
Thơ, con làm Thánh Tượng vậy đặng; con phải tính thế in cho nhiều một lần
thì giá rẻ chút ít nghe.
Ðặng con, Thầy biết một
điều là trong hàng em út con đều là phần nghèo; một đồng nó đỡ một đồng nghe
con.
Thầy ban ơn
cho các con.
Phải Trung,
phải Thầy.
Thái dương tiếp khí quản thiên minh,
Bạch tượng
nhiên trung tửu khách tình.
Kim Khuyết đại tranh tông phái hội,
Tinh khôi cộng khởi lập điều đình.
Trần
Văn Sô:
Ðoan chánh khá khen nết chẳng thường,
Người thương Thầy cũng để lòng thương.
Nam kia ví bẵng nhiều hàng mặc,
Ðạo đức chưa ai lạc nẻo đường.
Thâu
Bùi
Văn Y:
Nẻo đường Tây Vức khó đưa chơn,
Phật trước Tiên xưa luống ngậm hờn.
Thanh tịnh ít người toan định tỉnh,
Công danh ràng rực cột chôn chơn.
Thâu
Lê
Văn Ðặng:
Chôn chơn vừa vặn cũng chôn hồn,
Chuông gióng u hồn nhẫn nhắc khôn.
Ví biết trần gian là biển khổ,
Ðạo mầu khá giữ lại cô thôn.
Thâu
Lê
Văn Cứng:
Cô thôn nhắm hướng ngóng trời Tây,
Mới biết đời nay mới thiệt ngày.
Tiên Phật ở chung cùng thế sự,
Chẳng đi mà thấy cảnh Bồng Lai.
Thâu
Lê
Văn Tỏi:
Bồng Lai chưa dễ để chơn phàm,
Của đống vàng kho chuộc chẳng kham.
Tùy tánh tùy tâm lo đức nghiệp,
Ðò xưa đưa rước đậu vào vàm.
Thâu
Lê
Văn Thiện:
Vào vàm thế sự lắm gay go,
Nửa kiếp hằng lo mỏi sức trò.
Nghiệp cũ nhà xưa còn dấu bỏ,
Trông chi lừng lẫy tính nghề to.
Thâu
Phan
Văn Tỏ:
Nghề to thì lại có lo nhiều,
Thà đặng buổi nào tính bấy nhiêu.
Gỗ nhỏ thành nhiều con khá gắng,
Khéo ăn khéo ở đặng nên chìu.
Thâu
Phạm
Văn Yên:
Nên chìu mặt thế mới nên danh,
Ðừng để tà tâm đến dỗ dành.
Phải nghĩa phải nhơn là phải Ðạo,
Thà hư
cho sạch rách cho thanh.
Thâu
Phạm
Trung Dung:
Cho thanh tâm mạng mới vững vàng,
Ðến ngó Phật Trời khỏi thắp nhang.
Khuất mắt phàm dễ ai ngó đặng,
Thầy đây đã hãn dạ cao sang.
Thâu
Nguyễn
Văn Nho:
Cao sang chẳng mượn của thường tình,
Bao phủ mình con chút khí linh.
Chánh trực Thần Tiên còn nể mặt,
Huống hồ trần cấu động vào mình.
Thâu
Nguyễn
Văn Chính:
Vào mình Thánh tước há nên mừng,
Thành đặng đôi đường phải đựng cân.
Thấy kẻ đặng vàng mình kiếm đá,
Ðua tranh chưa đủ sức ân cần.
Thâu
Nguyễn
Văn Sự:
Ân cần lo lắng đắp nền nhơn,
Phước trước thừa sau có chút hườn.
Phân định lẽ Trời ra phép nhặt,
Ðức thì phước, ác họa tai phân.
Thâu
Phan
Văn Võ:
Tai phân nạn trả lẽ thường thường,
Chớ tưởng mắt Trời ngó thiếu phương.
Non Thái dầu cao, cao hóa thấp,
Chậu kia dầu kín thấy thông thương.
Thâu
Hồ
Văn Cho:
Thông thương ngó rõ tánh lòng người,
Con chớ tưởng lầm tiếng nói chơi.
Vè thử Thầy cho con đặng phép,
Làm sao cho khuất bóng Thần ngươi.
Thâu
Dương
Văn Cử:
Cũng lúc láo tới lạo xạo,
Ðạo biết gì ham muốn mão.
Thâu cho làm đồng nhi, rán
học giỏi sau Thầy cho đội con nghe.
Tr. Văn Giáo:
Thần ngươi xem khắp cả Càn Khôn,
Coi khắp nhơn sanh với giữ hồn.
Nếu trẻ biết quyền cầu khẩn thử,
Sang năm đổi số lạnh ra ôn.
Thâu
Ngô
Văn Liêng:
Ôn hòa cứ mực xử cùng đời,
Nương bóng Cao Ðài đủ khắp nơi.
Nên mặt trò kia Thầy có giá,
Chưa khoe dạn nắng chiếu không phơi.
Thâu
Trần
Văn Xường:
Phơi gan xử thế nết anh hùng,
Xấu mặt mà lòng thiệt rất trung.
Thầy để một lời khuyên trẻ nhớ,
Không duyên thôi chịu mạng nghèo cùng.
Thầy dạy con phải nghe,
dầu con ham mến sự đời lại càng khổ cực.
Thầy cho con chức Lễ Sanh
ở tại Thánh Thất tu hành nghe à.
Nguyễn
Văn Nhãn:
Nghèo cùng mà chẳng bợn của ai,
Thân cũng yên thân, tánh chẳng nài.
Một mặt trung lương ai cũng rõ,
Nông trang ngày cũng rõ anh tài.
Thâu
Phan Văn Lực:
Anh tài chưa biết dựa quyền người,
Còn nói chi chi bổn phận ngươi.
Tranh đấu cuộc đời là huyết chiến,
Nhứt nhân chịu khổ, chịu người cười.
Thâu
Trung, con biểu buồn ngủ
há?
Mai Văn Xinh: Thôi thì thâu.
Mai Bá Hi: Thây nó con Cư, cười.... Con biết chúng nó là chi
của Thầy. Ðừng hiếp đáp, để mặc Thầy dạy dỗ. Thâu.
Nguyễn Văn Lượng: Thâu nữa.
Nguyễn Văn Hạp: Cũng thâu.
Lê Văn Tao: Thâu.
Nguyễn Văn Tỏ: Thâu.
Mắc, Thầy dặn con cứ nghe
lời Thầy. Con nghe: Thầy giúp con làm công quả đặng chuộc tội cho cha con và
cứu Cửu Huyền Thất Tổ con, song tùy theo con chứ Thầy cũng phải giữ lẽ công.
Chừng nào con làm đủ âm chất, Thầy sẽ cho cha con nhập cơ mà hội diện với con
nghe à.... Cười.
Còn sắc phục con phải mặc
nịt một sợi dây lưng ba màu: vàng, xanh, đỏ; có chữ ngay giữa: Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ và một cây trương, trên có lá cờ cũng đề như vậy.
Bộ y phục như của Tạ, nghe
à ....
Sanh, con đừng lo lắng quá
nghe.
Thầy muốn gìn giữ lại đôi
lát, chờ ngày nào Thầy định sẽ hay. Con nói lại với vợ con nghe, Thầy sẽ nói
với nó, vì của ấy còn cao giá nữa hiểu à?
Trần Văn Hên: Thâu, Thầy cho con ở
chùa tu hành, cũng đặng chức Lễ Sanh vậy.
Mỗi Nữ phái đều thâu con.
Cư xem mau mau xuống giải tà cho một người phụ nữ nghe. Ngày mai Thầy sẽ cho Nữ
phái thi.
Ngày 02-12-1926 (âl. 28-10-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy
"... sắp đặt trang nghiêm trong
Thánh Thất...".
Jeudi 02 Decembre 1926
(28-10-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Thiên Phong bình thân, Bần
Ðạo chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội.
Thầy sai Bần Ðạo đến sắp
đặt trang nghiêm trong Thánh Thất.
Thượng Trung Nhựt, Hiền
Hữu từ đây cấm không cho Vĩnh nhập Ðàn.
Thanh Hương, từ đây Hiền
Muội cấm không cho... nhập Ðàn nghe.
Bần Ðạo phân phép từ ngày
nay hễ nhập Thánh Thất thì phải giữ phép Nam Nữ bất thân: Nam ở Ðông hiên, Nữ ở
Tây hiên.
Hai bên không đặng lân cận
nhau. Nam theo nam, nữ theo nữ, cấm cười cợt trửng giỡn với nhau, trừ ra vợ
chồng hay là chị em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn với nhau nơi Tịnh Ðàn.
Còn kỳ dư như hai đàng muốn chuyện vãn nhau phải có hai người chứng: một bên
nam, một bên nữ.
Phòng trù dù phải chung
lộn nhau buổi nấu nướng, khi dọn ăn chẳng đặng lộn xộn cùng nhau nghe à.
Thơ Thanh, Hiền Hữu phải
viết luật cấm nầy dán nơi Thánh Thất nghe à.
Quới, ngươi ở đây lo công
quả chớ chẳng phải có mặt lấy vị nghe không, liệu lấy. Phải chỉnh Ðàn cho Thầy
giáng.
Ngày 03-12-1926 (âl. 29-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu
Môn Ðệ.
Ngày 29-10-Bính Dần (03-12-1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, hỉ chư Nhu,
hỉ chư Ái Nữ, hỉ chư Tín Nữ,
Hầu Ðàn: Thầy cho chư Nhu
cầu Ðạo, thượng sớ.
Minh Lý: Thầy cho các con
sắm lễ đi, cho khỏi phụ tình em út các con.
Ðại phục: Cười .... Bỏ
Thánh Thất há?
Thái Bạch giận đa con, sai
người khác đi như Hóa Thầy cho phép.
Hợi, con ôi nó còn chưa biết tu là chi hết.
Con cứ đi ??? Cười....
Chẳng hữu ích nhiều mà con thức tỉnh nó lần lần coi.
Lê
Văn Ðâu:
Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,
Thế thượng không ai biết giá nài.
Giá một cuộc trần nhiều kẻ chuộng,
Nay con nên nghiệp khỏi ai nài.
Thâu
Nguyễn
Văn Xiên:
Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
Ðưa rước như đò đông buổi chợ,
Nửa phần liệu túi, nửa đưa tay.
Về lo ăn năn tội
trước nghe.
Nguyễn
Văn Nhiều:
Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
Thầy dặn biết tu Thầy cải số,
Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.
Thâu
Nguyễn
Văn Ký:
Ký thành một cuốn gọi Thiên Thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
Thâu
Nguyễn
Văn Lục:
Lục thông trần thế chẳng ai hay,
Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.
Thầy đến nói thời con định quả,
Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.
Thâu
Nguyễn
Văn Nhì:
Nhì thân ai biết có bên mình,
Một cái là phàm, một cái linh.
Vắng dạng nhưng
trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.
Thâu
Nguyễn
Văn Chánh:
Chánh tà hai lẽ thế mờ hồ,
Giả thử thấy chuông ướm nói ô.
Thiên Ðịa cảnh Trời xây trước mắt,
Thấy cơ định vật ấy là đồ.
Thâu
Lê
Văn Tăng:
Tăng thôi một kiếp cũng là duyên,
Chẳng định trước kia ước chẳng tuyền.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.
Thâu
Nguyễn Văn Thượng: (Thường?)
Thường xem khí số biết Thiên Cơ,
Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.
Thâu
Trang
Văn Lục:
Lục chu may trộn giống màu thanh,
Bô vải mà che một tấc thành.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.
Thâu
Nguyễn
Văn Tuất: (Tuấn?)
Tuấn tú thay một mối cơ đồ,
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.
Thâu
Bùi
Văn Ðứa:
Ðứa nên ai lại nỡ làm hư,
Con cũng có công đức đến chừ.
Thầy phải đếm dư vì vắng mặt,
Phong làm Giáo Hữu trả ơn trừ.
Thâu
Nguyễn
Văn Tửng:
Tửng chơi cho hiệp ý con cầu,
Thầy dạy con về đến Suối Sâu.
Gặp mặt hai chàng đi hỏi Ðạo,
Thì con dắt nó đến đây cầu.
Thâu. Giỏi Thầy sẽ
thưởng công.
Lê
Văn Hành:
Hành thuyền kỵ mã miệng đời chê,
Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.
Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,
Nương đường đạo đức khó trăm bề.
Thâu. Về lo luyện
tánh lại nghe.
Nguyễn
Văn Phú:
Phú cho Tạo Hóa ấy là Thầy,
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
Thầy vốn như người khiêng gánh mướn,
Ðau đau thảm thảm chở cho đầy.
Thâu
Nguyễn
Văn Hoằng:
Hoằng thân mảng những cúi lòn hoài,
Chẳng nở mặt cùng đối với ai.
Thương đời để dạ thương còn quả,
Trước muốn tiêu tai ách giữ ngay.
Thâu
Nguyễn Văn Giác:
Giác thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,
Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.
Thâu
Nguyễn
Văn Còn:
Còn đời chìm nổi lắm gay go,
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
Thôi cứ thành tâm làm phước mãi,
Không nên danh Thánh cũng đưa đò.
Thâu
Huỳnh
Văn Bá:
Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa quyết thân còn vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.
Thâu
Nguyễn
Văn Cận:
Cận hiền như thể dựa chi lan,
Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.
Biết Ðạo dù ai toan muốn hiếp,
Lòng trong e lệ giống hầu quan.
Thâu
Nguyễn
Văn Trì:
Trì tâm tu hướng
đáo Tây Phương,
Bất viễn kiêm môn hữu mã đường. (kim?)
Huỳnh khuyết dĩ văn tâm khẩn nguyện,
Thành khôi đắc thế hiệp trinh tường.
Thâu
Trương
Văn Hòa:
Hòa trên thì dưới mới an tâm,
Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.
Thương vợ cũng đồng em út vậy,
Một bên cốt nhục nọ tình thâm.
Thâu.Về sửa gia
đình lại tái hầu.
Bùi
Thị Tài:
Tài hay con bớt nết hung hăng,
Phải sửa mình hay chịu nhọc nhằn.
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.
Thâu
Trương
Thị Bèn:
Ban mai ai đẩy mặt trời lên,
Không đặng cao sang chí kém bền.
Nặng gánh thì con toan ít chở,
Chẳng khoa mà lại vọng nêu tên.
Thâu. Con đợi lịnh
Thái Bạch con.
Thầy ban ơn
cho các con. Thăng.
Samedi 4 Décembre 1926 (30-10-Bính Dần)
THÁI BẠCH
KIM TINH
Chào chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ðạo Quang, Hiền Hữu nghe:
Nơi Thánh Thất nầy chưa ai
gọi mình lớn hơn ai, vậy Hiền Hữu cũng phải thủ lễ như thường nghe.
Thầy dạy Lão sắp đặt cho
nghiêm khi làm lễ, những kẻ quạt xuất ngoại.
Từ đây không cho phép vậy
nữa.
Kiệt, Hiền Hữu đặng thọ
phong Giáo Hữu. Chỉnh Ðàn cho nghiêm đặng Thầy giáng.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Cười .... Thầy xin không
thôi thì Thái Bạch đã mời Như Nhãn vào đặng nhục mạ rồi. Thầy nói ít các con
hiểu nhiều nghe. Trung, Trang, Tương, Thơ, Hóa, Thanh Hương, các con lo tính
như Thầy đã dặn? Chẳng lẽ các con đã thấy nó khi mạng lịnh Thầy dường ấy ngồi
ngó cho đành.
Hương Thanh xin lựa cất
Thánh Thất nơi gò đất gần đó cho xứng đáng.
Không Ái Nữ, chi chi cũng
tại đây mà thôi con.
Môn Ðệ Thiên Phong xin hồi
tiền lại cho Hòa Thượng Giác Hải.
Phải vậy rồi.
Các con sẽ thấy Thầy trị
chúng nó thể nào.
Lâm Thị Ái Nữ, con đừng
rầu buồn lo lắng, để Thầy định liệu với mấy anh con.
Chư Nhu cầu Ðạo thượng sớ.
Chư Môn Ðệ bình thân. Kiệt lạy Thầy tạ ơn Thiên Phong Giáo Hữu.
Kiệt, con đáng công cho
Thái Bạch ban thưởng. Thầy mừng cho con.
Trịnh Thị Thị, con là Môn
Ðệ Thầy rồi....
Tạo:
Tạo nên sự nghiệp thế ai màng,
Chưa đến đài mây đã đặng sang.
Trau chuốt nền nhơn con gắng vó,
Thầy đây sẽ để một ngôi hàng.
Thâu
Hứa
Thị Nhiều:
Nhiều phen than thở phận côi cùng,
Chẳng biết cùng ai tỏ dạ trong.
Nương bóng liễu chờ nhành bá gặp,
Thương thương chưa biết lẽ nên không.
Thâu
Xúc:
Xúc lòng nhắm lại cảnh trời Nam,
Một sắc dân xưa chẳng phải phàm.
Cũng bởi Ðạo lầm nên mất nước,
Chịu nhiều khổ não lắm trân cam.
Thâu
Nhị:
Nhị Châu chẳng hiệp với Bộ Châu,
Như chỗ nghỉ ngơi với điện hầu.
Trước có duyên xưa mong mỏi đến,
Khá lo tu niệm Ðạo cao sâu.
Thâu
Phạm
Thị Thành:
Thành lòng đi đến chốn điện đình,
Lòng thật Phật Trời mới thiệt linh.
Lửng đửng lờ đờ chưa quyết đoán,
Tin Trời tin Phật trước tin mình.
Dương
Văn Ngọ:
Ngọ chưa thấy bóng kế Mùi sang,
Trông đặng vinh huê hưởng chữ nhàn.
Như lúc Tử Nha đưa cán trúc,
Câu thời câu vận cá nào ăn?
Hữu:
Hữu ái con tua để tấc lòng,
Giúp đời công ấy vốn đầu công.
Nên người mình biết nên mình vậy,
Ðừng cách phàm tâm tánh dự phòng.
Ngô:
Ngô chưa quét Thục Ngụy tranh phong,
Một dãy non sông chứa bá tòng.
Bền chí để ngươi xem bát địa,
Trời đương un đúc đấng anh hùng.
Miêng:
Miêng trường có một nẻo là tu,
Thương đám nhơn sanh nhẫn viết mù.
Nếu đặng thật lòng lo cứu chúng,
Thầy đành giao đứt một Tiên chu.
Sau trọng dụng.
Sang:
Sang hèn trối mặc nhún cùng trề,
Phải biết giá mình mới biết chê.
Ðứa trẻ chưa quen quyền Lão xá,
Ðái đầu rán chịu ướt dầm dề.
Cười ... Thâu.
Tho:
Tho thơm chi cũng vốn mùi đời,
Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời.
Bính:
Bính niên ngộ đắc vận thời lai,
Tâm diệt phàm trung Ðạo cả hoài.
Tại nội bất tri Thiên sắc tứ,
Năng tu quả nhựt diệu cân đai.
Chạy:
Chạy Trời trốn nắng ít ai lo,
Còn mảnh phàm tâm khổ nỗi trò.
Muốn cải cho qua căn số định,
Ngừa chừng giận dữ lúc giông to.
Quí:
Quí cho những kẻ tánh thiên nhiên,
Chẳng phải là ngu thiệt bởi hiền.
Trời Ðất trăm ngôi đà chín chín,
Tánh tình dường
ấy vốn là Tiên.
Khiêm:
Khiêm cung từ thuở tuổi thơ sanh,
Thương mẹ hiếu cha lắm nhọc nhằn.
Công quả ấy Thầy đà chép trước,
Nay xem tạng mặt thấy tu đành.
Nhâm:
Nhâm huyền nhứt khí nguyệt thanh quang,
Thùy vấn hà môn chỉ thị càng.
Thiên Ðịa vô ngôn thường tại thế,
Bất tri hà xứ kiến tinh quang.
Thiên:
Thiên thơ dĩ định nhứt danh qui,
Tam Giáo quy nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đảm tánh đáo khinh khi.
Ðinh:
Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời.
Hà
Văn Ðược:
Ðược thì mừng tu cực thì lo,
Phải nhớ câu thì lựa cá to.
Ngồi đợi nóng lòng đừng rút nhợ,
Cả ngày buồn giựt chẳng nên trò.
Võ
Văn Nam:
Nam nhi có nợ của song thân,
Biết chút lúa ăn chịu Ðạo phần.
Mình muốn rảnh rang Nhơn đạo xử,
Xong xuôi rồi mới đến Ðài Vân.
Lê
Văn Triều:
Triều thần mang nặng vẻ đai cân,
Lòn cúi chìu theo một Ðạo thần.
Nương bóng hạc cầm vui ít kẻ,
Hay chi quì lạy đứng ngoài sân.
Lê
Văn Tài:
Tài mạng thường hay ghét lẫn nhau,
Hễ là có nhọc mới danh cao.
Chưa người nằm giữa nhà chờ của,
Biển nọ muốn qua mặc sóng nhào.
Phạm
Văn Quí:
Quí là tánh hạnh chẳng khoe khoang,
Cười kẻ trong lân tới cửa làng.
Hay tánh giúp cô đôi lúc chịu,
Nhọc thân chẳng quản cứ bền gan.
Thầy khen.
Lai:
Lai Châu tiếng hạc gáy reo vang,
Sao chẳng tỉnh mê giấc ngỡ ngàng.
Năm lụng ngày qua thêm chất tuổi,
Những là lỡ lính với lừa quan.
Sánh:
Sánh vai Sào Phủ ẩn danh xưa,
Vì nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười khan vui khóc thấy hay chưa.
Thờ:
(Thời?)
Thời lai gió đẩy đến Ðằng Vân,
Thường biết mình tuy cũng kép bần.
Như ốc mượn hồn đời há tiếc,
Bỏ qua cho rảnh kiếp phong trần.
Phạm
Văn Nghé:
Nghé nghe thì lóng tiếng hiền lương,
Ðạo đức con tua giữ một đường.
Biển đổi non dời đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường.
Nguyễn
Thị Bày:
Bày đờn ai khéo sắm đờn đây,
Ðể quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy.
Thầy khuyên các
con coi Thánh ngôn là quí trọng.
Nguyễn
Thị Tỏ:
Tỏ cùng vì gió nhắn chim Hồng,
Ngán bước đường mây mỏi dạ trông.
Gát nhớ riêng than câu biệt khách,
Phui pha qua lúc thẹn mình hồng.
Thị
Kén:
Kén tài mà lại chẳng nên tài,
Chẳng khác như nhằm rủi ước may.
Ðợi bóng thiều xế ngang cửa sổ,
Thành không thì cũng nội năm nay.
Phạm
Thị Tiếng:
Tiếng đời hằng nói phước do lành,
Con
chẳng biết tu cứ cạnh tranh.
Thiếu
thốn chi con còn bức xách,
Thương nhau đồng loại cội và nhành.
Võ
Thị Tỵ:
Tỵ hiềm đừng để khí xung thiên,
Danh của Thầy con nhớ liệu nên.
Cầu nguyện Thần linh là thuốc báu,
Trong điều tai nạn bởi không hiền.
Thị
Hội:
Hội xem cho rõ phép Thiên Hoàng,
Cầu lếu những điều của dị đoan.
Biết
Ðạo biết tu là kế khéo,
Lựa là
nay chọn với mai sang.
Thầy
không cho cầu thuốc nghe.
Trì
Chia:
Trì Chia người
Thổ thiệt,
Ðạo đức kia còn biết.
An Nam thiệt giống Nam,
Vô Ðạo coi muốn hết.
Hòa
Rấu:
Hòa rấu tại nhà đã đủ đôi,
Không thua ai ngày đủ hai nồi.
Phật Trời chứng chiếu lòng con thảo,
Lễ cúng Thầy đều đặn hưởng xôi ...
Cười
...
Cung:
Cung kính Phật Trời vốn họ ngươi,
Thầy khen cũng hết tỏ ra lời.
Thờ Thầy nếu đặng lòng thành thật,
Thầy giúp tuổi già đặng thảnh thơi.
Nội khuya
bữa ấy có chư Nhu ở Soài Riêng qua xin nhập môn, giữa đường rủi bị đụng xe nên đến
trễ. Bèn chỉnh Ðàn tái cầu.
Tái Cầu:
THÁI BẠCH
Quỉ Vương đại ác.
Chỉnh Ðàn nghiêm trang
Thầy ngự.
* * *
THẦY
Các con.... Cười....Thượng
sớ.
Ðỗ
Ðơn Hóa:
Hóa đức thiên tâm tắc Ðạo khai,
Hà do ngạ loại quỉ đương tài.
Phiêu phong chánh khí thiên thu tạo,
Tân thế minh oan đắc đảnh đài.
Thầy sẽ lập vị cho
con nơi ấy... Thâu.
Lê
Văn Nhu:
Nhu phong chánh pháp nhủ truyền gia,
Ngọc mã kim môn đắc địa hòa.
Thánh chí biến sanh Nam Quốc vượng,
Thần oai hội hiệp tụng âu ca.
Thâu
Ðặng
Quang Mão:
Mão đai đặng thuở hoạn đường dò,
Mảnh thế nhiều phen chịu đắn đo.
Tháng lụn chờ cơn nơi nẻo chánh,
Thầm than chưa mặt đáng vai trò.
Thâu
Bùi
Trừ Phòng:
Phòng cơn bình địa nổi phong ba,
Con nhớ ngày nay đã có nhà.
Phải mắt phải tai tua cứu chúng,
Khỏi nơi khổ hải chịu mình sa.
Thâu
Nguyễn
Văn Nhượng:
Nhượng cho kẻ trí dắt dìu mình,
Phải biết lóng đời nỗi trọng khinh.
Âm chất lo trau mình vẹn trước,
Trị đời đáng thế đến hòa bình.
Thâu
Lê
Văn Giảng:
Giảng lời đạo đức dạy người hiền,
Chẳng phải là quan ấy mới Tiên.
Lợi lộc chê hơn câu tiết nghĩa,
Ðừng qua nửa bước quá rừng thiền.
Thâu
Ðoàn
Văn Trọng:
Trọng câu phước đức dạ lo nhân,
Phải mặt thanh liêm giữ kiệm cần.
Phú quí ấy là nơi Thiên định,
Bão bùng hết lúc đến hồi an.
Thâu
Nguyễn
Văn Ðức:
Ðức cao thì mới đáng nên người,
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
Có đức có tài giềng Ðạo trọng,
Không tài không đức hóa không thời.
Thâu
Nguyễn
Văn Bộc:
Bộc thì tu khảo thế huyền linh,
Thành đọa tùy công sở Ðạo hành.
Gia thế kiêm triêu thừa phúc hậu,
Thiên quang chánh đức dĩ khai minh.
Thâu
Trương
V. Quãng:
Quãng trí minh tâm tắc thức thì,
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ tâm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc cảnh Thiên ban hóa dạ trì.
Thâu
Trần
Văn Ðước:
Ðước tánh còn lo lắm nợ đời,
Ðường tu chưa đặng bước xa khơi.
Trong Trời miễn trẻ đòi ngày tưởng,
Dạ vọng từ nhiên hóa tiếng mời.
Thâu
Nguyễn
Văn Quãng:
Quãng chi cái số thảm cùng sầu,
Ở thế mà ngờ tưởng ở đâu.
Thương chút tấm lòng thành thật vậy,
Nhiều khi sợ lỗi với trên đầu.
Thâu
Võ
Văn Niên:
Niên ngoạt nhựt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thị phong vân.
Thương tâm hoài cổ lưu linh chí,
Thiện ác tùy công diệt đọa trần.
Thâu
Lê
Văn Nhân:
Nhân là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhân dân hóa quan.
Dân có trí nhân nhà nước trị,
Nước nhà nhân thiệt một cơ quan.
Thầy khuyên Nhân
phải tu nhân nghe. Thâu.
Nguyễn
Ðăng Khoa:
Ðăng khoa thì có chức thì không,
Nghĩ đến thẹn cho mặt Tử Phòng.
Dưới đích làm ngai Tam Quốc vịnh,
Thầm lo có một tiếp Châu Công.
Thầy khuyên khá
kiếm cao kỳ mà hiểu nghe. Thâu.
Võ
Văn Tỵ:
Tỵ ác thân hiền mới phải trang,
Cũng trong xã hội một quan làng.
Ðưa đời ví biết vì dân dại,
Thì trước con tua dạy một làng.
Thâu
Ðài
Văn Lía:
Lía lịa mà chưa biết niệm đời,
Những lo nắng sớm với mưa mơi.
Cơm ngày hai bữa dư chi uổng,
Mặc thế đua chen thói bốc rời.
Thâu
Nguyễn
Văn Truyện:
Truyện tích từ xưa chỉ dạy rằng,
Mặt đời trung nịnh dễ ai ngăn.
Minh mông Trời Ðất còn không lọt,
Huống lấp tội tình khỏi lưới giăng.
Thâu
Ngày 06-12-1926 (âl. 02-11-Bính Dần): Ðức Thái Bạch
& Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ, lập Tân Luật và dạy đạo.
Lundi 06 Décembre 1926 (02-11-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Nhu, chư Tín Nữ,
Tửu.... Ða tạ.... Ða tạ.
Thượng Trung Nhựt, Hiền
Hữu nghe. Ngọc Lịch Nguyệt nghe. Ða tạ.
Nhị vị Hiền Hữu có mặt tại
đàn Minh Lý há? Bái tửu. Cười....
Nhị Hiền Hữu có biết Tề
Thiên ngày hôm qua Tề Thiên nào chăng? Cười.... Ấy là Tề Thiên ngày Ðại Lễ, nhập
xác cho Vĩnh của Lão đến nghe à.
Ta khen cả 4 vị Hiền Hữu
chẳng bái lễ, thật rất phải thật rất hay, khen khen khen....
Tắc ngày ấy không có mặt,
đừng vậy nữa.
Lễ chi? Ấy là cách chơi
của lũ trẻ.
Từ đây đọc câu kinh nầy
lại như vầy:
"Từ bi cứu thế giáng từ thiền".
Thượng Trung Nhựt bạch:
Xin Ngài từ bi sửa kinh lại luôn thể.
- Lão sẽ đặt lại hết. Chỉnh Ðàn
cho Thầy ngự.
NGỌC HOÀNG
THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ,
chư Nhu, chư Tín Nữ,
Trung bạch Thầy xin cho
đình lại qua ngày thứ bảy tới sẽ nạp luật cho Thầy phê chuẩn....
Phải ở luôn luôn nơi Thánh
Thất đặng lập luật sẵn. Nghe Thầy dạy, khởi đầu lập "Luật Tu" gọi là "Tịnh
Thất Luật", kế nữa lập "Luật
Trị" gọi là "Ðạo Pháp
Luật", ba là lập "Luật
Ðời" gọi là "Thế Luật",
các con hiểu à?....
Hồng, con phải đợi ngày
nào Thánh Thất an rồi, Thầy sẽ liệu định cho chư Huynh con lo liệu nghe à.
Chư Nhu thượng sớ:
Lê Quang Tường:
Tường quang nhứt khí chiếu minh thiên,
Ðạo thủ khả tri ý diệu huyền.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu nguyên nhiên.
Thâu
Chư Môn Ðệ biểu cả chúng
sanh vào trong, dặn nó đứng gần cửa cho có hàng ngũ và an tịnh đặng nghe Ðạo.
Võ
Văn Bửu:
Bửu kinh đệ chiếu triệu qui hồi,
Khả tác từ duyên bất cử bôi.
Thiên Ðịa vô công Nam nhập hội,
Thành tùy luật khích nhân dân hồi.
Thâu
Nguyễn
Văn Nén:
Nén hương đưa đủ nguyện lòng đưa,
Thầy khá khen cho tánh dối lừa.
Trời để mắt xem đời thiện ác,
Dữ răn lành thưởng thấy hay chưa?
Khá cải tà qui
chánh nghe. Thâu.
Ðặng
Văn Viết:
Viết thành một bổn hiển Thiên Thơ,
Ðã trước muôn năm để tới giờ.
Lành dữ kiếp căn gần ngàn lượt,
Một phen lau sạch nợ thờ ơ.
Thâu
Lê
Văn Tiền:
Tiền duyên hậu vận rất vừa nhau,
Chẳng có một ai gọi khởi đào.
Mình muốn cải Trời là tưởng mộng,
Ðể xem cơ Tạo sẽ làm sao.
Thâu
Ngô
Văn Bá: (Thanh Ðiền, Tây Ninh)
Ðá bia danh tạch chẳng bền chi,
Cái khó tua lo kịp với thì.
Danh lợi từ nhiên theo đạo đức,
Ðặng hay điều dở có lo chi.
Thâu
Phụ ghi: ...danh tạch...
chúng tội nghĩ có thể la?...danh tạc...
Nguyễn
Văn Khách:
Khách du Tiên đời chẳng mấy người,
Cứ bốn điều tà gấm ghé chơi.
Cuộc rượu mắc hơn trăm kệ tụng,
Ðường oan nẻo tội hiếm người mời.
Thâu
Trung, từ đây sắp Ðàn
nghiêm nghị một lần, rồi cứ đứng chỗ nầy chớ đừng làm có tiếng tăm nghe.
Tái
Cầu:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Chư Nhu thượng sớ.
Nguyễn
Văn Ðức:
Ðức tánh khen con có chí thành,
Lần đường đạo đức chẳng cầu danh.
Ghe phen cửa rách hiên nhà lủng,
Chẳng quản lao lung giữ tiếng lành.
Thâu
Phạm
Ngọc Mai:
Mai tuyết đua chen trận gió đông,
Chia hai sắc trắng vẻ màu hồng.
Ðưa duyên đã lắm cơn
may mắn,
Trước cửa khoe tươi cợt ả hồng.
Thâu
Trần
Văn Gạo:
Gạo châu củi quế gặp thời hư,
Biết bấy lâu chờ gặp thói dư.
Mãn nguyện chưa xong gia sự biến,
Còn lo một nỗi sắc còn tươi.
Thâu
Nguyễn
Văn Nhương:
Nhương là không nghĩa vốn không người,
Cái tánh dị thường ấy giống ngươi.
Chặt chịa cùng đời chưa rõ ích,
Thân còn lững chững nợ chưa rồi.
Thâu
Mai
Văn Xuân:
Xuân thu biết đã đặng bao rồi,
Nghiệp chẳng nên mà vận chẳng xuôi.
Gặp lúc tai bay hơ hẫng chịu,
Lần theo đường Ðạo nợ đời rồi.
Thâu
Ðoàn
Văn Thương:
Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu,
Ăn thể ăn đi chịu thảm sầu.
Con vốn như người Thầy nói đó,
Biết ai con trả lại đôi câu.
Biểu nó nói....
nhà Thương ai chẳng chịu lộc nhà Châu.
Lũ bây cũng chưa hiểu thơ
há? Cho nữa vô ích. Thầy nói Thương là nhà Thương, các con hiểu thương là
thương, ngu ngu ngu....
Cư, con đọc già đời cũng
vậy há.
Thằng Thương nó giống như
Bá Di, Thúc Tề nó mới chịu khổ vậy đó các con.
Nguyễn
Văn Nở:
Nỡ đem thân ngọc bỏ đồng không,
Hiu hắt một thân chẳng biết giòng.
Lo liệu chưa qua điều sở vọng,
Nay toan để bước lối nâu sồng.
Thâu
Phạm
V. Truyện:
Truyện tích xưa ghi lẽ khí trung,
Cũng là giòng giống đấng anh hùng.
Bởi chưng chưa biết quyền Trời Ðất,
Lại để cháu con gánh não nùng.
Thâu
Trương
Văn Nho:
Nho truyền đã lắm nhục bề Tiên,
Mặt thế chưa ai biết nét hiền.
Có lợi cho danh thường hiếp chúng,
Vì điều oan nghiệt tổ tiên truyền.
Thâu
Võ
Thị Xòn:
Hầu Ðàn nữa, khá trai giới, cải tà qui chánh.
Trương
Văn Chua:
Chua cay đã chịu lắm mùi đời,
Bán thế gỡ chưa khỏi vận thời.
Kẻ hiếp người khi vì chánh trực,
Gặp Thầy khi trẻ đặng an nơi.
Thâu
Phạm
Thị Yến:
Yến Tử Hà xưa
lúc vận cùng,
Còn mang dép rách đến Quang Trung.
Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng.
Thâu
Nguyễn
Văn Bạch:
Bạch thủ thành gia ít kẻ tài,
Cũng như Huệ Mạng thế không hai.
Việc đời chẳng khác quyền Trời Ðất,
Duy cứ đức đong đến võ đài.
Thâu
Nguyễn
Văn Trữ:
Trữ đức còn hơn muốn trữ vàng,
Giàu sang chẳng chuộng gánh giang san.
Hễ đời càng dữ càng kiên đức,
Võ lực hùng oai cũng chẳng màng.
Thâu
Thầy dặn từ đây, hễ có cha
mẹ các lũ trẻ nào đã làm Môn Ðệ, đừng để chúng nó làm rộn Thầy như vậy nữa
nghe.
Lê
Thị Trước:
Trước lâm chứa đặng bảy ông Hiền,
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền.
Thâu
Giác:
Giác đời từ thử một mùi thiền,
Ðã đợi Phật duyên, gặp Phật duyên.
Hé mắt nửa ngờ còn nửa tưởng,
Tính đi tính lúng đặng như nguyền.
Cười.... Thâu.
Trung, con nói với chúng
nó nơi Thánh Thất nầy duy để cho chúng sanh cầu Ðạo mà thôi.
Qua ba tháng, Thầy sai Lý
Bạch cho thuốc và gia đạo.
Chẳng lẽ bậc Chí Tôn như
Thầy, mà cho hỏi những việc phi thường dường ấy. Thầy ban ơn cho các con.
Lundi 06 Décembre 1926 (02 tháng 11 năm Bính Dần).
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO
ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, chư Ái Nữ,
chư Nhu, chư Tín Nữ,
Ta vì lòng Ðại Từ, Ðại Bi,
vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôn chỉ để vớt
những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi, và
nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế
nầy.
Than ôi! Ðiều vui sướng
lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới; mối đạo đức trau thân là phương
châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi mà
tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất
nặng nề, đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Ai đặng phước thì trí não
vẫn thanh cao, lòng tin tưởng càng thêm cao trọng. Ai vô phần thì trí não vẫn
mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội; biết biết không không, luật Trời đã định
phần; công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước khách tục lúc chung qui
đó.
Sanh nhằm đời có một Ðạo
chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non cao kiếm ngọc
lại càng khó; khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức,
sau ăn năn rất muộn.
Ngày 07-12-1926 (âl. 03-11-Bính Dần): Ðức Quan Thánh
Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ..
Mardi 07 Décembre 1926 ( 03 tháng 11 Bính Dần).
Khai Ðàn Huỳnh Văn Sĩ.
Thiên Phong bình thân.
Quang
minh khá rõ chánh cùng tà,
Thánh
đức ngôi xưa chẳng ở xa.
Hữu
phước sẵn Thầy năng cải số,
Kỷ
cang liệu để tánh ôn hòa.
Quan Thánh Ðế thừa mạng Ngọc Hoàng Thượng Ðế khai Thiên Bàn. Khai Ðàn.
Nguyễn Văn Hùng:
Hùng
suy đã lắm thảm buồn vui,
Cái bả
vinh hoa hưởng đủ mùi.
Ðạo đức thần linh không kẻ chuộng,
Éo le hơn thiệt gánh không rồi.
Quan Thánh Ðế đại hỉ, đại
hỉ.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét