Ðạo Sử Xây Bàn - 8 / 26 (Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu)


Ngày 08-12-1926 (âl. 04-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Mercerdi 08 Décembre 1926 (04-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Chư Nhu không miệng há?

Tưởi! Hiền Hữu từ đây phò loan không đặng đọc nữa, Lão cấm. Cả chư Thiên Phong xúm đọc.
Ðạo Minh Hiền Muội, Thầy đã dạy Lão rằng Hiền Muội xin đi phổ độ.
Thầy dạy Lão cho phép Hiền Muội đi vậy.

Hiền Muội lãnh chức Nữ Giáo Sư đi từ Rằm tháng nầy cho tới Rằm tháng tới phải có mặt tại Thánh Thất hầu Ðại Lễ. Hiền Muội gắng công hiệp Nữ phái Minh Ðường lại thì công ấy không phải nhỏ; quyền hành thưởng phạt Lão công bình.

Hiền Muội khá lo công quả, Thầy dặn chư Ðạo Hữu lo bề hành lý; Hiền Muội bình thân, chỉnh đàn Thầy đến.
Phụ ghi: Tưởi! Hiền Hữu... chúng tội nghĩ có thể là Tươi! Hiền Hữu...

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, chư Nhu, chư Ái Nữ,
Trung, con rán coi nghe.
Bính, Thái Bạch phiền rằng con dở nghe con.
Chư Nhu thượng sớ:
Là phần đã định trái oan xưa,
Một nghĩa phu thê khá lọc lừa.
Nghiệp cả nhà cao không phải phận,
Ðiềm may sau cũng hội công hầu.
                                                                                                 Thâu
               Trần Văn Lộc:
Lộc xưa chẳng đức giữ cho bền,
Phường chạ nay đành gởi tuổi tên.
Nợ nước ơn nhà đôi gánh nặng,
Một lòng son sắt khá cho bền.
                                                                                                 Thâu
               Trần Văn Báu:
Báu nhà chữ hiếu đứng làm đầu,
Biết Ðạo thì con biết nghĩa sâu.
Dưới gối nhiều lời đưa nọc rắn,
Mài gươm con khá mượn mưu mầu.
                                                                                                 Thâu
               Trình Văn Dính:
Dính Thiên muôn ác động lòng người,
Con chẳng sửa lòng đến tưởng chơi.
Ngoài mặt thì đời hằng dễ thấy,
Trong tâm biết đặng có ông Trời.
                                                                                                 Thâu
               Trần Văn Nai:
Nay về đảnh Hớn bỏ đền Tần,
Ðẹp mắt xem đời đã cải tân.
Góp một nhà chung dân mấy sắc,
Người người Thầy sẵn để dành phần.
                                                                                                 Thâu
               Lê Bửu ...:
Ðờn hay vì có kẻ tri âm,
Dựa bệ không ai cũng tủi thầm.
Non nước đành xem theo bóng vẽ,
Mãnh đời mãn nguyện với ô tâm.
                                                                                                 Thâu
               Bùi Ðức ...:
Tâm thành con động chín từng Trời,
Chớ trách Thầy xưa chẳng để lời.
Khuất mặt mà lòng Thầy vốn ngự,
Thương tâm con thảo để gương đời.
                                                                         Thầy sẽ trọng dụng. Thâu.
               Ðặng Văn Ấc:
Ất niên con giữ nỗi tai ương,
Muốn tránh cho qua phải liệu đường.
Tu niệm làm lành hay cải số,
Tâm khá hiểu Ðạo phi thường.

Chẳng một đứa nào nên thân, Thầy sẽ dạy Lý Bạch tập các con Tín nữ.
Thượng sớ:

               Phạm Thị Lánh:
Lánh đường trần tục đến non Tiên,
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng.
                                                                                                             Thâu

Thầy thâu cả bên Nam hết; mấy con khá sợ Thái Bạch nghe, nhứt là Lịch và Bính nghe người hạch văn nghe. Thăng.

Ngày 10-12-1926 (âl. 06-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Vendredi 10-12-1926 (06-11-Bính Dần)

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ða tạ.... Ða tạ..... Cười.
Như Nhãn gan lớn thiệt, Thánh ý Thầy.
Thái Bạch - Hỉ Ðạo Hữu,
Tệ Ðệ tề quới: đòi Ðạo Hữu lên.
Thánh ý Thầy Lão chưa đem thố lộ, chẳng qua Thầy muốn để vậy mà xem sự hành Ðạo của chư Ðạo Hữu đó.

Thơ, Thánh Thất đòi lại đặng cùng chăng là tại nơi Thơ và vợ Thơ, Thầy và Lão đợi xem.

Thượng Trung Nhựt, Hiền Hữu biết rằng Thánh Thất nầy chư Ðạo Hữu cũng có tổn phí, đợi kẻ gian manh làm thế nào mà đòi. Chư Ðạo Hữu thế nào mà trả, trước mặt luật Trời chưa phải dễ sang đoạt nghe à....
Lão sẽ điều đình, Thầy sẽ dạy Lão làm thế nào cho chúng nó biết oai linh Thầy.
Chỉnh Ðàn. Trung bạch Ngài dạy về sự đám táng của Tương?
Thây kệ kẻ vô dụng.
THẦY
Các con,
Thầy buồn lắm, các con cái biết nhơn sanh lắm chịu đau đớn khổ não, Thầy muốn làm thế nào giảm bớt cái kiếp đày các con, lại còn quyết đóng cửa luân hồi cho tuyệt lối sanh sanh tử tử, nhưng mà trong hàng Môn Ðệ có đứa phản Thầy. Các con ôi, nếu Thầy bỏ các con thì các con sẽ thế nào.

Thầy chẳng phải sợ chi cho Ðạo, ngặt lòng thương yêu Thầy nó làm cho Thầy đau đớn, thấy tên tuổi nhiều đứa yêu dấu Thầy đã bị treo tại cửa Phong Ðô đợi ngày hành xác. Thảm thay! Ðau đớn thay!... Ðại lụy!
Các con giữ mình cho lắm nghe.
Các con, chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Trung xin cho Cư đọc. Ðặng.... Lý Thái Bạch không chịu.

Nhuần, con nghe, con đợi Thầy dạy dỗ chồng con đạo đức chút đỉnh. Nó có tâm hiền mà ngặt Ðạo cũng chưa thông, chưa phải hồi lãnh mạng lịnh độ rỗi con cái Trung Huê của Thầy, con an lòng nghe.

               Huỳnh Thị Sanh:
Sanh đời nắng lửa với mưa dầu,
Tội là đâu phước lại là đâu.
Chiu chít như chim cơn khuất bóng,
Mơi vui rồi tối chịu đeo sầu.
                                                  Thâu
               Lâm Am Cung:
Trương cung chim đỡ thế nào đang,
Mất phước ôn nhu ấy mất nhàn.
Quyền biến dầu mình khi buổi ngặt,
Dằn lòng chớ tránh kế mưu gian.
                                                              Thâu
Sum vầy các sắc các con nhà,
Dầu phải sang hèn cũng một cha.
Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,
Ðường đời cũng thế chẳng bao xa.
                                                              Thâu
   Trung, nó là kẻ yêu Thầy, con khá dạy nó cách cầu nguyện để thờ phượng Thầy.

Xà inh con chớ ngại ngùng chi,
Các việc con xin ý đặng tùy.
Nền Ðạo của Thầy nền Ðạo cả,
Con con đừng sợ thị hòa phi.
                                                  Thâu
                                                              Thầy cũng dặn Trung như vậy.
Mi trừng nhãn kiến giữa không trung,
Choán khắp Càn Khôn đã thấu lòng.
Ðặng dạ nhơn sanh chưa phải dễ,
Ðạo mầu khởi lập xuất nơi Ðông.
                                                  Thâu
               Nguyễn Văn Ðủ:
Ðủ mùi cay đắng chịu cùng đời,
Ðã thấy ra gì đó hỡi ngươi.
Lần lựa chưa xong Nhơn đạo giữ,
Mà nam đã chất thấu vênh Trời.
                                                  Thâu
                                      Thuộc:           
Thuộc lòng hai chữ ái nhơn xưa,
Phải đức trái oan trả nợ thừa.
Lữ Vọng bảy mươi còn sự nghiệp,
Huống ngươi ..... tuổi lợi danh chưa.
                                                              Thâu
                                      Ní:
Ní na sớm xóm với chiều làng,
Ðã khởi oan mà chẳng phải oan.
Ngơ ngáo thế tình, ngơ ngáo phận,
Bao chừ Thầy hỏi đặng vinh sang.
                                                                                                 Thâu
Tái cầu cho hai đứa nhỏ nghỉ.
THẦY
Các con thượng sớ.

               Nguyễn Văn Cỏn:
Cỏn con sự nghiệp cũng bồng tang,
Lợi lộc tí ti cũng nhận nhàn.
Ðức tám tội mươi như Lão lộ,
Nhằm nơi phải chợ chẳng so hàng.
                                                              Thâu
Cho hay nhơn định chẳng qua Trời,
Non đảnh đưa xuồng gặp khó bơi.
Chi bẳng tùy theo Thiên ý định,
Cũng như buồm thuận gió đưa hơi.
                                                              Thâu
                          Hoài:
Hoài cố tư nhân tánh Ðạo tâm,
Nhơn nhơn dĩ định thánh Thiên tâm.
Tu thân bất viễn sanh môn nhập,
Thạnh khí cường chơn hạnh ngộ thần.
              
               Võ Văn Chánh:
Chánh khí bất năng nạp chánh tà,
Nhơn sanh tại thế thị như ma.
Thiên môn hữu thỉnh vô nhân đáo,
Ðịa ngục vô ngôn hữu khách hòa.
                                                              Thâu
                          Ðiều:
Ðiều đình gia thất vẹn nhơn luân,
Cái nẻo Thiền môn giống đám rừng.
Trước muốn bước vào coi nhắm hướng,
Kẻo lầm đường rậm ngỡ ngàng chân.
                                                              Thâu
                          Bính:
Bính ngọc Tương Như mấy được dành,
Chưa ra giá đáng xót oai danh.
Buông cương đẩy núi xưa Hạng Võ,
Một kiếp chưa rồi hết lối tranh.
                                                              Thâu
                          Dần:
Dần dà những hẹn với căn tu,
Ðau mắt không lo để đợi mù.
Một bước qua ngày trăm bước trễ,
Một lời chẳng khéo mấy năm tù.
                                                              Thâu
                          Mười:
Mười voi chưa đủ gọi mình sang,
Huống ỷ khôn lanh cứ hiếp làng.
Tâm địa của Trời đời ắt biết,
Phải toan sợ tội cải tà gian.
                                                              Thâu
                          Khánh:
Khánh chuông tiếng khởi giục nhơn sanh,
Bỏ ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp phước phải ngừa lo kiếp phạt,
Hễ là có thưởng phạt theo mình.
                                                              Thâu
                          Triệu:
Triệu thành vị vọng phước tinh suy,
Phấn khí đắc tâm đắc thế thì.
Hậu vận vinh huê thiên lý mộng,
Bất như nhàn lạc tụng A Di.
                                                              Thâu
                          Ðoàn Văn :
Thảo căn mộc bổn thạnh tương cầu,
Ngự hám công khanh nhứt thế ưu.
Sanh tịch han tri căn số tác,
Hà do thế sự độ cao mưu.
                                                              Thâu
                          Ðặng:
Ðặng vàng mà bỏ kiếm đồng thau,
Sự nghiệp vì đây cũng để vào.
Trí não không cơn vui đạo đức,
Ðức không đủ đặng có nên giàu.
                                                              Thâu
                          Lê Văn Hát:
Hát lường chèo chống cũng đưa bơi,
Cầu Phật cầu Tiên cũng đợi mời.
Thiệt dạ Ta khuyên về ít bữa ,
Vái van thưa tội với Ông Trời.
                                                              Thâu
Sĩ tử nhà văn cũng tiếng rằng,
Chẳng gìn nết hạnh khách Nho văn,
Ðem câu nhơn nghĩa khoe ngoài miệng,
Xảo trá hung hăng ít kẻ bằng.
                                                              Thâu
               Huỳnh Thị Hảo:
Hảo tai một gái nữ anh tài,
Mới biết mà tâm Ðạo quá hay.
Khá bắt chước nhuần lo độ chúng,
Dầu nên thành Phật cũng Bồng Lai.
                                                  Thâu
               Huỳnh Thị Tức:
Tức y tức thực khỏi lo chi,
Tu tánh tu tâm khá kịp thì.
Nương phướn Tây Thiên về cảnh tịnh,
Bỏ nơi phiền não chịu ai bi.
                                                  Thâu
               Lê Thị Tùy:
Tùy duyên tùy phận đãi cùng đời,
Ðừng rán tranh giành phải mỏn hơi.
Nước vốn đầy sông tùy kẻ xách,
Lộc kia đầy đất tại người dời.
                                                  Thâu
               Nguyễn Thị Lươm:
Lươm lo hai chữ phước nơi nhà,
Chẳng biết tu lại đến hỏi ta.
Mượn chước cầu nghe đôi việc muốn,
Rồi ra cũng giữ một lòng tà.
                                                              Thâu
               Ngô Thị Hiền:
Hiền lương tánh đức vốn thiên nhiên,
Mảng tưởng chồng con phải chịu hiền.
Thầy dặn đừng lo điều quá trí,
Ðời Ðời Ðạo Ðạo mới là nên.
                                                                         Thâu
               Bùi Văn Nhầm:
Nhành vàng tuy chẳng đượm sân Ngô,
Cái miệng trung trinh giống Ðổng Hồ.
Chánh trực vô tư thiên hạ ghét,
Thường xem khách trọng giống chàng Tô.
                                                              Thâu
               Nguyễn Văn Nở:
Nỡ đem chén ngọc đựng màu chàm,
Chẳng biết phận mình thế cuộc ham.
Thương kẻ dò đường không gặp tiếp,
Của không gìn trọn bụng hằng tham.
                                                              Thâu
Lượng trên đã mở đức nhiêu dung,
Tu tánh từ đây Ðạo khá tùng.
Trước dại sau thôi đừng dại nữa,
Kẻo không thoát khỏi cửa Diêm Cung.
                                                              Thâu
               Nguyễn Thị :
Thấm duyên con trước giống nên hiền,
Phải kiếp trần gian phải kiếp Tiên.
Còn sống một ngày lo đạo đức,
Chi chi con khẩn toại như nguyền.
                                                              Thâu
               Nguyễn Thị :
Tường đông bóng nguyệt xế đầu nhành,
Con đã kiêng dè sợ Ðấng sanh.
Mượn kiếp đào hoa răn kiếp trước,
Không tu Thầy dặn khó thi hành.
Ngày 11-12-1926 (âl. 07-11-Bính Dần): Ðức Chí Tôn dạy lễ an táng Chưởng Pháp Thượng Tương Thanh.
Samedi 11 Décembre 1926 (07-11-Bính Dần).

THẦY
Các con,
Diêu đợi nghe.
Trung, Lịch, hai con phải dụng Ðại Lễ mà an táng Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào "Tam Thập Lục Thiên" phải để nó đợi nơi "Ðông Ðại Bộ Châu" mà chờ Tòa Tam Giáo phát đạt. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi. Nhưng Người giận Tương không công quả, dâng bộ công Thiên Thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cải chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến.

Các con nghe à.
Vậy trong Hịch Văn Sớ Tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.

Lịch bạch Thầy về sự Ðại Lễ.....
Không con... Ðại Lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe.
Trung, Lịch đứng tên.
Diêu, con chưa đặng định Thần khi Thầy giáng há! Những lời Thầy dạy con phải sắp đặt phần Nhơn đạo rồi sẽ lấy hồn xác con mà dùng về việc Ðạo, nghĩa là: Con phải tính cho xong phận sự làm người rồi lo hành Ðạo mà thôi. Con hiểu à.
Thầy còn dạy con nhiều nữa Diêu.
Trung, Lịch, lễ ấy phải khởi đầu giờ Tý nghe.
Thầy ban ơn cho các con.

Ngày 13-12-1926 (âl. 09-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo.
Lundi 13 Décembre 1926 (09-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Thiện Nam Tín Nữ,
Thánh Thất đã an, chư Hiền Hữu phải chỉnh nghi cho tinh tấn.
Thầy dạy Thượng Trung Nhựt Hiền Hữu lo sắp đặt cho ra nghi tiết. Thì sắp đặt sau lưng bàn Hộ Pháp, phải để một miếng nỉ dài một thước rưỡi, cao ba thước, thêu chữ bùa Lão vẽ đây (chữ Khí).

Làm một cái bàn thờ ba nấc, giữa cao hai bên bằng cho Thượng Phẩm và Thượng Sanh đứng.
Chư Ðạo Hữu chỉnh đàn cho Thầy ngự.
Ai chẳng y quan tử tế, xuất ngoại.
Nghe và tuân mạng.
                          La T. Hạp:
Hạp theo phong hóa giữ đường tu,
Nước cạn non mòn đạo đức như.
Gió nắng chưa hay ngày vắng dạng,
Muôn đời khoe một nết nên hư.
                                                              Thâu
               Thị Trước:
Trước mai chẳng hiệp nghĩa thơ cưu,
Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.
Vẹn Ðạo khá lo riêng chút phận,
Cái công nhắn khách gởi đường tu.
                                                              Thâu
               Thị Biện:
Biện phân cho hiểu chút thân sau,
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.
                                                              Thâu
               Thị Nhờ:
Nhờ ai nay đặng nghiệp nhà an,
Mà lại cưu cưu muốn phụ phàng.
Dưa muối đã cùng nhau cực nhọc,
Phải nhìn lấy mặt buổi vinh sang.
                                                              Thâu
               Thị Bính:
Bính niên canh hạn đã gần qua,
Hết buổi lưu linh tới có nhà.
Ðức hạnh một lòng lo trọn Ðạo,
Vì tu nên phận đặng nên bà.
                                                              Thâu
               Thị Nhân:
Nhân duyên mấy lúc chẳng như nguyền,
Vì dạ con đương lúc đảo điên.
Phải nợ tiền khiên dầu khó nhọc,
Cũng lo trọn đạo vợ chồng hiền.
                                                              Thâu
               Thị Nguyên:
Nguyên tình chớ khá để riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Ðông.
Ðồng chí đồng tâm chồng với vợ,
Dầu toan cởi phụng đến đền Rồng.
                                                              Thâu
                           Thị Trà:
Trà mi khi đã dựa cung đài,
Căn cứ chi nên phải lạc loài.
Vì đức chẳng giồi lo chút Ðạo,
Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.
                                                  Thâu
                          Thị Xa:
Xa nơi hiền đức giữ căn xưa,
Cái tánh hung hăng biểu phải chừa.
Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,
Hình răn nào phải đợi người thưa.
                                                  Thâu
                          Thị Chi:
Chi nên an mạng gắng tùy thời,
Chẳng cánh buồm trương rán sức hơi.
Ðừng thấy sang hèn toan đổi dạ,
Nên hư khá nhớ tại nơi Trời.
                                                              Thâu
                          Quít:
Quít cam bồng bưởi vốn như lòng,
Ở thế thì lo một chút công.
Giành giựt cho xong mùi mặn lạt,
Chẳng vì chánh giáo của Thiên công.
                                                              Thâu
                          Tới:
Tới khi cù đủ gạt vi rồng,
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
Ðều đặn một lời cần đạo đức,
Ðừng lòng ỷ thế cũng như không.
                                                              Thâu
                          Miêng:
Miêng trường tánh đức giữ cho bền,
Gia nội phải hòa dưới với trên.
Chẳng khá tranh hơn rồi giận thiệt,
Trên đời nào có cách xa Tiên.
                                                              Thâu
                          Trồng:
Trồng cau mấy mặt biết lòng cau,
Phải nhớ rằng đời khó chuốt trau.
Nên Thánh nên Hiền chưa thấy mặt,
Gian hùng đầy quận với đầy trào.
                                                              Thâu
                          Bàng:
Bàn qua thế sự lắm buồn cười,
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
Trời Ðất chẳng cao và chẳng thấp,
Cũng như lỡ cổng với sào bơi.
                                                              Thâu
                          Phẩm:
Phẩm hàng cũng nhộn với người đời,
Tính đến chen vai với Ðạo chơi.
Thấy mặt Ta cho vào đứng đó,
Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.
                                                              Thâu
                          Hải:
Hải hồ đưa bước đã cùng nơi,
Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời.
Tội lỗi dẫy đầy chưa gỡ đặng,
Vào chi cho nhọc kẻ chào mời.
                                                              Thâu
                          Tương:
Tương giang mấy lúc gió đưa sầu,
Duyên ở đâu mà phận ở đâu?
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
                                                              Thâu
                          Niên:
Niên cao chưa đủ trí phen đời,
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
Ý quyết non sông lo lập nghiệp,
Thương thay chưa buổi đặng nương thời.
                                                              Thâu
                          Dọn:
Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Ðừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Ðạo cao thâm.
                                                              Thâu
                          Sửa:
Sửa sang cho vẹn đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
Ðưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
                                                              Thâu
                          Két:
Két kêu chẳng sánh cú dời thân,
Mấy lúc con không biết kỉnh Thần.
Nạn gởi tai bay vì chẳng hiếu,
Từ đây sám hối tội hoàn lần.
                                                              Thâu
                          Chữ:
Chữ rằng Thiên Ðịa có tuần hườn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
Ðương buổi thành thì suy lại đến,
Suy rồi có lúc thạnh dồi hơn.
                                                              Thâu
                          Dần:
Dần dà những mảng cuộc đời lo,
Mà chẳng tu tâm lúc dặn dò.
Cha mẹ hiền lương duyên để sẵn,
Ðưa chơn đường Ðạo khá so đo.
                                                              Thâu
                          Kỳ:
Kỳ khôi bớt tánh thị khi người,
Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.
Nếu đặng lòng người Trời chẳng thuận,
Hòa nhơn đâu khá để nên lời.
                                                              Thâu
                          Sáo:
Sáo sứa việc chi cũng thọc thò,
Chưa hay đặng nhỏ mới gầy to.
Nhỏ nên việc đặng chờ nên lớn,
Ðừng bỏ trôi qua tiếng dặn dò.
                                                              Thâu
                          Nâu:
Nâu sòng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắng chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.
                                                              Thâu
                          Kỳ:
Kỳ ba độ chúng Ðạo hòa khai,
Phải đủ địa linh mới kiệt tài.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.
                                                              Thâu
                          Xanh:
Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiên.
Lo hiệp nghĩa nhơn đồng loại giúp,
Ðừng ham quyền thế một mình riêng.
                                                              Thâu
                          Bước:
Bước giao đưa đẩy đạo nhơn luân,
Mà tánh hiền lương chẳng đặng thuần.
Ðã rõ kiếp tu là kiếp sống,
Phải lo sửa nết lại cho nhuần.
                                                              Thâu
                          Thà:
Thà theo nẻo chánh xách đèn giùm,
Thà lạy quỉ vương nói phách um.
Chưa rõ chánh tà Trời với quỉ,
Cũng như cơm nước gói nên đùm.
                                                              Thâu
                          Chim:
Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu hết cả chúng sanh thành.
                                                              Thâu
                          Ðô:
Ðô hội thay cửu nhị nguyên nhân,
Muôn kiếp chưa đem hiệp một lần.
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ Tát hết cư trần.
                                                              Thâu
                          Kiến:
Kiến cơ thì khá biết dùng cơ,
Tu luyện nay xem đã phải giờ.
Một đổi lao thân mà đắc Ðạo,
Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.
                                                              Thâu
                          Lợi:
Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời.
                                                              Thâu
                          Sách:
Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương Vương phải cháy tiêu.
                                                                         Thâu
                          Cho:
Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ai ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng đừng xảo mị gọi tài tình.
                                                              Thâu
                          Ngọc:
Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo đức mãn đời vùng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.
                                                              Thâu
                          Khanh:
Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn Ðạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết trước đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.
                                                              Thâu
                          Keo:
Keo sơn chẳng nhớ một lời thề,
Sau trước chẳng dè để đến chê.
Tánh đức ôn nhu tua tập tánh,
Ngừa cơn xuân mãn kế qua hè.
                                                              Thâu
                          Tâm:
Tâm thành thì ắt đặng đời thành,
Danh chẳng cầu mà lại có danh.
Ðặng lúc vinh huê tua giữ phận,
Phòng ngừa kẻ nghịch xúm đua tranh.
                                                              Thâu
                          Ngăn:
Ngăn ngừa cái thói lả lơi tình,
Ðừng động tâm mình thấy sắc xinh.
Ðưa bước vào đường đời ngắn ngủi,
Can chi ràng buộc tội bên mình.
                                                              Thâu
                          Siêng:
Siêng lo thì ắt đặng no lòng,
Siêng Ðạo thì đời phải lập công.
Ðừng tưởng mờ hồ vô hỏi thử,
Phạt không thành tín bắt lên đồng.
                                                              Thâu
                          Thị:
Thị thành quen thú ít ưa quê,
Ăn mặn rồi ai cũng muốn chè.
Thế sự những ham sang với trọng,
Quên lo hồn phách chẳng nơi về.
                                                              Thâu
                          Văn:
Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,
Võ lực nửa đời võ phải tiêu.
Ðức hạnh lớn hơn quyền thế vậy,
Phải toan cho rạng đức đừng kiêu.
                                                              Thâu

Trung, con phải viết thơ cho vợ chồng em Thơ hay, nói rằng Thầy khen nó biết ăn năn, lo trọn Ðạo vậy mới đáng con cái Thầy.

Ngày 15-12-1926 (âl. 11-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).
Mercredi 15 Décembre 1926 (11-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Hữu,
Chỉnh đàn cho nghiêm đặng Thầy ngự.
Qu'on dire à ces Francaise, qu'ici est un maison de prières, qu'il ne jaut pas qu'ils la considèrent, comme une curiosité.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
(Marcel martin 135 rue Catinat Sàigòn)

Debout et lis. Toute chose vient à son huere.
Tu as vu et su ce que la plupart de tes compatriotres cherchent à voir et à savoir. Ce n'est que la conclusion des recherches spérites que j'enseigne cette nouvelle doctrine.
N'ai je pas prédit que le spéritisme est une religion d'avenir. Tu as naturellement l'intetion de créer en ce pays une relation morale des deux races Francaise et Annamite appeleés à vivre ensemble par ma volonté dans une communauté de vie et d'interêt.
Tu seras satisfait par une vie d'un homme de bien. Tes voeux seront éxauces. Tu seras plus tard un de mes fervents disciples pour prêcher au monde la paix et la concorde.
L'equipe Francaise seras bientôt ereé.
Tu seras forcé de revenir en France én 1928 pour soutenir cette doctrine au congrès universel.
Tu seras grand et puissant par ma volonté. Au revoir, c'est assez pour toi.

15 Décembre 1926. Tiếp theo: 11-11-Bính Dần.

                           Soạn:
Soạn sành trong trí lớp lang dò,
Coi thử người làm thế ấm no.
Có thất đức chăng thì biết lấy,
Hết cơn tính lợp tới khi mò.
                                                                                                 Thâu
                           Về:
Về ai một cái nghiệp nhà tan,
Chẳng chịu làm ăn cứ điếm đàng.
Hai nẻo nên hư thì ắt một,
Hễ không nghèo khó chắc vinh sang.
                                                                                                 Thâu
                           Sĩ:
Sĩ mê hoạn lộ sĩ lầm đàng,
Cái bóng dáng đời há phải quan.
Ðức hạnh chẳng như đời Hiền triết,
Chưa lo ích chúng tính thân nhàn.
                                                                                                 Thâu
                           Út:
Út eo một phận chịu người chê,
Chẳng phải nên quan chẳng phải hề.
Trí hóa ở đời thôi trống lỏng,
Mà con lợi muốn với danh mê.
                                                                                                 Thâu
                           Trọng:
Trọng thân con khá biết trọng người,
Cái giá trị mình phải có nơi.
Thường kỉnh lấy thân thì kỉnh kẻ,
Chẳng ưa nhiều khóc với nhiều cười.
                                                                                                 Thâu
                           Trình:
Trình ra hai mặt thật hòa ngoan,
Khá nhớ lê quan với phép làng.
Trước mặt luật đời xem rõ thấy,
Thưởng răn phép Phật rõ ngay gian.
                                                                                                 Thâu
                           Thông:
Thông minh tánh chất đặng ôn hòa,
Nhớ hiểu Phật Trời chẳng ở xa.
Ngó thử đầu hiên xem thấy dạng,
Hung hăng ác nghiệt kệ người ta.
                                                                                                 Thâu
                           Lại:
Lại đây Ta hỏi hết lòng thờ,
Hay đến cầu xin hỏi bá vơ.
Thấy rõ lòng ngươi Ta phải đuổi,
Về lo sám hối kịp ngày giờ.
                                                                                                 Lui.
                           Tri:
Tri cơ mầu nhiệm Ðạo không ngươi,
Ham rượu cho ngon miếng thịt tươi.
Nặng nhẹ mặt cân cơ Tạo kéo,
Bần công khóc khóc lại cười cười.

                           Ðiểu:
Ðiểu mai mấy lúc đẹp duyên hài,
Chít mát là vì bởi tại ai.
Một cảnh đôi quê thân chẳng thuận,
Làm cho sắc nọ phải xa tài.
                                                                                                 Thâu
                           Hiếu:
Hiếu hạnh hườn sanh hiếu hạnh nhi,
Không lo cho vẹn Ðạo tương tùy.
Hắt hiu cứ tưởng trăng cùng gió,
Mà để cho ai đến lỡ thì.
                                                                                                 Thâu
                           Phú:
Phú cho Tạo hóa định thân người,
Oan nghiệt cũng vì bởi tại ngươi.
Nếu quả dữ răn cùng hiền thưởng,
Mới hay minh chánh cái quyền Trời.
                                                                                                 Thâu
                           Cao:
Cao xanh nào có phụ chi con,
Mà chẳng giữ cho đức vẹn còn.
May mắn một thân đôi thế giúp,
Không thì có thuở phước nhà mòn.
                                                                                                 Thâu
                           Hóa:
Hóa sanh muôn vật cảnh thiên nhiên,
Ước đặng giành nuôi lấy kẻ hiền.
Hay nỗi cơ cầu cân Tạo hóa,
Phải cho lũ quỉ thử Thần Tiên.
                                                                                                 Thâu
                           Trượng:
Trượng tài khinh nghĩa đã bao phen,
Làm mất số sang chịu khó hèn.
Ví biết ăn năn đền tội trước,
Sửa răn sửa mạng Lão ban khen.
                                                                                                 Thâu
                           Kế:
Kế cao âu rõ phép Trời cao,
May đặng đường Tiên cẳng bước vào.
Lợi mượn danh mua tua khá lánh,
Biết thân biết phận tính dường bao.
                                                                                                 Thâu
                           Ðắc:
Ðắc công đắc quả bởi căn xưa,
Nết dữ từ đây gắng phải chừa.
Ðôi mép kéo kia dầu cắt đứt,
Thì là bên đẩy với bên đưa.
                                                                                                 Thâu
                           Gồng:
Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,
Có thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa lo buổi sớm lo nồi tối,
Cái kiếp oan khiên khá dứt lần.
                                                                                                 Thâu
                           Nam:
Nam nhi phải gắng chí bền lòng,
Muôn sự dầu nên cậy chút công.
Bao thuở nằm nhà cơm tới miệng,
Của công thường thế phải cân đồng.
                                                                                                 Thâu
                           Trình:
Trình môn đã muốn ít câu văn,
Chải chuốt mép môi cũng gọi rằng.
Trí thức ít ai đem thế phục,
Từ khi tuổi trẻ biết làm nhân.
                                                                                                 Thâu
                           Ðạt:
Ðạt đầu công có gã Triệu Vân,
Tá Thục trong khi lớn sức Thần.
Chước thế thiếu văn vùa giúp võ,
Phàm thân chịu nhọc lúc Tam phân.
                                                                                                 Thâu
                           Ngoạt:
Ngoạt nhựt chi qua khổ chẳng qua,
Phải cam thủ phận cải lòng tà.
Học vui với thú phong trần khách,
Ham mến thế gian ít kẻ hòa.
                                                                                                 Thâu
Mười trăng có lẽ phận không yên,
Năm tới họa may hết lúc phiền.
Cầu biết kỉnh Tiên cùng lễ Phật,
Thì là mạng số đặng hoàn viên.
                                                              Nam Nữ Thầy thâu hết. Cần Giuộc hữu sự.

Ngày 17-12-1926 (âl. 13-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch & Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ và dạy đạo (bằng Pháp ngữ).
Vendredi 17 Décembre 1926 (13-11-Bính Dần).

THÁI BẠCH
Hỉ chư Môn Sanh,
Monsieur Dauplay est prité d'attendre la venue du Divin Maitre.

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Dieu tout puissant qui vient sous la nom de Cao Dai pour enseigner la vérité en Annam.
Dauplay: Debout et lis.
Je tiens à ta dire que rien ne se creé et néxiste sur globe sans ma volonté. De pauvres esprits prétendent qu'ils sont dans le secret de Dieu. Or, je ne donne à nul humain ici. Bas d'en jaire la révélation. Pour venir à moi, il faut des prières. Je ne néglise pas à me manijestér quand ces prières sont sincères. Il suffit, pour vous convaincre que je suis bien Jéhovah des Hébreux le Dieu des armmés des israclites, le Dieu inconnu des Juifs et le vrai Père de Jésus Christ, de me prier par ce prête nom Cao Dai pour que vos voeux soient exaucés. Tu viens à moi avec un sentiment sincère pour bien jaire aux peuples soumis qui te sont confiés. Je te prie alors de propager cette doctrine à tous tés protégés. C'est la seul qui maintient l'humannité dans l'amour des créatures et vous apporte une paix durable.

                           Sibon:
Thành tín nhứt tâm cũng đáng khen,
Không sang tột bực cũng không hèn.
Nêu danh trí sĩ nhà quan nghiệp,
Có thuở ơn ban nghiệp sách đèn.
                                                                                                 Thâu
                          Châu Thiết:
Nhà ân hậu bực tài danh,
Buồn lúc phong quang chẳng đắc thành.
Khanh tể nối đời khanh tể mãi,
Một điều khuyết Ðạo chẳng đua tranh.
                                                              Thâu
                          Dauplay:
Hoàng ngọc điệp của trâm anh,
Tập tánh ôn phu đã tánh thành.
Hiền đức nên trang ngôi điện các,
Phải ..... sửa vững lúc nghiêng thành.
                         
                          Sô:
Sô sa ít chịu vải bô ưa,
Tùy thế công danh cũng đã thừa.
Lừa lọc trăm mưu nên nghiệp cả,
Bởi không dua nịnh chúng chê thừa.
                          Tiệp:
Tiệp theo thời thế tánh hiền lương,
Cứ giữ ôn nhu chịu thủ thường.
Nếu biết mình nên là bởi đức,
Dưới quyền trẻ dại khá nên thương.

May thay nên lúc thủ ngao đầu,
Ðạo đức của con ý vị sâu.
Có thuở mạng Trời đưa sắc đến,
Nên giềng Ðạo cả chẳng bao lâu.
                                      Lâm Thị Ái Nữ, khá nói Ðạo cho em nghe con.
                          Danh Chúc:
Phật tâm ai hiểu cái người nầy,
Biết đặng cùng chăng chỉ một Thầy.
Ðừng sợ nghèo hèn lo đạo hạnh,
Của dư có kẻ đến dâng hoài.
                                                              Thượng.
                          Quyền:
Quyền con cũng lớn cửa nhà Thầy,
Những việc rầu buồn khá bỏ khuây.
Ðặng lớn thuyền rồi đừng tính chở,
Tự nhiên có kẻ đổ đông đầy.
                          Dự:
Dự vào đường Ðạo hạnh tua trau,
Ðừng đợi người kêu mới tỉnh màu.
Phương tục đã quen theo thục cách,
Ðến đền Tiên Phật dễ đâu nào.
                          Tâm:
Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,
Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.
Hễ đặng bữa cày buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên.
                          Trà:
Trà đình ai để nợ cho con,
Vì nghĩa mà thân phải mỏi mòn.
Ðừng trách Trời già không mắt thấy,
Dầu thay cơ Tạo cũng Thầy còn.
                          Dưỡng:
Dưỡng sinh đã vẹn nợ đôi bên,
Có thiếu thì con cũng trả liền.
Phủi sạch bụi hồng cho rảnh kiếp,
Thân còn chẳng kể, kể chi duyên.
                          Dậy:
Dậy đục lóng trong trách lũ chài,
Ðã an thân phận phá vì ai.
Tẻ vui đã hưởng mùi dưa muối,
Nơi thế dường như khách lạc loài.
                                                              Thâu
                          Cật:
Cật vấn cho ra lẽ ức oan,
Thôi con bớt thảm lụy tuôn tràn.
Mắt Trời đã thấy cơn nhằn nhọc,
Bởi kiếp căn xưa phải chịu mang.
                                                              Thâu
                          Duyên:
Duyên đằng thuận gió đã êm thuyền,
Bốn biển năm hồ đã đậu yên.
Khá tưởng chút tình lo nỗi hiếu,
Trả xong nhơn nghĩa Phật tâm truyền.
                                                              Thâu
                          Tiếng:
Tiếng đức còn hơn lẽ tiếng tài,
Mấy trang hằng giữ một lòng hay.
Biết người biết mặt lòng đâu biết,
Ðừng cứ đeo đai nỗi sắc tài.
                                                              Thâu
                          Lục:
Lục xem các sách Thánh Hiền xưa,
Ðều đặn lành tu dữ ấy chừa.
Ðã lóng bên tai Tiên trước mặt,
Kim Tiên Huệ Mạng thấy hay chưa.
                                                              Thâu
                          Ðầy:
Ðầy túi còn lo kiếm chứa thêm,
Cái tham thế sự thấy thì thèm.
Ưa dằn đồng dưới trên năm bảy,
Ðể của phù vân đến cũ mèm.
                                                              Thâu
                          Quân:
Quân trung ai rõ nữ anh hùng,
Lập nghiệp cho người đến hưởng chung.
Ví bẳng kẻ sau noi đứa trước,
Thì đời phúc hậu nối không cùng.
                                                              Thâu
                          So:
So đời lại nghĩ thảm cho đời,
Nhỏ biết tu mà lớn biết chơi.
Trẻ dại đôi khi lo bực trí,
Nghĩ càng phát giận lại buồn cười.
Cả bên Nam đều thâu.

    Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ] 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét