Ðạo Sử Xây Bàn - 5 / 16 (Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)


LỜI TỰA.
Với bằng chứng minh bạch, có nhiều vị hỏi tôi muốn xem Thánh giáo của Ðức Chí Tôn đến khai Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ mà không biết tìm ở đâu có?

Tôi trả lời theo câu hỏi nầy: Trọn bộ Thánh giáo Thầy đến khai Ðạo hồi năm 1926, 1927, 1928, 1929 khi Ðức Thượng Phẩm qui Thiên 1929
thì tôi chuyển dâng lên Ðức Hộ Pháp tất cả bổn chánh là 15 tập 100 pages, tôi chỉ còn bổn thảo mà thôi, nhưng mấy năm về trước, thuyền Ðạo không an lái nên bị mối ăn lạc mất rất nhiều, hiện nay tôi chỉ còn lưu giữ lại một phần ít.

Mặc dầu còn ít, tôi nghĩ vì cơ truyền Ðạo do nơi Thánh giáo để Chức Sắc có tài liệu đặng khi hành Ðạo đem phổ thông chơn đạo của Thầy cho đời thấy cơ huyền diệu của Chí Tôn, Phật Mẫu cùng các Ðấng Thiêng Liêng đến mở Ðạo kỳ ba nầy.

Hôm nay tuổi tôi đã quá thất tuần, tôi vẫn còn tinh thần đầy đủ sức khoẻ, trước giờ tôi từ giã cõi trần, nên tôi tìm được tài liệu là Thánh giáo của các Ðấng Thiêng Liêng để lập thành tập Thánh giáo nầy, kính hiến cho quý Chức Sắc để làm kỷ niệm của báu Thiêng Liêng hầu hiểu biết lịch sử của các Ðấng đã dày công đến mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Á Ðông nầy.

Trước khi dứt hơi thở cuối cùng của tôi, tôi xin góp chút công quả hiến tập Thánh giáo nầy cho Ðạo để làm kỷ niệm.
Trân trọng kính hiến,
Ngày 15 tháng 10 năm Ðinh Dậu.
Nữ Chánh Phối Sư
(Ấn ký)
HƯƠNG HIẾU

KHAI ÐẠO NƠI CHÁNH PHỦ

Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1926), ông Cựu Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung vâng Thánh ý hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ.

Tờ Khai Ðạo đến ngày Mùng một tháng chín (07-10-1926) mới gởi lên Chánh Phủ cho quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ nầy có 28 người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.

Tờ Khai ấy làm bằng chữ Lang Sa, phiên dịch ra như vầy:
Sài Gòn, Le 7 Octobre 1926.
Kính cùng Quan Thống Ðốc Nam Kỳ Sài Gòn,
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho Quan lớn rõ:

Vốn từ trước, tại cõi Ðông Pháp có ba nền Tôn Giáo lớn là: Thích Giáo, Lão Giáo, và Khổng Giáo, Tiên Nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Ðạo ấy, lại nhờ do theo Tôn chỉ quý báu của các Chưởng Giáo truyền lại mới được an cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "Gia vô bế hộ, lộ bất thập di", chỉ nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đổi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.

Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy duyên cớ sau nầy:
Những người hành Ðạo đều phân chia ra nhiều Ðạo, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ Tôn chỉ của Tam Giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Ðấng Tạo Hóa.

Lại canh cải mối chánh truyền của các Ðạo ấy, làm cho thất chơn truyền.

Những dư luận phản đối nhau về Tôn Giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bả vinh hoa và lòng tham lam của nhân loại mà ra, nên chi người An Nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.

Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An Nam, vì căn bổn, vì Tôn Giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam Giáo lại làm một (Quy nguyên phục nhứt) gọi là Ðạo Cao Ðài hay là Ðại Ðạo.

May mắn cho chúng sanh, Thiên tùng Nhơn nguyện, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế hằng giáng Ðàn dạy Ðạo và hiệp Tam Giáo lập Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại cõi Nam nầy.

Tam Kỳ Phổ Ðộ nghĩa là Ðại Ân Xá lần thứ ba, những lời nói của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy chúng tôi đều cốt để truyền bá Tôn chỉ Tam Giáo.

Ðạo Cao Ðài dạy cho biết:
Luân lý cao thượng của Ðức Khổng Phu Tử.

Ðạo đức của Phật Giáo và Tiên Giáo là làm lành lánh dữ, thương yêu nhân loại, cư xử thuận hòa mà lánh cuộc loạn ly giặc giã.

Chúng tôi gởi theo đây cho quan lớn nghiệm xét:
Một bản sao lục Thánh ngôn của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.
Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại được cộng hưởng cuộc hòa bình như buổi trước. Ðược như vậy, chúng sanh sẽ thấy đặng thời kỳ mới mẻ cực kỳ hạnh phúc không thế nào tả ra đặng.

Chúng tôi thay mặt cho nhiều người An Nam, mà đã nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Ðạo Tịch ghim theo đây, đến khai cho quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Ðại Ðạo khắp cả hoàn cầu.
Chúng tôi xin quan lớn công nhận Tờ Khai Ðạo của chúng tôi.

Ký tên:
- Mme Lâm Ngọc Thanh:           Nghiệp chủ ở Vũng Liêm.
- M. Lê Văn Trung:                    Cựu Thượng Nghị Viện, thưởng thọ Ngũ Ðẳng Bửu Tinh (Chợ Lớn).
- Lê Văn Lịch:                Thầy tu - làng Long An (Chợ Lớn).
- Trần Ðạo Quang:                     Thầy tu - làng Hạnh Thông Tây (Gia Ðịnh).
- Nguyễn Ngọc Tương:   Tri phủ - chủ quận Cần Giuộc.
- Nguyễn Ngọc Thơ:                   Nghiệp chủ - Sài Gòn.
- Lê Bá Trang:                Ðốc Phủ Sứ - Chợ Lớn.
- Vương Quan Kỳ:                     Tri Phủ sở Thuế Thân - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Kinh:                    Thầy tu - Bình Lý Thôn, Gia Ðịnh.
- Ngô Tường Vân:                      Thông Phán - Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Ðạt:                     Nghiệp chủ - Sài Gòn.
- Ngô Văn Kim:              Ðiền chủ - Ðại Hương Cả, Cần Giuộc.
- Ðoàn Văn Bản:             Ðốc Học trường Cầu Kho.
- Lê Văn Giảng:              Thơ toán hảng Ippolito - Sài Gòn.
- Huỳnh Văn Giỏi:                       Thông Phán sở Tân Ðáo - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Tường:     Thông Ngôn sở Tuần Cảnh - Sài Gòn.
- Cao Quỳnh Cư:                       Thư ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- Phạm Công Tắc:                      Thư ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- Cao Hoài Sang:                        Thư ký Sở Thương Chánh - Sài Gòn.
- Nguyễn Trung Hậu:                  Ðốc Học Trường Tư Thục Ða Kao.
- Trương Hữu Ðức:                    Thư ký Sở Hỏa Xa - Sài Gòn.
- Huỳnh Trung Tuất:                    Nghiệp chủ Chợ Ðuổi - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Chức:                  Cai Tổng - Chợ Lớn.
- Lại Văn Hành:              Hương Cả - Chợ Lớn.
- Nguyễn Văn Trò:                     Giáo Viên - Sài Gòn.
- Nguyễn Văn Hương:    Giáo Viên - Ða Kao.
- Võ Văn Kỉnh:               Giáo Tập - Cần Giuộc.
- Phạm Văn Tỷ:              Giáo Tập - Cần Giuộc.

Phụ ghi: Tài liệu nầy có trong quyển Tiểu Sử Ðức QUYỀN GIÁO TÔNG

PHỔ ÐỘ LỤC TỈNH

Khai Ðạo xong rồi, việc phổ độ Lục Tỉnh, kể từ tháng 9 năm Bính Dần chia ra như vầy:
Mấy ông Lê Văn Trung, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Ðạo Quang, lo phổ độ trong mấy tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá. Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc phò loan.

Mấy ông Lê Văn Lịch, Nguyễn Ngọc Tương, Yết Ma Luật lo phổ độ trong mấy hạt: Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre. Ông Nguyễn Trung Hậu và ông Trương Hữu Ðức phò loan.

Mấy ông Lê Bá Trang, Vương Quan Kỳ, Yết Ma Nhung lo phổ độ trong mấy hạt: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Bà Rịa, Sa Ðéc. Ông Cao Quỳnh Diêu và ông Cao Hoài Sang phò loan.

Ông Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Văn Kinh là người rõ thông đạo lý, lại đi khắp nơi giảng Ðạo để độ rỗi người quen.

Kết quả cuộc phổ thông nầy rất nên long trọng, chỉ có một tháng mấy mà kể ra có mấy vạn người nhập môn cầu Ðạo.

Mùng 10 tháng 10 là ngày tạm ngưng việc phổ độ, để lo sắp đặt lễ Khánh Thành Thánh Thất ở Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh).

Sự tích cảnh Chùa Từ Lâm Gò Kén.
Cảnh chùa nầy vốn của Hòa Thượng Như Nhãn, ở chùa Giác Hải (Chợ Gạo) quyên tiền trong Bổn Ðạo của ông mà lập ra.

Tháng 7 năm Bính Dần (Aout 1926), ông tình nguyện dâng chùa ấy cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ để làm Thánh Thất. Khi ấy chùa cất mới vừa xong, nhưng chưa sơn phết, chưa tráng xi măng và chung quanh chùa vẫn còn bụi cây sầm uất.

Ông Nguyễn Ngọc Thơ phải ra tiền lo việc ấy cho hoàn tất, lại còn dựng cốt Phật Thích Ca và khai thác các việc khác như là: Ðốn cây, trồng kiển, đắp đường cho xe hơi vô tận chùa và cất Tịnh Thất...

Ngày khai Thánh Thất
Ðêm 14 rạng mặt Rằm tháng 10 năm Bính Dần (18 Novembre 1926) là đêm làm Lễ Khánh Thành Thánh Thất Từ Lâm Tự.

Ông Lê Văn Trung thay mặt cho Bổn Ðạo mời đủ các Chức Sắc, Viên quan Lang Sa và An Nam đến dự lễ ấy. Chư Bổn Ðạo và Chư Thiện Nam Tín Nữ hiện diện kể đến hằng muôn. Hội Thánh tiếp đãi khách một cách ân cần trọng hậu. Ngoài cúng phẩm ra thì không thâu tiền bạc gì cả.





Dời Thánh Thất về làng Long Thành Tây Ninh
Vì cuộc biến nọ, vì trường công kích kia mà Hòa Thượng Như Nhãn ngã lòng và Bổn Ðạo của ông đã cúng tiền cất Từ Lâm Tự cũng vì đó mà buộc ông đòi Chùa lại.

Hội Thánh buộc phải giao Chùa lại cho ông Như Nhãn đoạn mới mua một sở rừng 140 mẫu giá 25 ngàn tọa lạc ở làng Long Thành. Khai phá được chừng 10 mẫu rồi mới cất Tòa Thánh tạm mà an bài nơi đó kể từ tháng 2 năm Ðinh Mão.

Lúc bấy giờ, Ðạo phải trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc Ðạo, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài (đời Pháp thuộc).

Ðến đây, tôi xin ngừng bút, tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ cho quý độc giả rõ biết sơ lược về gốc tích Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Ðầu Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT
Sài Gòn, Dimanche 24 Octobre 1926.
(Ngày 18-09-Bính Dần)

Ngày 24-10-1926 (15-09-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy là Chư Phật, Chư Phật là Thầy... Các con là Chư Phật, Chư Phật là các con...".

Chùa Phước Linh Tự.
THÍCH CA MÂU NI PHẬT TÁ DANH
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Vì Tân Luật chưa ra nên Thầy phải giải, đã có Thánh Tượng Thầy, thì là cốt Ngọc Hoàng còn để lại chẳng nghĩa chi hết. Thầy nói cho các con rõ, vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì Thầy ngồi trước, vì trước lớn là phải vậy.

Khai Thiên Ðịa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói, một chơn thần mà biến hóa Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại. Thầy là Chư Phật, Chư Phật là Thầy.

Các con là Chư Phật, Chư Phật là các con. Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Nên Thầy khai Bát Quái mà tạo thành Càn Khôn Thế Giái, nên mới gọi là Pháp. Pháp mới sanh ra Càn Khôn Vạn Vật, rồi mới tới có người nên gọi là Tăng.

Thầy là Phật của cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.

Thầy lập Phật Giáo vừa khi khai Thiên lập Ðịa, nên Phật Giáo là trước, kế Tiên Giáo rồi mới tới Nho Giáo, nay Hạ Ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.

Tỷ như lập Tam Giáo qui nhứt thì:
Nho là trước,
Lão là giữa,
Thích là chót.

Nên Thầy phải ngồi sau Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí chính là Niết Bàn đó vậy.

Còn như Hộ Pháp đã xuống trần rồi còn thờ chi nữa, nên các con nên lập ra ba bài vị đề:

Hộ Pháp chính giữa, Thượng Phẩm bên hữu. Thượng Sanh bên tả.
Còn cổ lễ thì cúng: Rượu là Khí, Bông là Tinh, Trà là Thần.

THIÊN PHONG

Chưởng Pháp
Tương (Minh Sư)
Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thượng"
Ngày 24-07-Bính Dần.
Như-Nhãn (Huề Thượng Giác Hải)
Quan Pháp Truyền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ,"Chưởng Pháp phái Thái"

Thụ (Minh Sư ở chùa Vĩnh Nguyên Tự)
Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Ngọc"
Ngày 10-9-Bính Dần.
Ðầu Sư
Lê Văn Trung
Thượng Trung Nhựt
Rằm tháng 3 Bính Dần.
Lê Văn Lịch
Ngọc Lịch Nguyệt
Rằm tháng 3 Bính Dần.
Thiện Minh
Thái Minh Tinh
Ngày 13-10-Bính Dần.
Phối Sư (Phái Ngọc)
Lê Bá Trang
Ngọc Trang Thanh
Mùng 3 tháng 7 Bính Dần.
Phối Sư (Phái Thượng)
Tương (Phủ)
Thượng Tương Thanh
Ngày 17-05-Bính Dần.
Hóa
Thượng Hóa Thanh
Ngày 19-08-Bính Dần.
Phối Sư (Phái Thái)
Nguyễn Ngọc Thơ
Thái Thơ Thanh
Ngày 02-07-Bính Dần.
Giáo Sư (Phái Ngọc)
Kinh
Ngọc Kinh Thanh
Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Vân
Ngọc Vân Thanh
Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Ðạt
Ngọc Ðạt Thanh
Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Mùi
Ngọc Mùi Thanh
Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Thông
Ngọc Thông Thanh
Ngày 28-09-Bính Dần.
Giáo Sư (Phái Thượng)
Kỳ
Thượng Kỳ Thanh
Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo Giáo Sư ( Rằm tháng 3 Bính Dần).
Ngày 14 tháng 5 Bính Dần.
Kim
Thượng Kim Thanh
Ngày 17 tháng 5 Bính Dần.
Chức
Thượng Chức Thanh
Ngày 19 tháng 8 Bính Dần.
Hành
Thượng Hành Thanh
Ngày 29 tháng 8 Bính Dần.
Vinh
Thượng Vinh Thanh
Ngày 09 -09 Bính Dần.
Ðịnh
Thượng Ðịnh Thanh
Ngày 28 tháng 9 Bính Dần.
Hoài
Thượng Hoài Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Hoài
Thượng Hoài Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Hoài
Thượng Hoài Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Lai
Thượng Lai Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Son
Thượng Châu Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Búp
Thượng Búp Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Viễn
Thượng Viễn Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Tín
Thượng Tín Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.
Nhơn
Thượng Nhơn Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần.

Rút một đoạn Thánh giáo ngày Rằm tháng 10 Bính Dần (Vendredi Novembre 1926):
- Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu ...

Giáo Sư (Phái Thái)
Nhung
Thái Nhung Thanh
Rằm tháng 7 Bính Dần.
Luật
Thái Luật Thanh
22 tháng 7 Bính Dần.
Bính
Thái Bính Thanh
07 tháng 8 Bính Dần.
Giáo Hữu (Phái Thượng)
Giỏi
Thượng Giỏi Thanh
23-8-Bính Dần.
Bản
Thượng Bản Thanh
(Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư, Rằm tháng 3 Bính Dần).
25-8-Bính Dần
Giảng
Thượng Giảng Thanh
25 tháng chạp Bính Dần.
Phạm Văn Thấp
Thượng Thấp Thanh
17-09-Bính Dần.
Huỳnh Văn Sơn
Thượng Sơn Thanh
17-09-Bính Dần.
Lê Văn Cúc
Thượng Cúc Thanh
17-09-Bính Dần.
Nguyễn Văn Phương
Thượng Phương Thanh
17-09-Bính Dần.
Võ Văn Kinh
Thượng Kinh Thanh
17-09-Bính Dần.
Bùi Văn Thiên
Thượng Thiên Thanh
17-09-Bính Dần.
Nguyễn Văn Cúc
Thượng Cúc Thanh
17-09-Bính Dần.
Nhơn
Thượng Nhơn Thanh
27-09-Bính Dần.
Nghi
Thượng Nghi Thanh
27-09-Bính Dần (Rạch Giá).
Lân
Thượng Lân Thanh
02 tháng 09 Bính Dần (Vũng Liêm).
Bích
Thượng Bích Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần (Cần Thơ).
Huỳnh Văn Tuất
Thượng Tuất Thanh
Rằm tháng 10 Bính Dần (SàiGòn).
Trịnh Văn Kỳ
Thượng Kỳ Thanh
21-10-Bính Dần (Tây Ninh).
Sâm
Thượng Sâm Thanh
26-10-Bính Dần (Chợ Lớn).
Tu
Thượng Tu Thanh
26-10-Bính Dần (SàiGòn).
Ty
Thượng Ty Thanh
26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
Tiếp
Thượng Tiếp Thanh
26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
Tường
Thượng Tường Thanh
26-10-Bính Dần (SàiGòn).
Bùi Văn Dứa
Thượng Dứa Thanh
28-10-Bính Dần (Tây Ninh).
Kiệt
Thượng Kiệt Thanh
30-10-Bính Dần.
Lễ Sanh
Bản

14-05-Bính Dần.
Giảng

14-05-Bính Dần.
Tường

14-05-Bính Dần.
Giỏi

14-05-Bính Dần.
Nhơn

17-05-Bính Dần.
Kinh

17-05-Bính Dần.
Tỵ

17-05-Bính Dần.
Tiếp

17-05-Bính Dần.
Tuất

23-08-Bính Dần.
Nguyễn Văn Trò

25-08-Bính Dần.
Hương

25-08-Bính Dần.
Của

26-10-Bính Dần.
Học

26-10-Bính Dần.
Huỳnh Văn Ðáng

26-10-Bính Dần.
Qui

26-10-Bính Dần.
Ðờn

26-10-Bính Dần.
Thuận

26-10-Bính Dần.
Phi

26-10-Bính Dần.
Bảo

26-10-Bính Dần.
Trần Văn Xương

26-10-Bính Dần.
Trần Văn Uông

26-10-Bính Dần.
Tạ (Trần Văn Tạ)

26-10-Bính Dần.
Hoằng


Mỹ Ngọc


Mắc Mục Thanh
Phụ Ðạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân
26-10-Bính Dần.
Phò Loan
Ðức, Hậu
Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ

Nghĩa, Tràng
Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ

Tươi, Chương
Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ

Kim, Ðãi
Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ

Mai, Nguyên
Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ

Mạnh, Phước
Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ

Cao Hoài Sang
Thượng Sanh.

Phạm Công Tắc
Hộ Pháp
(Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)

Cao Quỳnh Cư
Thượng Phẩm
(Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)

Nữ Phái
Lâm Thị Thanh
Nữ Giáo Sư,
lấy Thiên Ân là Hương Thanh.

Ca Thị Thế
Phó Giáo Sư,
lấy Thiên Ân là Hương Thế.

Ðường Thị
Ðã thọ Thiên sắc, cứ giữ địa vị mình.

Ðạo Minh: "Cô Sáu"
Nữ Giáo Sư
Mùng 4-11-Bính Dần (Chùa Hạnh Thông Tây).

Trong tập nầy chưa biên tên những vị đi tình nguyện phổ cáo Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

Bài đọc cầu cơ: Bài Trời Còn, Bài Mừng Thay.
BÀI TRỜI CÒN (Bài đọc cầu cơ)
" Trời còn sông biển đều còn,
Khắp xem cõi dưới núi non đượm nhuần.
Thanh Minh trong tiết vườn xuân,
Phụng chầu, hạc múa, gà rừng gáy reo.
Ðường đi trên núi dưới đèo,
Lặng tìm cao thấp phải trèo chông gai.
Phận làm con thảo há nài,
Biết thương Tiên, Phật, Bồng Lai mà tìm.
Xem qua xét lại cổ kim,
Một bầu Trời Ðất thanh liêm chín mười.
Vàng trau ngọc chuốt càng tươi,
Bền lòng theo Phật cho người xét suy.
Thần Tiên vốn chẳng xa chi,
Có lòng chiêm ngưỡng nhứt thì giáng linh."

BÀI MỪNG THAY
Mầng thay chi xiết nỗi mầng,
Hào quang chiếu diệu ngàn tầng khôn trung.
Hạc reo bay khắp dạo cùng,
Càn Khôn Thế Giái cũng chung một bầu.
Môn sanh thành kỉnh chực chầu,
Tửu trà huê quả mừng cầu Tiên Ông.
Nhang thơm tốc đốt nực nồng,
Ðèn lòa ngọn lửa tựa rồng phun châu.
                                                                                                 Lạy mầng.

Phụ ghi: Câu thứ hai của bài Mừng Thay ...ngàn tầng khôn trung. có thể là ...ngàn tầng không trung.







 Ngày 16-11-1926 (âl. 12-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy Lập Lễ Thánh Thất.
Mardi 16 Novembre 1926 (12-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Lập Lễ Thánh Thất.
Phải làm một Nghi Án trước Ðiện day mặt vô bảy Ngai, hình vuông đóng bốn mặt, trên như nóc chùa, kết hàng cho đẹp. Nơi ấy phải kín, bốn phía ra vô có màn, Thầy giáng cơ tại Án ấy nghe à!
Lễ Thánh Thất, chia ra làm lễ khách xuất thâu. Vậy thì Thầy nói về lễ trước.

Việc lễ: Thầy giao chánh sự cho Trang, phó sự cho Nhung; phụ sự có Ý nghe à!... Như Ý không chịu thì Lịch phải thế. Vậy thì chánh sự là Trang làm đầu, Thầy lại thêm ba vị nữa cho các con rộng dùng là: Mùi, Vân, Ðạt.

Thầy lại hỏi thêm 12 đứa nữa, ai tình nguyện.
Lê Văn Sanh, Dương Văn Hoài
Nguyễn Xuân Quang, Sơn
Lê Thế Vĩnh, Hườn
Trần Văn Bân, Nguyễn Văn Mùi.

Về việc khách: Khách thì Tương là chánh sự, Luật là phó sự. Thầy muốn đem Hoài vô đặng không Lịch? Voi là phụ sự, Lại, Son, Thành là giúp. Thầy hỏi 12 đứa tình nguyện:
Giỏi, Bản, Tuất, Tiếp
Trò, Giảng, Học, Kỳ
Tường, Hơn, Kính, Ðơn

Về thâu: Thì Thơ, Như Nhãn, Huệ Quang.
Thầy hỏi hai đứa Châu, Lục... Châu Tuấn.

Về việc xuất: Xuất thì Lịch, Xài, Hóa (Phủ Hóa, Cần Ðước). Thầy hỏi hai đứa Ký Lục... Kiều, Vĩnh.

Nghe hành lễ con Trang.
Chưởng Pháp, Ðầu Sư: Thầy định ba ngôi Chưởng Pháp, ba ngôi Ðầu Sư đều có vị.

Phối Sư: Còn Phối Sư thì Trang, Tương, Thơ là chánh, còn ba mươi ba vị nữa thì tùy theo ngày phong sau trước đứng nối theo đó.

Giáo Sư: Rồi tới 72 Giáo Sư, cũng tùy theo ngày thọ sắc mà phân sau trước.
Giáo Hữu: Kế nữa là 3.000 Giáo Hữu cũng tùy theo Thiên Phong mà đứng theo hàng ngũ phái Thượng, phái Thái, phái Ngọc vậy.

Phò Loan: ... Tiếp nối theo sau ngay chính giữa nơi bàn Hộ Pháp thì: Ðức, Hậu, Tràng, Nghĩa. Bên mặt thì: Mạnh, Phước, Mai, Nguyên. Bên trái thì: Ðãi, Kim, Tươi, Chương.
Hộ Pháp: Còn lại để dựa bên bàn Hộ Pháp hai cái ghế rồi làm hai cây phướn đề: Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Thượng Phẩm: Bên mặt Hộ Pháp là Thượng Phẩm.
Thượng Sanh: Bên trái Hộ Pháp thì là Thượng Sanh.

Ðưa cây Thượng Phẩm cho Mùi, cây Thượng Sanh cho Vĩnh cầm hầu hai bên.

Trấn cờ Ngũ phương: tại Ðông phương, Tây phương, Nam phương, Bắc phương lựa 12 đứa Ðồng nhi cầm cờ, còn giữa thì giao cho Hậu, Nghĩa, Ðức.

Lịch hiểu à? Khi hành Ðại Lễ cho Thầy rồi thì Lễ Sanh xướng: "Thiên Phong hoán tẩy", cả thảy đều ra rửa mặt mày cho tinh sạch. Chừng xướng "Chỉnh túc y quan" thì cả thảy phải thay Thiên phục.

Lễ Sanh xướng "Lập vị" đứng theo hàng ngũ cũ như trước. Hành lễ y như tại chùa Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch. Còn Nữ phái thì đều phải mặc đồ trắng trước hành lễ.

Thiên Phong Nữ Phái: Thì Cư, Tắc phải vào Nghi Án phò lập Tịch Ðạo phò loan cho Thầy phong Nữ phái trước và lập Tịch Ðạo luôn nữa nghe.

Trấn Thần: Chừng mặc Thiên phục rồi thì Cư, con chấp bút nhang cho Thầy trấn Thần mỗi người và nơi mình của chư Thiên Phong rồi mới hành lễ.

Nhớ biểu Nam phái đứng chẳng hết ở giữa thì qua bên tả của Thầy, song phải phân hàng ngũ đẳng cấp chúng nó cho tử tế chớ không đặng lộn xộn.

Hành lễ: Còn bao nhiêu Môn Ðệ đứng tiếp theo sau. Thầy dặn, hành lễ rồi thì biểu Lễ Sanh xướng "Thiên Phong Phò Loan" đặng Thầy lập "Phật truyền Chánh pháp". Cư, Tắc phải để Thiên phục vậy phò cơ nghe. Thầy sẽ giao nhạc cho Mỹ Ngọc và lễ, Nhơn.

Phụ ghi: (*1) Nguyên bản chánh in là Ngày 16 Novembre 1926 (23-06-Bính Dần), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày16 Novembre 1926 ngày âm lịch là 12-10-Bính Dần.
Ngày 17-11-1926 (âl. 13-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy Lập Lễ Thánh Thất



Mercredi 17 Novembre 1926 (13-10-Bính Dần)

Khi Môn đệ mặc đồ thường vào con cũng phải sắp đặt địa vị chúng nó.
Tụng kinh hành lễ thường vừa rồi, con biểu Cư, Tắc rửa mặt, rửa tay cho tinh khiết, biểu chúng nó vào nơi Nghi Án cho Thầy phong sắc chư Môn Ðệ Lục Tỉnh xong kế lập Nữ phái. Con phải giúp em con là Ðường Thị, Lâm Thị, với Ca Thị lập vị bên Nữ phái cho trang hoàng.

Chừng Thầy thăng, biểu hai đứa nhỏ ra đứng nơi bàn Hộ Pháp nơi cũ, chừng Lễ Sanh xướng "Chỉnh Túc Y Quan" thì biểu 12 đứa phò loan sắp ba hàng kế đó, biểu Ðạt đi.

Kế đó là Tắc, Cư, Sang đi hai bên, nữa thì ba vị Chưởng Pháp (biểu Nhàn theo hộ Thụ). Kế nữa thì ba vị Ðầu Sư (biểu Tạ theo Trung, còn Hoằng theo Thiện Minh). Kế nữa ba vị Chánh Phối Sư, kế nữa Chức Sắc đi ba đứa, ba đứa ra thay đồ Thiên phục. Khi đặng nửa giờ phải đổ chuông ba hiệp. Chờ tới hiệp chót biểu Lễ Sanh xướng "Lập vị" thì lại đi như nãy mà trở vào. Nhớ biểu hai đứa cầm phướn Thượng Phẩm, Thượng Sanh đi gần bên Cư, Sang.

Vào lập vị hành Ðại Lễ như buổi Vĩnh Nguyên Tự nghe Lịch à ... là đã hết một đêm đầu rồi.

Kế đêm sau, thì là đêm Thiên Phong cho cả chư Môn đệ và là đêm các con phải thành tâm trai giới cho Thầy lập Pháp Chánh Truyền.

Ðêm thứ ba, các con cũng lập vị cúng thường ngày, xong hai đứa nhỏ mặc Thiên phục vào Nghi Án cho Thầy giáng rồi việc lễ.

Khách: .... Còn việc khách thì, Tương con phải chia 12 đứa phụ sự ra làm ba ban. Một ban 4 đứa đãi bọn Thượng lưu và Lang Sa; một ban đãi bọn Trung lưu; một ban đãi bọn Hạ lưu; song phải cắt ba vị Phó phụ sự ra ba ban đặng cai quản. Còn con thì lo việc tiếp các quan Lang Sa.

Việc phòng trù con cũng nên sắp đặt, nhứt là đừng khi khiếm lễ cùng ai hết.

Về việc xuất: Tới việc xuất thì ba vị chấp sự mỗi đều ký giấy tử tế cho đủ ba người mới cho xuất tiền ... cười. Thầy làm như vậy đặng dự phòng lãng phí nghe à.

Về việc thâu: Còn sự thâu, Trang con khéo tính lắm. Thầy khen và cám ơn con; song phải lo thu xếp cho em Thơ con nó bớt tốn kém tội nghiệp nghe con.

Phụ ghi: (*1) Nguyên bản chánh in là Ngày 17 Novembre 1926 (24-10-Bính Dần), đối chiếu với LỊCH THẾ KỶ XX (1901 -2000) Ấn bản năm 1976, nhà xuất bản PHỔ THÔNG - HÀ NỘI ghi Ngày 17 Novembre 1926 ngày âm lịch là 13-10-Bính Dần.
Ngày 30-10-1926 (âl. 24-09-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy "Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con...".

Le 30 Octobre 1926 (24-09-Bính Dần)

THẦY
Các con! Thầy đã lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con, biết à!
Thầy lại qui Tam Giáo, lập Tân Luật trong Rằm tháng 10 có Ðại Hội cả Tam Giáo nơi Thánh Thất, các con hay à!
Sự tế tự chế sửa theo Tam Kỳ Phổ Ðộ cũng nơi ấy mà xuất hiện ra, rõ à!
Thầy nhập ba Chi lại một nhà, Thầy là Cha Chưởng Quản, hiểu à!
Thầy phải buộc các con hiệp chung trí mà lo vào đó, nghe à!
Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vì Thầy phân phát phận sự cho mỗi đứa, vì chẳng vậy các con sanh nạnh nhau, giống tựa hồ chia phe phân phái, là điều đại tội trước mặt Thầy vậy, nghe à!
Các con phải ngưng việc mà chung lo trong Ðại Hội (là Rằm tháng 10 Bính Dần, Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh).

Le 30-10-1926 (24-09-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn đệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ.
Thầy biểu Hiếu vào nghe, Thầy mượn một chút. Con lên kêu Nhiều đến với con đặng nghe Thầy dạy việc nhà. Chư Tín nữ cầu Ðạo đắc vấn.

Hiếu, Nhiều, hai con phải sắm sửa dọn nhà về Tây Ninh, từ đây Cư, Tắc phải lo Ðạo, các con phải đành chịu khổ cực cùng Thầy như hai đứa nó vậy mới đáng con cái Thầy. Thầy lấy làm chua xót mà Ðạo là trọng mới biết liệu sao?
Hiếu bạch: Thưa Thầy con vâng. (1)
Nhiều, sao con? (Nhiều bạch Thầy còn mẹ già).

Nó đi theo với con, mặc kệ nó để đó cho Thầy. Con cứ tuân mạng lịnh Thầy mà thôi. Thầy ban ơn cho con.
Hiếu, con phải chăm nom gìn giữ em con.

Ngày 18-11-1926 (âl.14-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo của Ðức Chí Tôn khai Tịch Ðạo Nữ phái.

Jeudi le 18 Novembre 1926 (14-10-Bính Dần)
Khai Ðạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự ) Tây Ninh.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ,
Nữ phái nghe Thầy khai Tịch Ðạo:
"Hương tâm nhứt phiến cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn".

Lâm thị: phong vi Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên Ân là Hương Ca.

Ðường thị: đã thọ mạng Thiên sai cứ giữ địa vị mình, còn cả chư Ái Nữ Thầy sẽ lập Ðại hội cho đủ mấy vị, rồi phong sắc một lần; Thầy còn đợi Minh Lý hiệp nữa, nghe à!
Thầy ban ơn cho các con.
Cứ hành lễ theo lời dặn.

Ngày 19-10-1926 (âl.15-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo Ðức Chí Tôn quở trách "... Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy...".

Vendredi, le 19 Novembre 1926 (15-10-Bính Dần)

THẦY
Cả chư Môn Ðệ ngu, ngu, ngu.
Thầy lập phép để làm chi. Thầy dạy sắp đặt lễ.... làm không trúng.
Cả chư Môn Ðệ nam nữ hầu Thầy đặng phân hàng ngũ cho nghiêm trang.
Thái Ðầu Sư ? Tương đâu?
Tiếp theo: Các con nghe,

Tuy vân Thầy dùng phép thử Thánh mặc dầu, chẳng lẽ một vị Thiên Tước mà rẻ rúng đặng vậy, nhưng các con lại chẳng hiểu rõ tà quái quyền hành là bực nào mà giữ mình hằng buổi.

Thầy lấy làm tức cười mà lại đau thảm cho những kẻ vô phúc bị ngã vì bận thử thất nên vậy.

Tái Cầu: Khi Trang, Tương, Minh đến nghe à! Nếu các con còn vậy nữa Thầy sẽ phạt một cách nặng nề. Kỳ đem một chén nước lạnh vào đây.

Tái Cầu:
THẦY
Các con, cười ....
Thầy chẳng biết đến chừng nào, Thầy dạy cho các con hiểu Thánh ý Thầy đặng... Cười...

Thầy dặn... Lịch nghe dạy.

Phải trấn đàn từ phía góc Thánh Thất chớ chẳng phải nội ở giữa mà thôi, rồi làm Ðại Lễ như buổi ở tại chùa Vĩnh Nguyên.

Nhớ đừng phát cờ lộn nữa nghe à.
Bởi tại con nên ra đến đổi, hiểu à.
Thầy dặn con một điều nầy nữa, từ đây khá làm theo lời Thầy dạy, đừng biến cải nghe à.

Thiên Phong lập vị.
Chưởng Pháp tọa vị, Ðầu Sư tọa vị... khá hành lễ.
Chư Môn Ðệ nhập nội cho có nghiêm trang. Mỹ Ngọc, con phải biểu nhạc đờn đủ bảy bài.
Thầy buộc tái cầu đặng Thiên Phong nghe.
Thầy ngự.

*  *  *














Vendredi, le 19-11-1926 (Rằm tháng 10 Bính Dần)

Tái Cầu:
THẦY
Các con.
Trung! ra mời chư Thiên Phong Lục tỉnh còn sót lại vào hầu.
Viễn, đợi chút con.
Thầy biểu... lui.
Tín vào Tây Ninh thăm Sâm gần chết.

Viễn, Hoài! Thầy khen hai con, hai con quì đó. Thầy kêu vài đứa nữa.

Hoài (Cần Giuộc), Lai, Son, Bút, Viễn, Tín, Thầy phong chức Giáo Sư; còn Bích chức Giáo Hữu. Nhơn đã là Giáo Hữu, Thầy thăng lên chức Giáo Sư.

Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu. Các con nghe,
Ðau dạ ôm thương dụng pháp hình,
Ðừng vì Cha mến tởn oai linh.
Một phen thử thách đều trôi hết,
Thầy buộc lập công khá hết tình.

Thầy dạy các con nhớ ngày nầy là ngày kỷ niệm. Trung, con phải lấy tên của Chư Môn Ðệ có mặt tại đây ngày nay mà giữ gìn để lưu lại cho hậu thế biết.... nghe à!

Thầy cần dùng ba chục đứa tình nguyện để phổ cáo xứ xa, ai đâu?
Lấy tên con Tương.
Trung Kỳ, Bắc Kỳ.

Bính, Thầy dạy riêng con.
Ngày mùng 1 chư Thiện Nam Tín Nữ mới đặng cầu Ðạo.

Chư Thiên Phong bình thân.
Viễn xin tập đồng, Thầy cho; sau Thầy sẽ làm phép truyền Thần cho nó. Quế, con phụ bút với Bích nghe... cười...

Cả thảy Thầy phong chức Giáo Hữu, đến sau Thầy buộc học hết Thánh ngôn rồi mới đi phổ cáo nghe à!

Hoài, phải con. Thầy không quên, song đợi con ra chịu gánh vác. Thầy phong cho con chức Giáo Sư, gắng phổ độ tỉnh Bến Tre nghe.

Ðêm nay các con phải thành tâm cầu nguyện đặng ngày mai Thầy lập Pháp Chánh Truyền nghe à.
Thầy không phong sắc cho ai hết đặng phạt tội ngã lòng.

Ngày 20-11-1926 (âl. 16-10-Bính Dần): Thánh giáo ngày Khai Ðạo Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền.

Samedi 20 Novembre 1926 (16-10-Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Môn Ðệ.
Chư Minh Lý có mặt há?
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe.
Thầy lập phẩm Giáo Tông nghĩa là: Anh Cả các con có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ nghe.
Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.

Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng cầu rỗi cho các con, nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Chưởng Pháp của ba phái là: Ðạo, Nho, Thích; Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mắt Thầy vốn coi như một vậy, thì một thành ba, mà ba cũng như một.

Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành; hoặc là nơi Giáo Tông truyền xuống hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chưa thuận thì chúng nó phải dưng lại cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống sửa lại, hay là tùy ý lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước lúc phổ thông, như thoảng có kinh luật chi làm cho hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ chẳng cho xuất bản.

Buộc các Tín Ðồ vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời, Thầy khuyên các con rán xúm nhau mà giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn riêng, ba ấn phải có đủ trên mỗi luật mới đặng thi hành.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Ðầu Sư có quyền cai trị phần Ðạo và phần Ðời của Chư Môn Ðệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng cho Giáo Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt coi phải có ích cho nhơn sanh chăng? Nên Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.

Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông khuyến dạy; như thoảng luật lệ nào nghịch với sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.

Thầy khuyên các con phải thương yêu nhau và giúp đỡ nó, Thầy lại dặn các con: Như có chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.

Ba chi tuy khác chớ quyền luật như nhau, như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa, chúng nó có ba cái ấn riêng nhau, mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Phối Sư mỗi phái là mười hai người cọng là ba mươi sáu, trong 36 vị ấy có ba vị Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Ðầu Sư mà hành sự, song không quyền cầu phá luật lệ nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Giáo Sư có 72 người, trong mỗi phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư Môn Ðệ trong đường Ðạo với đường Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em, chúng nó cầm sổ bộ của cả Tín Ðồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa.

Như tại Châu Thành lớn, thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi Môn Ðệ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.
Giáo Hữu là người để phổ thông chơn Ðạo của Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. Ba ngàn Giáo Hữu chia ra đều mỗi phái một ngàn, chẳng đặng tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng phép khi hành lễ làm chủ các chùa nơi mấy tỉnh nhỏ. Ðiều chi chúng nó xin thì buộc Giáo Tông phải cần mẫn xét nét hơn hết, như điều gì mờ hồ thì chúng nó là kẻ sai đi kiểm duyệt.

Chúng nó phải đủ hạnh đức, tư cách mới đặng, vì chúng nó là người thân cận với nhơn sanh hơn hết... nghe à.

Lễ Sanh là người có hạnh lựa chọn trong chư Môn Ðệ để hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Ðồ. Thầy dặn các con hiểu rõ rằng: Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức Sắc. Kỳ dư Thầy phong thưởng riêng mới đi khỏi ngã ấy mà thôi, nghe à.

Chư Môn Ðệ tuân mạng.
... Con khá an lòng chờ đợi, Thầy sắp đặt Nữ phái, công con Thầy chẳng quên, con chớ rầu buồn. Thầy còn lắm điều sắp đặt, con đừng vội mà ngã lòng nghe à.

Phụ ghi: ...thoảng... theo ấn bản Pháp Chánh Truyền Chú Giải ghi là: ... thảng ...

*  *  *
Tiếp theo, ngày 17-10-Bính Dần

THẦY
- Ðầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ 3 vị công cử.
- Phối Sư muốn lên Ðầu Sư thì nhờ 36 vị kia công cử.
- Giáo Sư muốn lên Phối Sư thì nhờ 72 vị xúm nhau công cử.
- Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư, thì nhờ 3000 vị xúm nhau công cử.
- Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu, thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
- Môn Ðệ muốn lên Lễ Sanh thì nhờ cả Môn Ðệ xúm nhau công cử, kỳ dư Thầy giáng cơ phong cho người nào mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.

Còn Giáo Tông thì hai phẩm Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn Ðệ công cử mới đặng; kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.

Ngày 23-11-1926 (âl. 19-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Chư Môn Ðệ tuân mạng. Thầy ban ơn cho các con.

*  *  *

2 giờ sáng, Mardi 23 Novembre 1926 (18 rạng 19 Bính Dần)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Thiện Nam, Chư Tín Nữ,
Cười .....
Ta sẽ cho những kẻ thờ ta với miệng lưỡi, chớ chẳng phải thờ ta với lòng dạ, biết oai quyền ta thể nào. Ta nói thiệt tốt hơn kẻ ấy đừng sanh ra ở thế nầy hơn là có sống mà đã chết. Quản chi một lũ ma hồn quỉ xác mà phải nhọc nhằn cho ta dường này.

Chúng nó dám mượn màu dối thế mà bêu dạng trước mắt Ta. Khổ cho những kẻ ấy! Khốn cho những kẻ ấy! Chư Thiện Nam cầu Ðạo thượng sớ.

               Lê Chí Thuần:
Ðã thừa may rủi cuộc vinh hư,
Làm lắm công phu thử đến chừ.
Hiệp khách nên trang non nước sửa,
Càng qua lần lựa cửa anh thư.
                                                                                     Thâu
               Bùi Chánh Trực:
Thơ trang đưa rước khách tài ba,
Nên nghiệp bởi con biết chữ hòa.
Âm chất chưa hao nhà chứa trước,
Phương châm gìn rõ chánh cùng tà.
                                                                                     Thâu
               Mắc, con nghe: (Nguyễn Văn Mắc)
Chánh tà con đủ thấy con đường,
Biết ý rằng Thầy để dạ thương.
Làm lụng công trình ra sức trẻ,
Giữ gìn cho vẹn đạo tào khương.
   Thầy biết lòng con, con hiểu dạ Thầy, gắng công hành Ðạo nghe.

               Ðỗ Quan Ngự:
Khương Hi bất phục Hớn trào vong,
Thiên tải hưng suy nhử kiến đồng.
Thạch đảo lãng xâm phong khí hoại,
Từ tâm đức vượng thạnh kỳ phòng.
                                                                                     Thâu
               Nguyễn Thanh Vân:
Phòng cơn biển nọ hóa vườn dâu,
Chưa hết quan viên há hết chầu.
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu.
                                                                                     Thâu
               Nguyễn Học Dần:
Ðâu vui nước trí với non nhân,
Lòn lõi công danh khổ phận thân.
Nực nội trong lòng lo lúng túng,
Ðài mây để bước khá nơi chân.
                                                                                     Thâu
               Ngô Văn Ðiều:
Noi chân theo dõi Thánh Hiền xưa,
Từng tuổi đời qua cũng đã vừa.
Khôn khéo khá lo âm chất để,
Phẩm Tiên nẽo tục chẳng thừa ưa.
                                                                                     Thâu
               Mai Văn Thạch:
Thừa ưa đến buổi đặng chơi Tiên,
Chẳng mất công phu chẳng tốn tiền.
Ái ngại lòng trông mong đến thử,
Coi nền Ðạo mới thiệt linh thiêng.

               Ngô Văn Quới:
Linh thiêng cùng chẳng tại lòng mình,
Thương trẻ có công gắng đến xin.
Thầy dặn chừng mô nghe tiếng hạc,
Thì đưa tay vói níu khuôn linh.
                                                                                     Thâu
               Nguyễn Văn Quờn:
Khuôn linh chẳng phụ kẻ lòng thành,
Nhưng cám chút tình đến trước kinh.
Thành bại lẽ thường lo cũng uổng,
Ðể công dạy kẻ biết nguồn lành.
                                                                                     Thâu
               Nguyễn Văn Nhuộm:
Nguồn lành là chốn rất an nhàn,
Trước mắt đâu xa hỏi nẻo sang.
Trần tục là nơi lo lấy của,
Cảnh Tiên là chốn hưởng vinh sang.
                                                                                     Thâu
               Trang Văn Ðó: (Tổng Giai Hóa)
Sang như Tần Thỉ lúc đương hưng,
Chừng quá ba đời hết các lân.
Lấp biển còn chờ ngày biển sụp,
Thành Tiên, thành Phật khó trăm lần.
                                                                                     Thâu
               Phan Văn Phường:
Trăm lần nặng nhẹ cuộc đời xây,
Chứa hết sức con lại đến Thầy.
Tranh cạnh mượn người lo tính trước,
Ðẹp lòng nhân sự đặng lòng đây.
                                                                                     Thâu
               Phan Văn Muôn:
Lòng đây nào có khác chi phàm,
Biết đặng Ðạo rồi mới biết ham.
Ðưa đẩy ít ai dè có Lão,
Nếu đời thấy đặng chẳng người tham.
                                                                                     Thâu
               Hà Văn Như:
Tham chi thế sự lắm đua tranh,
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ hết trong cơn mê một giấc,
Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành.
                                                                                     Thâu
               Ngô Văn Hoài:
Làm lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mầng thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen khen giận ghét kẻ đời thường.
                                                                                     Thâu
               Ðoàn Văn Bổn:
Ðời thường chẳng rõ lẽ nên hư,
Chưa biết mà chê mới lạ chừ.
Thiệt thiệt hư hư con chớ ngại,
Gắng công theo dõi biết khôn hư.
                                                                                     Thâu
               Lê Văn Hợi:
Bư như Ðạo chích thế khen khôn,
Khôn giống ông Nhan gọi chẳng hồn.
Lời lẽ đố con phân thiệt giả,
Khôn khôn, dại dại cũng đồng phồn.
                                                                                     Thâu

Phụ ghi: Bư như Ðạo chích... chúng tôi nghĩ là: Hư như Ðạo chích... vì liên vận với bài thi trước đó: Gắng công theo dõi biết khôn hư.

               V. Phên:
Ðồng phồn đưa rước viếng Diêm Cung,
Ai đã trước đi hỏi nhắn cùng.
Trời với Diêm Ðình đôi ngõ trở,
Muốn toan thoát tục liệu mà dùng.
                                                                                     Thâu
Tắc phải về, Chư Ái Nữ cầu Ðạo.
Thầy thâu hết.
Ca thị, con lấy tên hết rồi mai Thầy cho thơ.
    Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ] 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét