bò lại để thỉnh cốt Phật lên.
Trong lúc sửa soạn thỉnh
cốt Phật thì ông Chánh Tham Biện người Pháp cho một toán lính mặc đồ thâm núp
dưới đường mương ngoài chong súng lên đặng bắn Ðức Thượng Phẩm. Tới chừng thấy
rõ là thỉnh cốt Phật mới rút lui. Hội Thánh từ từ di cốt Phật về đất mới mua.
Ðức Thượng Phẩm đứng trên
xe bò vịn Ðức Phật Tổ, thấy nghiêng bên nào thì hô lên để sửa lại ngay; đi từ 6
giờ chiều tới 2 giờ khuya mới đến Thánh Ðịa (ngay cửa Hòa Viện bây giờ). Trước
cửa Hòa Viện có cây vên vên, đến đây di cốt Phật Tổ vào không được vì bị một
cái đường mương lớn quá; Ðức Thượng Phẩm phải lập kế kiếm ván đặng lót xe vô
mới được. Khi xe qua đường mương rồi thì tạm để cốt Phật Tổ nơi đây, vì Ðức
Thượng Phẩm mệt đuối, nhào xuống đống lá khô trong rừng nằm nghỉ; tất cả Chức
Sắc cũng nằm xuống đó nghỉ theo.
Xin nhắc lại khi mua đất
nầy thì chưa tạo được cái nhà nào hết, chỉ có cái nhà bò của ông Aspar bán đất
để lại (dãy nhà chỗ chợ Từ Bi, gần nhà Ðức Quyền Giáo Tông bây giờ) nhờ đó mà
tạm dùng nhà bò nầy để làm trù phòng cho công quả ăn phá rừng, nên khi Ðức Cao
Thượng Phẩm thỉnh cốt Phật về tới đây mệt lả thì Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu đã
chuẩn bị nấu cháo sẵn rồi. Nữ phái khiêng cháo và nước qua cụm rừng để ăn cho
đỡ dạ.
Nền Phật Tổ đã được Ðức
Thượng Phẩm an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba nhánh.
Lúc bấy giờ, Ðạo phải trải
qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc Ðạo
nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt
trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài (thời Pháp thuộc).
Ðức Cao Thượng Phẩm vâng
lịnh Ðức Chí Tôn phá rừng xong, xây cất Tòa Thánh tạm, Hậu Ðiện, Ðông Lang, Tây
Lang, Trường Học, Trù Phòng (đều bằng tranh) và đào giếng (mà hiện giờ còn di
tích mấy cái giếng gần Tòa Nội Chánh đó).
Thảm thay!
Trời đương thanh,
Biển đương lặng,
Gió đương êm.
Bỗng đâu đất
bằng sóng dậy, nước lã khuấy nên hồ đem đến gieo ác cảm cho Ðức Cao Thượng Phẩm, làm cho
Ðức Ngài phải về Thảo Xá Hiền Cung. Ðức Ngài quá buồn, vì vâng lịnh Ðức Chí
Tôn về Tây Ninh mở Ðạo, Ngài phải bỏ sở làm chưa hưu trí, con còn đang du
học tại Paris.
Nhớ lại lúc
bỏ sở làm thì anh em bạn nói rằng: Thầy Tư, sao Thầy quá tin dị đoan; con còn đang học
bên Pháp mà Thầy đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao?
Nhưng Ngài nhứt
quyết nghe lời Ðức Chí Tôn dạy mà thôi, nên Ngài thu xếp gia đình, bỏ
sở làm về Tây Ninh lo Ðạo, chịu biết bao nhiêu cảnh gian nguy vì xưa đến đây đầy
những bụi cây, thú dữ phải ăn vác nằm sương mới tạo thành Tòa Thánh tạm
và xây cất đủ mọi nơi thành khoảnh thì lại bị thiên hạ đuổi đi!!!
Ðức Ngài về
Thảo Xá, vì buồn rầu, vì xấu hổ với anh em bạn, mặt mũi nào trở về sở làm được
nữa, thế nên Ngài thất chí ước nguyện của Ngài không thành.
Vì khi ra đi Ngài quyết
chí đem thân này làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn sai khiến, nhưng cơ đời rất nên
cay nghiệt, xảy đến nhiều nỗi tang thương cho gia đình Ngài. Ðức Ngài quá đau
khổ có làm một bài thi tự thán như vầy:
Thi
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy nhìn.
Thương Ðạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.
THẤT
NƯƠNG.
(cho Ðức Thượng Phẩm một bài
thi như dưới đây)
Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi.
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.
Năm Mậu Thìn (1928): Ðức Chí Tôn dạy Phép Tuyệt
Thực trị bệnh cho Ðức Cao Thượng Phẩm.
Phò loan: Hộ Pháp - Thượng
Phẩm. Năm Mậu Thìn (1928)
THẦY
Các con,
Hiếu! Con ra kêu Nhiều.
Cư! Con có hiểu chưa con, Cư con giải bày Thánh ngôn
trước phải nếu con không rét thì
có yếu như vậy đâu.
Ừ, con rán nhịn cơm chừng
ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu pháp mà trị bịnh cho con thiệt mạnh,
lần nầy từ đây mới dứt bịnh (1) miễn đừng ăn món chi nó phạt tỳ thôi.
Thầy dạy nói phép tuyệt
thực.
Cơ khí của châu thân, nhờ
tỳ bổ vật chất thực, còn phổi bổ huyền vi thực, hễ tỳ hưởng nhiều vật chất thực
thì còn ít phần cho phổi hưởng huyền vi vật thực, thì phần tinh ba của vật chất
mà châu thân hưởng đặng gìn giữ sự sống đều định có phân tách.
Ít cũng không đặng, trong
hình vật chất thực có tinh ba đặng bao nhiêu, còn lại bao nhiêu huyền vi vật
thực cho đủ số đặng hưởng của châu thân con người có chất Thánh gìn giữ thường
ngày bền vững đặng.
Thầy trước khi ngưng phận
sự, thì Thầy dạy phổi phải thọ vật thực hình chất. Thầy lại ngưng không cho nó
hao mòn nữa, nên ngày nào tuyệt thực thì ngũ tạng lục phủ giữ nguyên mỡ thịt
nó. Hễ buổi tuyệt thực mà xác thân ốm phải chịu ốm, thì như mập cũng tự nhiên
mập; ấy là đổi cơ thể hình chất tức là phàm chất ra Thánh chất.
(1) Ðức Cao Thượng Phẩm đau bao
tử, Thầy dùng huyền diệu trị bịnh.
THẦY
Các con,
Thơ, con dìu dắt em Cư của
con xuống nhà con đặng dưỡng bịnh, tìm chánh y phục dược cho nó, chẳng đặng
rước danh y khác sắc da với các con nghe.
Bịnh nó là tâm bịnh, nhờ
các con lai vãng, khuyên lơn, nhiều hơn là nhờ phương chước, nhọc cũng rán làm
trọn theo nhơn tình cho được trọn niềm Ðạo Hữu với nhau.
Thầy phú thác việc ấy cho
con phải gắng dạ, Hiệp Thiên Ðài các con phải trải qua một lối buồn nữa, nhưng
gắng tưởng Thầy và thương yêu nhau thì qua khỏi lối khó khăn đặng, nên nhớ
nghe.
Trung! Trang! Hồn Ðạo chưa
qui tựu, xác Ðạo còn phân vân khá lấy đức tánh mà điều đình việc Ðạo trong lúc
nầy.
Ngưng sự phổ độ lại mà chờ
cho lễ nhạc bàn tính sắp đặt cho yên.
Thầy cũng phải khổ tâm mà
chịu.
Phò loan: Hộ Pháp
- Thượng Phẩm
THẦY
Các con,
Cười ... Cư! Con
có sợ không con, cười ....
Phải con có bệnh vậy đặng
trừ bớt thử của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị cho mỗi đứa.
Than ôi! Trong phần đông
của các con nếu đặng mảy mún hồng phước như con vậy thì Thầy chưa phải thương
tâm đổ lụy, chúng nó có hiểu thấu đâu.
Nhiều đứa đã bị Thái Bạch
dĩ sổ bôi tên nơi chốn Thiên Thơ mà Thầy không phương chi giải cứu cho đặng;
phải chi Thầy không sợ mất phép công bình thưởng phạt thiêng liêng dầu cho
chúng nó phải chết đi nữa Thầy cũng mừng thầm, song chẳng đặng vậy, con coi cái
bịnh con đó, nó ra giá quí báu cho con dường nào.
Thầy thấy con bịnh phổi và
bao tử, nên cho huyền diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc cho thiệt mạnh. Hai cơ
khí ấy vốn là hình chất nên khó lấy huyền diệu mà trị nó theo lẽ thường. Thầy
buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng hườn nguyên con hiểu.
Ðọc lại con Hiếu.
Cư, Tắc! Hai con muốn Thầy
giải phép tiếp dưỡng huyền diệu ấy thế nào chăng?
Cười ... giải nghĩa biết
chăng?
Không ăn mà sống ... hỏi?
Con ngu lắm há, nghe. Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng, mà không
khí ấy chứa đầy vật chất tiếp dưỡng "Matières
Nutritives" của xác trần, vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng. Thầy nói
chúng sanh là nói toàn cả vật loại hữu sanh, nghĩa là vật chất hữu sanh, thảo
mộc hữu sanh, vật loại hữu sanh, thú cầm hữu sanh, nhơn kiếp hữu sanh, hiểu à.
Vật chất phải tiêu, mà khí
phách vẫn còn, tỷ như đá núi có thể xay tiêu ra bột làm ciment mà khí phách đá
cũng còn giữ tánh cứng của nó; trộn nước cho đóng khối lại thì nó trở lại hườn
đá như thường mà cái mùi đá cũng giữ mùi đá. Thảo mộc dầu phải chặt rả ra thì
khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi trong xác ấy cho hườn nguyên khí
phách mà hiệp lại cùng không khí chăng?
Ðọc con Hiếu.
Không khí "Air
respiratoire" chứa đầy khí phách tiếp dưỡng mà nuôi nấng lại chúng sanh,
nếu các con thấy đặng thì chẳng khác nào ly nước lạnh mà đổ đường vào trong đó
có màu lợn cợn. Sự nuôi nấng chúng sanh thì chẳng chi hơn là nước đường, tuy
vân không thấy đường mà uống rõ ràng có ra mùi ngọt.
Ðọc con Hiếu.
Cái khí con hớp hằng ngày
ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy, Thầy chỉ có sửa cơ khí phàm các con, nhứt là
bao tử cho nó có huyền diệu pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách mà làm vật thực
nuôi nấng lấy mình; vì vậy nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Ðạo tại thế, tuyệt
cốc xác thân chẳng hại chút nào.
Ðọc con Hiếu.
Coi rồi kiếm hiểu, nói lại
cho Thầy nghe rồi Thầy mới dạy nữa.
Chú Giải: Ðức Cao Thượng
Phẩm bị bịnh, Thầy dùng huyền diệu pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm không ăn cơm mà no
cũng như ăn cơm vậy, nhờ hớp không khí sớm mai lúc mặt trời vừa mọc (lên lối
còn thấp).
Ngày 04-05-1928 (âl. 15-03-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn
dạy "Thầy phán lịnh cho Cửu Trùng
Ðài và Hiệp Thiên Ðài phải hiệp nghe à.".
Phò loan: Hộ Pháp - Thượng
Phẩm
Rằm tháng 3 năm Mậu Thìn
(4-5-1928)
THẦY
Các con,
Cười.... Thầy tưởng khi
các con còn cứng lòng hơn nữa chớ... Cười....
Các con chỉ biết rằng có
xác thịt trần của các con đó là hữu hình, biết có mình các con mà thôi, chớ còn
Lão già nầy thì chẳng cần chi kể đến há?
Nầy, Thầy nói cho các con
biết rằng: Chẳng giờ phút nào mà mắt Thầy không chăm nom gìn giữ các con, Thầy
đợi xem cho rõ coi cách các con lập vị mình dường nào. Thầy lại nghĩ mà cười
thầm hoài. Mỗi phen Thầy thử thách các con thì các con rối rắm, Thầy chẳng biết
tới chừng nào các con mới đoạt đặng Thánh đức của Thầy dành để cho các con.
Trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Thầy lấy làm hổ thẹn, oan gia là oan gia
lắm hử!
Từ ngày các con nghịch lẫn
nhau thì chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chẳng còn ở cùng các con nữa, các con có
biết à?
Trung! Ngày mai nầy chạy
tờ cho cả mấy em con biết rằng: Thầy phán lịnh cho Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên
Ðài phải hiệp nghe à.
Tắc! Con phải ký tên tờ
Châu Tri với anh con nghe à.
Cư! Con phải sửa soạn mình
hầu chịu một phen khảo hạch nữa, rán lấy gương ấy mà răn nghe.
Hai con Trung, Cư phải
hiệp ý đặng lo Ðạo, Thầy dặn một phen nữa, chi chi các con cũng nhớ khi các con
ở nơi lòng Thầy.
Hậu! Cho cả Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài hay mạng lịnh Thầy.
Thầy Thăng.
Ngày 23-05-1928 (âl. 06-04-Mậu Thìn): Thường Cư Nam
Hải Quan Âm Như Lai dạy "... khuyên
một điều là khi minh thệ Chức Sắc đừng lòng tư vị...".
Phò loan: Hộ Pháp - Thượng
Phẩm
Ngày 06 tháng 04 năm Mậu Thìn (dl. 23-05-1928)
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Thiếp chào chư Ðạo Hữu và
Ðạo Muội Hương Hiếu.
Chí Tôn không đến là có ý
cho chư Ðạo Hữu điều đình thử coi có làm kham phận sự cùng chăng?
Trước khác, nay thì khác,
đã mang Thiên mạng nơi mình phải so quyền liệu sức mà hành chánh, cả chúng sanh
đương lao nhao lố nhố trông cậy nơi chư Hiền Hữu, phải làm sao cho xứng phận
thì làm.
Thiếp xin khuyên một điều
là khi minh thệ Chức Sắc đừng lòng tư vị; những vị chẳng có minh thệ khá tỷ như
Chức Sắc Hàm mà thôi, chẳng nên giao Pháp Chánh của Ðạo ấy là cơ thể để trừ
tuyệt sự rối loạn của Ðạo. Thiếp xin nên nghe lời Thiếp.
Bảo Ðạo Chơn Quân! Thiếp
tưởng Bí Pháp của Cựu Luật vẫn yêm ẩn lắm điều khó minh đoán cho đặng, song sự
chơn thật quả có hẳn trong ấy.
Vậy cũng nên trích lục
đặng phổ thông cho người đặng phòng ngày sau minh lý ra đặng dễ dàng, Thiếp
tưởng là điều rất hữu ích đó vậy.
Thiếp thương Ðạo tâm của
chư Hiền Hữu rất nên mỹ miều đẹp đẽ, buổi thử thất nầy mới đến đây ngày nay đó.
Thiếp xin kiếu.
Ngày 06-07-1928 (âl. 19-05-Mậu Thìn) Ðức Chí Tôn
dạy "... Con hiểu vì cớ nào mà nền
Ðạo loạn pháp chăng?".
Bà
Rịa, Le 6 Juillet 1928 (19-5-Mậu Thìn)
THẦY
Các con, cười ....
Thầy không kêu Trang và
Lịch đến đủ mặt, song chúng nó một ngày kia sẽ hiểu Thánh ý Thầy. Vậy các con cũng chẳng cần nói lại với
chúng nó mà làm gì nghe.
Các con nghe Thầy, Thầy chẳng biết vì cớ nào
các con không để trí khôn ngoan mà xét đoán cho minh lý Ðạo của Thầy đã giao
cho các con. Thầy hỏi từ khi tạo Thiên lập Ðịa các con có thấy những vật loại
hồn tính nào Thầy đã sanh ra trên mặt địa cầu nầy mà không trật tự phẩm vị chưa vậy hử?
Trung bạch ....
Trung! Nếu chúng nó không
vậy Thầy đâu cậy các con dạy dỗ há? Trung con ôi! Thầy đã chẳng có xác phàm mà
dìu dắt các con, chỉ nhờ ngọn cơ bút hèn hạ nầy mà dạy dỗ các con, hầu làm cho
tâm phàm tánh tục các con giảm bớt đặng chen nhét vào đó mảy mún Thánh đức của
Thầy trông cậy cho nên phẩm hạnh, dạy lại cả chúng sanh mà các con xét mình thử
coi, Thầy đã đặng thỏa nguyện cùng chăng?
Trung! Thầy nói rõ chẳng
phải Thầy để lời trách cứ chi con, lòng con thế nào Thầy thấy rõ, biết bao phen
Thầy nghe con kêu réo than thở cùng Thầy, biết bao phen Thầy thấy con khổ cực
vì Thầy, song con chẳng đủ đức trông cậy Thầy, con hiểu vì cớ nào mà nền Ðạo
loạn pháp chăng?
Trung bạch ....
Không con, vì tại con chưa
biết phận làm anh, nên mới ra đến đổi ấy. Thầy hỏi sao con không chiêm nghiệm
Thánh đức của Thái Bạch? Sao con không xét nét cho cùng lý lời vàng tiếng ngọc
của một vị Giáo Tông Thiêng Liêng mà noi gương theo đó.
Nhiều khi Thầy thấy con vì
nhẹ tánh mà nghe lắm lời thị phi làm đau đớn nhiều đứa vô tội cùng Thầy. Sự lầm
lạc của các con lắm thường tình, Thầy không hề bắt tội, nhưng mà sự mê muội
Thầy thấy rất đau lòng. Thầy hằng than thở với con rằng: Cả nhơn sanh còn nhiều
ngu muội sở cậy con nâng đỡ, dắt dìu mà con lại hờn trách, chớ chẳng dạ thương
yêu thì con có khác chi Chiêu hồi buổi trước.
Thầy lại thấy con đôi phen
giận lẩy phòng toan trao gánh Ðạo cho người; Thầy hỏi vậy chớ con còn nhớ lời
Thầy dặn con buổi trước chăng?
Trung bạch ....
Không, Thầy hỏi con còn
nhớ lời Thầy dặn riêng con buổi trước chăng?
Trung bạch ....
Phải, con há, chớ chi Thầy
liệu trao nền Ðạo cho ai thì Thầy chẳng hề nói với con lời ấy; Thầy đã mượn con
mà con trao phận sự lại cho kẻ khác, vậy con có đắc tội cùng Thầy chăng hử?
Trung bạch ....
Thầy chưa hề bắt tội con,
song chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đã hiểu rõ rằng: Thầy trao nơi tay con một
quyền hành thưởng phạt, cũng như Thầy trao cho Tắc một cây cân công bình thiêng
liêng nơi cõi tục nầy; mà cả hai, một đứa bạc nhược, một đứa bơ thờ. Thầy tưởng
chẳng cần nói các con cũng hiểu rằng: Các Ðấng ấy bất bình lắm đó vậy.
Các con đã mang mạng lịnh
Thầy, thì làm thế nào Thầy không hổ thẹn; Thầy dặn các con một điều phải hằng
nhớ rằng các con thay mặt cho Thầy tức là Thầy. Ngày nào Thầy lấy phận sự lại
thì là mới hết Thầy nữa. Cái xác thịt các con cũng nên kể rằng: Chẳng phải của
các con nữa.
Thầy đã nói trước rằng:
Cái xe Thầy đẩy đi đến đâu thì hồng ân của Thầy rưới khắp đến đó. Thầy chỉ cậy
các con kêu rước những kẻ hữu duyên đến chung hưởng cùng các con thôi.
Khốn cho những đứa ngu
muội không lo mà tiếp rước các con, mà cũng khốn cho các con, nếu các con tham
lam giành phần hơn của kẻ khác, con gắng hiểu Trung nghe.
Thơ! Con cứ giữ giận lẩy
vậy hoài, cười.... Chẳng phải Ðạo là vậy con ôi. Cũng vì.... bạc nhược hay nghe
mà không biết binh vực con mới ra vậy. Từ đây Thầy dặn ai thương ghét mặc ai
con cứ thương Ðạo là đủ.
Cư! Con cũng vậy nữa, con
phải nhớ hằng ngày lời Thầy và hạnh khiêm cung của Thầy mà giải lòng phiền
nghe, chẳng cần thương ghét, chỉ biết phận mình, làm thế nào cho hồn Ðạo thêm
cao, ngày kia chúng sanh sẽ đổ lụy rơi châu mà xét nét sự lầm lạc của thế tình.
(Thầy nói tiên tri Ðức Thượng Phẩm qui Tiên vị).
Trung, Thơ! Hai con nên
tin rằng Cư vô tội mà khuyên dỗ lấy em kẻo tội nghiệp.
Trung bạch ....
Ừ, nhưng mà Liêm, Thầy
phải bỏ phế cho Ca thay thế cho nó, nhưng hạnh đức chẳng hoàn toàn vì lo hám
vọng, Thái Bạch chưa định, nghe Thầy. Con nếu biết thương nó cũng nên gần gũi
dạy dỗ cho nó đặng đôi chút đạo đức của con rồi sau sẽ liệu, bằng chẳng vậy
Thầy buộc Tương ngồi địa vị ấy cho tới buổi Thầy biểu con về, con khá nhớ. Con
biểu Vintrebert đến ngày mai nầy sẵn có hai anh con và hai đứa nhỏ....
Tắc! Con cứ vậy hoài há?
Chẳng một điều nào mà Thầy giao cho con mà con làm trúng hết.
Trung bạch ....
Phải, con còn làm hơi
không biết nữa há?
Thăng
Tình trạng Ðức Cao Thượng
Phẩm.
TÌNH TRẠNG ÐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
Ðức Cao Thượng Phẩm từ
ngày về Thảo Xá Hiền Cung xem Ngài hình thể hao mòn, sức yếu thân gầy, sắc diện
âu sầu buồn bã.
Sự nhận thức có lẽ Ngài
thọ bịnh thất chí, vì hành Ðạo không được y theo sở nguyện trong nền Ðạo buổi
sơ khai lo truyền giáo phổ độ nhơn sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia, nên Ngài
bực tức, vì Ðạo vì Thầy mà bị họ ngăn trở bước đường hành Ðạo.
Thiết tưởng những người có
đủ đức tin nơi Chí Tôn thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an
hưởng riêng cho được, huống chi Ðức Thượng Phẩm là Môn Ðệ tin tưởng Ðức Chí
Tôn, Ðức Phật Mẫu buổi đầu tiên.
Khi Ðức Chí Tôn giáng trần
khai Ðạo, giáng huyền diệu cơ bút thâu Môn Ðệ dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng
tại nhà của Ngài, nên lòng thành kính Ðạo thật là đầy đủ. Các Ðấng Thiêng Liêng
giáng cơ dạy Ðạo, thì Ðức Thượng Phẩm cùng Ðức Hộ Pháp phò loan, hai Ngài lãnh
hội giáo lý nhiều hơn hết.
Ðức Thượng Phẩm là người cương
quyết thi hành trọn Ðạo phế Ðời, thu xếp gia đình nghỉ làm việc Cò Mi, không
màng danh lợi, trọn tin theo lời Thánh giáo của Chí Tôn về ở chùa Gò Kén thường
xuyên hành Ðạo. Khi dời về Tòa Thánh thì Ngài cũng trọn tâm lo xây dựng cơ
nghiệp Ðạo.
Ðến khi gặp cơn khảo đảo,
bị nhơn sanh bạc đãi buộc lòng lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần
cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh, lương y khó phương điều trị cho
lành mạnh. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài lo cuộc lễ tiếp rước Ðức
Thượng Phẩm về Tòa Thánh và tạo lập Tịnh Thất cho Thượng Phẩm nhập tịnh.
Cả Chức Sắc Hội Thánh đồng
tâm tuân lịnh Ðức Chí Tôn tức cấp lo tạo Tịnh Thất tại nơi cụm rừng (chỗ Báo Ân
Từ hiện nay).
Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928)
Bảy giờ sáng một đoàn xe
hơi Chức Sắc Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên, Cửu Trùng đến Thảo Xá Hiền Cung rước
Ðức Thượng Phẩm thì Ngài cũng vui lòng lên xe về Tòa Thánh nhập Tịnh Thất. Hội
Thánh có chọn Chức Sắc phụng sự mọi việc thường thức cho Ngài.
Ðức Thượng Phẩm nhập Tịnh
Thất một thời gian, bịnh tình cũng chưa thuyên giảm, hằng ngày kém ăn thiếu
ngủ, Thánh thể xem đã gầy mòn.
Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928)
Ngài tỏ với người bạn thân
là Bà Giáo Sư Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều trở về Thảo Xá, Ngài không cho
Chức Sắc hay trước.
6 giờ chiều, Giáo Hữu
Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa lót nệm để Ngài nằm, đi theo xe hộ vệ chỉ
có người bạn thân của Ngài và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, đưa Ngài về Thảo Xá.
7 giờ rưỡi, tới nơi đỡ vào
phòng nghỉ ngơi, xem được khỏe như lúc mới lên xe. Từ đây, ở yên nơi Thảo Xá.
Ngày 20-01-1929 Diêu Trì Kim Mẫu dạy đạo.
Phò loan: Hộ Pháp - Thượng
Phẩm
Thảo Xá Hiền Cung
Tây Ninh, Le 20 Janvier 1929 (Năm Kỷ Tỵ)
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Thiếp chào chư Ðạo Hữu,
chư Ðạo Muội bình thân.
Thiếp vì cảm tình xưa mà
phải chính mình đến cùng Cửu Nương cho hiểu mọi điều.
Diêu Trì Cung đã thượng sớ
cho Chí Tôn và Bảo Ðạo Chơn Quân kiện nơi Ngọc Hư Cung. Thiếp còn nhớ khi đến
dìu dắt chư Ðạo Hữu vào đường Ðạo phải mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, thì Thiếp đã
nói, bởi vì tình riêng của mấy Ðấng Chơn Quân đến lo cứu độ chớ không phận sự
chi trong lúc này và cũng bởi lịnh Chí Tôn sai khiến, chắc rằng nếu không phải
Thiếp mở Ðạo thì không phương thành Ðạo cho đặng.
Khi Thiếp mở Ðạo thì độ
ai? Có phải là cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, các Chơn Quân thiệt tình của Thiếp
là ai chăng?
Tái Cầu
Cười .... Ôi cũng bởi nơi
Thiếp mà chư Hiền Hữu phải chịu hành hà phàm xác, khổ não muôn phần.
Chí Tôn có hứa khi ấy với
Thiếp rằng: Thế nào cũng nâng đỡ cho chư Hiền Hữu, chẳng cho ai ỷ lộng quyền mà
lấn hiếp; Thiếp mới đến khai Ðạo cho chúng sanh đặng Phụ Mẫu song toàn. Nào dè
vì lòng đại từ đại bi quá thương nhơn loại, đành để cho chư Hiền Hữu chịu hành
hà đến đổi Thiếp đã dâng sớ cầu xin Chí Tôn lượng xét, còn Bảo Ðạo kiện cùng
Ngọc Hư Cung, những kẻ vô Ðạo của C.T.Ð.
Thiếp đã thấy chán chường,
khởi trị hành hà Lý Thái Bạch muốn lo hòa đặng Ðạo cho thành, nên đã nhìn nhận
tội lỗi nhiều người, nhưng vì công dày nên không đành để Thiên Ðiều định án,
buộc phải nạp những kẻ ấy ra Tòa Tam Giáo. Thầy cũng nghĩ Thiếp nên.... và Lý
Thái Bạch cũng đành nhận quyền hành của Hiệp Thiên Ðài từ đây không ai chối nữa
cho đặng.
Thăng
Ngày 10-04-1929 ( âl. 01-03-Kỷ Tỵ): Ðức Thượng Phẩm
Ðăng Tiên.
ÐỨC THƯỢNG PHẨM ÐĂNG TIÊN
Ngày 01 tháng 03
Kỷ Tỵ (1929)
11 giờ trưa, Ðức Thượng
Phẩm cho mời Ðức Hộ Pháp, cùng ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu,
Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn
Thanh.
Ðức Thượng Phẩm nhìn Ðức
Hộ Pháp trối rằng: Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn, em ở lại hiệp với Chức Sắc
chung lo nền Ðạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.
Anh dầu có nhắm mắt thì sự
mất cũng như còn. Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân
của Ngài căn dặn để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn
êm ái, gương mặt cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối
Ngài nói có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm
động ngùi ngùi thương tiếc.
Khi Ngài dứt hơi thì đỡ
ngồi dậy thúc xác ngồi kiết tường trước mặt lập bàn hương án chưng bông hoa trà
quả. Ðức Hộ Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên Ðài hình Bát Quái; thời Tý 12
giờ đại liệm, rồi thành phục tế lễ theo nghi tiết. Hội Thánh thông tri cho toàn
Ðạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng Phẩm được tiêu diêu
nơi miền Tiên cảnh.
Quàn tại Thảo Xá 3 ngày,
Chức Sắc và Ðạo Hữu nam nữ điếu tế rất đông. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu cơ
bút, Ðức Thượng Phẩm giáng cơ tỏ vẻ vui mừng, được về bái mạng Ðức Chí Tôn cùng
Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều ban ơn công nghiệp buổi khai
Ðạo tròn sứ mạng, Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt:
Thi
Cao thanh miệng thế mặc chê khen,
Thượng trí màng chi
tiếng thấp hèn.
Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.
Ngài tỏ vẻ vui mừng nay đã
thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống.
Ngày 3 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929)
Hội Thánh rước Liên Ðài về
Tòa Thánh, sự sắp đặt thứ tự theo chương trình dưới đây:
1/. Tấm bảng Ðại Ðạo Tam
Kỳ Phổ Ðộ, kế tiếp là phướn Thượng Phẩm.
2/. Bàn Hương án để Bửu
Ảnh có dàn hầu, lổ bộ và các tràng hoa.
3/. Nhạc Ta, nhạc Tây,
nhạc Tiều, nhạc Thổ.
4/. Bàn đưa, phúng, vãng,
trên một trăm tấm tiếp theo đồng nhi đọc kinh đưa.
5/. Thuyền Bát Nhã chở
Liên Ðài tiếp sau tang gia hiếu quyến.
6/. Chức Sắc Hiệp Thiên
Ðài: Hộ Pháp, Thượng Sanh, cùng Thập Nhị Thời Quân, kế tiếp Chức Sắc Cửu Trùng
Ðài Nam Nữ và Chức Việc, Ðạo Hữu, đi đầu vào đến Ðền Thánh mà đoạn chót còn ở
tại Thảo Xá, đường dài 4.000 thước. (4km)
Cuộc rước Liên Ðài rất tôn
nghiêm long trọng. Khi thuyền Bát Nhã đến Tòa Thánh, di Liên Ðài vào Bửu Ðiện
an vị nơi phẩm trật của Hiệp Thiên Ðài.
Ðêm mùng 3 hành lễ Ðức Chí
Tôn, dâng sớ cầu nguyện Ơn Trên ban ân huệ cho chơn linh Ðức Thượng Phẩm tiêu
diêu cõi thọ.
Ngày mùng 4 tháng 3 Kỷ Tỵ: Chức Sắc và toàn Ðạo các
Tỉnh tế lễ phúng điếu rất đông đảo, cùng thân bằng cố hữu phúng điếu, quàn Liên
Ðài tại Bửu Ðiện tế lễ cầu siêu....
Tới ngày mùng 8 tháng 3, sớm mai 8 giờ, di Liên Ðài lên
thuyền Bát Nhã đưa ra Bửu Tháp. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đọc ai điếu; Cửu Trùng
Ðài Ðức Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt đọc ai điếu, trạng tỏ công nghiệp hành
Ðạo của Ðức Thượng Phẩm trong buổi sơ khai, đủ nghị lực tinh thần đối phó với
quyền đời, nào là ngăn cấm áp chế không muốn cho mở mang căn bản nguồn cội của
Ðại Ðạo nơi vùng Thánh Ðịa.
Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương
Thanh, thay mặt cho Nữ phái đọc ai điếu tỏ lòng mến tiếc Ngài vội đăng Tiên,
Hiệp Thiên Ðài thiếu người phò loan đủ huyền diệu.
Khi đọc ai điếu xong, Chức
Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu nam nữ thành tâm kĩnh lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng
Phẩm được siêu thăng Tiên cảnh. Cuộc lễ long trọng an bài.
Thợ hồ lo xây Tháp cho
Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp Bát Giác; sau lưng có khắc bài
kỷ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.
Sau đấy Ðức Cao Thượng
Phẩm có giáng cho hai bài thi khi di Liên Ðài ra Bửu Tháp:
Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Ðài.
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách Thiên Thai.
Ngậm cười
nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.
* * *
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiên mừng đặng dứt giây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
Cỗi
tấm chơn thành lòa
nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ
nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Ðể mắt xanh coi nước khải hoàn.
Ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929). Ðại Ðạo - Năm thứ tư
Bia
Kỷ Niệm Ðức Cao Sĩ Thượng Phẩm (Cao
Quỳnh Cư).
Cao Quân người Nam Kỳ,
xuất thân tại tỉnh Tây Ninh, nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực
thước, tánh chất siêng năng, học hỏi thông minh, thành danh khi tuổi trẻ.
Lúc ở thế xử tròn Nhơn
Ðạo, mãng ra vào trong bể hoạn rừng danh, hơn mười năm dư đã an phận sự.
Vừa may gặp hội Long Huê
hoằng khai Ðại Ðạo khiến cho Cao Quân hiệp cùng lương hữu tập phò cơ chấp bút
cầu Tiên Phật giáng đàn hầu ngâm thi vịnh phú.
May thay! Nhờ lượng từ bi
xuống tay tế độ, dùng chơn thần thanh bạch, cầm bút chấp cơ, dạy chúng sanh qui
chánh cải tà, khuyên tu niệm thoát vòng mạt kiếp.
Bởi Ðấng Chí Tôn giáng thế
xưng danh hiệu Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát
Giáo Ðạo Nam Phương.
Vậy nên Cao Quân hiệp cùng
chư Ðạo Hữu phụng thừa Thiên mạng khắp miền Hậu Giang phổ độ chúng sanh, nền
Ðại Ðạo mới gây nên từ đó.
Ngày Rằm tháng 3 năm Bính Dần Ðức Chí Tôn phong Cao
Quân là Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ.
Ðến Rằm tháng 10 năm ấy, Ðức Chí Tôn lại gia
phong Cao Quân chức Thượng Phẩm trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Khôn xiết kể công lao của
Cao Quân đã lo dìu dắt chúng sanh còn phải vun trồng nền Ðạo giữ tròn phận sự,
mưa nắng chẳng nài, lo Ðạo không nhàm, tuyết sương chẳng quản.
Ô hô! Thiên cơ tiền định
người dễ thấu đâu, những ngỡ tay rường cột sum vầy cùng bạn tác, chung lo đắp
nền Ðạo giữa trời Nam, nào hay đâu số mạng bốn tuần dư dâng Thánh chỉ trở về
Kinh Bạch Ngọc.
Thương thay! Tiếc thay!
Song nghĩ lại, tuy thể
phách tách rời trần thế mà tinh thần còn lai láng như xưa, muôn năm theo độ rỗi
chúng sanh, ngàn thuở vẫn mặc phò Ðại Ðạo.
Ôi! Nhớ tiếng thốt giọng
cười khôn vùi mạch thảm nghĩ công lao sự khổ khó lấp cơn sầu.
Sanh chúng ghi tạc dạ ơn
sâu, đồng một dạ khắc mấy câu kỷ niệm.
Ngày 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929)
Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài
và Cửu Trùng Ðài
Chư Ðạo Hữu đồng kỷ niệm.
Văn Tế Tiểu Sử Cao Thượng
Phẩm của Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài.
VĂN TẾ
(Ðiệu văn Lưu
Thủy)
Tiểu Sử CAO THƯỢNG
PHẨM
Than ôi! Miền Ðông Á từ
thời Bàn Cổ, xưa đã bao phen Ðạo Thánh dẫn nhơn sanh.
Ðất Việt Nam khai những
thuở Hồng Bàng, nay mới gặp lúc thuyền linh đưa bến khổ.
Cho hay rằng: Sanh là ký,
tử lại là qui, nhưng phải biết mạng tuy yểu, mà danh ấy thọ.
Nhớ Cao Thượng Phẩm xưa,
tư chất ôn lương, tánh tình hòa hưỡn, nhà phiệt duyệt lưu truyền nơi thế
thượng, tỉnh Tây Ninh lớn nhỏ thảy đều thương.
Trí thông minh còn roi dấu
thơ hương, miền Bến Nghé trẻ già nào chẳng rõ.
Trải mấy mươi năm cùng thế
sự, chí nam nhi đủ sức vẫy vùng.
Quanh theo lối trong gia,
phần em trẻ nhiều lời khuyên nhủ.
Cùng lân lý hay thương
người thất thủ, hằng ra tay tế độ bạc tiền.
Với mẹ cha thường để tấc
lòng thành, gắng hết sức đền ơn nhủ bộ.
Ðạo Thánh mở phú một tay
truyền bá, lãnh mạng Trời bố hóa khắp hoàn cầu.
Giọt sương gieo vì trăm họ
khát khao, vưng Thánh chỉ rưới ban ân võ lộ, hiến thân cho Ðạo son sắc một
lòng, nương bút thủ cơ tuyết sương mấy độ, đã nhiều cơn tân khổ chẳng quản đến
tình nhà, dìu sanh linh từ thành thị chí thôn quê, dư mấy lúc gian truân, lần
lừa theo mạch Ðạo, dẫn bầu bạn vạch đường về cội cũ.
Toàn trong sáu tỉnh để
tiếng ngợi khen, khắp cả muôn dân riêng phổ độ. Trước từng trải Biên Hòa, Sài
Gòn, Gia Ðịnh, mới lần qua cửa Tiểu, đã mấy buổi nắng mưa cam chịu, Ðấng Tạo
Ðoan soi tỏ rõ tấm kiên trinh, rồi lại từ Mỹ Tho, Sa Ðéc, Long Hồ, mà thẳng tới
Bạc Liêu, biết bao phen sương tuyết dãi dầu, ơn Thượng Phẩm đáng ghi vào nơi
phế phủ.
Phần du Tiên gẫm cũng tại
Thiên cơ, người khuất bóng thiếu tay rường trụ.
Nhớ những khi:
Vun trồng cội Ðạo, lấy chí
trượng phu, tẩy sạch lâm tuyền, dựng Tòa Thánh tổ, lo xây nền lập Ðiện, đem hết
lòng tu bổ, trót mấy thu từng trải mảnh hình hài, lo trẩy gốc ven đường, dâng
trọn tấm nhiệt thành, bao nhiêu tuổi đủ đền ơn thủy thổ.
Hỡi ôi!!!
Chuông reo cảnh hạc, bóng
khuất non Tây, khách giục rừng tòng, người về quê cũ, thương vì đoàn thê tử, mẹ
Nam con Bắc, vợ dựa cửa trông chồng, xem càng chạnh nỗi, dầu lòng thương ôm
chịu chớ biết sao!
Ngảnh lại, bóng tang du
cha khuất, mẹ còn già ngồi lên khóc trẻ, nghĩ cũng lạ thường, thất chữ hiếu
phải cam là vậy đó. Nhưng... nhưng cũng nghĩ rằng tình chồng vợ cũng đủ dạ yêu
thương, nghĩa mẹ con cũng đã dày công báo bổ...
Bởi vậy cho nên:
Vì công lao khổ, ơn huệ
thưởng ban, hứng cảnh tiêu diêu, sắc son đã rõ. Miền Cực Lạc xin hương hồn Cao
Thượng Phẩm chứng lòng đơn cho các bạn tại tiền, trước Linh Tòa cả Chức Sắc
Hiệp Thiên, dâng Tam Bửu ngỏ đền ơn tri ngộ.
Ngày 8-3-1929
Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài
Ðiếu Cao Thượng Phẩm của
Thượng Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Ðiếu
CAO THƯỢNG PHẨM
Quý ông, Quý Bà, chư Ðạo
Hữu lưỡng phái,
Ngày mùng một tháng này,
vì phận sự tôi phải đi Nha Mân, qua mùng 2 tôi đi Vũng Liêm cùng Hiền Hữu Ngọc
Trang Thanh.
Lúc thượng lộ lòng tôi
buồn bực không kể xiết, tôi thầm hỏi, mình đi lo việc Ðạo cớ sao không được vui
như mấy lần khác.
Sáu giờ rưỡi chiều tới
Thánh Thất Vũng Liêm có Hiền Hữu Thái Thơ Thanh, Thượng Giảng Thanh, Thượng Lân
Thanh, hành lễ vừa rồi chạy ra vừa nói:
Thượng Phẩm décédé (chết).
Nghe qua dường như sấm nổ,
người dầu gan sắt dạ đồng, nghe tin cũng bắt động lòng thương xót, huống chi
tôi cùng Ðức Cao Thượng Phẩm trong mấy năm dư cùng nhau keo sơn gắn chặt, thọ
Thánh chỉ của Ðức Chí Tôn phổ thông Ðại Ðạo Tam Kỳ.
Nay người ly trần, cỡi hạc
về quê, kẻ nhơn thế còn lo độ chúng, khiến cho tôi nghĩ nhiều bậc công hầu
vương bá tài bực biết bao mà Trời không ngó cũng chác sầu tây. Nầy một Ðấng
Hiền lương Ðạo đức, chừng Trời kêu đến phải mau hồi cựu vị. Ấy chỉ rõ quyền Chí
Tôn rất lớn, vô cực vô đại mà thương hại cho những người vô đạo đức, không suy
xét lời Thánh " Vạn ban đô thị mạng,
bán điểm bất vô nhân".
Ấy chỉ rõ Thiên cơ.
Thời kỳ này Thầy lập Ðạo
vô vi hồi chưa khai Ðạo nhơn sanh còn phàm tục, nên mượn xác phàm của Tín đồ
đặng độ rỗi chúng sanh, nay Ðạo thành có người lập đặng chí Thánh, Thượng Phẩm
là Ðạo phải trở lại Thiêng Liêng chi vị, nơi trần thế đây mà làm cho người tâm
thành trí vẹn, may chút nữa phải mỏi lòng đạo đức.
Than ôi! Một năm qua rồi,
nhìn Thánh Ðịa như cảnh sầu bi, xem nền Ðạo giống nhà vô chủ.
Kìa cây sầu lá ủ, nọ cỏ úa
sương gieo.
Thiên ý muốn một điều là
phải ăn năn sám hối, ai có lỗi mau mau tự cải, lập từ bi nhịn nhục nhau thì Ðạo
mới hòa.
Thầy chỉ rõ Thiên cơ đã
định, đều cũng kết cuộc tương thân, tương ái.
Tuy Thượng Phẩm về cùng
Thầy là nơi phước hạnh không chi sánh kịp. Non chiều phụng gáy, động Thánh qui
chầu, là nơi u nhàn Cực Lạc, song nhìn còn tại thế:
Một Từ Huyên bóng xế trăng
lờ, lại gặp cuộc mẹ già ngồi khóc trẻ, nhớ con trẻ biết bao tình thấm thiết vợ
hiền lương rẽ bạn giữa đường, cuộc gia thế trăm bề quạnh quẽ.
Không xiết nỗi thương.
Ôi! Chiếc nhạn kêu thu
cũng là một cảnh sầu bi nơi trầm luân khổ hải này, một con thơ còn bơ vơ nơi
đất khách, sau dầu bước đặng thang mây, vinh qui bái tổ, ôm cái tháp này khóc
than, chớ cha hiền đã cỡi hạc qui Tiên.
Mẹ góa con côi, trăm bề eo
hẹp... Ấy gương nâu sòng chập chồng trên một nền nhà đạo đức.
Ðạo lập thành, người chí
Thánh đâu nỡ ngó lơ.
Hỡi ơi!!! Thương thay!!!
Thượng Ðầu Sư
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Ngày 16-04-1929 (âl. 07-03-Kỷ Tỵ - Giờ Tý): Ðức Chí
Tôn dạy về việc Cao Thượng Phẩm qui vị.
Tòa Thánh Tây Ninh, Le 16 Avril 1929
Ngày 7 tháng 3 Kỷ Tỵ (giờ Tý)
THẦY
Các con,
Mỹ Ngọc! Kêu mấy anh con, kêu Nữ phái vì chúng
nó vái ở dưới tội nghiệp.
Thầy đã nói rõ rằng:
Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con nhưng mà hại thay! vì biếng nhác các con
không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
Tắc! Con có nhớ Thầy nói
với các con rằng: Ðạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại Thiêng Liêng chi
vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con, lại nữa các con
vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần Ðời
còn phần Ðạo cũng có đôi đứa con mới đặng cho, cười....
Con đừng phiền mà trách
mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng: Chúng nó giết Thượng Phẩm nghe, vì Thiên cơ
đã định các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau.
Thơ! Con phải xây cái Tháp
của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về Ðông, giống như ngó
vào Ðiện mà hầu Thầy vậy. Song, ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của Ðường
Nhơn vậy nghe.
Ðừng làm như cái Tháp của
Bảo Ðạo, vì hai đứa phẩm vị khác nhau, chung quanh Bát Quái, phải làm như hình
có cột tại chính giữa Tháp (1) phải có lỗ cho nhựt quang giọi tới Liên Ðài.
Các con sẽ bị Thái Bạch
quở phạt liệu lấy mà sửa mình, phải tùy theo lịnh dạy của nó, đặng nó giảm nộ
chút ít nghe.
Thầy thăng.
(1) Chính giữa Tháp, trên nóc có
làm mặt kiếng, nghĩa là làm cái bầu có để mặt kiếng đặng cho nhựt quang giọi
tới Liên Ðài. Phải làm cái bầu cho lớn, đặng để mặt kiếng lớn mới được.
Ngày 18-04-1929 (âl. 09-03-Kỷ
Tỵ): Lý Giáo Tông & Ðức Chí Tôn dạy về việc Cao Thượng Phẩm qui vị.
Le 18 Avril 1929 (Ngày 9 tháng 3 Kỷ Tỵ)
LÝ GIÁO TÔNG
Chào chư Hiền Hữu.
Hộ Pháp! Hiền Hữu nói cùng
chư Chức Sắc Cửu Trùng Ðài rằng: Lão có gặp Thượng Phẩm trước Linh Tiêu Ðiện,
nhưng Người mắc lo kiến diện, nên chưa nói chi đặng với Lão hết, vậy đợi vài ba
tuần nữa Lão sẽ phán định.
Hương Thanh! Hiền Muội
đặng lên nghe Lão dạy mà thôi, Lão đợi, chào Hiền Muội.
Thượng-Phẩm xin tha thứ
lỗi của Nữ phái nhưng Lão chẳng trọn nhận.
Lão phạt cả Chức Sắc Nữ
phái một tuần cấm phòng, còn Hiền Muội thì Lão biếm quở, vì không lo dạy dỗ
điều đình, song cho thăng lên Chánh Phối Sư cho có quyền sửa trị Nữ phái, nhưng
mà buộc còn phải tùng lịnh Ðầu Sư.
Thấy thân thảm cảnh của
Hiền Muội Hương Hiếu, Lão để lời chia buồn sớt thảm cùng Hiền Muội đó.
Cái sự hằng sống chẳng
phải tại thế nầy, xin Hiền Muội khá nhớ.
Thăng
Tòa Thánh Tây Ninh, Le 18-04-1929 (09-03-Kỷ Tỵ)
THẦY
Các con .... Cười ....
Ậy! Cũng tại Thầy mà các
con lộn xộn cùng nhau nữa há?
Cười .... Thơ! Con cũng
phải mà Bính cũng phải, lỗi ấy nơi Thầy.
Bính! Chớ chi con lấy năm
lần chín thì con đã trúng rồi đó, con lại sợ thằng... Sang đứng cận đường, song
cũng còn xa đó con không hề gì.
Hai con muốn đem vào cây
ba nhánh một chút nữa càng tốt, nhưng đã lỡ rồi cứ để vậy.
Tương! Thầy dặn con như có thế ngày mùng 8
tháng tới về Tòa Thánh Thầy dạy việc nghe.
Lịch! Con từ đây phải ở Tòa Thánh nghe.
Thơ! Phải cầu Thái Bạch, nhứt là phải có Chức Sắc Cửu
Trùng Ðài cho nó phán dạy nghe con.
Thăng
Ngày
21-11-1929 (âl. 22-10-Kỷ Tỵ): Ðức Chí Tôn dạy "... Cái tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng
ra bao nả?...".
Thảo Xá Hiền Cung
Ngày
22 tháng 10 Kỷ Tỵ (21-11-1929)
THẦY
Các con,
Diêu! Biểu mẹ con đứng dậy, Thầy lấy làm đau
đớn, Thầy thấy con chịu khổ hạnh vì Thầy.
Hiếu! Con đã nhiều phen khóc lóc, Thầy thê thảm
muôn phần, song thấy Thiên cơ đã
định, ngày hội hiệp con mới hiểu đặng mà đem dạ thương Thầy. Con ôi! Cái tình
thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nả? Thầy chỉ đợi
các con mà các con chẳng nhớ đến, Thầy vì nóng lòng gặp nhau nên mỗi phen đặng
thế Thầy tức cấp đem về, con đã rõ thấu cõi trần này biết bao khổ não đày đọa
các con. Thầy đến rước các con cũng bởi thấy khổ mà cầm lòng không đặng. Vậy
con Hiếu! Con gắng suy nghĩ lời Thầy mà giải lòng phiền muộn, hầu lo thủ hiếu
cho tròn, phận mẹ già ác xế đầu non, con nhớ đến chồng con lo báo bổ.
Diêu! Con lo giải khuây mẹ con, chi chi cũng có
Thầy giúp sức, con nên gần gũi với em con cho thường, vì nó đã cầu nguyện Thầy như vậy.
Tắc cũng vậy nghe; đừng
xao lãng tình đời mới ra người quán chúng, tập nhỏ nhẹ chị em chìu bụng, nên
lấy mình làm thế Ðạo anh, như gặp cơn đói khó rách lành, giữ trọn nghĩa để danh
lưu hậu thế.
Diêu! Con đã đặng lời châu
ngọc của Thầy gắng lo liệu với em giúp nó đặng hoàn toàn trách nhiệm.
Tắc! Con khá nhớ rằng: Ðạo
đức Thầy dạy dỗ từ thử đủ sức phục người, con chỉ liệu phương hay mà định đoạt,
Thầy chỉ cầu con để dạ thương yêu chúng nó kẻo tội nghiệp. Con cũng nên giảm
bớt tánh cang cường, lấy lòng từ bi mà dạy dỗ nghe con.
Hiếu! Thằng
An nó về Thầy không hay chi hết. Con ôi! Muốn đi thì đi, muốn về thì về Thầy
không phương cản đặng, kệ kiếp nó. Thầy ban ơn cho các con.
Thăng
Năm Kỷ Tỵ (1929): Cao Thượng Phẩm dạy "... Từ đây để trọn quyền cho Ðức Lý Giáo Tông
định đoạt...".
Phò loan: Hộ Pháp - Văn
Pháp
Năm Kỷ Tỵ (1929)
CAO THƯỢNG PHẨM
Em chào Anh Lớn, Tám và
Nghĩa.
Em đến đây ngày nay là bạn
của Anh Lớn và hai em, chớ không phải với danh Thượng Phẩm. Em lấy làm mừng cho
Anh Lớn ngày nay đã hiểu rõ Thánh ý về làm chủ Tòa Thánh, chớ chi buổi trước
Anh tính đặng như vậy thì nền Ðạo đâu đến chinh nghiêng và em chắc không đến
đổi phạm lịnh mà đắc tội cùng Thầy.
Em xin nói rõ song Anh Lớn
chớ phiền, vì mọi sự cũng do Thiên cơ tiền định. Anh có lúc nghe lời Anh Ngọc
mà nghi hoặc bụng em, làm cho em bị khảo duyệt mà kỳ trung Anh đặng phải; còn
Anh Ngọc (Ngọc Lịch Nguyệt) lại bị tội tình cờ mà bị quyền Thiên khiển cái phẩm
vị cao trọng. Anh Ngọc không rõ giá thì mất vị đã đành nhưng nhờ công lao khai
Ðạo, em không nỡ ngồi ngó cho đành, nên đương liệu phương cầu rỗi; anh cũng nên
thừa dịp răn he ảnh cho biết ăn năn chừa cải. Xin Anh đừng tưởng lầm như em
buổi tại thế rằng: Ðạo do nơi Anh Ngọc, muôn việc tại Thầy. Anh hỏi thằng Tám
(Hộ Pháp) thì biết, em đã dâng xin Ðức Lý Giáo Tông ban luật lịnh cho Anh đủ
quyền tuyển chọn Chức Sắc, vậy anh cũng nên để ý dè dặt cho lắm mới trừ diệt
đặng những kẻ phá Ðạo. Em tưởng Pháp Chánh Truyền dễ thế ban hành sự cao
thượng, Ðạo chỉ do nơi đó, Thầy thì từ bi đòi phen dung dưỡng, làm cho kẻ đạo
đức chịu khổ hạnh trăm bề, nhưng em đã đặng lời hứa với Thầy rằng: Từ đây để
trọn quyền cho Ðức Lý Giáo Tông định đoạt.
Anh Lớn cũng nên hiệp ý
cùng thằng Tám đặng hành chánh y lịnh dạy của Ngài.
Anh cũng nên để trọn quyền
hành sự cho Chánh Phối Sư đặng nhẹ bớt cái phần trách nhậm nặng nề đi, đặng Anh
lo nhiều điều cao thượng của Ðạo hơn nữa; Anh nên đem chị về cho thuận Thánh ý
Thầy và bớt lo điều gia sự.
Mấy vị Thiên Phong vô lực,
nhứt là sự ngộ mà nhiều kẻ khác nữa, Ðức Lý Giáo Tông sẽ giáng cơ định đoạt.
Xin Anh Lớn chớ lo, những kẻ phạm tội giải ra Tòa Tam Giáo thì Ngài cũng sẽ
quyết định. Anh Ngọc lúc nầy nếu biết mình cũng nên ẩn nhẫn đợi đôi lúc nữa sẽ
hay miễn đừng gây tội nữa.
Tám! Từ đây em nên nghe
lời và bớt tánh nóng nảy đặng giữ phẩm hạnh nghe.
Anh Lớn hỏi chi?
Anh Cả trả lời rằng: Qua
muốn lo lập Phước Thiện Ðường để nuôi mấy người đàn bà góa thủ tiết lo tu mà
nghèo, lập như nhà kín (Ermite) của Gia Tô.
Thầy đã tính trước, bằng
chẳng vậy phái Nữ không tu, em tưởng đẹp lòng Thầy lắm!
Anh lo đặng Học Ðường nữa
càng tốt, em tưởng dường này thì bổn Ðạo ắt đặng ngày ngày nâng cao thêm nữa.
Em rất mừng. Thăng
Năm Canh Ngọ (1930): Cao Thượng Phẩm dạy "... Hễ tâm định thì Thần có ứng...".
Năm Canh Ngọ (1930)
CAO THƯỢNG PHẨM
Chào Anh Ba, Em
Tám, Chị Tư, Cô Tư và mấy đứa nhỏ.
Cười .... Lâu ngày về
người này vái hỏi sự này người kia vái hỏi sự khác, vậy Bần Ðạo nói tắt lại
rằng bất kỳ là việc gì hễ tâm định thì Thần có ứng thì Thầy giáng, vậy thì lựa
điều chi nên và lành thì làm còn điều chi hư và dữ thì chừa.
Sóc! Bần Ðạo nhiều phen
trông mong săn sóc dạy khuyên mọi kẻ, thấy làm trúng Thánh ý thì mừng, còn đôi
phen dạy một đường lại làm một ngã gây tội thêm thì buồn mà biết liệu sao cho
cùng tột, đặng phần này mất phần kia thế thường phải vậy.
Cô Tư, mấy anh, mấy chị,
mấy em, mấy cháu và cô đã đặng một phen Bần Ðạo giáng thế giao tình, ngày nay
mới đặng hiểu nhau, thân mật cùng nhau, cái tình cảnh ấy là giềng Thiêng Liêng
cột chặt nghĩa nhau, Bần Ðạo tuy sanh Thiêng Liêng chi vị, nếu kẻ thường khó mà
gần đặng, mà nay Bần Ðạo vì thọ ân nhau mới tận tâm phò hộ ấy vậy Bần Ðạo kiếm
phương trả nghĩa thì cả thảy cũng nên liệu bề thủ nghĩa.
Bần Ðạo ngày này năm rồi
chịu đau thảm khó khăn cùng tột, cái đau đớn ấy vẫn còn trong chơn linh Bần
Ðạo. Cô Tư có nhớ đêm nay là đêm Bần Ðạo nằm trên một cái xe đi chầm chậm trong
nhà tịnh về hay chăng hử?
Bần Ðạo nhắn lời nhắc đến,
hôm nay đã toại chí thung dung, chọc chi thêm đau dạ, Bần Ðạo có ý nói rằng
mãnh thân phàm xác thịt chẳng mùi vị chi cả nên khó ngừa lòng, lấy tình thâm
làm của báu.
Tám khóc chi mà (Tám Hoa
khóc).
Hộ Pháp! Em đã đặng lời
Thầy sở cậy, xin em lấy dạ từ bi mà cứu độ, vì trong phần phạm tội kẻ ưng thì
ít, kẻ oan thì nhiều; rồi đây em sẽ thấy rõ, rán dằn lòng. Qua không ép em, tự
em quan soát.
Anh Ba! Xin rán làm thế
nào cho ra xứng phận kẻo tội nghiệp nghe, cái địa vị mình phải ra cao trọng mới
thoát tay thế khảo, xin rán hiểu.
Thăng
Lời Thuyết Minh của Ðức Hộ
Pháp, ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930): Lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng Phẩm.
LỜI THUYẾT MINH CỦA ÐỨC HỘ PHÁP
Trong dịp lễ kỷ niệm Ðức
Cao Thượng Phẩm, ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930)
Mỗi một năm ngày Vía của
Ðức Cao Thượng Phẩm, Bần Ðạo lấy làm vui thấy con cái của Chí Tôn Nam cũng vậy
Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần Ðạo hơn hết là ngày Vía
của Ngài, cả con cái của Chí Tôn còn gìn giữ và thương yêu ấy như buổi sanh
tiền kia vậy.
Sự thật, từ cổ chí kim,
Bần Ðạo tưởng không có nền Tôn Giáo nào mà được hưởng một đặc ân thiêng liêng
của Ðức Chí Tôn như nền Ðạo Cao Ðài; Bần Ðạo đoán lại những sứ mạng thiêng
liêng của Ngài, những đặc sứ sai đến thế nầy đặng thay thế hình ảnh của Ngài
hầu chia đau sớt khổ cùng con cái khổ não của Ngài như thế nầy.
Chúng ta có thể nói, các
Ðấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh tộc của chúng ta
tưởng cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào?
Ngộ nghĩnh thay! Ðức Chí
Tôn làm thế nào mà chư vị Ðại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng đến
đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của Ngài. Ðức Hớn Chung Ly tức nhiên cái ngươn
linh của Ðức Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Nên giờ phút nầy Bần Ðạo
nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong tay tạo Ðạo không
còn nữa, thành thử không có cây cơ thứ nhì.
Nói thật ra, cái cơ phong
Thánh, cơ lập Thánh, cơ Truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ nầy thảng có
cơ phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Ðạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây
cơ phong Thánh hiển nhiên giờ phút nầy không còn tồn tại, cái tiếc của Bần Ðạo
hay chăng là điều đó.
Bài Giảng Ðạo của ông Tiếp
Pháp, đêm 30 rạng mùng 1 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962): Lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng
Phẩm.
BÀI GIẢNG ÐẠO CỦA ÔNG TIẾP PHÁP
Thuyết tại Ðền Thánh đêm
30 rạng mùng 1 tháng 3 năm Nhâm Dần (1962) trong dịp Vía Ðức Cao Thượng Phẩm.
Kính thưa Chức Sắc, Chức
Việc và Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Hôm nay là ngày Vía của
Ðức Cao Thượng Phẩm, chúng tôi xin nhắc tiểu sử của Ngài, âu cũng là dịp xưng
tụng công đức của người quá cố và cũng ôn lại cái đại chí của người tu hành để
làm gương cho đoàn hậu tấn.
Hồi tưởng lại, kể từ ngày
mùng 6 tháng 6 Ất Sửu, nhằm ngày 26-7-1925 tại tư gia của Ngài ở Sài Gòn,
thường có năm ba người bạn nhóm họp xây bàn, thông công với các vong linh để
xướng họa thi phú. Vì ham mộ văn chương mà những vị ấy tiếp tục xây bàn, kế đến
phò cơ chấp bút và sau rốt lập thành một nền Tôn Giáo Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ðức Thượng Phẩm là người có đức tin hơn hết.
Lịch trình tiến triển sự phò
cơ kể đại lược như vầy:
Nguyên đêm 10 tháng 7 năm
Ất Sửu (1925), tại tư gia của Ðức Cao Thượng Phẩm, các anh em cũng xây bàn như
thường lệ, thoạt nhiên có Ðức Chí Tôn đến, nhưng không xưng tên thiệt mà lại
mượn chữ A.Ă. làm danh hiệu để xưng hô, có lẽ Ðức Chí Tôn mượn tên ấy để cho
ba người dạn dĩ lân la học hỏi. Ðến ngày 1 tháng 11 Ất Sửu nhằm 16-12-1925 Ðức
Chí Tôn dạy phải lập Ðàn Cầu Ðạo, Ðức Thượng Phẩm lập bàn Vọng Thiên tại tư gia
của Người ở đường Bourdais Sài Gòn (nay là đường Bác sĩ Calmette).
Cầu Ðạo rồi Ðức Chí Tôn
dạy phải dùng Ngọc Cơ để tiếp xúc với Ðức Chí Tôn, thì cái giai đoạn xây bàn
đến đây là cáo chung.
Từ đó, những vị đã theo
xây bàn trước kia, lại dùng lối phò cơ để học hỏi, mãi đến đêm 24-12-1925 dương
lịch lễ Chúa Giáng Sinh, thì Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy như vầy:
Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết
Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương.
"Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên."
Ðạo Sử Xây Bàn -
3 / 16 (Nữ Ðầu Sư
Hương Hiếu)
Ðêm nay 25-12 phải vui mừng, vì đó là ngày
của Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây. Ta rất vui lòng mà đặng thấy Ðệ Tử kính
mến Ta như vầy. Nhà nầy sẽ đầy ân đức Ta.
Nhà nầy mà Ðức Chí Tôn nói
là tư gia của Ðức Cao Thượng Phẩm, khi Ðức Chí Tôn thăng rồi, người người nhìn
nhau với một vẻ ngạc nhiên vừa mừng vừa sợ.
Thì té ra sự xây bàn phò
cơ từ trước đến nay không phải là việc của người phàm tiêu khiển ngày giờ mà
thật là việc của Trời khai Ðạo. Sự phổ độ khởi đầu từ đó, người nhập môn càng
ngày càng thêm đông .
Ðến ngày 14 tháng 10 Bính Dần, nhằm ngày
18-11-1926, Ðức Chí Tôn dạy thiết Ðại Lễ Khai Ðạo chánh thức tại Từ Lâm Tự tỉnh Tây
Ninh, đồng thời Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền phong vị cho Chức Sắc Hiệp
Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài, và Ðức Chí Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật, vậy sau
ba tháng Ðại Hội, Ðạo đã có Pháp, có Luật thì nghiểm nhiên Ðạo thành một nền
Tôn Giáo danh gọi là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Từ đó Ðức Cao Thượng Phẩm
xin nghỉ làm việc đời để có rộng ngày giờ hành Ðạo, thành thử khi Tòa Thánh dời
vô làng Long Thành là Thánh Ðịa bây giờ, trong hàng Chức Sắc H.T.Ð duy có Ðức
Cao Thượng Phẩm phế đời trước hết, Ngài thay mặt cho tất cả anh em Ðài Hiệp
Thiên cộng tác với Cửu Trùng Ðài phá rừng cất Tòa Thánh tạm.
Trong trường công quả, Ðức
Thượng Phẩm rất tận tâm, Ngài quyết chí góp công vào sự kiến tạo một nền Ðại
Ðạo tại xứ Việt Nam, nhưng trong thời gian phục vụ, Ðức Ngài phải chịu nhiều
phen thử thách, lắm khi Ngài muốn ngã lòng, nhưng nhờ tinh thần vững chắc rồi
cũng vượt qua, thật đúng lời cổ nhơn nói:
"Ðạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng,
Ðạo cao nhứt trượng, ma thượng đầu nhơn".
Nghĩa là Ðạo cao một
thước, thì ma cao một trượng, Ðạo cao một trượng, thì ma cao khỏi đầu người.
Nhưng than ôi! Thiên số
nan đào, rồi Ngài lâm bịnh mãi đến ngày mùng 1 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) thì Ngài
qui Tiên, năm ấy Ngài được 42 tuổi.
Nói tóm lại, đời của Ðức
Cao Thượng Phẩm lúc tuổi xuân là một vị công chức của Chánh Phủ Pháp, khi vào
Ðạo là một vị Ðại Thiên Phong nơi Ðài Hiệp Thiên, ngày công viên quả mãn đắc vị
"Kim Tiên" thật công trình
cần lao khó nhọc không uổng.
Nay Ðức Thượng Phẩm thuộc
về người Thiêng Liêng thì Ngài lại có nhiệm vụ "cứu rỗi phần hồn của chúng sanh". Trong tay Ngài sẵn có
hai món Cổ Pháp là "Long Tu
Phiến" và "Phất Chủ".
Thiết tưởng chúng ta nên bàn qua cái sở dụng của hai món Cổ Pháp ấy cho rõ.
Long Tu Phiến: - Về Pháp
thể thì dùng 36 lông cò trắng kết thành một cây quạt; còn về Pháp linh thì Ðức
Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy như vầy:
"Long Tu Phiến là cây
quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực
có ảnh hưởng đến cuộc tấn hóa của quần linh. Chơn thần nào trong sạch thì nương
theo đó mà siêu nhập Cực Lạc Thế Giới.
Trái lại, chơn thần nào
luyến ái tà mị thì lánh xa mà đi lần đến U Minh cảnh giới. Cả cơ "thu" và "đẩy" của Long Tu Phiến với chơn thần đều do luật "đồng khí tương cầu" mà thành
tựu. Nghĩa là chơn thần đạo đức thì Long
Tu Phiến hấp dẫn đến gần và đưa vào Cực Lạc Thế Giới; còn chơn thần trọng trược
thì Long Tu Phiến đẩy ra xa và lần hồi đi đến cảnh U Minh đen tối."
Phất Chủ: - Phất Chủ là
điển khí của Thất Bửu Diêu Trì kết hợp dùng để trau rửa chơn thần trở nên thanh
khiết.
Ðó là tiểu sử của Ðức Cao
Thượng Phẩm, chúng ta là đoàn em cũng nên noi gương của người anh mà lần bước
trên đường hành Ðạo.
TIẾP PHÁP
Bài Thuyết Ðạo của ông
Hiến Pháp, ngày Mùng 1 tháng 3 Quý Mão (1963): Lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng Phẩm.
BÀI THUYẾT ÐẠO CỦA ÔNG HIẾN PHÁP
Nhơn ngày Vía Ðức Cao
Thượng Phẩm Mùng 1 tháng 3 Quý Mão (1963)
Kính thưa Chức Sắc, Chức
Việc và Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Nhơn ngày Vía Ðức Cao
Thượng Phẩm, tôi xin lược thuật lịch sử của Người như sau nầy:
Toàn thể Ðạo Cao Ðài đều
rõ biết mối Ðạo nầy do nơi nào mà xuất hiện.
Nguyên buổi ban sơ vào năm
Ất Sửu (1925) ông Cao Quỳnh Cư (tức Thượng Phẩm) đang làm một công chức của
Chánh Phủ Pháp thường tới lui chơi với ông Cao Hoài Sang (tức là Thượng Sanh)
và ông Phạm Công Tắc (tức là Hộ Pháp) hai ông sau nầy cũng là công chức. Trong
năm ấy tại thủ đô Sài Gòn, việc xây bàn là sai ma rất thạnh hành.
Ông Cao Quỳnh Cư cũng vì
sự háo kỳ, đề nghị cùng hai ông bạn kia xây bàn mời các vong linh về hỏi việc
và làm thi chơi. Ban đầu các vong linh về làm thi họa vận, làm cho mấy ông
thích chí, vì có nhiều bài thi xuất sắc và cảm kích lạ thường. Lần lần mấy ông
được tiếp xúc với mấy vị cao nhân, rồi đến lượt Ðức Chí Tôn giáng dưới danh
hiệu A.Ă. cố ý dìu độ mấy ông, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư, vì cuộc xây bàn tổ
chức tại nhà ông nầy.
Nhơn dịp lễ Giáng Sinh Ðức
Chúa Giê Su (đêm 24 rạng 25-12-1925), Ðức Chí Tôn đến xưng chánh danh "Ngọc Hoàng Thượng Ðế Viết Cao Ðài Tiên
ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Ðạo Nam Phương" và cho bài thi sau nầy:
"Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên".
Ngài dạy luôn rằng: "Ðêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta
xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe).
Theo lời Ðức Hộ Pháp, Ðức
Cao Thượng Phẩm là chơn linh Hớn Chung Ly, một vị Ðại Tiên trong Bát Tiên, lãnh
sứ mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn Giáo tại thế nầy. Người cùng Ðức Hộ
Pháp hợp thành cặp cơ Phong Thánh lập Pháp Chánh Truyền và Tân Luật để làm Hiến
Chương cho nền Quốc Ðạo.
Chúng ta phải nhìn nhận
đầu công khai Ðạo của Ðức Cao Thượng Phẩm vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của
Người để chấp cơ cùng Ðức Hộ Pháp thì:
Ðâu có Ðại Ðạo Tam
Kỳ Phổ Ðộ.
Ðâu có Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ.
Ðâu có Hội Thánh và các Cơ Quan trong Ðạo.
Ðâu có Pháp Chánh Truyền và Tân Luật.
Ðâu có Ðại nghiệp hiện giờ cho Nhơn sanh thừa
hưởng.
Ðức Cao Thượng Phẩm có
tánh cao thượng và cương quyết, nên khi nhận chơn được mối Ðạo Trời thì Người
nghe theo tiếng gọi Thiêng Liêng, phế đời hành Ðạo liền, mặc dù lúc đó ông đang
là một vị công chức.
Tuy Ðạo khai ngày 14 tháng 10 Bính Dần (1926) mà thực sự Ðức
Cao Thượng Phẩm đã ngộ Ðạo từ năm Ất Sửu (1925) vì các Ðấng đã mượn bàn tay
Người mà mở Ðạo bằng cách xây bàn từ năm ấy.
Ðức Cao Thượng Phẩm về
hành Ðạo tại chùa Gò Kén hơn ba tháng, từ 14-10 Bính Dần (1926) đến 20-2 Ðinh
Mão (23-3-1927) thì dời chùa về đất mới mua tại Tòa Thánh hiện thời.
Lúc mới dời về đây, Chức
Sắc chưa có mấy người thì việc phá rừng dọn đất, tạo tác và kiến trúc Ðền Thánh
tạm cùng các cơ sở khác đều do một tay Ðức Cao Thượng Phẩm chỉ huy xây dựng.
Sau 4 năm tận tụy với Ðạo,
Người bị một cơn khảo đảo rất lớn, làm cho hết sức buồn tủi, nếu không vì Thầy
vì Ðạo, thì có thể trở ra mặt thế mà chớ.
Ðối với người hiểu Ðạo,
thì việc khảo đảo thử thách là việc thường không chi lạ; các vì Giáo Chủ xưa
kia cũng không tránh khỏi sự thử thách. Hễ bị khảo nhiều thì công đức càng cao,
nên ngày nay Ðức Cao Thượng Phẩm được toàn Ðạo kính mến xưng tụng công đức và
được hưởng ân huệ Ðức Chí Tôn rước về Thiêng Liêng vị để đem các chơn hồn vào
cửa Thiên như lời Thánh giáo của Ðức Chí Tôn ngày 7-3 năm Kỷ Tỵ (1929) dạy
rằng:
"Các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh,
thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần Ðạo nơi cõi Thiêng Liêng
cũng phải có đôi đứa con mới đặng cho".
Ðó là bằng chứng cụ thể
cho chúng ta thấy rằng: Nếu chúng ta hết lòng vì Ðạo, thì phần thưởng Thiêng
Liêng không mất, ấy là công bình Thiên Ðạo vậy.
HIẾN PHÁP
Tiểu Sử BÀ CHÁNH PHỐI SƯ HƯƠNG HIẾU
Tôi ký tên dưới đây là Nữ
Chánh Phối Sư Hương Hiếu.
Ngày tháng nhẹ nhàng trôi
qua thắm thoát, tuổi Ðạo ba mươi mấy năm rồi mà tôi mảng lo phục vụ cho nhơn
sanh từ buổi trung niên cho đến nay đầu bạc, chưa có thì giờ nhàn rỗi để soạn
lại những gì tôi đã làm "Tôi" Trời Phật và Hội Thánh Tây Ninh.
Hôm nay tôi nghĩ rằng "Quang âm như thạch hỏa xá thế vô bá
tuế nhơn". Vì thế mà tôi viết quyển sách nầy để nhắc lại kể từ ngày
được may duyên sớm gặp nền Ðại Ðạo cho đến ngày nay tôi bảy mươi ba tuổi, đặng
hầu lưu lại trong lúc tôi qui vị cho khỏi mất công quý vị tìm kiếm công quả
những ngày tôi hành Ðạo tại thế.
Tôi là con của ông Nguyễn
Văn Niệm và bà Trần Thị Huệ. Cha mẹ tôi đã khuất hết rồi.
Ngày sanh tôi: Năm Ðinh Hợi, Date de naissance
1886 (Lieu de Naissance: Rue Paulbert Dakao Saigon).
Khi tôi mới khai sanh, Bà Nội tôi muốn tỏ dấu
một nhà đạo đức, nên cha tôi là Nguyễn Văn Niệm, thì Bà Nội tôi đặt tên tôi là
Nguyễn Thị Hương, còn Bà Ngoại tôi thì đặt
cho tôi là Nguyễn Thị Hiếu.
Cha tôi muốn vừa lòng cả nội ngoại đôi bên, nên
khi ở bên nội thì gọi tôi tên Hương mà khi về bên ngoại thì gọi tôi tên Hiếu.
Thân sinh quê quán tại tỉnh Cần Thơ. Thân mẫu ở miền
Gia Ðịnh.
Thuở tôi vừa nên 7 tuổi,
thân mẫu tôi cho tôi vào học trường Bà Phước (Nhà Trắng) Sàigòn, đến 17 tuổi
cho học nữ công, qua năm 21 tuổi sánh duyên cùng ông Cao Quỳnh Cư ở làng Hiệp
Ninh (Tây Ninh), năm 23 tuổi tôi sanh được một trai tên là Cao Quỳnh An.
Ðến năm 38 tuổi, gặp thời
kỳ Chí Tôn đến khai nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Một sự ngẫu nhiên của cơ
huyền bí mà trước kia ba ông Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh có tính cách Xây
Bàn cầu vong để làm thi tiêu khiển, đâu có ngờ là thời kỳ Ðức Chí Tôn khai cơ
mở Ðạo (Xin xem qua Ðạo Mạch Truy Nguyên *1). Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà tôi
trước, đầu tiên ở đường Bourdais số nhà 134 Sàigòn.
Năm 1925 khai Ðạo chưa có
Thánh Thất, nên các Ðấng Thiêng Liêng dạy tạm dùng nhà tôi để thờ Ðức Chí Tôn
và Phật Mẫu đặng có nơi cầu cơ dạy Ðạo và dìu dắt nhơn sanh trong buổi đầu tiên
là năm 1925. Ðến năm 1926, mới mở Ðạo lần tới Tân Kiệm, Tân Ðịnh, Lộc Giang,
Thủ Ðức.
Trong buổi chưa có Ngọc Cơ
còn xây bàn, các Ðấng giáng dạy Ðạo cho Ðức Hộ Pháp, Ðức Cao Thượng Phẩm và Ðức
Thượng Sanh thì bàn gõ từ chữ, Ðức Thượng Phẩm hô chữ nào thì tôi chép chữ nấy
rồi mới ghép lại cho thành văn.
Vì thế mà lúc còn xây bàn,
các Ðấng giáng cho một bài thi Bát cú hay Tứ cú hoặc dạy việc gì, khi chép xong
rồi mới ráp lại một bài thật là lâu lắm, mà mỗi đêm mỗi cầu, buổi ấy tôi làm
Biên Tập Viên (Thơ Ký) cho các Ðấng.
Thi văn của các Ðấng dạy
Ðạo, có nhiều câu văn rất cao kỳ và mầu nhiệm (xin xem đoạn trước, Tiểu Sử Xây
Bàn, thì sẽ rõ).
Vì thế mà ba ông mê thi
văn của các Ðấng nên đêm nào cũng thức để cầu cơ học hỏi cho đến khuya trong
bảy tháng trường như vậy ai cũng ốm gầy xanh xao hết mà không đêm nào buồn chán
(sơ lược khoản nầy để xem tiểu sử Ðức Cao Thượng Phẩm thì rõ).
Bổn phận tôi ban đêm làm
Thơ Ký chép Thánh giáo học hỏi, còn ban ngày thì lo yến tiệc tiếp đãi quí khách
thượng lưu, trung lưu, hạ lưu, thiên hạ rộn rịp tới lui tìm Ðạo, ngày nào chẳng
nhiều thì ít, khách gần khách xa lui tới liền liền trong năm 1925.
Trong hai năm 1925, 1926
chưa có người để chép Thánh giáo, nên tôi được vừa làm Thơ Ký cho các Ðấng và
tiếp đón nhơn sanh, từ tháng 6 năm Ất Sửu (1925) đến năm Bính Dần (1926); lúc
sau dời về chùa Gò Kén mới có người chép phụ với tôi (mà cũng là phần ít).
Hồi chưa có Tòa Thánh, còn
trong buổi phôi thai, mỗi khi khai đàn thượng tượng (thờ Thầy), riêng về phần
tôi theo chép Thánh giáo đem về cho Ðức Cao Thượng Phẩm chấm câu, còn chủ nhà
chép riêng theo phần của chủ nhà (khai Ðạo tại Sàigòn). Xin quí vị xem kỹ lại,
có Thánh giáo Thầy kêu tôi: "Hiếu,
viết rõ con" (Quý ông Hiệp Thiên Ðài đều biết rõ hết).
Lúc nầy nhà tôi còn ở
Sàigòn, Ðức Chí Tôn mở Ðạo trước tại Sàigòn bảo Ðức Thượng Phẩm vẽ Thiên Nhãn
(Thánh Tượng nhỏ còn đó), còn tôi thì lo mua khuôn kiếng đặng lộng Thiên Nhãn
cho chư vị mới nhập môn, tôi cho thỉnh không khỏi trả tiền và tôi còn phải dạy
thờ cúng và dạy đọc kinh. Tôi giảng giải sơ lược chớ còn nhiều chi tiết khác.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
những hàng trí thức cùng người mộ Ðạo tìm đến nhập môn khá đông thì tôi lại phải
để hết lòng lo tiếp đãi và chỉ dẫn trong lẽ Ðạo, thời gian ấy tôi quên cả gia
đình và sản nghiệp, chỉ vui say theo đường Ðạo mà các Ðấng thường giáng đến dạy
dỗ khuyên lơn.
Ðến tháng 3 năm Bính Dần
(1926) Chí Tôn giáng cơ dạy tôi may Thiên phục cho ông Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt
trước hết, kế may Thiên phục cho Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài. Thông qui kể
ra sau đây:
Thiên phục Cửu Trùng Ðài:
Ông Ðầu Sư Thượng Trung
Nhựt: 1 áo Ðại Phục xanh và 1 cái
khăn chín lớp.
Ông Ðầu Sư Ngọc Lịch
Nguyệt: 1 áo Ðại Phục đỏ, 1 khăn chín lớp
đỏ.
Ông Thái Chánh Phối Sư
Thái Thơ Thanh: 1 áo Ðại Phục
vàng và 1 khăn chín lớp vàng.
Ông Chánh Phối Sư Thượng
Tương Thanh: 1 áo Ðại Phục xanh và
1 khăn xanh chín lớp.
Ông Chánh Phối Sư Ngọc
Trang Thanh: 1 áo Ðại Phục đỏ và 1 khăn đỏ
chín lớp.
Ông Phủ Ngô Minh Chiêu:
(1) 1 áo Giáo Tông có thêu chữ bùa Bát
Quái và 1 cái mão Giáo Tông.
Ông Phủ Vương Quang Kỳ
Giáo Sư: 1 áo Ðại Phục xanh và 1 cái khăn bảy lớp.
Thiên phục Hiệp Thiên Ðài:
Ðức Cao Thượng Phẩm: 1
cái áo Ðại Phục trắng, 1 cái áo lá xanh.
Ðức Thượng Sanh: 1 cái áo Ðại Phục trắng, 1 cái áo lá
xanh.
Quí vị Thập Nhị Thời Quân: 12
cái áo Ðại Phục trắng, 12 cái mão Nhựt Nguyệt Mạo.
(1) Ông Ngô Minh Chiêu đáng lẽ
phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày lập Ðàn Thiên Phong ông
Chiêu đến thấy đông người ông sợ bỏ ra về, vì vậy mà ông không được phong Giáo
Tông, và về sau mất hẳn phẩm.
Thầy phong 4 vị Lễ Sanh:
Anh Chín Giảng, anh Phán Giỏi, anh Ðốc Bản, anh Ký Tường.
Bốn anh trên đây sau thăng
Giáo Hữu, tôi may bốn bộ sắc phục Lễ Sanh, bốn bộ sắc phục Giáo Hữu (áo mão).
Tôi may ba bộ Thiên phục
hồng y cho ba ông Vân, Mùi, Ðạt.
Tôi may Thiên phục áo mão
kể trên đây là hồi tôi và cả Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài còn ở
Sàigòn.
Trong lúc tôi đang may, tôi
lại nhớ như ai nhắc tôi, nhớ lời Thầy giáng cơ gọi tôi: "Hiếu con lo may
Thiên phục cho mấy anh con cho kịp ngày Ðại Hội". Ðại Hội là ngày Khai Ðạo
tại chùa Gò Kén.
Ðang lúc may dường như có
Thiêng Liêng khiến cho tôi nhớ lại chùa Gò Kén là chùa Phật lạ lùng, mà thuở
giờ mình chưa quen biết với những Ni cô ở chùa mà cậy mượn sắp đặt việc trù
phòng để lo việc nấu ăn, nấu uống cho Chức Sắc và Thiện tín 20 tỉnh tựu đến hầu
Ðàn, nếu không lo trước chừng đó biết cậy mượn ai, vừa may vừa đang lo tính thì
Chí Tôn bố trí cho tôi sáng suốt lật đật viết thơ về Tây Ninh, cậy mượn bà con
tôi như chị Ðại Hương Cả Trịnh Thị Thị, chị Trịnh Thị Cung, chị Trịnh Thị Dung.
Tôi cho em dâu tôi là vợ Huyện Thiệt thay mặt dùm tôi mang bức thơ về Tây Ninh
cho 3 chị của tôi. Trong thơ tôi sở cậy ba chị tôi sắp đặt việc trù phòng, nào
đắp lò, nào đào giếng, đương nia, sịa, rổ, tràng, chuốt đũa...v.v... và dặn em
dâu tôi ở luôn trên ấy để chung lo với ba chị tôi.
Thiết tưởng ngày khai nền
Chơn Ðạo là ngày hạnh phúc cho tất cả Vạn linh nên cử sát sanh để cầu phước, vì
vậy ba chị tôi ra chùa Gò Kén truyền cho ai nấy cất quán lều mua bán thì ròng
đồ chay, chớ không nên bán mặn, nhờ tôi tính như vậy mà được kết quả. Ðến ngày
Khai Ðạo 14 tháng 10 Bính Dần, Chức Sắc và Tín Ðồ trong 20 tỉnh về hầu Ðàn và
ngoài đời thiên hạ đi coi tấp nập đều dùng đồ chay tất cả, vì từ chùa Gò Kén ra
chợ Tây Ninh xa 7 cây số ngàn, thì thế nào còn muốn ăn mặn được. (Các khoản nầy
là nhắc lại buổi ban sơ trong sổ nhựt ký của tôi, còn dài dòng không thể tả hết
ra đây cho được, sau sẽ tiếp theo với Thánh giáo buổi sơ khai cho trọn tích).
Ngày khai Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ tại Tây Ninh kể dưới đây:
Ngày 14 tháng 10 Bính Dần
(18-11-1926), cả thảy Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài đều về chùa Gò
Kén thì tôi cũng theo về một lượt để làm công quả. Phần tôi dầu ở Sài Gòn hay
về chùa Gò Kén thì luôn luôn có bổn phận lo tiếp đãi Chức Sắc và Quan khách
ngoài đời, vì lúc sơ khai không có công quả trù phòng nên tôi phải lo đi chợ
nấu ăn và cô Sáu Vàng (Giáo Hữu) chung lo việc bếp núc với tôi.
Việc tiếp đãi trong Ðạo,
ngoài đời trong thời buổi ấy không phải giờ khắc, nấu đãi liền liền, khách đến
giờ nào đãi giờ nấy, vì kẻ xa người gần, hết tốp nầy đến tốp khác, buổi Khai
Ðạo tại chùa Gò Kén thật là một kỳ Ðại Hội. Ban đêm hễ cúng thời Tý rồi thì cầu
cơ nhập môn kéo dài đến hai ba giờ sáng thì phải lo nấu đãi một chập giải lao
nữa. Như vậy trong ba tháng trường ngày lẫn đêm, tôi phải thường trực lo nấu ăn
đi chợ và tiếp đãi không sót ngày nào. Hơn nữa, lối 5 giờ chiều tôi lo viết sớ
cho Nữ phái nhập môn, lại dạy cách lấy dấu và quì lạy đặng lo cho họ thành
thuộc đến giờ Tý thì tôi tiến dẫn vào nhập môn và hầu Ðức Lý Giáo Tông. Buổi
Khai Ðạo chưa có Ðồng Nhi, nên tôi phải làm Ðồng Nhi đọc kinh cúng Tứ Thời và
đọc kinh cầu cơ đêm nào như đêm nấy suốt cả ba tháng trường.
Thời buổi ấy đâu cũng gom
về chùa Gò Kén để nhập môn. Phái Nữ thì tôi tiến dẫn, đêm thì 90 vị, đêm thì
150 vị, thật là con cái Chí Tôn qui về tấp nập. Bởi phận sự tôi công việc bộn
bàng, khi thì đi chợ, khi viết sớ, khi may Thiên phục cho mấy ông mới thọ
phong.
Thông qui may Thiên phục
kỳ nhì kể sau đây:
Giáo Sư Thượng Liên Thanh
(Cả Liên, Tây Ninh).
Giáo Hữu Ðó.
Giáo Hữu Gồng (Thổ, cựu Mẹ
Sóc)
Giáo Hữu Tàu.
GH. Trịnh Văn Kỳ.
GH. Trí.
GH. Ðại.
GH. Mai.
GH. Ðức.
GH. Áo.
GH. Thái Phước Thanh (tự
là Bửu Phước).
Áo Ðàn Thổ và áo Bàn Trị
Sự.
Ðây là tôi may Thiên phục
cho Chức Sắc Thiên Phong tại chùa Gò Kén.
Qua đến ngày 14 tháng 01 Ðinh Mão (15-02-1927), tôi thọ Thiên Ân
Giáo Sư Nữ phái do cơ Phong Thánh kỳ nhứt, Ðức Hộ Pháp và Ðức Thượng Phẩm phò
loan. Hồ sơ nầy hiện giờ còn tại Lại Viện Nữ Phái.
Ðến ngày 20-02 Ðinh Mão (23-03-1927), Hội Thánh trả
chùa Gò Kén lại cho ông Hòa Thượng Giác Hải, thỉnh cốt chư Phật và cốt Ðức Phật
Thích Ca cỡi ngựa về đất mới mua là nơi Ðền Thờ và dinh thự đồ sộ, nguy nga nơi
vùng Tòa Thánh ngày nay mà thiên hạ ngoài đời thời buổi ấy gọi là Chùa Mới là
vậy đó.
Sau đây xin lược giải về
vụ thỉnh cốt Phật về chỗ đất mới mua để cho Thiện nam Tín nữ được rõ mối Ðạo
Trời trong buổi sơ khai là dường nào.
Từ 6 giờ chiều ngày 13-02 Ðinh Mão (nhằm
16-03-1927) khởi hành thỉnh cốt Phật cho đến 2 giờ khuya mới tới chỗ đất mới mua, vì
thỉnh ban ngày sợ nắng gắt e đi không nổi, cho nên phải đợi mặt ông sắp lặn, đi
cho mát mẻ.
Khi thỉnh Phật, cả Chức
Sắc và công quả buổi ấy, phần nhiều là người Miên đều mệt đuối vì phần đường
xa, cốt Phật thì lớn nên rất nặng nề, phần đói và khát nước. Ði dọc đường nhờ
có đạo hữu gánh nước theo từ chặng đường, nhưng uống cũng không đủ, nên khi rán
sức di tượng Phật về đến nơi rồi thì ai nấy đều nhào vô đám lá cây khô trong
rừng nằm thở dốc.
Còn phần Ðức Cao Thượng
Phẩm thì phải chăm nom, lúc thỉnh cốt Phật Như Lai, vì Ðức Lý Giáo Tông có
giáng cơ dặn rằng khi thỉnh cốt Phật Tổ cỡi ngựa thì phải cẩn thận đừng cho gãy
sứt để cầu Ðức Lý đưa Thần ra một đổi. Lúc thỉnh cốt Phật Tổ, vì quá nặng, nên
phải nối hai chiếc xe mới chở nổi. Ðức Thượng Phẩm phải đứng trên xe coi chừng,
nếu nghiêng bên nào thì hô lớn lên cho họ biết mà làm cẩn thận. Như vậy từ 6
giờ chiều đến 2 giờ khuya thì Ðức Cao Thượng Phẩm cũng mệt người nên khi đến
nơi thì cũng nhào xuống đống lá cây khô nằm nghỉ (trước cửa Hòa Viện).
Chỗ đất mới mua đây là đất
của ông Kiểm Lâm người Pháp. Hội Thánh mua lại, trước kia là một khu rừng rậm,
cây cối um tùm, chưa có nhà ai cho lắm, chỉ có một hai cái nhà ở rải rác ngoài
bìa rừng, mà ngày nay thành vùng Thánh Ðịa Tòa Thánh nguy nga, dinh thự lộng
lẫy, nhà cửa kinh dinh thịnh vượng. Cái công trình kiến thiết buổi ban sơ không
phải là dễ.
Nói về vấn đề phá rừng
(thành Thánh Ðịa), buổi ban sơ dọn về đất mới, Ðức Hộ Pháp và Ðức Cao Thượng
Phẩm tính phá rừng mà không có nhà ở, nên phải tạm sửa cái nhà bò của chủ bán
đất còn để lại, rửa cho sạch sẽ, phân làm ba ngăn, nghĩa là ngăn ra cho có thứ
tự, chỗ thì để cho công quả ở nghỉ (công quả người Miên), chỗ làm kho chứa đồ
dụng cụ để phá rừng như là: máy đánh gốc, nào cuốc, nào xuổng, xà cốc, lòi
tói... Còn một chỗ thì làm kho trữ gạo và thực phẩm, một bên thì hai ông ở tạm,
rồi hai ông mượn công quả đi đốn cây nạn (YYY) đặng làm cái chõng để nằm, đi
đốn cây săn con làm vạc, trên thì lót bố tời đặng nằm cho êm lưng đỡ vậy thôi.
Ngày nào hai ông cũng dẫn dắt công quả (Thổ) đi chặt chỗ nầy đốn chỗ kia để phá
cho trống đặng cất Tòa Thánh tạm, lần lần phá đến đâu thì cất đến đó đặng an vị
chư Phật và có chỗ nơi cho nhơn sanh sùng bái.
Nhớ lại cách hơn 30 năm về
trước, vùng Thánh Ðịa là một chốn rừng thiêng nước độc, là nơi sào huyệt của lũ
ác thú. Theo con đường quốc lộ, hành khách ít ai qua lại, bóng ác chưa khuất
non đoài thì loài hổ báo đã thị oai gầm thét. Chẳng bao lâu mà ngày nay, một
Tòa Thánh Tổ Ðình sừng sựng chọc trời, nguy nga đồ sộ nơi miền Ðông Nam Á. Có
phải chăng, nếu chẳng có giọt hồng ân của Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng
chan rưới hộ trì, và hai ông Ðức Hộ Pháp, Ðức Thượng Phẩm vì sứ mạng Thiêng
Liêng tận tâm phục vụ thì chưa biết ngày nào mà được một cảnh Cực Lạc như ngày
hôm nay.
Phần của tôi trong lúc tạo
tác, thì phải lo lắng nấu ăn cho công quả phá rừng có cả ba trăm người Thổ. Mọi
việc khởi đầu nan, hễ thiếu tới đâu thì tôi lo tới đó. Vì chưa lập Cửu Viện để
sắp đặt việc ăn uống cho công quả hằng ngày, buổi đó chưa có Trai Ðường, nên hễ
phá rừng đến đâu thì tới bữa cơm dọn ăn phải gánh đồ theo đấy, lựa chỗ nào có
bóng cây thì trải đệm dọn cơm. Ăn xong thì dọn chén bát đem về trù phòng là nơi
nhà bò mà rửa ráy, buổi mơi, buổi chiều luôn luôn như vậy.
Thưa quý ông, quý bà thứ
lỗi, đoạn đầu tôi nói về tiểu sử của tôi, sau đây sao lại nói qua những đoạn
nầy chẳng là trái hẳn với thiên tiểu sử, xin quý ông, quý bà cảm phiền, bởi vì
Ðức Chí Tôn lập Ðạo kỳ ba là vĩnh viễn trường tồn, nên tôi phải ghi rõ lại,
chẳng những công quả của tôi, mà cũng ghi lại sự nghiệp to tát của Chức Sắc và
công quả của người Thổ lẫn người Việt buổi đầu tiên thật là gay go khổ hạnh, để
cho đoàn hậu tấn noi chí hướng đàn anh mà nối bước, hầu thọ khổ mới mong giải
khổ của kiếp con người tại thế gian nầy.
Xin nói tiếp về cái nhà
bò, sau khi hư dỡ ra, kế nhơn sanh về lập chợ kêu là chợ Từ Bi, lần hồi thay
đổi, hiện giờ là quán xá, tiệm chạp phô, tiệm thuốc bắc, khít bên hông nhà Ðức
Quyền Giáo Tông, nay là phủ thờ của nhà họ Lê.
Khi cất Tòa Thánh tạm xong
rồi, Chức Sắc tựu về đông đảo, kế tiếp cất Hậu Ðiện, Ðông Lang, Tây Lang, Phòng
Trù và nhà Tiếp Khách Nam Nữ, lại cất Học Ðường và nhà Dưỡng Lão. Thời buổi ấy
người Thổ họ đồn với nhau rằng: Tại Tòa Thánh có thờ ông Phật của họ (tức là
Phật Tổ) nên họ kéo đến nhập môn mỗi ngày lu bù. Khi họ đến ban ngày thì dọn ăn
ban ngày, đến ban đêm thì dọn ăn ban đêm, tôi và công quả phải thức lo thiết
đãi (ấy là bổn phận của Chưởng Quản Trù phòng).
Sau tôi biết ý họ xuống
không chừng đổi, vì họ ở vùng Sway Riêng hoặc ở Khét Sà Tiệp, nơi nầy chỗ kia
miệt trên Nam Vang kéo xuống, nên bữa nào chiều tối, tôi cũng dự phòng hai chảo
cơm và đồ ăn, nghĩ vì họ ở xa xuôi đi tìm Ðạo, đường xa ngàn dặm đi suốt cả
ngày họ chịu đói khát, cho nên dầu tôi cực khổ thế nào cũng phải thức để lo
tiếp đãi họ, cho họ được vui lòng.
Nhưng sự thật, nhờ các
Ðấng vận chuyển cho công việc chóng thành, nên nhờ công quả Thổ buổi đầu họ
xuống phá rừng. Thổ nam thì đốn cây đánh gốc; Thổ nữ thì chặt nhánh kéo chà gom
lại đốt cho trống mà cất Tòa Thánh tạm. Ðức Thượng Phẩm dắt công quả đốn cây,
hễ hạ cây nào ngã xuống thì người cầm thước đo liền, cây thì làm cột, cây thì
làm xiêng, trính, kèo... cho thợ mộc đem về, tốp cưa, tốp đẻo đặng lo tạo tác
mấy gian nhà nói trên.
Còn tôi thì lo chỉ dẫn cho
công quả trù phòng và lo đi chợ mua thực phẩm. Tôi nhớ lại mỗi buổi sáng tôi đi
chợ Tây Ninh với chiếc xe ngựa đặng mua đồ ăn. Ðường sá vắng bóng người, hai vệ
đường cây che rậm rạp, heo rừng và nai lững thững đi kiếm ăn, thấy xe ngựa chạy
ngang chúng tuông vào đám rừng chồi sột sạt làm tôi cũng giựt mình. Một hôm tôi
đi đến Trảng Tròn thấy thây một con ngựa bị cọp ăn mất nửa con, còn lại nửa con
nằm kế mé lộ đá làm cho tôi cũng phải rùng mình. May phước quá! Nếu cọp đón bắt
con ngựa xe của tôi thì còn đâu mà đi chợ hằng ngày để mua đồ ăn cho công quả.
Bữa sau tôi nghe người ta nói lại, chiều bữa ấy có người lập kế trèo lên cây
rình cọp, chờ khi nó ra ăn nửa con ngựa còn lại họ rình bắn được cọp rồi. Nhưng
đâu phải trong rừng chỉ có một con cọp mà thôi sao. Biết đâu cả bầy hổ báo làm
sao mà không sợ, nhưng vì quá lo cho Ðạo mà bớt sợ sự hiểm nghèo, nên mỗi buổi
sáng đều đi xe ngựa ra chợ Tây Ninh.
Còn Ðức Thượng Phẩm, lớp
thì hòa tâm với Chức Sắc lo tạo tác Tòa Thánh, lớp thì bị nhà cầm quyền Pháp để
ý nghi ngờ, vì nhơn sanh càng ngày càng tựu hội về tấp nập (đông đảo quá), nên
ông Chánh Tham Biện (người Pháp) nay đòi Ðức Cao Thượng Phẩm ra hỏi, mai đòi
tra vấn điều nầy lẽ nọ đủ điều, nhưng Ðức Cao Thượng Phẩm trả lời xuôi hết,
thành thử họ phải để êm.
Khi tạo tác vừa xong, bỗng
đâu bão tố bất ngờ, năm Mậu Thìn (1928), Ðức Cao Thượng Phẩm bị nhơn sanh bạc
đãi, xô đuổi chúng tôi trở về Thảo Xá Hiền Cung. Trò đời gẫm lại buồn cười,
nhưng xét lại xưa nay bực chí Thánh cũng không khỏi tuồng đời khinh bạc. Ðến
năm Kỷ Tỵ (1929), Ðức Cao Thượng Phẩm qui vị vào lúc 10 giờ 30 ban mai ngày
mồng 1 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929). Tôi lo tuần tự cho Người xong xuôi rồi tôi cũng
trở về Tòa Thánh tiếp tục làm công quả nữa.
Năm Canh Ngũ (1930), tôi vâng lịnh Ðức Lý Giáo
Tông bắt thăm đi hành Ðạo, giữa Bửu Ðiện, tôi bắt nhằm thăm tỉnh Sa Ðéc, sau
tôi được lịnh Hội Thánh cho tôi kiêm luôn tỉnh Thủ Dầu Một. Hành Ðạo hai tỉnh
được 4 năm, từ năm 1930 đến năm 1933, qua năm 1934, tôi được dạy Giáo Nhi 1
năm.
Ðến năm Ất Hợi (1935), tôi được thăng phẩm Phối
Sư khỏi đi hành Ðạo địa phương, chỉ hành Ðạo tại Tòa Thánh và chung lo với Chức
Sắc Nữ phái đủ phương diện, nào là yến tiệc, tiếp tân, nào là dạy may Thiên
phục cho Chức Sắc Nam Nữ tại Linh Ðức. Công quả đến năm 1941, nền Ðạo chinh
nghiêng bị nhà cầm quyền Pháp bắt Chức Sắc Thiên Phong đày ra hải ngoại, chiếm
lấy Tòa Thánh đóng binh, nên lúc ấy phần nhiều Chức Sắc tản lạc hết còn tôi thì
về Thảo Xá Hiền Cung năm 1942, sau kế xuống Sài Gòn hiệp tác với hảng Tàu để
chung lo với Chức Sắc Nam Nữ về mặt Ðạo.
Năm 1946 nền Ðạo phục
hưng, Chức Sắc Nam Nữ tựu về Tòa Thánh. Hội Thánh phân cắt Cửu Viện cho ba
Chánh Phối Sư Nam, phần tôi được sắc huấn như dưới đây:
Sắc Huấn ngày 21 tháng 09 năm Bính Tuất
(15-10-1946) - Lãnh Chưởng Quản 3 Viện: Lại Viện, Lễ Viện, Hòa Viện Nữ phái (còn phẩm
Phối Sư).


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét