Q. 3/30: ĐÁP TỪ LỄ "CHÚC THỌ" CHO NGÀI TẠI ĐẠI
ĐỒNG XÃ.
Ngày mùng 5 tháng 5 năm
Canh Dần (1950)
Trước khi mở lời đặng cám ơn cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ lưỡng
phái và Thánh Thể của Ngài tức nhiên Hội Thánh. Bần Đạo xin nghiêng mình chào
các nước lân bang đã
có tình thân hữu cho các vị
lãnh sự Sứ thần đến dự cuộc lễ này, Bần Đạo xin để
lời cảm tạ thâm tình ấy.
Thưa cùng Hội Thánh, mấy em Nam, Nữ lưỡng phái. Nhứt là
đám thanh niên, đồng ấu, những lời của Bần Đạo nói ra đây côt yếu để vào óc các
em hơn hết. Sáu mươi mốt tuổi tưởng như các người mà đặng hưởng hạnh phúc vô
biên ấy. Bần Đạo tưởng có lẽ Bần Đạo đây cũng đứng một trong các người ấy.
Hơn
nữa là hai mươi bốn năm qua Bần Đạo không hề tưởng tượng được một cái hồng ân
vô đối của Đức Chí Tôn đã chan rưới cho giống nòi Việt Thường nầy giữa hồi nhơn
tâm điên đão, quyền hành tinh thần đạo đức điêu linh tâm hồn loài người thống
khổ vì thiếu phương an ủi, ta đã ngó thấy nhiều lẽ bất công của xã hội diễn ra
trước mắt nhiều tấn tuồng đau thảm không thể tả ra bằng ngôn ngữ đặng; Bần Đạo
chỉ nói rằng trong thời buổi hổn độn cả nhân luân của nhơn loại sập đổ; Đức Chí
Tôn đến, Ngài đến với một phương pháp đơn giản tạo nền Chơn Giáo của Ngài. Bần
Đạo nhớ lại buổi Ngài mới đến, Ngài xin với mấy vị Tông Đồ ba món báu gọi là
Tam Bửu.
1) Là
xác thịt.
2) Là
trí não.
3) Là linh hồn hay phách.
Của mọi người hiến dưng cho Ngài, đặng Ngài làm cơ quan cứu thế độ đời.
Hồi
buổi nọ chúng ta chưa hiểu nghĩa lý là gì? Biết bao nhiêu kẻ, biết bao Tín Đồ
đã để dấu hỏi Đức Chí Tôn đến xin ba món báu đặng tạo quyền gì kia chớ?
Thưa
cùng toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, ba món báu ấy không có giá trị chi hết.
Ngài lấy trong một số ít của Thánh Đức Ngài tạo cho thành tướng một khối thương
yêu vô tận, có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn hết là từ thử đến giờ
nhơn sanh đã hiểu quyền năng vô đối của quyền lực thương yêu nhưng họ chưa hiểu
biết thống nhứt cả khối thương yêu ấy đặng làm phương cứu thế độ đời, hay là
làm phương châm tạo hạnh phúc cho kiếp sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống
hiệp tinh thần thù hận, oán ghét làm cho mặt địa cầu nầy biết mấy phen đẩm máu,
nhơn loại tương tàn tương sát với nhau là vì họ bội tín của họ, biết thù hận
hơn là thống hiệp thương yêu.
Một
vị Thượng Sĩ Quan cao cấp của nước Pháp Maréchal Lyautey nói rằng: "On ne
peut pas réaliser sans avoir de l'amour" nếu Bần Đạo nói thêm nữa: et un
peu de justice, cái lịch lãm của của vị Thượng Sĩ Quan ấy là quan sát tình thế
định hướng của mình mà định cái chơn thật ấy.
Bần
Đạo ngày nay đứng đây xin thú thật rằng: mấy em, toàn thể con cái Đức Chí Tôn
đừng có tưởng rằng tới ngày nay Qua mới hưởng được cái hạnh phúc của mấy em đã
trải ra trước mắt đây, mà Bần Đạo hưởng hạnh phúc trước ngày Đức Chí Tôn hiệp
mấy em lại làm thành thánh thể của Ngài, trong khối thương yêu vô tận của Ngài
tạo dựng nên một đại gia đình thiêng liêng mà từ thử đến giờ mặt địa cầu này
chưa có, mấy em đã ngó thấy có bạn có cha, có anh, có em, có thân bằng cố hữu,
có chủng tộc, thiên hạ dưới thế gian này chưa hề tưởng tượng giá trị nó được,
gia tộc hiện hữu đã có nó, mất còn tại đây. Còn gia tộc thiêng liêng trong đại
gia đình mấy em nó vẫn trường tồn mãi mãi bất tiêu bất diệt, mấy em suy nghĩ
điều ấy kẻ nào hưởng giá trị ấy mới có hiểu cái mùi vị cao siêu của nó, cái ơn
ban thưởng của Đức Chí Tôn nó còn giá trị và quí trọng hơn nữa.
Mấy
em là Qua. Qua là mấy em nam, nữ cũng vậy, cả thảy mặt địa cầu này ngày giờ nào
nhơn loại biết hiệp với nhau làm cho thành tựu cái gia tộc tại mặt thế này là
đại gia đình thiêng liêng đó vậy. Giờ ấy cần yếu cho nhơn loại phải có và hiện
tượng cho thành tựu mới đặng, nếu không làm thiệt hiện ra đặng thì cái hòa bình
hạnh phúc trong đại đồng thế giới chẳng hề khi nào kết liễu đặng.
Cây
cờ cứu thế Đức Chí Tôn, nó đã hiện tượng một cái quyền thiêng liêng vĩ đại giờ
phút này và còn tới nữa, thật quyền năng vô đối của nó là quyền năng thương yêu
vô tận của mình đó vậy.
Ngày
giờ nào toàn thể nhơn loại biết thương yêu với nhau như lời Đức Chí Tôn đã dạy,
thì giờ ấy là hạnh phúc cho nhơn loại đã đoạt đặng. Chúng ta đã ngó thấy những
điều Đức Chí Tôn đến nói không phải là mới, vì trước kia có hai Đấng đã làm:
Đấng
thứ nhứt: là Đấng mỗi bữa mang Bình Bác Vu đi hành khất xin ăn, đem về
"Cấp Cô Độc Viên" nuôi những kẻ đói khổ là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đó
vậy.
Đấng
thứ nhì: là Đấng bẻ từ miếng bánh mì, chia từ miếng cá, cho đến mảnh áo
"Tam Tinh" của Ngài cũng lột cho kẻ rách, Đấng ấy là Đấng Jésus
Christ.
Bần
Đạo nói quả quyết hai vị Giáo Chủ đã làm nên nền tảng tinh thần đạo đức ở cõi Á
Đông và Âu Châu là hai nền Công Giáo và Phật Giáo. Nếu đã được thi thố như thế
ấy lưu lại cho đời một khối vĩ đại là do năng lực thương yêu của Đấng ấy. Ấy
vậy không chi mới mẽ hết.
Cây
cờ cứu khổ của Đạo Cao Đài là thương yêu mà thôi, sau nữa là quyền công chánh.
Nếu thi hành hai điều ấy được thì mới đem hòa bình thực hiện nơi mặt địa cầu
này được.
Bần
Đạo xin để lời cảm ơn toàn thể Hội Thánh nam, nữ và Quân đội cùng các con đồng
ấu đã làm vẻ vang kiếp sanh của Bần Đạo, làm cho Bần Đạo hưởng được mùi vị thâm
thúy về yêu thương của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đó vậy.
Q. 3/31: LỬA OAN NGHIỆT MUÔN
XE, MỘT GIỌT NƯỚC CAM LỒ KHÔN TƯỚI TẮT.
Tại Đền Thánh; Thời Tý đêm
mùng 1 tháng 6 năm Canh Dần (1950)
Bần
Đạo lâu đi cúng, thấy Bần Đạo vắng mặt nơi Đền Thánh coi muốn trống.
Hôm
nay Bần Đạo vẫn còn đau nhưng rán đi cúng vì có một sự hệ trọng.
Vả
chăng hôm kỳ lễ đáo tuế của Bần Đạo, Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung và Đức Bảo Đại
có biếu một vật là Ô Kim bằng đồng đen, Bần Đạo hiểu thâm ý ấy chẳng qua là
muốn chia phần công quả nơi Đền Thánh, nên Bần Đạo vội đem để ngay giữa Đền
Thánh, và dâng lời khẩn nguyện của hai Ngài: "Thiên hạ thái bình nước Việt Nam vĩnh cửu, đảnh nghiệp nhà Nguyễn
trường tồn". Hôm nay Bần Đạo đi cúng đây vì lẽ ấy.
Luôn
đây Bần Đạo cũng nên nói cho toàn cả con cái Đức Chí Tôn hiểu một điều, đặng
hiểu để biết trước một điều, đặng đủ lịch duyệt nơi đó, đủ tương lai của Đạo và
Đời.
Rồi
đây e cái án nhơn loại bất công của xã hội nhơn quần, đã gây loạn từ trước đến
giờ, nay quả báo ấy tới nữa.
Trận
chiến tranh 1914-1918 đã qua, Đức Chí Tôn đến chỉ nghĩa để khảo đảo nhơn loại
nơi mặt địa cầu này cho trả quả kiếp, chúng ta thấy nhiều bằng cớ hiển nhiên
trước mắt sự tàn ác bất công của xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu này, cái án
ấy không có miệng lưỡi nào chối cải đặng, có nhơn quả thì có quả báo còn cái
sống chết nơi cửa Đạo cốt yếu chúng ta không phải giá trị gì cả, thiên hạ tưởng
sống cốt yếu trả nợ cho xác thịt vậy thôi, đến khi thác tất nhiên là cơ quan
giải thoát, nên Bần Đạo nói quả quyết, nếu chúng ta biết thì sẽ mong mỏi cái
chết hơn cái sống, nhưng xét vì Thánh đức của Chí Tôn, chết vì nhơn loại, chết
vì đạo đức tinh thần; chết ấy mới vui, còn chết có hại chăng, là chết đặng trả
quả báo, chết ấy không có mùi vị gì.
Qua
trận giặc 1914-1918 Đức Chí Tôn Ngài nói, nếu Đạo trễ một ngày là hại cho nhơn
loại, nên Ngài mới thúc giục thánh thể của Ngài đặng đem cơ cứu khổ độ rỗi cho
nhơn loại mà thu hồi cho nhơn loại, hầu có nghe lời từ bi bác ái của Ngài
chăng? Bần Đạo tưởng Chí Tôn cốt yếu Ngài lập Đạo và Ngài giục thúc Thánh Thể
của Ngài thọ mạng lịnh nơi Ngài đến trước gom cả con cái của Ngài lại đặng đợi
Ngài, bất quá là tiếng nói của Ngài thúc giục cả thánh thể Ngài, đến nơi mặt
địa cầu để làm theo ý muốn của Ngài là cứu toàn nhơn loại, nhưng ngọn lửa tàn
ác của nhơn loại, vẫn muôn xe, mà một giọt nước Cam lồ của Ngài tưới sao tắt
đặng?
Đây
qua trận giặc 1939-1945 muốn rạp, kế tới trận đại chiến thứ ba này nữa, tuy vẫn
trước mặt thấy một trường thảm khổ vô luận, chúng ta đã thấy một kỳ đại chiến
là nhơn loại đều phải trả quả kiếp, nếu biến tướng của quả kiếp để giảm bớt tội
tình, thì oai linh của Đạo Cao Đài lại tấn triển thêm một bước nữa.
Ấy
vậy cả toàn thể thánh thể nên bình tâm đừng ỷ lại, một điều cần yếu Bần Đạo dặn
dò cả thánh thể Chí Tôn nên hợp lại làm một khối thương yêu vô tận, thì ngày
khốn khổ vẫn được tự nhiên, còn những kẻ không biết, chia lìa rời rạc nhau sự
khốn khổ lại càng đeo đuổi, lời ấy là lời Bần Đạo dặn cho đám thanh niên nên
nhớ.
Bần
Đạo nói cái đại nghiệp này có tồn tại hay chăng là do tinh thần nơi đó phải
khôn ngoan, phải minh mẫn sáng suốt, phải có đạo đức hơn nữa, đặng cầm cho vững
tương lai sau này, đó là hạng thanh niên.
Còn
một điều nữa là: Phụ nữ, đám con ở trong lòng mấy người. Bần Đạo quả quyết nó
sẽ nối truyền nơi cửa Đạo, thì phải lấy giọt sữa từ bi, bác ái của Chí Tôn mà
nuôi lấy nó, ngày kia sẽ còn nối hương hỏa của Đạo.
Bần
Đạo gởi gấm sắp nhỏ.
Q. 3/32: TRONG CUỘC LỄ AN TÁNG ÔNG PHỐI SƯ THƯỢNG SÁCH THANH (Đỗ Văn Sách).
Tại Báo Ân Từ; Ngày 19 tháng 6 năm Canh Dần (1950)
Thưa
cùng Chư Thánh, chư Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài.
Hôm
nay, chúng ta nam cũng vậy, nữ cũng vậy, phải chịu một cái tang chung của người
bạn đồng khổ với chúng ta là Phối Sư Thượng Sách Thanh, đã qui liễu. Cái trạng
huống đời bao giờ cũng vậy, mảnh xác thịt này của chúng ta chung sống với nhau
trong một thời gian thôi, dầu cho ngắn ngủi bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng lưu
lại một thâm tình thương mến nồng nàn; nếu không có luật thiên nhiên ấy, chắc
cả kiếp sống ta vô vị không có chi hết, theo chơn pháp của Đức Chí Tôn ngày
chúng ta vui, vì đã biết bạn trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí
Tôn và Phật Mẫu, ngày giờ này bạn đã hưởng một đặc ân riêng của Đức Chí Tôn đã
dành để.
Thương
thay!
Cả
công nghiệp của ông bạn đồng khổ với chúng ta đây là ông Phối Sư Thượng Sách
Thanh. Kể từ khi phế đời hành đạo, dầu cho gia đình nghèo khổ khó khăn bao
nhiêu nhưng ông chỉ biết Đạo, không biết đời, biết Hội Thánh không biết gia
đình.
Thảm
cho một điều là bao phen nền Đạo chinh nghiêng, bị khảo đảo như thế mà người
vẫn lo vẫn làm, vì đầu óc người biết tư tưởng về hành tàng của mình, biết thi
thố đầu óc sở định chớ không muốn nói, mà tánh người cũng ít hay nói nữa. Cả
thảy Quân Đội, kể từ lúc đảo chánh, đều có ý thấy tại sao một người bịnh hoạn,
ốm yếu mà hoạt bát không buổi nào ngừng hành Đạo, không buổi nào nghỉ, mảnh
thân yếu ớt bạc nhược mà lo hơn ai hết, lo cho nghiệp Đạo, nghiệp Đời, không
nói mà làm là tại sao? Tại cái lòng ái quốc, ái chủng nồng nàn của ông. Một nỗi
nữa, cái phần của Đạo quyết đem mảnh thân làm sao cho nên, lấy cái năng lực của
mình, đem mặt công lý cho toàn thể thiên hạ thấy rõ cái quyền năng vô tận của
Đạo thế nào, sở hành của ông không nói chỉ làm mà thôi, có tư tưởng không ngôn
ngữ. Công nghiệp của ông kể sơ từ trước đến giờ:
• Mùng
4 tháng 10 năm Bính Tuất, ông khai công nghiệp.
• 11
tháng 10 năm Bính Tuất, Thánh Lịnh thuyên bổ trách nhậm Khâm Trấn Đạo (Biên
Hòa).
• 12
tháng 8 năm Đinh Hợi, bổ làm Thượng Thống Lại Viện.
• 17
tháng 4 năm Mậu Tý thăng thưởng lên Phối Sư.
• 11
tháng 3 năm Canh Dần xin phép nghỉ dưỡng bịnh, chính mình Bần Đạo thấy yếu ớt,
bịnh hoạn, nên biểu nghỉ, nếu không thì người nhứt định không nghỉ, nhứt định
làm Đạo cho đến chết mà thôi. Bần Đạo biết nên để cho nghỉ, mà trong lúc nghỉ
không có nghỉ gì hết, nghỉ gì được, người đầu óc như thế mà nghỉ, lo mãi thôi,
phải biết cái tuổi già hồi hưu chỉ lấy an nhàn làm căn bản nhưng không, vẫn
giúp đỡ đạo, vẫn tìm phương thế làm cho đạo, đời chung hưởng hồng ân của Đức
Chí Tôn chan rưới.
Ấy
vậy, cái công nghiệp của người bạn đồng khổ với chúng ta ngày giờ này chúng ta
đã giao và chính tay Bần Đạo đã giao chơn linh của người đến nơi tay của Đức
Chí Tôn cho người lập vị; còn mấy em, mấy con trong tang quyến cả thảy nên nhớ
lời Bần Đạo nói đến, nếu cửa thiêng liêng vẫn mở, thì có thể ông cha của mấy em
đặng hưởng tình yêu vô tận trên cảnh thiêng liêng hằng sống, cảnh đó mới là
cảnh hạnh phúc, còn cảnh này đây là cảnh khổ mà thôi. Hy sinh mạng sống tạo
nghiệp, mà không phải tạo nghiệp đời cho mấy em, bởi nghiệp đời vinh hiển bao
nhiêu đi nữa cũng không giá trị gì hết, bao nhiêu xã tắc, sơn hà, vương đế từ
trước đến giờ đã tạo dựng mà ngày nay còn tồn tại cái chi không? Trái lại ông
cha của mấy em, đã tìm một con đường vinh hiển cho mấy em là "đạo
nghiệp" nghiệp đạo còn thì giọt mồ hôi, giọt máu của ông cha mấy em còn,
mấy em biết giữ nó cho tồn tại là cái hiếu của mấy em đó. Biết bao nhiêu ông
cha đã thương con, lo cho con, nhưng thương là nhiều cách khác nhau, cha mấy em
đã tạo dựng cơ nghiệp cho mấy em đây, mấy em không còn trách cứ được nữa, cha
mấy em đã làm xứng đáng một ông cha. Bần Đạo xin làm chứng cho mấy em đã được
người cha xứng đáng.
Q. 3/33: CÁI KHỔ CỦA THÁNH
THỂ ĐỨC CHÍ TÔN.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1
tháng 7 năm Canh Dần (1950)
Hôm nay Bần Đạo thuyết cái khổ về phần của thánh thể Chí Tôn.
Trong buổi định vận mạng của nước Việt Nam. Chúng ta đã đủ hiểu rằng: Dầu
cho con người có tinh thần chiến thắng nơi mặt thế này dường
nào đi nữa mà phàm vẫn là phàm. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã nói nơi mặt địa
cầu này không có ai đặng trọn lành và cả toàn thiên hạ cũng không trọn lành,
tức nhiên mặt thế này nhơn loại chẳng hề khi nào lành đặng.
Khi
Đức Chí Tôn đến tạo Đạo, Ngài đã ký hòa ước với chúng ta buộc chúng ta phải
thiệt hiện cho đặng cơ quan cứu khổ của Ngài, trọng hai chữ bác ái và công
bình. Ngài đem ngôi vị thiêng liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật đổi lại cho chúng
ta, mong lấy có bao nhiêu đó thôi.
Hại
thay! Khi Ngài đến nước Việt Nam đặng chịu dưới ách lệ thuộc quyền hành sở hữu
các Tôn giáo không vui thấy cây phướn cứu khổ của Ngài thiệt hiện ra đặng, mà
quyền hành trị thế cũng không vui thấy cái triết lý cứu khổ của Ngài.
Hại
thay! Ngài lựa sắc dân nô lệ này làm Thánh thể của Ngài dĩ nhiên cái khổ hạnh
Thánh thể của Ngài là cả toàn con cái của Ngài trong cửa Đạo không thế gì chối
cãi đặng. Đạo đã chịu cái khổ hạnh thế nào thì toàn con cái của Đức Chí Tôn tức
là Thánh thể của Ngài đều chung chịu như thế ấy.
Ôi!
Biết bao nhiêu khổ, nếu chúng ta không phải mang danh Thánh thể của Ngài thì
chúng ta viết một quyển sách kể cái khổ hạnh mà chúng ta đã chịu từ thử đến
giờ, dám chắc rằng: Không có một người nào xem mà không đổ lụy đặng, chánh sách
ấy đương nhiên sống với cái triết lý nhắm mắt, nhăn răng, cái triết lý đương
tranh đấu của loài người vẫn vậy mà chúng ta đem cái triết lý cứu khổ với nhơn
nghĩa của Tổ Phụ Việt Nam đã để lại thiệt hiện nó ra là khó khăn không thể nói
được. Kìa chủng tộc Việt Nam đang tranh đấu đặng định quốc của mình, một bên họ
chỉ lấy tinh thần chủng tộc làm căn bản đặng định Quốc, tức nhiên Quốc Gia; còn
một bên họ nương theo cái quyền lực Quốc Tế đặng họ làm năng lực tranh đấu cho
họ; do hai con đường, thánh thể của Đức Chí Tôn phải đi con đường nào chớ?
Nếu
phải đi với cây phướn cứu khổ với hai chữ nhơn nghĩa của Đức Chí Tôn đã định
thì ngoài con đường Quốc gia ra không thể đi con đường nào khác nữa được. Nếu
chúng ta có chiến đấu thì cũng khó mà định phận cho nó. Chiến đấu không lẽ
chúng ta đem cái oán mà đổi oán, đem thù mà đổi thù, nếu đem lẽ ấy chiến đấu
thì còn gì Thánh thể Đức Chí Tôn phải ra phàm, trái ngược lại chúng ta phải dĩ
ân báo oán.
Cả
toàn Thánh thể Đức Chí Tôn! Giờ phút này thiên hạ đương suy nghĩ, nhứt là chủng
tộc Việt Nam, họ đã hỏi tâm lý thường tình của họ: Cao Đài bị thiên hạ dày xéo,
Cao Đài dưới ách nô lệ chà đạp, đương nhiên họ có thể báo oán đặng không? Họ
ngu muội thế nào, họ đã đi ngược với chủng tộc Việt Nam? Cái triết lý tối cao
tối thượng dĩ ân báo oán, từ bi, bác ái và công bằng vô tận trong cửa Đạo Cao
Đài chúng ta đã bị biếm trách, điều ấy chúng ta đủ hiểu, chúng ta làm thì nhứt
định chịu, bởi chúng ta biết rằng biếm trách ấy giờ phút này nó sẽ làm đại vinh
dự cho chủng tộc Việt Nam ở tương lai.
Họ
thù oán chủng tộc Việt Nam bao nhiêu thì tương lai kia sẽ định cho họ thiếu nợ
tình trong cửa Đạo bấy nhiêu. Hại thay! Cho những kẻ mù quáng đang tâm giết
những con cái Đức Chí Tôn, trong buổi họ định vận mạng tương lai cho nòi giống
Việt Nam của họ.
Thế
gian này không có cái gì cướp bốc, hay cái gì xin xỏ được của Đạo Cao Đài, đối
với cái vinh dự cho nước Việt Nam bằng giọt máu nhơn nghĩa, tưởng cái giá trị
ấy từ thử đến giờ chưa có ai làm đặng chỉ có cửa Đạo Cao Đài nầy thôi, thì biểu
sao Thánh thể Đức Chí Tôn không khổ hạnh?
Vậy
Bần Đạo xin khuyên hãy vui đi, lấy đó làm danh dự giá trị của nó thì bao nhiêu
cái khổ hạnh kia sẽ được cao thượng, Đức Chúa Jésus Christ đã chết trên cây
Thánh Giá làm con tế vật cho Ngài buổi nọ. Buổi hôm nay chúng ta đem cả tinh
thần đạo đức làm con tế vật cho Ngài đó vậy.
Hãy
vui đi, cứ tự tôn tự đại đi! Từ thử đến giờ chưa có ai làm được, mà mình làm
được và đã làm được. Có như vậy mới đáng an vui và hy sinh như thế thì mình mới
có giá trị cao thượng.
Q .3/34: KHÔNG CÓ CÔ HỒN, CÓ
CHĂNG LÀ NGẠ QUỈ.
Tại Đền Thánh đêm 14 tháng 7
năm Canh Dần (1950)
Hôm
nay là ngày rằm Trung Nguơn có một điều từ thử đến giờ bên Phật Giáo lạc lầm về
chỗ các đẳng linh hồn mà người ta gọi cô hồn đó, không có cô hồn đâu.
Hoặc
may ra, có lẽ mấy vị khi trước đã đạt pháp gặp đám ngạ quỉ súc sanh phần nhiều
là con nít, các đẳng chơn hồn về súc sanh, cho nên các chơn hồn trẻ mãi thôi,
vì cớ cho nên người ta làm áo thí cô hồn nhỏ nhỏ vậy.
Không
có cô hồn đâu, nếu như Bần Đạo không lầm thì người ta đã có một vị là cô hồn,
ấy là người con gái, là Thanh Tâm Tài Nữ đã chết, là khi người tắm ở tại Cap
St. Jacques bị chết chìm. Thanh Tâm Tài Nữ chết như thế mà không phải là cô hồn
đâu.
Các
phẩm chơn hồn đạt phẩm vị nhơn phẩm không có cô quả bao giờ. Nơi cảnh Hư Linh
hằng sống kia người ta còn có gia đình, thân tộc bạn tác anh em của người ta,
không có một chơn hồn nào đã đạt nhơn phẩm mà gọi là cô hồn đặng. Có hay chăng
là thiên hạ tưởng tượng vậy thôi. Tưởng người chết không con nối hậu, không ai
phụng sự, xiêu mồ lạc mã, người ta cho là cô hồn, sự thật là không phải.
Bần
Đạo lập lại lần nữa, không có cô hồn, chỉ có đám ngạ quỉ súc sanh mà thôi, như
các đẳng chơn hồn mà chúng ta cầu nguyện trong Trung Nguơn đây là cốt yếu để
cho họ giải quả thoát kiếp, có lẽ trước kia người ta biết một điều bí mật là
các ngạ quỉ súc sanh hay ăn uống thường phá khuấy thiên hạ đặng kiếm ăn, còn
chúng ta ngày Trung Nguơn hay là Thượng Nguơn chúng ta cúng kiến là cúng Ông Bà
Tổ Phụ, Ông Bà và bạn tác đồng sống với chúng ta mới qui liễu.
Ngày
cúng ấy là ngày chúng ta nhắc lại sự đau thảm chia ly với nhau trong kiếp sống.
Còn kiếp chết của chúng ta sẽ được tương ngộ trên cảnh hư linh hằng sống kia,
cái cảm tình của chúng ta ngày đó dầu cho dưa muối mà chúng ta nhớ cái thâm
tình ấy là quí trọng. Quí trọng hay chăng là cái lòng yêu ái của chúng ta dưng
cho họ, nhớ tưởng đến họ mà thôi, sanh như tiền, tử như thị, ấy là Đạo nhơn
luân của chúng ta, nhứt là Đạo phong hóa của nhà Nam.
Bần
Đạo lập lại lần nữa không có đám cô hồn đâu, nếu vị nào đạt được nhơn phẩm ở
thế gian này dầu cho cô quạnh thế nào, nơi cảnh thiêng liêng hắng sống kia họ
cũng có anh em bạn tác gia đình của họ, chúng ta không có người nào cô quả hết
chỉ sợ có một điều là bạn tác, anh em chị em đồng sống với chúng ta mà họ không
tu, khi về cảnh thiêng liêng hằng sống không thế gì mà gặp nhau được, cái đó
mới vô phước và đáng sợ hơn hết, ngoài ra không có cô hồn, chỉ có đám ngạ quỉ
súc sanh mà thôi.
Bần
Đạo thuyết tiếp về tam nguơn, tại sao trong Càn Khôn Võ Trụ chia làm tam nguơn,
là khi Càn Khôn Võ trụ chưa lập ra, ban đầu cả tinh khối sanh lực của Càn Khôn
bao trùm hết, khi biến thiên mới tạo ra vạn vật, hồi lúc Đức Chí Tôn giáng linh
gọi là Thượng Nguơn. Người giáng linh nắm cả nguyên khí ấy luyện trong Càn Khôn
Võ Trụ biết hoạt động nương theo cái sanh lực là chữ khí đó (Hộ Pháp chỉ ra
Liên Đài Hộ Pháp có chữ khí) tượng hình của mình.
Kế
tiếp nữa là Trung Nguơn Đức Chí Tôn tạo vạn vật dầu cho loài người cũng ở trong
vạn vật ấy. Giờ phút Đức Chí Tôn đến cho loài người được cái linh, tức nhiên
cho họ cái khôn ngoan hiển hách khác hơn vạn loại kia, gọi là giáng khí vì cớ
Đức Hộ Pháp bắt Ấn Trung Nguơn hai bàn tay phải hiệp lại với nhau là âm dương
tương hiệp, theo cái thiên linh của Đức Chí Tôn đến cái nhơn linh của loài
người.
Đến
Hạ Nguơn Đức Chí Tôn giáng Thần, tức nhiên là cái thiên vị Đức Chí Tôn mở ngôi
Thần, Thánh, Tiên, Phật cho Vạn Linh đặng cho các chơn hồn đạt vị của mình,
chuyển luân trong quả kiếp sanh sanh tử tử mà đạt pháp lập thiên vị; Đức Chí
Tôn giáng trần Hạ Nguơn là cốt yếu như vậy. Vì cớ nên Hộ Pháp bắt ấn hạ nguơn
là tới tuần trà: hai bàn tay úp nhau, tả là Dương trên, Hữu là âm dưới; chụp
lên đầu Kim Tiên đưa xuống giáng thần cho thiên hạ ba cái Bí Pháp đó là vậy.
Bây
giờ Thượng Nguơn trở lại, trong Càn Khôn Võ trụ Nhựt Quang có bảy trái địa cầu
(Sept planètes du système solaire) nhơn loại ở được bảy trái đó đi chung quanh
giáp một quận gọi là đại chuyển thì có: 61.000.000 năm (sáu mươi mốt triệu năm
là một chuyển). Trong sáu mươi mốt triệu năm nếu chúng ta tính coi thì chúng ta
ngó thấy trái đất này nó tái kiếp lại, nghĩa là chết rồi phục sinh lại bảy lần
61 là 427 triệu năm, thì trái đất đã chết một phen cốt hài của nó còn lại là
mặt trăng đó.
Kể từ
nó mới phục sinh lại đến nay là ba chuyển rồi nó sẽ đến Thượng Nguơn tứ chuyển.
Mỗi trung chuyển là 61.000 năm, Hạ chuyển lại là: sáu ngàn một trăm năm. Một
Giáng là sáu ngàn một trăm năm cũng chia ra ba Nguơn vậy. Một Giáng là sáu ngàn
một trăm năm thì mỗi Nguơn là hai ngàn ba trăm ba mươi năm hễ mỗi Nguơn ấy tới
2.333 năm 33 ngày 33 giờ 33 phút, qua trong mấy cái ba mươi ba đó sẽ có một vị
thiêng liêng ở cung Phật hay cung Tiên giáng thế chuyển Đạo. Vì cớ nên tượng
hình Càn Khôn Võ trụ có ba Nguơn tạo đoan vạn vật.
Trung
Nguơn là Nguơn giáng khí, như chúng ta tin dị đoan thì Trung Nguơn này chúng ta
nên cầu khẩn Đức Chí Tôn để thức tỉnh trí thức tinh thần loài người đặng cho họ
minh tâm kiến tánh cho thiên linh, của họ khôn ngoan đặng bảo tồn sinh mạng của
họ.
Giờ
phút này đừng cầu nguyện cho cô hồn nữa, mà chúng ta cầu nguyện cho con cái Đức
Chí Tôn cho họ đủ năng lực để minh tâm kiến tánh, bảo trọng sanh mạng của họ mà
thôi.
Q. 3/35: LỄ HÀNH PHÁP ĐỘ THĂNG CHO GIÁO HỮU THƯỢNG SANG THANH.
Tại Đền Thánh ngày 19 tháng 7
năm Canh Dần (1950)
Lời
dạy của Đức Hộ Pháp căn dặn có một điều nên để ý là làm sao ngày qui liễu, gởi
thánh cốt tại đất Thánh Địa vì trái địa cầu 68 nầy không có chổ đất nào quí hóa
cho bằng đất Thánh Địa, nếu để được cốt hài nơi đây rồi thì rất hạnh phúc cho
tương lai con cháu.
Cái
quí trọng của đất Thánh Địa, là có Lục Long phò ấn nên Đền Thánh nằm ngay trung
tim của 6 con rồng doanh lại.
Dầu
nơi Cực Lạc cũ, hay đất mới cùng là Nghĩa Địa; đất 50 mẫu ở Long Thành cũng
vậy, Bần Đạo đã biết bên nước Tàu; hễ ông, bà, cha, mẹ họ có qui, họ quàng lại
để chọn ngày hoặc chỗ đất tốt có hàm rồng, dầu phải 5, 3, năm họ cũng đợi kiếm
được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết thiên văn, hay khoa
coi bói họ giỏi.
Phần
nhiều là các nhà giàu có hay chọn lựa. Ngày nay dân tộc Việt Nam có phước Chí
Tôn đã tiền định cho dòng giống Lạc Hồng sẽ hưởng điều phúc hậu tương lai, ai
có duyên mà về đây gởi cốt hài là có phước lắm vậy.
Q. 3/36: DANH TỪ TÀ VÀ CHÁNH
TRONG TÔN GIÁO.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1 tháng
8 năm Canh Dần (dl. 12-09-1950)
Hôm
nay Bần Đạo thuyết về danh từ tà chánh mà thiên hạ đã ban cho các nền Tôn Giáo,
dùng nghĩa lý của nó trước về mặt Tôn Giáo.
Về
mặt Đạo thì chúng ta phải để tâm suy xét cho tận cùng, hiểu cho thấu đáo phận
sự con người tức nhiên là phận sự của nhơn loại ở nơi mặt địa cầu này đã làm
sao?
Vả
chăng con người là một vật ở trong vạn vật cùng tạo đoan, vì cớ nào Đức Chí Tôn
lại giáng linh trong một con vật?
Tức
nhiên Ngài có chủ định cho nó làm, mới cho quyền hành vô đối như thế lẽ dĩ
nhiên con người khôn hơn vạn vật, đã đành khôn thì làm chúa của sự dại, tức
nhiên Đức Chí Tôn muốn cho loài người làm chúa của vạn vật. Chúng ta không cần
kiếm hiểu hay xét đoán, việc làm chúa để làm gì đó? Phận sự đối vạn vật thế
nào? Mình đã xuất hiện trong khuôn luật của tạo đoan, tức nhiên mình thọ ân tạo
hóa của Chí Tôn ban cho mình một tánh linh, cốt yếu để cho mình đảm nhiệm phần
bảo vệ cơ quan tạo đoan của Ngài, tức nhiên dễ dàng bảo thủ luật tạo đoan chớ
không phải dễ tiêu diệt luật tạo đoan.
Chúng
ta đã xét đoán thấy mặt địa cầu này khi trước buổi thoát xác của nó, các đẳng
linh hồn đạt được biết bao nhiêu Phật vị. Mặt địa cầu này kiếp trước của nó đã
tạo nhiều đấng có đủ quyền hành điều khiển, cầm quyền trong Càn Khôn Võ Trụ
này, hay các nơi khác nữa, chớ chẳng phải đây mà thôi. Bần Đạo có thuyết khi
trái địa cầu này đã thoát qua, chính mình Đức Di Lặc Vương Phật thời kỳ này cầm
quyền Càn Khôn Võ Trụ chỉ là một "dã nhơn" mà thôi. Còn Đức Phật
Thích Ca là người quê dốt. Trong ba đại chuyển mà Đức Thích Ca, Đức Di Lặc lập
vị mình một cách vinh hiển oai quyền như thế, mặt địa cầu nầy cốt yếu Đức Chí
Tôn giáng để làm một trường học tạo cấp bằng cho nhà Phật.
Cái
bảo vệ cho tạo đoan không có quyền diệt hóa phải bảo hóa mà thôi. Cơ quan bảo
hóa tức nhiên chánh, cơ quan nào diệt hóa tức là tà. Nếu chúng ta lấy cái lý
xét đoán dầu cho bên vật chất hay bên tinh thần cốt yếu cho loài người làm môi
giới, điều độ các chơn linh tấn triển mãi cho đến Phật vị. Về mặt hình thể, cơ
quan nào không có ích cho cơ thể tạo đoan tức là không có ích cho nhơn loại.
Việc
bảo vệ sanh mạng của nhơn loại trong khuôn khổ tạo đoan, tức nhiên là cơ quan
nào nâng đỡ bảo trọng thêm cái sống này giúp cơ thể tạo đoan và bảo vệ sanh
mạng của vạn linh nơi mặt địa cầu này, nó là chánh, triết lý nào giúp cho nhơn
loại tức nhiên bảo trọng cơ quan tạo đoan bền bỉ vững chắc nó là chánh. Triết
lý nào xúi giục làm cho vạn vật tàn sát với nhau diệt hóa tức nhiên triết lý ấy
là tà.
Chúng
ta ngó thấy cơ thể tạo đoan trước kia cũng vậy chớ không phải trong cửa Đạo Cao
Đài này mà thôi. Trong Vương Đạo và Bàn Môn ta thấy khuôn luật định của nhà Vua
tức nhiên là Vương Đạo đi ngay con đường chánh mà thôi, buộc nó phải bảo vệ
sanh mạng cho xã hội nhơn quần, tức nhiên bảo vệ trong một nước phải lấy chánh
tâm định phận con người. Lấy chánh đó là Vương Đạo. Còn các triết lý hay các cơ
thể nào đi ngược lại với cái chánh ấy là làm cho thiên hạ phải loạn lạc, xao
xuyến tâm hồn, không biết cái chủ nghĩa kính sùng cái sống lẫn nhau, tương tàn
tương sát với nhau làm rối loạn cả luật pháp thiêng liêng kia; diệt hóa tức
nhiên là Bàn Môn,Tả Đạo.
May
thay cho chúng ta, nhờ Đức Chí Tôn đến, Ngài quả quyết nói rằng: Những điều ở
thế gian này tín ngưỡng từ trước đến giờ là khi trái địa cầu mới phục sanh lại,
vạn vật còn trong buổi sơ sanh dốt nát mà từ từ họ tấn triển đến mãi cho tới
phẩm vị Phật hay ngang phẩm cùng Thầy đều đi trong các lý do của chữ Đạo. Ấy là
người với Trời "Reliron" do chữ "Relior" mà ra là liên kết
người với Trời. Cơ quan nào liên kết người với Trời tức nhiên là Đức Chí Tôn
đến với chúng ta. Ngài nói: Ngài đến đặng dạy một chơn lý tức nhiên đem một
chơn lý để cho các con biết; các con thờ đây duy có thờ mình và thờ Thầy mà
thôi. Bởi cơ quan này có hai quyền vi chủ.
1)
Thầy.
2)
Nhơn loại tức nhiên các con.
Chúng
ta chỉ nhờ có hai Đấng ấy mà thôi, bây giờ muốn bảo hóa, đừng diệt hóa Đức Chí
Tôn biểu gì? Ngài để một định luật trước mặt là bác ái và công bình. Chúng ta
tỉ thí như con chó kia đẻ ra mấy con, người ta đến xin, dòm thấy con nào thương
được, người ta mới xin, xin đặng nuôi dưỡng nó, vì cái thương ấy mới nuôi
dưỡng. Bây giờ trồng một cây gì người ta ham thích nó, tức nhiên người ta
thương nó nên mới trồng, mới bảo vệ mạng sống của cây ấy.
Vạn
vật muốn bảo trọng toàn vẹn cái luật tạo đoan cho bền chắc duy có mặt luật
thương yêu mà thôi. Trong khuôn luật thương yêu ấy định cho mình bảo trọng cơ
thể tạo đoan, giúp hay cho luật tạo đoan mà thôi.
Bây
giờ thương yêu ấy không thể thương yêu là tại cần cái này, bỏ cái kia, chê cái
nọ, khen cái khác. Chúng ta phải lấy công tâm định, tùy theo khuôn luật tạo
đoan đặng định phận cái sống mình cho còn tồn tại, chúng ta muốn bảo vệ phải có
công bình và tâm lý mới được.
Xã
hội nhơn quần, chúng ta đã sanh trong một nước, giống nòi tông tộc chúng ta,
thì chúng ta không biết thân phận của mình đối với đồng chủng thế nào.
Ta
sanh ra trong một nước, nhờ ơn ngọn rau tấc đất ta mới sống, ta nhờ nương nơi
đó mà ta lập vị định phận của ta, nếu ta không biết thương yêu thì phận con
người của ta chưa đúng vậy. Vì cái phận ấy, vì lẽ công bình ấy, vì thương yêu
mới đem hy sinh mình phụng sự cho toàn thiên hạ.
Cơ
quan phụng sự ấy Đức Chí Tôn biểu chúng ta dâng cả thi hài trí hóa và tâm hồn
đặng Ngài làm cơ quan phụng sự cho nhơn loại bảo tồn khuôn luật tạo đoan vững
chắc, tức nhiên dắt chúng ta đi trên con đường chánh Đạo đó vậy.
Q. 3/37: THẢM TRẠNG CỦA QUỐC DÂN VIỆT NAM.
Tại Đại Đồng Xã trong dịp Tết
Trung Thu, ngày rằm tháng 8 năm Canh Dần (1950)
Nói
về cái thảm trạng của quốc dân Việt Nam hồi thuở lập quốc, một tình trạng thống
khổ đã làm cho Bần Đạo phải nghẹn ngào. So sánh lại 5 năm bị đồ lưu nơi Hải
Ngoại thảm khổ đường nào, chẳng cần minh tả ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn cũng
đều thấu đáo, và quyết định giá trị thế nào?
Bần
Đạo xin quả quyết rằng: Thống khổ 5 năm đồ lưu nơi Hải Ngoại không bằng đã thấy
cái thống khổ hiện trước mắt một cái tấn tuồng đau đớn là nòi giống Việt Nam
tàn hại lẫn nhau, Bần Đạo đã trọn một kiếp hy sinh để tạo hạnh phúc cho toàn
thể con cái của nòi giống Lạc Hồng, chính Bần Đạo cũng là một phần tử trong ấy.
Cái
tranh đấu đem cả sanh mạng ra để làm giá trị chung cho đời cho Đạo thì chưa có
biết thối bước trước tình trạng khó khăn nào, dầu thống khổ dường bao? Không có
năng lực nào làm ngăn trở bước đường của Bần Đạo được. Quyết thắng, quyết đi
cho đến mục đích cuối cùng.
Thật
ra là Hành Chánh Đạo trót cả một đời chưa có khi nào làm cho Bần Đạo đã thấy,
hiện nay là quốc dân Việt Nam đương chiến đấu đặng giải ách nô lệ cho quốc dân
đã chịu tám mươi năm, đem văn hiến, đem tinh thần tối cao của nòi giống để làm
giá trị, là phương pháp thâu đoạt cho đặng độc lập và thống nhứt thiệt hiện đối
với nước chinh phục chúng ta là Pháp. Cái yếu điểm tranh đấu với Pháp là cái
quan niệm giải phóng cho nòi giống Việt Nam.
Hôm
nay đã gần đạt thành mục đích, chính một trường thảm khổ đã trải trước mắt nòi
giống Việt Nam là người ta đem cho nền độc lập thống nhứt Việt Nam bằng chủ
nghĩa cộng sản, nhưng Bần Đạo không phiền trách cái tranh đấu của họ, bao giờ
họ cũng tranh đấu để tạo hạnh phúc chung cho nòi giống họ đặng trọn quyền. Duy
có một điều là họ chuyên quyền tàn sát nòi giống của họ.
Bần
Đạo chỉ sợ có một điều là ách nô lệ 80 năm, với một quốc dân hai mươi lăm triệu
này chưa có thể chiến thắng đặng, sợ e cho những kẻ quả quyết dùng thuyết duy
vật ngoại bang đem vào đây cho nòi giống Việt Nam phải điêu tàn, sẽ trở nên
người Mườn, Mán, Mọi hay là Lô Lô chẳng hạn.
Bây
giờ họ còn chung sống trong hoàng đồ của chúng ta, chúng ta phải coi chừng, nòi
giống Việt Nam phải cho khôn ngoan sáng suốt, vận mạng tồn vong hay vinh quang
đều ở trước mắt chúng ta, chúng ta đừng để cho kẻ thù địch mưu chước lợi dụng
xương máu của chúng ta, mà nòi giống Việt Nam phải đi đến con đường tự diệt và
tự mình hại lấy mình thì không phương pháp nào? Dầu cho Đức Chí Tôn cứu vãn
tình thế này định tương lai cao trọng thế nào cũng không cứu vãn đặng; phải
thương yêu với nhau, hiệp đồng cùng nhau, mới có thể quyết thắng đặng.
Giờ
phút quyết liệt này Bần Đạo tiên tri rằng: Nếu quốc dân Việt Nam không tin với
nhau, để cho Bắc thuộc lần thứ hai nữa, thì không có phương pháp nào giải ách
nô lệ cho đó vậy.
Q. 3/38: BAN PHÉP LÀNH CHO BA GIA
ĐÌNH
ĐÔNG CON.
Tại Đền Thánh ngày 16 tháng
8 năm Canh Dần (1950)
Mấy em, ngày hôm nay là ngày kỷ niệm của Đức Phật Mẫu.
Qua đã nhứt định để cho các gia đình của mấy em hưởng
đặc ân của Chí Tôn, để một mình làm chủ một ngày lễ
đặng hiểu rằng: Có nhiều lời tâm huyết can đảm, mấy em nam, nữ tức là cha mẹ
của đám ấu sinh kia, mấy em đã lãnh trách nhiệm thiêng liêng của Đức Chí Tôn,
và Phật Mẫu đã phú thác gởi gấm giao phó cho mấy em, các Đấng chơn linh đến làm
Thánh thể của Ngài. Mấy em nam, nữ đã lãnh trách nhiệm trọng yếu mà gìn giữ báu
vật của Chí Tôn và Phật Mẫu đã phú thác gởi gấm và giao phó cho. Năm nào Qua
cũng căn dặn mấy em. Tuy vẫn trẻ ấu sinh do huyết khí của mấy em tượng nên
hình. Những chơn linh đó là bạn của mấy em, Đức Chí Tôn phú thác cho
mấy em, mấy em nên hiểu rằng: Trước khi Đức Chí Tôn để chơn đến mặt thế này mấy
em biết đến với mấy em trước không? Qua nói: Ngài đến với mấy em trước. Trong
Thánh thể đương nhiên giờ phút này Ngài lựa chọn, Qua vẫn biết làm cha trong
gia đình khó khăn thế nào? Qua cũng hiểu cái khổ não của mấy em lo tảo lo tần
mà nuôi con cái của mấy em, có ngày Hội Thánh cũng biết.
Qua
nói rõ cho mấy em hiểu rằng: Cơ thể hữu vị của Đức Chí Tôn đến đào tạo đây: mấy
em có biết để cho ai chăng?
Cốt
yếu để tạo nghiệp cho mấy em đó vậy. Qua nói cho mấy em hiểu, trừ ra Đền Thánh
và các Đền Thờ, Qua không dám nói đến, bởi nó sẽ tượng hình mà gom góp lập
thành Chí Thánh. Qua nói của cải đào tạo dành để cho mấy em nuôi con cái của
mấy em đó vậy. Giờ phút nào Qua còn thấy trước mắt Qua mấy em khổ não nhọc nhằn
đói khó, Qua có can đảm dỡ từng miếng ngói mà nuôi nó, Qua xin mấy em đừng hất
hủi chúng nó để cho trọn vẹn đạo làm cha mẹ, Qua chẳng cần nói mấy em cũng chán
biết.
Qua
lặp lại một lần nữa, mấy em có chủ quyền trọn vẹn của mấy em để giáo hóa là do
Đức Chí Tôn phú thác đó thôi.
Ngày
giờ nào mấy em không phương lo nuôi không nổi, đem nó cho Qua giao cho Hội
Thánh, ngày giờ nào Qua còn sống thì giao lại cho Qua. Qua cấm hẳn, Qua không
chịu để cho nó đói rách. Qua nói cho mấy em hiểu, mấy em phải lấy giọt sữa đạo
đức mà nuôi con, hột cơm của mấy em nuôi nó là cơm đạo đức.
Trái
lại, nếu mấy em không bảo trọng phận sự của thiêng liêng phú thác, để cho nó
hung tàn bạo ngược như kẻ ngoài đời kia thì tội tình của mấy em nơi cửa Ngọc Hư
Cung chẳng hề dung thứ. Mấy em nên nhớ giờ nào Qua cũng muốn tìm phương thế
sang bớt cái nhọc nhằn của mấy em, nào là tạo cơ sở Cô Nhi, tạo Đạo Đức Học
Đường, tạo các cơ quan giáo hóa, để giúp mấy em, nhưng trước hết làm Thầy đắc
lực hơn hết là mấy em, chớ không phải giáo viên lập được tánh đức của nó, tương
lai của nó là do nơi mấy em, phải tạo khuôn luật, cái quyền nghiêm khắc là do
nơi gia đình, mà gia đình nào có con hung tàn bạo ngược thì gia đình ấy phải
chịu nhọc nhằn.
Hội
Thánh nhứt định sẽ trừng trị, Qua cho biết liệu nuôi nổi thì nuôi, nếu không
nuôi nổi thì giao lại cho Qua, chớ không quyền hất hủi nó, điều ấy là điều cần
thiết hơn hết.
Q. 3/39: TRONG BUỔI TIỆC
CỦA NHẠC SỸ TÂN KHOA.
Tại Bộ Nhạc Lễ đêm 16 tháng
9 năm Canh Dần (1950) lúc 8 giờ 40.
Lễ Nhạc là hai điều trọng hệ của Đức Chí Tôn, khi Ngài đến vẫn chú ý về hai
điều ấy, chúng ta cũng vẫn biết, nền Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế, thì
tức nhiên của toàn cả xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu này
nhờ Đạo Nho sửa đoan chỉnh đốn thiên hạ lại, chúng ta thấy xã hội tinh túy đạo đức của họ dường như đảo ngược lại khủng hoảng tinh thần
mà ra vậy. Nho đạo đã lập xã hội ở Á Đông từ Tam Hoàng qua tới nhà Châu rồi
Ngài Châu Công chỉnh đến Tân Dân; lễ nhạc sản xuất do nơi Huỳnh Đế với Châu
Công; ấy vậy mình phải biết nhạc khi nào cầm cây đờn, năm mười cây hòa lại nó
một giọng thì tức nhiên chữ hòa do nơi nhạc sanh ra vậy.
Lễ
nhạc do nơi âm thinh, bởi thế nên chúng ta thấy Vạn Quốc giờ phút nầy, dầu văn
minh thế nào mà hiểu đặng nền tăng tiến của Trung Hoa thì đều khen ngợi, từ thử
đến giờ, trên mặt địa cầu này, có nước Tàu là do Đức Khổng Phu Tử chỉnh đốn
hoàn bị nên lễ nhạc có phương thế làm môi giới làm khí cụ cho toàn vạn quốc
đương buổi nầy, lấy tư cách lễ độ làm ngoại giao, tưởng chắc không nghịch nhau,
chúng ta thấy tấn tuồng của vạn quốc họ đều thất lễ ấy, mà thế giới khởi chiến
tranh.
Mấy
em nhạc tự biết mình chẳng phải làm nghề sơ lược của bọn đờn thổi ngoài đời như
họ vậy, thành ra hèn hạ, còn nếu muốn biết tánh cách quan trọng của nó thì dở
lịch sử ra xem mới biết, dầu nước văn minh nào ở mặt địa cầu nầy cũng không thể
cãi bỏ nhạc được.
Mấy
em phải biết cái tinh túy mà người ta có thể đo lường nhạc cao thấp mà hiểu
được, vì cớ cho nên mỗi nước có bản quốc thiều. Qua nói cùng mấy em rõ, giờ
phút nầy mấy em cầm cây đờn, giữ giá trị riêng để tự trọng lấy mình, Qua nói rõ
hồi lúc Qua học đờn tài tử, Qua đờn không cần ai khen, không sợ ai chê, hễ cầm
cây đờn lên giọng đều như nói chuyện về tinh thần với cây đờn của mình, nhứt là
Đức Cao Thượng Phẩm sanh tiền buổi nọ, lấy cây đờn mà làm bạn thiết, hết thảy
ngôn ngữ thường tình đều khinh rẻ, Qua nghe từ ngôn ngữ của nhạc, Qua biết nó
là bạn tri âm, tri kỷ, cao thâm hoạt bát của nó, nên lấy trí luận thì từ trước
kia Bá Nha là bạn tri âm của Tử Kỳ, biết tri kỷ đặng để làm gương, hễ cầm cây
đờn thì phiêu phi ở giữa lừng trời, nhiều khi tiếng đờn hợp với tinh thần, thấy
dường như tượng trưng ra khỏi xác thân để giúp tinh thần cường liệt vô đối, cái
năng lực của cây đờn là ấy vậy, kẻ ngoài bàn luận, phê bình tánh cách hòa nhã
mà thôi, mình biết tinh túy của mình, trọng hay khinh là do nơi mình, nếu mình
biết trọng thì họ trọng, nếu mình biết khinh thì họ khinh, mấy em tưởng tượng
nghe đờn của mấy em, giờ phút nầy mấy em có thể nghĩ nó có giới hạn, và có thể
làm bạn với ta, từ thượng cổ, từ bực yếu trọng, họ nói là bạn với nó vậy, chí
hướng tự trọng của nó, từ trước kia những bực tiền nhân của chúng ta là bạn thế
nào, thì ngày nay chúng ta cũng làm bạn như thế ấy.
Mấy
đứa thi đậu kỳ nầy, con đường Thánh thể của Đức Chí Tôn đã mở rộng cho mấy em
cứ khoan thai bước tới, Qua để hy vọng tương lai kẻ nào cầm vận mạng của nó
phải biết giá trị và tánh chất hòa hợp với tiếng đờn yểu diệu, hiền từ, lịch
lãm, khí khái của mấy em đã đào tạo, ngày kia nó có giá trị và ảnh hưởng cho cả
quốc hồn là cây đờn của mấy em, nó sẽ là tương lai vận mạng của nước, nhớ từ
đây sắp về sau phải biết tự trọng lấy mình, mà biết tự trọng lấy mình thì sau
thiên hạ mới trọng mình vậy.
Q. 3/40: VÍA ĐỨC QUYỀN GIÁO
TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT.
Tại Tòa Thánh ngày rằm
tháng 10 năm Canh Dần (1950) (*1)
Hôm nay là ngày kỷ niệm của Quyền Giáo Tông, toàn thể anh em chúng ta nên
để tâm tưởng niệm một người anh cả lớn nhứt, vĩ đại nhứt của chúng ta. Một
người anh yêu ái của toàn thể chúng ta đó vậy.
Hai mươi bốn năm trước, nếu chúng ta tưởng tượng lại nền Đạo của Đức Chí
Tôn thì không được như ngày nay, Bần Đạo tưởng chắc cái khổ hạnh của người Anh
cả Cửu Trùng Đài chưa đến nỗi phải đổ lụy nhiều phen vì Đạo. Một nền chơn giáo gặp trong thời buổi trí thức tinh thần của con
người đã bị tài năng hóa học đào độn không còn cái quyền vi chủ tâm lý của
mình.
Thời buổi thuyết duy vật đương đánh đổ thuyết duy tâm cái quyền năng đạo
đức phải thối bộ trước cái cường lực của trí thức tinh thần, tài tình nhơn loại thấy tưởng chắc rằng trí thức tinh thần của họ được vi chủ cả tương
lai, rồi chê bỏ phụ rải cả triết lý tinh thần đạo đức.
Trong buổi ấy Đức Chí Tôn lại đến, Ngài đến với một nền Tôn Giáo mà từ thử
đến giờ nhơn loại chưa buổi nào có, biểu sao không trăm ngàn lần khó khăn đã
chồng chất. Chúng ta hồi tưởng lại, suy gẫm cái khó khăn,
cái phản động lực ấy nó làm trở ngại đến mức nào? Thánh thể Đức Chí Tôn, tức
nhiên cả toàn Hội Thánh phải chịu một cường lực đè ép về tâm hồn hình thể, do
nơi tay người Pháp. Chúng ta cũng nên tìm cho thấu đáo trong ngày kỷ niệm của
Anh cả mình "quang tiền vũ hậu" chẳng phải một điều vô ích đó vậy.
Đạo
Cao Đài, Đức Chí Tôn thượng cây Phướn cứu khổ đặng cứu thế giữa mặt địa cầu
nầy, nên chúng ta được biết tâm hồn của nhơn loại chia ra làm ba:
1)
Hạng nguyên nhân.
2)
Hạng hóa nhân.
3)
Hạng quỉ nhân.
Đã là
cơ quan tận độ, thì không có kỵ ai bao giờ. Vì cớ cho nên đương thời buổi
truyền bá chơn giáo của Đức Chí Tôn một cách cường thạnh tuyên bố một cách phi
thường, cái hoạt động toàn Thánh thể của Ngài buổi nọ, chúng ta không thế gì
tưởng tượng được.
Hại
thay! Đã trót trên 10 năm trụ cả đức tin vừa mới vững chắc. Mở đạo nơi Chùa Gò
Kén Đại Từ Phụ vẫn để cho quỉ tàn phá giữa đại đàn, Ngài mở rộng cho ba phần
chơn hồn ấy. Biểu sao quỉ không trọn quyền dự thí để phá hoại làm cho cả đức
tin thiên hạ gây thêm một trường chống báng chê bai khinh rẻ, chẳng khác nào
như vừa cất lên một cái đài vinh dự, Ngài cho kẻ nghịch thù của Ngài tàn phá
tiêu hủy, rồi phải lo tu tạo lại như buổi ban sơ, phải mất cả hai năm truyền bá
gầy tạo tinh thần của con người lại, vì lẽ ấy cho nên tâm lý của nhơn sanh phải
mờ hồ.
Bần
Đạo làm chứng rằng cho đến con cái chí hiếu của Đức Chí Tôn, tức nhiên cả Chức
Sắc Thiên Phong, nam, nữ mấy vị có trách nhiệm lãnh Thiên mạng của Đức Chí Tôn
làm Thánh thể cho Ngài cũng thế, họ cũng mờ hồ, đức tin của họ cũng chẳng có gì
hết. Bởi vì thiếu đức tin ấy làm cho Hội Thánh phải nghịch lẫn nhau tranh quyền
lấn thế cùng nhau. Trong cơ khảo đảo tranh quyền lấn thế ấy mới xuất hiện ra
đảng phái Tả Đạo Bàn Môn.
Bây
giờ về phần đời của Ngài là Thượng Nghị Viện tại Nam bộ này, tức nhiên là người
Anh đứng đầu trong thiên hạ buổi nọ vậy, nắm quyền trong tay, tuy vẫn còn dưới
quyền thuộc địa của người Pháp.
Về
phương diện đứng đầu trong xã hội nhơn quần, chẳng phải nói đứng đầu trong Quốc
dân Việt Nam này mà Anh cả chúng ta còn có phần đặc biệt ít ai dám khi rẻ, từ
Nam chí Bắc danh của Anh cả không người nào không biết. Thói thường tình của
con người, hồi còn lúc đương quyền họ nương bỏng, họ bợ đỡ, họ kiếm phương thế
lại gần đặng núp sau lưng Anh cả của chúng ta để lợi dụng quyền thế kiếm phương
bán cả danh giá của Ngài đặng thâu đoạt lợi quyền.
Hai
mươi bốn giờ, Đức Chí Tôn biểu bỏ hết gia nghiệp cho tới sự ăn chơi cũng thế,
Đức Chí Tôn kỳ có 24 giờ mà thôi, hai mươi bốn giờ Anh cả chúng ta phải trường
chay, 24 giờ Anh cả phải dưng cả sự nghiệp cho thiên hạ, trong 24 giờ Anh cả
chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị Viên, dưng mảnh thân phàm cho Đức Chí Tôn
làm ngọn cờ cứu khổ.
Cảnh
tượng ấy, thiên hạ thấy cái sang cái trọng kia, thấy cái quyền hành kia trả lại
từ trên tới dưới, đứng địa vị tối cao xuống địa vị tối thấp, vì cớ nên xúm nhau
khi rẻ, vì không còn hưởng được lợi quyền nào và không còn mơ ước bợ đỡ lợi
dụng được thì phản trắc.
Một
trường bịa đặt ngôn luận đủ mọi điều, không cái gì mà thiên hạ không nói, buổi
nọ tình thế ấy, từ giá trị đến đời sống của Ngài đều bị thiên hạ chê bai một
cách vô lý không thế gì tả được cái ích kỷ của đời.
Về
quyền hành của Đạo, không biết vì cớ gì Đức Chí Tôn đã định cho Ngô Văn Chiêu làm
Giáo Tông của Đạo, Đức Chí Tôn biểu may Thiên Phục Giáo Tông và may rồi trong
10 ngày lại thôi, Ngô Văn Chiêu bị biếm vậy. Hại thay! Tước vị ấy để treo lên
đó mà thôi, dùng để cho ai hưởng, trái ngược lại Anh cả của chúng ta phải chịu
mạng lịnh cầm quyền ấy, làm cho tâm lý giữa Đạo và đời phải điên đảo phân phân
bất nhứt, gây thù kết oán với nhau, sanh ra các đảng phái đánh đổ Hội Thánh.
Hại
thay! Ngài phải chịu một trường hợp khó khăn đã chịu một điều oan khúc tình cờ
không thế gì tự bào chữa lấy mình cho đặng, đàng sau Anh cả chúng ta buổi nọ,
cả Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ cả tín đồ đều phân phân bất nhứt, đàng sau Anh
cả chúng ta buổi nọ không có cái hậu thuẩn chi hết, cả thảy đều bo bo chết anh,
anh chịu, chết em, em chịu, không biết binh vực lẫn nhau, không có một hậu
thuẩn biểu sao cường quyền không áp chế bắt cầm tù đặng thị nhục.
Nhớ
lại, nếu Anh cả không đủ tinh thần đạo đức, không đủ trí thức tài tình, một
trường chiến đấu buổi nọ, không phải dễ gì mà thắng. Họ nhốt trong khám mấy bữa
vì nạn không có tiền đóng thuế thân cho bổn đạo, chúng bắt bỏ tù luôn Ngũ Đẳng
Bội Tinh trong mình Ngài nữa, chừng ra rồi Ngài gỡ trả Ngũ Đẳng Bội Tinh lại,
vì nó không có giá trị gì hết, nếu có giá trị thì không thị nhục dường ấy. Trả
mà người ta chưa dám lấy, năn nỉ đưa lại cho Ngài. Tình trạng Anh cả chúng ta
như vậy.
Ngộ
nghĩnh thay! Thế gian này từ thử đến giờ chưa thấy ai có đức tin lạ lùng như
Ngài vậy.
Nền
chơn giáo của Đức Chí Tôn mà triết lý không ai biết đặng, con người ta phải có
trí thức để suy gẫm, lấy trí thức tinh thần để đoán xét cả sự tin tưởng nơi thế
gian này chúng ta thấy trí thức tinh thần tiềm tàng cho thấu đáo, cái đức tin
của Ngài.
Bần
Đạo giờ phút này, đứng tại đây để dấu hỏi đâu mà có? Tức nhiên ở trên Trời vâng
mạng lịnh đến mà thôi. Người vâng mạng lịnh Trời tức nhiên do theo tiếng Trời
kêu mới biết rõ; nếu nói rằng: Đức tin thấu đáo đặng thì Bần Đạo chưa có trí
thức tinh thần nào tưởng tượng cho thấu đáo.
Bần
Đạo đứng giữa đây, Cửu Trùng Đài nam, nữ nhứt là nam phái, Bần Đạo ngó thấy
người cầm đầu nam phái có tinh thần vững chắc lắm. Còn đức tin nữ phái buổi nọ
không bằng của nam phái.
Phái
nam được hưởng một đặc ân của Đức Chí Tôn, ngày nay lập quyền Cửu Trùng Đài nam
phái là nhờ đức tin lạ lùng của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt buổi nọ
lưu lại họ hưởng đó vậy.
Bần
Đạo lấy công bình nói quả quyết, ngày giờ nào Chức Sắc Đại Thiên Phong hưởng
đặng vinh hạnh sang trọng nơi mặt địa cầu này, là Cửu Trùng Đài không có quyền
quên ơn Người thứ nhứt của mình đã tạo nên khối đức tin để lại đó vậy. Đức
Quyền Giáo Tông là ơn đệ nhứt của Thánh thể Đức Chí Tôn Cửu Trùng Đài mà thôi.
Bần
Đạo đứng tại đây làm chứng cho toàn thể hậu tấn đều nghe tiếng của Bần Đạo nói:
Bần Đạo lập lại giùm, mỗi khi có tiếng nhắc lại cho họ nghe thấy là phương pháp
của toàn thể trong Đạo đền ơn cho Ngài đó.
Phụ ghi:
(*1)
Ngày kỷ niệm của Đức Quyền Giáo Tông là ngày 13-10 âm lịch hàng năm: âl.
13-10-Canh Dần nhằm ngày (dl. 22-11-1950).
Q. 3/41: THỜI KỲ ÂN XÁ CỦA ĐỨC
CHÍ TÔN.
Tại Đền Thánh ngày rằm tháng
10 năm Canh Dần (1950)
Đêm
nay là lễ Hạ Nguơn, Bần Đạo đã thuyết minh trong buổi Hạ Nguơn Tam Chuyển vừa
qua, khởi đầu Thượng Nguơn Tứ chuyển rồi. Bần Đạo nhắc lại phen nữa, đặng cho
toàn thể con cái của Đức Chí Tôn biết Long Hoa Hội là gì? Trái đất nầy, Bần Đạo
đã có thuyết minh nếu tính theo toán số thì mỗi chuyển là 61.000.000 sáu mươi
mốt triệu kêu là một kỷ thế.
Trong
một chuyển phân ra ba Nguơn, thành ra chúng ta tính lụng lại mỗi nguơn chuyển
của một đại chuyển có hai chục triệu, ba trăm ba mươi ngàn, ba trăm ba mươi ba
năm, ba mươi ba ngày, ba mươi ba giờ, ba mươi ba phút (20 triệu 333 ngàn 333
năm 33 ngày 33 giờ 33 phút) thì có Long Hoa Hội chỉ nghĩa là qua một chuyển.
Các
chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, giờ phút nơi mặt địa cầu 68 nầy đều có các chơn
linh ở nơi đây dự vào khoa mục; khoa mục của chúng ta thi rồi xong trong hoàn
vũ nầy chúng ta tấn triển tới cho được; giờ phút nầy là giờ phút có quyền
thiêng liêng vô tận của Đức Chí Tôn ghi công và định vị.
Bần
Đạo không cần nói; buổi buộc thì khó, buổi mở thì dễ. Đức Chí Tôn Ngài đến để
hai chữ ân xá thì chúng ta đoán hiểu rằng: Ngài đã đến rồi và Ngài biết con cái
của Ngài đã chịu khổ nhiều rồi, đã có nhiều phương pháp giải khổ của Ngài đến
giao nơi mặt địa cầu nầy, từ thử đến giờ cái thống khổ tâm hồn của nhơn loại
bao nhiêu, thì Ngài thống khổ bao nhiêu. Ngài đến đem Long Hoa Hội cốt để bảo
thủ hai chữ ân xá, trong bao nhiêu đó, chúng ta cũng đủ thấy lòng thương yêu vô
tận của Ngài thế nào?
Bần
Đạo nói thật, thời buổi nầy chúng ta không tìm phương giải thoát cho Cửu Huyền
Thất Tổ thì không có thời buổi nào có năng lực độ rỗi Cửu Huyền Thất Tổ của
mình cho đặng, không có buổi nào hạnh phúc làm đặng như vậy.
Bởi
thế nên toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ cũng vậy, có tấm lòng yêu ái
nồng nàn hoài vọng giọt máu mảnh thân mình, giờ phút nầy là giờ phút nên để
trọn tâm cho thanh tịnh đặng cầu nguyện siêu thoát cho Cửu Huyền Thất Tổ.
Bần
Đạo dám nói giờ phút nầy, mấy người có thể nhỏng nhẻo với Đức Chí Tôn được.
Ngài sẵn sàng để hai chữ ân xá, thì mấy người xin cái gì thì ông cũng cho cái
nấy.
Q. 3/42: LỄ MÃN KHÓA HẠ SĨ
QUAN (KHÓA THƯỢNG
TÔN KỲ NHỨT).
Ngày 23 tháng 10 năm Canh Dần
(1950)
(Lúc 8 giờ ban mai)
Trong
giờ phút nầy không thể trì hoản được vì dân tộc đang mong đợi nơi anh em để đưa
họ tới mục đích tối cao là tranh thủ độc lập và thống nhất thật sự.
Binh
Sĩ Cao Đài sẽ là hơi thở của họ, binh sĩ Cao Đài sẽ là nguồn sống của họ, sự
đoàn kết, sự thống nhứt dân tộc họ đã được thấy thật hiện ở người binh sĩ Cao
Đài, thì không còn lý do gì mà các con không cứu vớt họ, để thực hành các mục
đích thiêng liêng của ta là bảo sanh nhơn nghĩa, sự độc lập không ai có quyền
nắm giữ. Trước kia có sự chia rẽ, sự lấn áp là vì dân tộc bị trị hơn tám mươi
năm, tinh thần yếu kém, nhưng nay đã nhận rõ đường đi, lối bước, các con có
quyền nắm giữ lấy cái độc lập đó và cũng có nó, nếu còn kẻ nào dùng cường quyền
chiếm đoạt mặc dầu chúng có súng đồng, tàu lặn, máy bay nhưng một khi chúng ta
đã làm cái việc trái với Thiên Đạo trái với nhơn tâm thì các con có phận sự
phải tranh đấu, phải chống lại cái cường quyền ấy dầu cho phải hy sinh tới giọt
máu cuối cùng.
Tổ
Phụ ta đã tranh đấu trong bốn ngàn năm, Bần Đạo sẽ nối chí ấy mà tranh đấu, con
đường mà Tổ Phụ ta đã vạch sẵn, Thầy sẽ dắt dẫn các con noi theo, và Thầy quả
quyết rằng sẽ thắng và nhứt định thắng.
Q. 3/43: TRẤN PHÁP NƠI TRÍ HUỆ CUNG THIÊN HỈ ĐỘNG.
Tại Đền Thánh đêm 14 tháng
chạp năm Canh Dần (1950)
Ngày
mai nầy Trấn Pháp Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Bần Đạo lấy làm mừng đã làm tròn
phận sự đặc biệt của Bần Đạo. Từ thử đến giờ Bần Đạo đã nhiều phen giảng giải
về hình thể Đức Chí Tôn.
Bần
Đạo đã gánh vác về thể pháp Cửu Trùng Đài, tạo nghiệp cho Đạo là làm giùm cho
thiên hạ chớ không phải phận sự của Bần Đạo. Ngày nay là ngày vui mừng của Bần
Đạo hơn hết, là Bần Đạo còn sức khỏe đầy đủ cầm Bí Pháp của Đức Chí Tôn đã giao
phó, ấy là phận sự đặc biệt của Bần Đạo đó vậy.
Hộ
Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước Cửu nhị ức Nguyên Nhân là bạn chí thân của
Người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát, muốn rước các bạn
chí thân của Bần Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp Giới tận độ chúng sanh.
Hôm
nay là ngày mở cửa Thiêng Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên Nhân ấy là một
quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình hai món Bí Pháp ấy là:
1.
LONG TU PHIẾN của Đức Cao Thượng Phẩm để lại.
2.
KIM TIÊN của Bần Đạo.
Hiệp
với ba vòng Vô Vi, tức nhiên Diệu Quang Tam Giáo hay là hình trạng Càn Khôn Võ
Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang Khiếu của chúng ta đó vậy.
KIM
TIÊN là gì? Là tượng hình ảnh điển lực điều khiển Càn Khôn Võ Trụ mà chính nơi
đó là điển lực tức nhiên là sanh lực đó vậy. Với nó mới có thể mở Đệ Bát Khiếu,
trong thân thể con người có Thất Khiếu và còn có một khiếu vô hình là Huệ Quang
Khiếu, vì nó là điển lực, nên nó mở Khiếu ấy mới được.
Nói
rõ con người có Ngũ quan hữu tướng và Lục quan vô hình mà phải nhờ cây Kim Tiên
ấy mới có đủ quyền hành mở Lục quan của mình đặng.
LONG
TU PHIẾN có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ, do nguơn khí đào độn sanh ra đó
vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.
Con
người nắm được điều ấy là kẻ đắc Pháp, nhờ nó mới có thể luyện TINH hóa KHÍ,
luyện KHÍ hóa THẦN được.
Ấy là
Bí Pháp trấn tại Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết,
mà trong đó có quyền pháp vô biên, vô giới. Giải thoát đặng cùng chăng là do
bao nhiêu đó.
Q. 3/44: ĐỨC CHÍ TÔN MỞ CON
ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG.
Tại Trí Huệ Cung
Ngày 16 tháng chạp năm Canh
Dần (1950)
Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ nhứt là Thánh
thể của Ngài.
Ngày hôm nay nếu chúng ta biết đặng hồng ân của Đức Chí Tôn ban thưởng thế
nào, thì đây là một ngày vui của chúng ta không thế gì tả đặng. Bởi giờ phút
nầy, sau khi 20 năm chúng ta chịu khổ hạnh vì Đạo mà lăn lóc, cực nhọc về phần
xác lẫn phần hồn.
Ngày nay Đức Chí Tôn đã mở cho chúng ta một con đường Thiêng Liêng Hằng
Sống và Bần Đạo đã vâng mạng lịnh Đức Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho toàn
thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.
Bần
Đạo nói: từ đây, kể từ ngày nay cửa Thiêng Liêng của Đạo đã mở rộng, Bần Đạo
kêu toàn thể con cái Đức Chí Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu
nhị ức Nguyên Nhân (92 Ức Nguyên Nhân) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức Chí
Tôn.
Cửa
nầy là cửa của các người đến đoạt Pháp, đặng giải thoát lấy mình đến trong lòng
Đức Chí Tôn, vì Đức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ, mà chúng ta không đến, không
tưởng nghĩ đến, thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Đô. Giờ phút ấy
không còn trách Đức Chí Tôn rằng: không thương yêu con cái của Người, không đem
cơ quan tận độ chúng sanh để nơi mặt địa cầu nầy cứu vớt nữa.
Bần
Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái Đức Chí Tôn một phen nữa.
Q. 3/45: TRÍ HUỆ CUNG THIÊN HỈ
ĐỘNG LÀ CỬA THIÊNG LIÊNG HẰNG SỐNG CỦA CÁC ĐẤNG CHƠN LINH.
Tại Trí Huệ Cung
Ngày 26 tháng chạp năm Canh
Dần (1950)
Hôm
nay là ngày Thuyết Đạo trọng yếu, cả thảy rán để ý nghe cho rõ, đừng để rồi sau
hối hận, Bần Đạo xin cả thảy lắng lặng nghe cho rõ.
Trước
khi mở lời, Bần Đạo cám ơn toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ nhứt là để lời
yếu thiết nồng nàn cám ơn Thánh thể của Ngài tức nhiên Hội Thánh.
Các
bạn, ngày nay Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp; giờ phút nầy là người bạn tu của
các bạn mà thôi. Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp đặng đến với các con cái của
Ngài, với một tình nồng nàn, Hộ Pháp cũng là người bạn Thiêng Liêng về phần hồn
với con cái của Ngài.
Trí
Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy.
Bần Đạo nói rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta, mà nó là của
toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy; bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh
Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh Chí Linh tức nhiên không có
quyền nào nắm nó được, vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên
toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, Tôn giáo
hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.
Cửa
Thiên Hỉ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của toàn thể các đẳng chơn linh,
nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng
trưng cái quyền vô tận, vô đối của Đấng Chí Linh, hằng tạo dựng đại nghiệp cho
con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy, tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy.
Nó đã
đến, đến đặng chi?
Đặng
làm bạn chí thân cùng toàn thể con cái của Ngài, thì nó phải có độ lượng yêu ái
nồng nàn nó không phân biệt tư tưởng hay hình thể, nếu nó có còn tư tâm để cả
tinh thần nơi một chủ hướng nào, thì nó đã phạm quyền vô biên của Đức Chí Tôn
tại thế đó vậy.
Ấy
vậy, toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, các bạn đồng cùng Bần Đạo không phân
biệt đảng phái hay nòi giống tư tưởng nào, Bần Đạo đã thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn
đến làm bạn với các con cái của Ngài, nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng
lại. Những hình thể của thiên hạ đã do nơi trí óc con người từ thử đến giờ,
chưa có ai đặng quyền nắm cơ giải thoát, thì giờ phút nầy Cửu nhị ức Nguyên
Nhân vẫn còn đọa lạc.
Bần
Đạo cả tiếng kêu con cái Đức Chí Tôn nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng
lại, ngó nơi Trí Huệ Cung phải vào cửa ấy mới đoạt đặng mà thôi, đoạt cơ giải
thoát đặng, mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng
riêng biệt dành để cho mọi người.
Lời Cảm Tạ của Ban Đạo Sử
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Tứ thập cửu niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn Phòng
BAN ĐẠO SỬ
Chân thành Cảm tạ
Kính Hiền Huynh, Hiền Hữu, Hiền Tỷ, Hiền Muội;
Sách LỜI THUYẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP Quyển I với Quyển II và Tiểu Sử ĐỨC
QUYỀN GIÁO TÔNG đã xuất bản và phát hành Toàn Đạo là nhờ sự ủng hộ của Quí ân
nhân mới được thành công mỹ mãn.
Hôm nay in tiếp "LỜI THUYẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP Quyển III", xuất
bản trong hoàn cảnh khó khăn, vì gặp buổi vật giá gia tăng, tài chánh eo hẹp
trở ngại nhiều trong việc in thành quyển. Nhưng
các việc được lướt qua là nhờ sự cố gắng, nhẫn nại, thêm đa số Quí ân nhân ủng
hộ về mặt tinh thần cũng như vật chất.
Nhờ
sự tận tình giúp đỡ, nên hôm nay sự khó khăn đã vượt qua và đã xuất bản thành
hình quyển III THUỲẾT ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP.
BAN
ĐẠO SỬ KÍNH LỜI "CHÂN THÀNH CẢM
TẠ" CHƯ QUÍ ÂN NHÂN NỒNG HẬU VỚI THÂM TÌNH THÂN MẾN.
Mong
ước Quyển sách nầy sau khi phát hành, Chư Quí Hiền Huynh, Hiền Tỷ, Hiền Hữu,
Hiền Muội, thông cảm sự khó khăn vì vật giá hiện tại đối với sự xuất bản của
chúng tôi.
Trân trọng
BAN ĐẠO SỬ
Q. 4/01: LỜI HIỆU TRIỆU CHIẾN
BINH CAO ĐÀI NHƠN DỊP LỄ XUẤT QUÂN.
Đại Đồng Xã, ngày mồng 8 tháng
giêng năm Tân Mão (dl. 15-02-1951)
Thưa
cùng chư Viên Quan, thưa cùng chư Chức Sắc Thiên Phong, chư Tín Đồ Nam Nữ, các
Chiến Binh Cao Đài.
Mỗi
phen Bần Đạo lên giảng đài để kêu gọi tâm hồn toàn thể quốc dân Việt Nam tưởng
niệm đến tương lai Tổ Quốc là buộc mình Bần Đạo nhắc lại sau tám chục năm nô
lệ, ngày nay giải ách đặng độc lập cùng vạn quốc. Mỗi phen Bần Đạo kêu gọi là
mỗi phen làm cho Bần Đạo xốn xang nhiều chuyện khiến cho Bần Đạo chẳng minh tả
được.
Một
người đứng trong trường hợp như Bần Đạo đã tượng trưng tinh thần cho toàn thể
nhơn loại, có nơi mình một sứ mạng thiêng liêng của Đức Chí Tôn phú thác, thì
người tượng trưng tinh thần ấy, buộc phải kính nể, tôn sùng cả tinh thần của
người khác, lẽ thường vẫn vậy, luật Thiên nhiên đã định vậy. Trước mặt Bần Đạo
không có một điều chi nói phân cách với nhau tất cả về mặt tinh thần cũng như
hình thể.
Hành
tàng của đời, từ thượng cổ tới giờ vẫn có một khuôn luật, khuôn luật tiến triển
của tinh thần và hình chất, cái khuôn luật ấy nó xúi giục xô đẩy nhơn loại phải
tranh đấu, buổi nào cũng tranh đấu để phương thế bảo trọng sanh mạng của mình,
đặng định luật bảo tồn chung cho đồng loại của mình. Luật tiến triển buộc con
người phải tranh đấu, nhưng có một điều là trong phép tranh đấu ấy không bao
giờ qua khuôn luật nhơn đạo. Nếu không có nhơn đạo thì không còn công lý nơi
mặt địa cầu này chút nào cả.
Nhơn
loại phải sống chung với nhau trong khuôn khổ nhơn đạo mà thôi, nếu nhơn đạo bị
tiêu diệt, thì sanh mạng của loài người nơi mặt địa cầu này phải tiêu diệt, bởi
không còn khuôn luật xã hội nhơn quần, nếu muốn nhận thức thì Bần Đạo nói thế
này: Dầu họ muốn biết hay chẳng muốn nhìn hay chối cũng không được, cả thảy
quốc dân Việt Nam và các nước Liên bang chúng ta đã nhìn nhận rằng: Quân đội
Cao Đài đã hy sinh đặng bảo tồn nhơn đạo ấy. Bần Đạo thử hỏi có hành tàng cao thượng
nào hơn là hy sinh mình đặng bảo vệ sanh mạng của thiên hạ chăng? Có chí hướng
cao cả nào hơn nữa, là bảo tồn nhơn đạo đặng bảo thủ tương lai sanh mạng cho
toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này chăng? Chí hướng ấy Quân đội Cao Đài đã
có, vì chính nó đã hy sinh để trương ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng và đã
thực hiện đặng trước mắt Bần Đạo có một lý tưởng về tinh thần nào phản khắc với
nhau đặng, vì tư tưởng đâu phải do một luật tuồng đời xuất hiện. Các Ngài đã
ngó thấy rằng luôn luôn Bần Đạo không cố chấp một điều chi về mặt tư tưởng thì
người ấy rộng mở hành tàng, trong hành tàng nên hư cũng thế, duy có thời gian
mới định cái nên hư, trọng khinh cho nó mà thôi. Bần Đạo không phê bình các
đảng phái, quốc gia hay đối phương. Về tư tưởng, trước mắt Bần Đạo không phân
biệt, và Bần Đạo nhứt định không phân biệt, duy có phân biệt một điều là hành
tàng vô nhân đạo mà thôi. Vì lẽ hành tàng vô nhân đạo của họ, mà Bần Đạo phải
đứng ra trương cờ Quân Đội Cao Đài để bảo vệ những sinh mạng vô cớ, vì có bổn phận
bảo vệ sinh mạng của những kẻ yếu hèn, không phải bảo vệ sanh mạng của
mình.(*1)
Trong
thời buổi loạn ly, cả nòi giống Việt Nam bị chúng giết một cách tàn nhẫn vô
nhân đạo vì cớ cho nên Bần Đạo trương cờ nhân nghĩa xúi giục con cái yêu thương
của Bần Đạo hy sinh mình để bảo vệ sinh mạng thiên hạ, hành tàng cao thượng đó
dầu thiên hạ có chối cùng không thể chối đặng.(*2)
Bần
Đạo nói, nếu ai đã đứng trong trường hợp cũng như Bần Đạo thì họ cũng thi thố
bằng phương pháp để bảo vệ sinh mạng đồng chủng mình trước đã. Sau kiếm giải
pháp nào có thể đúng hợp các tư tưởng, các chí hướng đảng phái Tôn giáo của
Quốc Dân Việt Nam sản xuất trong lúc giặc giã. Muốn giải quyết phương pháp ấy
phải tìm người không vì đảng phái, chỉ phụng sự cho Tổ Quốc, một cách trung thành
mới có phương thế giải quyết đặng. Người ấy Bần Đạo đã chọn lựa Đức Quốc Trưởng
Bảo Đại, vì cả giang san nầy người có quyền vi chủ, nhưng để mất, thì Ngài phải
đòi cho đặng để trả lại cho Quốc Dân Việt Nam.
Chánh
thể như lời Ngài đã tuyên bố hôm Tết, Ngài nói rằng: không có một hành tàng nào
có đủ quyền lập chánh thể nước nhà đặng, không có một đảng phái nào, Tôn Giáo
nào vi chủ chánh thể được, chỉ do toàn thể Quốc dân định cho nó mà thôi.
Ấy
vậy Bần Đạo đặt ra cả tín nhiệm tương lai nước nhà trong tay Đức Quốc Trưởng
Bảo Đại.
Bần
Đạo hứa không bao giờ quên lời nói ấy.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đoạn thứ 5: Nhơn loại phải sống chung với nhau trong khuôn khổ nhơn đạo mà
thôi, ... ... ...Chí hướng ấy Quân đội Cao Đài đã có, vì chính nó đã hy sinh để
trương ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng và đã thực hiện đặng trước mắt Bần
Đạo có một lý tưởng về tinh thần nào phản khắc với nhau đặng,...
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Nhơn loại phải sống chung với nhau trong
khuôn khổ nhơn đạo mà thôi, ... ... ...Chí hướng ấy Quân đội Cao Đài đã có, vì
chính nó đã hy sinh để trương ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng và đã thực
hiện đặng trước mắt Bần Đạo không có một lý tưởng về tinh thần nào phản khắc
với nhau đặng,...
(*2)
Nơi đoạn thứ 6: Trong thời buổi loạn ly, ... ..., hành tàng cao thượng đó dầu
thiên hạ có chối cùng không thể chối đặng.
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Trong thời buổi loạn ly, ... ..., hành tàng
cao thượng đó dầu thiên hạ có chối cũng
không thể chối đặng.
Q. 4/02: LỜI CĂN DẶN CÁC CƠ QUAN CHÁNH TRỊ ĐẠO, VÀ QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI TRƯỚC KHI
ĐỨC HỘ PHÁP NHẬP TỊNH.
Tổng Hành Dinh, ngày 15-01 năm
Tân Mão (dl. 20-02-1951)
(Lời khai mạc của ĐỨC HỘ PHÁP
ngồi chủ tọa).
Trước
khi mở hội Bần Đạo xin cho cả thảy biết, vì cớ làm sao ngày hôm nay có cuộc hội
nghị nầy. Trong 3 tháng Bần Đạo nhập tịnh, với thời cuộc đương nhiên bây giờ
chúng ta nên dè dặt cho lắm, Bần Đạo biết không thể gì chúng ta biết trước
được. Hiện nền Chính trị Đạo ngày giờ nầy nó đã cấp tiến, có sự thật đó vậy.
Sự
biến chuyển của Quốc Gia Việt Nam, giờ phút nầy chưa có đến mức quyết định của
nó hẳn hòi, nên nó còn biến thiên không thể gì nói cho được. Trong thời buổi 3
tháng Bần Đạo nhập tịnh vào Trí Huệ Cung, cả tinh thần hồn phách của Bần Đạo
tương liên với Đức Chí Tôn mà thôi, ngoài ra không còn biết điều chi nữa hết,
điều đó là trọng yếu nên Bần Đạo định cho các cơ quan Chánh trị Đạo, mỗi cơ
quan đều có chủ quyền sở hữu của mình giữ gìn đừng để mất.
Một
điều Bần Đạo xin giải nghĩa, trong thời buổi Bần Đạo vắng mặt, Bần Đạo xin một
điều là bỏ hết trích điểm với nhau, ai cũng vậy, mặt thế gian nầy không ai trọn
vẹn được, chúng ta đã thấy, chính Đại Từ Phụ là ĐỨC CHÍ TÔN kia mà cũng chưa
vừa lòng ai hết, chính Ông cầm quyền Càn khôn vũ trụ vững chắc, mà nội cái mưa
nắng cũng chưa vừa lòng thiên hạ, cho nên mình cũng không nên trích điểm ai,
nên giúp đỡ lẫn nhau một cách mật thiết là hay, đừng ngồi trích điểm thì rất
dỡ, giúp lẫn nhau thì khó, muốn trích điểm thì rất dễ, đứa con nít trích điểm
cũng được nữa, ở thế gian nầy không có ai trọn lành hết, duy có Cha cả chúng ta
là ĐẠI TỪ PHỤ kia mà thôi.
Cả
hành tàng trong thời buổi nầy khó khăn lắm, chúng ta phải cố gắng hết sức làm
được mức nào hay mức nấy. Nền Đạo nầy đến thất ức niên, chớ chẳng phải thời
buổi gì mà cấp tiến. Luật cấp tiến Bần Đạo đã có thuyết minh, luật cấp tiến
thiên nhiên Trời đã định, nếu không cấp tiến thì nhơn loại sẽ chán nản ngã lòng
không tấn triển được gì hết, nhờ luật cấp tiến đó mà chúng ta định phận chúng
ta đó vậy, có nhiều khi gặp trở lực chúng ta phải biết nhẫn nại đợi cho đến cái
mức hay của nó, tới thời thế chúng ta cấp tiến mới được, có nhiều khi dục tốc
bất đạt, vì giục thúc cấp tiến quá đã không có lợi mà có hại như chúng ta đã
thấy Nguyễn Ái Quốc tức nhiên Hồ Chí Minh tánh nong nảy, cấp tiến quá không quan
xét kỹ nên thất bại, nếu lấy lý mà nói đã muốn làm cách mạng, muốn thực hiện
Cộng sản mà cách mạng làm chưa rồi, một gánh còn chưa nổi mà muốn mang trên vai
hai gánh biểu làm sao không đổ, mà nếu đổ thì đổ hết, sự thật vậy, cấp tốc nó
có hại lắm.
Bần
Đạo vắng mặt trong 3 tháng vào Tịnh Thất, Bần Đạo đã định rồi sẽ ủy quyền trọn
vẹn cho các cơ quan cầm quyền nhiếp chánh của Đạo trong khi Bần Đạo vắng mặt.
Bần Đạo xin một điều là đừng có trích điểm với nhau, phải giúp đỡ lẫn nhau mà
thôi, bỏ trích điểm, liệu phương thế hay giúp đỡ lẫn nhau mà thôi, nếu một cơ
quan làm không được thì hai cơ quan, hai cơ quan làm không được thì ba hay bốn
cơ quan hiệp lại sẽ làm được, đừng trích điểm, trích điểm dở, nếu trích điểm là
vạch lưng mình ra cho người ta coi thẹo mà thôi, Bần Đạo xin điều đó nhứt hơn
hết, nếu toàn thể chấp thuận lời xin của Bần Đạo, đưa tay lên cho Bần Đạo làm
tin.
Q. 4/03: NGÀY 16-01 TÂN MÃO
ĐỨC HỘ PHÁP NHẬP VÀO TRÍ HUỆ CUNG.
Tại Đền Thánh ngày 15-01 năm
Tân Mão (1951)
Kể từ
ngày 16 tháng giêng năm Tân Mão, tức là ngày mai đây Bần Đạo nhập vào Trí Huệ
Cung.
Bần
Đạo đã nghe ngoài đời đồn rất dị thường, Bần Đạo lên giảng đài cốt để giải rõ
nghĩa lý của Bần Đạo nhập Trí Huệ Cung.
Bần
Đạo xin cho cả thảy con cái Đức Chí Tôn biết rằng: Nền Đạo Cao Đài Đức CHÍ TÔN
đến lập, do nơi chơn lý tối cao, chính mình Đức Chí Tôn đến để diệt mê tín dị
đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn chánh này mà thôi.
Nó có
hai quyền năng sở hữu của nó nơi mặt thế này, cả hành tàng sống chết của nó đều
chịu dưới hệ thống của hai quyền năng. Sống về xác thịt của ta đây, có thời
gian sống của nó, từ buổi sanh ra đến lớn lên, đến già rồi chết, luật thiên
nhiên ấy không ai qua khỏi, luật thiên nhiên có giới hạn, có định luật chuẩn
thằng cho kiếp sống của chúng ta, nơi mặt thế gian này là hình thể, còn về mặt
chơn linh của chúng ta, tức nhiên hồn của chúng ta phải chịu hệ thống dưới
quyền vi chủ của nó, mà người làm chủ của nó không ai khác hơn là Đại Từ Phụ
tức nhiên Thượng Đế.
Nhơn
loại mê tín dị đoan đã nhiều rồi, tinh thần loài người đã bị gạt gẫm nhiều rồi,
bởi thế không gạt được nữa. Chỉ có hai quyền năng ấy, không còn có mặt luật nào
khác hơn nữa, ta chỉ tùng hai quyền năng ấy mà thôi, ngoài ra là giả dối.
Bần
Đạo vào Trí Huệ Cung tịnh luyện, điều ấy không nói được Đức Chí Tôn cho cùng
không, chính Bần Đạo cũng không biết được. Ngài ban cho chúng ta cùng chăng là
do hồng ân đặc biệt của Ngài mà thôi, ấy là lời Bần Đạo giải nghĩa về mê tín dị
đoan cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này vậy.
Bần
Đạo vào Trí Huệ Cung là do lẽ nhơn loại phạm Thiên Điều, vì loài người quá dữ
gây oan nghiệt nơi mặt địa cầu nầy đầy dẫy, vì cớ, nếu không có tội tình ấy,
Bần Đạo dám quả quyết rằng: Chí Tôn không có đến dạy hội hiệp con cái của Ngài
lập cơ giải thoát tận độ con cái của Ngài bao giờ. Ngài đến đây bởi tội tình
của con cái Ngài không phương cứu rỗi nên chính mình Ngài phải đến.
Bằng
cớ hiển nhiên chúng ta đã thấy, Vạn Quốc xô nhau đến con đường tử lộ, bởi quả
kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng biết cái sống của người khác. Nhứt
là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không biết bao nhiêu, giết
đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ
không quá tám mươi tuổi rồi chết, thử hỏi, như thế biểu sao không gây oan
nghiệt tội tình quả kiếp.
Các
Tôn giáo hiện hữu họ cố tìm phương cứu rỗi, kiếm phương này không được họ tìm
phương khác, cả toàn thể vạn quốc họ cũng bày ra Vạn Quốc Thống Nhứt, đặng tìm
giải pháp duy trì hòa bình, tìm một giải pháp đặng tránh cho khỏi nạn tương
tàn, tương sát với nhau.
Ôi! ỷ
tài, ỷ tận, lấy trí khôn ngoan để tìm cái chết. Cả quyền năng Thiêng liêng kia
đã ban cho họ, họ lại làm món lợi khí tận diệt lấy họ. Đó là bom nguyên tử, họ
lấy cái khôn của họ tìm ra cái chết, chớ không phải tìm cái sống, coi mạng sống
của mình không ra chi hết, không biết đạo đức luân thường chi cả, không còn kể
quả kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa.
Rồi
họ lại tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt luật Thiên Điều, Thiên
Điều kia họ không thể vi chủ nó được, vì nó là điều cầm sanh mạng của họ, chết
hay sống đều do mặt luật Thiên Điều mà thôi. Họ không tìm phương pháp nào để
giải quyết được hết.
Thử
coi trong 3 tháng Bần Đạo quì gối dưới chân Đức Chí Tôn, khóc lóc thỉnh cầu nơi
Ngài cứu thử sanh mạng loài người đặng chăng cho biết, toàn thể con cái Đức Chí
Tôn nam nữ cũng thế, rán giúp Bần Đạo, Bần Đạo xin một điều là trong 3 tháng
Bần Đạo vào trong cảnh tịch mịch ấy, tương thân cùng Đức Chí Tôn, ở ngoài rán
cầu nguyện giúp sức với Bần Đạo.
Bần
Đạo xin rán nhớ một điều này là "Xin cho đồng bào của mấy người, cũng như
xin cho nhơn loại nơi mặt địa cầu này được phương cứu rỗi, ấy là may!".
Bần
Đạo chỉ đặt cái máy truyền thanh chỗ đó mà thôi, đặng cùng chăng là do nơi tinh
thần của toàn con cái Đức Chí Tôn đó vậy.
Q. 4/04: BẦN ĐẠO NHẬP TỊNH
TRONG 3 THÁNG CŨNG NHƯ ĐỨC CHÚA JÉSUS RA NGOÀI SA MẠC 40 NGÀY VÀ ĐỨC PHẬT THÍCH
CA VÀO VƯỜN BỒ ĐỀ.
Đền Thánh, đêm 17-04 năm Tân
Mão (1951)
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong.
Trước
khi Bần Đạo để lời về đạo đức tinh thần cho toàn con cái Đức Chí Tôn, Bần Đạo
xin cảm ơn toàn thể nam, nữ.
Nhờ
tình cảm của toàn thể chư Đạo hữu mà Bần Đạo được hưởng một đặc ân của Đức Chí
Tôn ban cho.
Kể từ
ngày nhập tịnh nơi Trí Huệ Cung, chắc con cái Đức Chí Tôn đều đánh dấu hỏi? Đức
Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì? Muốn làm gì? Nghĩa lý gì mà nhập Trí Huệ Cung
trong 3 tháng nay?
Vậy
Bần Đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ
kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành tàng về mặt Đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa
Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn
loại, đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được
hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn Bồ đề ngồi thoàn định đặng xin giải
thoát cho chúng sanh.
Còn
về mặt thế, nó giống như Vua David vì tội tình nhơn loại mà buổi nọ ra đồng Sa
mạc cầu đảo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Y sơ Ra Ên, giống như Vua Hạ Võ mặc
hài gai đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.
Muốn
nói rõ hành tàng căn mạng của toàn thể nhơn loại và toàn thể quốc dân Việt Nam
đã làm cho Bần Đạo phải chịu 3 tháng nơi chốn tịch mịch, để cầu khẩn với Đức
Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan cứu khổ của
Ngài đã thiệt hiện cho toàn thể nhơn loại nhứt là sắc dân yêu ái đồng chủng
cùng Bần Đạo là sắc dân Việt Nam.
Chúng
ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh thần của một dân tộc, tinh thần đạo đức
cho nước Việt Nam đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ,
sửa lại cái hành tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng liêng
của Đức Chí Tôn, nước Thiêng liêng đạo đức của Ngài gội rửa con đường Thánh Đức
cho sạch sẽ đừng cho nhơ bẩn, ấy là nước chí thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ
đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu
nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn?
Ôi!
Cái cao vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của
mình, kẻ xin thì khác, mà kẻ cho lại khác.
Hại
thay, tạo nghiệp của nhơn loại từ khi có nơi mặt địa cầu nầy, đến bao giờ mới
bảo vệ được sanh mạng của họ, cấp tiến trong con đường giải khổ, họ đã gây thêm
trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều, mà phúc hậu lại ít, biểu sao không
có trường lưu huyết!.
Nếu
chúng ta dở lịch sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế kỷ hai mươi dĩ chí
đến 1951, không buổi nào nhơn loại hưởng đặng hanh phúc hòa bình, chỉ tương tàn
tương sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền năng Thiêng Liêng kia thì Bần
Đạo nói quả quyết rằng: Không ai cứu chữa tội tình nhơn loại được. Chúng ta
thương nhơn loại không bằng cha sanh ra con đã sanh họ ra vừa hình thể, vừa
linh hồn tức là Đại Từ Phụ. Ngài đã cầm quyền sanh mạng của nhơn loại mà không
cứu chữa tội tình của nhơn loại được, phải chịu khoanh tay ngồi để lụy, vì căn
quả của nhơn loại đã định vậy. Chính mình Đức Chí Tôn cũng không phương sửa
cải, nếu có phương sửa cải, thì không cần gì Bần Đạo phải vào Trí Huệ Cung cầu
khẩn, Ngài đã làm trước rồi.
May
thay! Nhờ đạo tâm của toàn Thánh Thể của Ngài và toàn con cái nam, nữ cũng vậy,
nhứt là đám thiếu niên đã làm cho cảm động Đức Chí Tôn, nên Ngài cho Bần Đạo
hội diện cùng quyền năng thiêng liêng 4 phen trong 3 tháng.
Bần
Đạo nói rằng: Cái định mệnh của nhơn loại, cũng như cái định mạng của toàn thể
quốc dân Việt Nam, trong giờ phút nầy ở trong tay Đức Chí Tôn và Bần Đạo dám
quả quyết rằng: Luật nhơn quả của nhơn loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc
được.
Cái
mơ vọng của thiên hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào khối Thánh đức của họ cao
hơn phàm tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh phúc của họ mới có, và cơ quan cứu
khổ của Đức Chí Tôn mới thiệt hiện được.
Q. 4/05: CÔNG NGHIỆP CỦA QUÂN
ĐỘI CAO ĐÀI. TRÁCH VỤ THIÊNG LIÊNG.
Tổng Hành Dinh, ngày 18-04 năm
Tân Mão (1951)
Bần
Đạo lấy làm hân hạnh hưởng cái nghĩa, cái hiếu của toàn thể mấy anh em vì Đạo,
vì chủng tộc nước nhà mà mấy em đã hy sinh lập một danh thể cao trọng dường ấy.
Nếu chúng ta là một thường nhân có thể hãnh diện nói rằng: Cái tương lai của
nước Việt Nam hay là tình trạng đương nhiên về danh giá buổi nầy của nước Việt
Nam là do bàn tay của toàn thể Quân đội Cao Đài đào tạo, điều đó chẳng sai chút
nào hết, công cuộc đã xây dựng nên tướng diện ngày nay đầu tiên hết là Quân đội
Cao Đài.
Có
thể nói rằng: Công nghiệp của Quân đội Cao Đài trước sau đều tương liên với
nhau một cách mật thiết rõ rệt, điều nầy chẳng cần phải khen hay để lời phủ
huấn. Các cấp chỉ huy Sĩ quan quân đội đều lập được đại công về cái trách vụ
hơn hết, chỉ nghĩa là toàn thể Quân đội Cao Đài biết cái trách vụ cao thượng
của mình, cái trách vụ thiêng liêng đặng nâng cao cây cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa
Đại Đồng cho nó có nhân nghĩa thiệt tướng cho cả thảy người trong nước, ngoại
bang nghe được cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Vả
chăng, nơi mặt thế gian nầy có hai mặt Luật, một là năng lực vô quyền, hai là
năng lực quốc pháp.
Bần
Đạo giải cái tồn tại của xã hội nhơn quần nơi mặt địa cầu nầy, dầu muốn dầu
không cũng phải tranh đấu, vì mặt luật tranh đấu của xã hội nhơn quần buộc phải
có một lá cờ võ lực đặng định quyền của mình, hay là về năng luật tinh thần đạo
đức, nhưng về năng lực tinh thần đạo đức Bần Đạo không cần gì minh tả mà cả
thảy cũng đều biết.
Cả
thảy hai điều đã nói trên đây, không phải các Quốc gia nơi mặt địa cầu nầy có
hạnh phúc hưởng được cả hai bao giờ. Nếu được điều nầy thì mất điều kia, chỉ
được một trong hai điều đó mà thôi, nhưng Quốc gia Việt Nam may thay được ân
riêng của Đức Chí Tôn cho trọn vẹn cả hai năng lực ấy. Một là về hình thể, hai
là về tinh thần đạo đức; hình thể là Quân Đội Cao Đài, tượng trưng tinh thần
đạo đức là Hội Thánh, tức nhiên là Thánh Thể Đức Chí Tôn trong cửa Đạo Cao Đài.
Hai
điều đó, chúng ta phải cố gìn giữ làm thể nào cho đi đôi với nhau, ăn một nhịp
mới có thể định vận mạng tương lai cho nước Việt Nam được bằng để sơ xuất, mất
đi rồi thì rất có hại, về điều đó Bần Đạo coi chừng hết sức vì từ trước đến giờ
nó vẫn mâu thuẩn làm cho điều hòa không phải dễ. Cốt yếu Bần Đạo làm cho điều
hòa là nâng đỡ về tinh thần đạo đức cường liệt hơn. Bần Đạo nói cho rõ cái năng
lực và võ lực chỉ nghĩa áp lực về quân khí, nó không thể định vận mạng tương
lai bền bĩ được. Nếu nó có đủ quyền năng định được thì xã hội nhơn quần không
có tương tàn tương sát với nhau như ngày nay vậy.
Muốn
định vận mạng tương lai cho nước Việt Nam, cho nhơn loại, phải có một tinh thần
đạo đức cao trọng chớ không phải thâu phục thiên hạ nơi mặt địa cầu nầy bằng võ
lực được.
Bần
Đạo nói: Ngày giờ kia Quốc Gia Việt Nam sẽ thâu phục thiên hạ với một tinh thần
đạo đức. Ấy vậy, cái tu chỉnh về tinh thần đạo đức mà một điều tối yếu tối
trọng hơn hết. Vì cớ cho nên Bần Đạo chịu 3 tháng nơi Trí Huệ Cung, tuy không
thấy gì hết, nhưng thật là ảnh hưởng mạnh mẽ lắm, rồi đây bên Quân Đội sẽ thấy
điều đó.
Nhưng
hôm qua đây khi Bần Đạo nghĩ mình là Giáo Chủ Cao Đài sao không đi thăm viếng
ai hết, như Đại tướng Cao Ủy Pháp đến, ai ai cũng đi thăm, đến các vị Giáo Chủ,
các nền Tôn giáo cũng thế, riêng về Giáo Chủ không đi rước thăm ai hết làm cho
họ để dấu hỏi. Có phải chăng người đó tự kiêu tự đắc, tự trọng hay là người đó
vô chốn tịch mịch đặng đòi cái gì? Cho cái gì? Mà cốt yếu của Bần Đạo là vô
chốn tịch mịch đặng đợi chờ may ra được ân riêng của Đức Chí Tôn ban cho được
ngó thấy, thì Bần Đạo còn ngồi ở Trí Hụê Cung nữa chớ chưa có ra đâu, cả thảy
nên biết hôm qua Bần Đạo hạ mình đến thăm Tham Biện, thăm Mission. Có người nói
Ông Già đó sao hạ mình một cách như thế, nhưng cao thượng lắm đó, các con rồi
đây để tâm suy gẫm sẽ thấy ngộ nghĩnh lắm.
Cái
tương lai năng lực của mình là tranh đấu, Bần Đạo trông mong và sở vọng tín
nhiệm trong tay Quân Đội Cao Đài. Vậy hình thể và tinh thần đôi bên tương liên
với nhau, yêu ái với nhau, biết giữ mặt luật công bình của Đức Chí Tôn đã để
hai cái đó mà thực hiện đúng vậy thì không có quyền hành hay huyền diệu nào dời
cho nổi với năng lực của Cao Đài.
Ấy
vậy nên hư, đặng thất là do trong tay toàn thể chiến binh Quân Đội Cao Đài.
Q. 4/06: PHƯƠNG PHÁP LẬP THIÊN
VỊ.
Đền Thánh ngày 19 tháng 4 năm
Tân Mão (1951)
Đêm
nay Bần Đạo giảng phương pháp lập thiên vị của mình. Ngày Bần Đạo đến tại Trí
Huệ Cung, có đặng nhiều bức thơ của mấy bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí Huệ
Cung một lượt với Bần Đạo nhiều lắm.
Ngày
giờ ấy chính mình Bần Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem
vào cửa Thiêng liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương
pháp nhập Trí Huệ Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không
biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức Chí Tôn thấy không thể giải quyết
đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm quyền Thiêng liêng của Đạo. Khi đặng
hiểu rõ rồi, Bần Đạo lấy làm hân hạnh thấy rằng: "Cái nền Chơn Giáo của
Đức Chí Tôn vẫn là đường đường ngay chánh, nhứt định về thể pháp Chơn truyền,
không hề mê hoặc ai cả thảy". Và Bần Đạo cũng quả quyết rằng: "Những
phương pháp mê hoặc của thiên hạ về Đạo lý sẽ bị Chơn truyền của Đức Chí Tôn từ
từ tiêu diệt hết".
Muốn
định Thiên vị của mình, quyền Thiêng liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có
tam lập của mình mới được, gọi là nhơn luân. Điều ấy Bần Đạo có truyền cho Chức
Sắc Hiệp Thiên Đài hay trước rồi và dường như Đức Trần Khai Pháp đã có thuyết
minh điều ấy rồi. Bần Đạo không cần luận thêm nữa. Bây giờ chỉ nói tại sao phải
có tam lập ấy mà thôi.
Nếu
người nào không có tam lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối
với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên thể pháp mà không có bằng cớ chi hết thì
ai tin rằng có Bí pháp để đạt pháp, đạt Đạo. Thể pháp mà không làm đặng, Bí
Pháp vẫn khó, làm sao cho rồi, nếu mà không rồi hành tàng của họ về Bí Pháp tức
nhiên mê hoặc chúng sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng, khi nào thấy bóng
tức nhiên chúng ta quyết định có hình, bóng hình phải tương liên với nhau mới
đặng.
Ấy
vậy tam lập là: Lập Đức, lập Công, lập Ngôn, con người khi sanh ra mặt địa cầu
nầy không có tam lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết
định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được.
Nếu
con người không có đức thì làm sao xử sự trong gia đình, ngoài xã hội đặng.
Con
người không có công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn
mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời, thì sống
với ai?
Cũng
như người ta thì chơn chất thật thà, hiền lương đạo đức, còn mình xảo ngữ lường
gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba
điều đó thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt
thế nầy chưa rồi...
Q. 4/07: HUYỀN DIỆU CƠ BÚT.
Đền Thánh, đêm 30-04 năm Tân
Mão (1951)
Đêm
nay Bần Đạo thuyết về Huyền diệu cơ bút cả Thánh Thể Đức Chí Tôn, cả con cái
của người nam, nữ cũng vậy đã biết về Huyền diệu cơ bút, nó là vấn đề chúng ta
không thể gì lấy trí khôn, tưởng tượng của chúng ta mà định cái chơn giả của nó
đặng.
Tại
sao? Trong cái Huyền diệu Thiêng liêng ấy nó gồm cả bí mật huyền vi của cơ thể
tạo đoan hữu hình và vô vi của Càn Khôn Vũ Trụ, chúng ta thử nghĩ các bậc chơn
tu đắc pháp họ chỉ tìm đặng hiểu vô vi cảnh, đặng lập Giáo là khó khăn thể nào,
từ thử đến giờ biết bao nhiêu kẻ tu mà tính lại coi được bao nhiêu người đắc
Pháp đắc Đạo? Tìm thấu đáo cho đặng cái bí mật huyền vi vô định của Càn Khôn Vũ
Trụ nó lại khó khăn quá lẽ, chẳng hề khi nào chúng ta lấy trí khôn định quyết
đặng, định nó chỉ có chúng ta tìm hiểu lấy trí thức mình, đặng định cái chơn
tướng của vạn vật hữu hình, tức nhiên chúng ta chỉ học phương pháp cách vật trí
tri. Chúng ta đã thấy cái trở lực biết bao nhiêu khó khăn huống chi các việc
trong cơ bút thống hiệp cả sự khó khăn của Huyền vi Cảnh với Hữu hình Cảnh nữa,
nó khó lắm nếu luận điều ấy Bần Đạo phải ngồi viết không biết bao nhiêu sách
mới có thể tả ra mảy may được, lên tại giảng đài nầy 15 phút hay nửa giờ thuyết
về cơ bút chẳng khác nào chúng ta cầm ly nước đổ xuống biển.
Ấy
vậy, Bần Đạo chỉ lấy cái đại cương của nó, nói cho Thánh thể Đức Chí Tôn và
toàn cả con cái của Ngài nam, nữ thấu đáo mảy may chút ít, đặng khỏi bị cơ bút
làm cho đức tin tàn phá tiêu diệt mà chớ.
Bần
Đạo buộc mới đây phải lập Thánh Lịnh định khuôn luật của cơ bút có nhiều lẽ Bần
Đạo khoan dung. Khoan dung ấy làm cho phiền lòng đức Lý, cho nên Đức Lý trách
Bần Đạo cầm quyền Hộ Pháp trong tay điều trị, điều ấy mà không định luật của nó
để rối loạn cơ bút, nên Bần Đạo lập Thánh Lịnh đó, cùng chẳng đã mới lập Thánh
Lịnh, vì từ trước đến giờ Bần Đạo để cho cơ bút tự do, Bần Đạo nói thật tại
giảng đài này, Bần Đạo thấu đáo được thánh ý Đức Chí Tôn, Ổng lấy cái giả đặng
lập cái thiệt chớ hành tàng của cơ đời họ đều lấy cái giả đặng lập cái thiệt
chỉ có tay ông Trời làm được mà thôi chớ không có ai làm đặng hết. Chính mình
Đại Từ Phụ hồi mới ban sơ đến đề 4 câu thi như vầy:
Phong Thần đừng tưởng chuyện mơ
hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.
Mượn thế đặng toan phương giác
thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ.
Lấy
cái giả của đời, Ngài tạo cái thiệt của Ngài duy có Ông Trời làm được mà thôi.
Cái giả mà Ngài làm được. Chính Bần Đạo có thí nghiệm. Bần Đạo có người bạn
thiết ở ngoài đời, thi giỏi văn hay, bạn đồng chí với nhau biết tài lực nhau,
người ấy nghĩ rằng cả cơ bút trong cửa Đạo xuất hiện ra do đầu óc của Cao
Thượng Phẩm và Bần Đạo, người ấy cho rằng văn Cao Thượng Phẩm cũng hay, chính
mình Bần Đạo thì cũng giỏi, người ấy cho rằng cả Thánh Giáo ấy do Cao Thượng
Phẩm và Bần Đạo xuất hiện.
Bần
Đạo thấy cái nghi ấy bây giờ muốn độ người, Bần Đạo phải làm thế nào? Muốn thử
giả thiệt đặng biết ông Trời là ai, bạn làm ơn cầm cây viết đây, bạn là nhà văn
muốn viết chi thì viết, còn Bần Đạo sẽ dâng sớ với Đức Chí Tôn, Bần Đạo làm một
bài thi tứ tuyệt cầu xin với Đức Chí Tôn cho biết sự chơn giả các quyền năng
của Ngài đặng độ bạn. Người bạn ấy cầm cây viết, viết ra 4 câu thi tứ tuyệt,
chừng viết rồi Bần Đạo đưa 4 câu thi Bần Đạo đã làm để trong bao thơ, chừng xé
ra coi họa đúng với 4 câu thi của bạn Bần Đạo hỏi. Bần Đạo chỉ đầu óc phàm, trí
khôn của ta là khí cụ của Đấng Chí Linh kia cho bạn ngó thấy.
Đấng
Chí Linh kia lấy cái giả của bạn làm cái thiệt đó vậy. Người bạn ấy tỉnh giấc
lại, tự mình theo Đạo, sự thật vậy.
Ôi!
Huyền diệu cơ bút, chúng ta không thể gì tả cho được, trong Càn Khôn Vũ Trụ có
hai ông chủ: ông chủ vô hình của Càn Khôn Vũ Trụ, ông chủ vô hình trên cảnh
Thiêng Liêng Hằng Sống, ấy là Đấng Tạo Đoan, là Đấng Chí Linh, là Đấng Đại Từ
Phụ, ông chủ thứ nhì là người tối linh trong vạn vật, tối linh trong vạn vật
cốt yếu của Đức Chí Tôn sanh ra loài người đặng lấy quyền của Ngài cầu quyền
vạn linh hữu hình là cầm quyền vạn linh vô hình của Ngài đó vậy. Bởi vậy Tiên
Nho chúng ta nhìn nhận Thiên Thượng, Thiên Hạ. Thiên Thượng là Đức Chí Tôn,
Thiên Hạ là loài người. Muốn đặng thấu đáo Càn Khôn Vũ Trụ tinh thông trong vạn
vật, Đức Chí Tôn dùng cơ bút Ngài nói rằng: Một phần của con và một phần của
Thầy hiệp nhứt mới thấu đáo Càn Khôn Vũ Trụ tinh thông vạn vật. Hai người chủ
quyền ấy, một người về hữu hình, một người về vô hình hiệp lại với nhau làm chủ
cơ thể Càn Khôn Vũ Trụ có lạ chi ? Lạ chăng là cây cờ của chúng ta đưa lên hợp
lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên là lấy hai cái sống của hai
ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt, đặng phục lịnh quyền hành Thiêng liêng Đức
Chí Tôn xử dụng mà thôi, thì nó là cây viết Thiêng liêng của Đức Chí Tôn đó
vậy.(*1)
Khéo,
chúng ta phải khéo, cảnh vô tri Hữu Tử Thiên lại cũng có Vô Tử Thiên, chừng nào
vô hàng phẩm đứng địa vị Vô Tử Thiên, tánh chất của họ cao siêu không còn phàm
chất của họ. Các Đấng Thiêng Liêng còn ở trong Hữu Tử Thiên họ cũng như ta vậy,
cũng có quân tử tiểu nhơn, cũng cá nhân cá tánh như ta vậy. Các Đấng ấy thế nào
ta thế đó, có nhiều hàng phẩm ta không luận cùng, cũng có kẻ thì thân với ta,
mà cũng kẻ thù nghịch đáo để với chúng ta, không thể gì chúng ta hòa giải họ
đặng. Chúng ta đã ngó thấy Đạo Pháp nếu có Phật thì có Ma, có Trời thì có Quỉ,
chúng ta chịu hai cửa, một là cửa thua hai là cửa ăn.
Các
Chơn Linh, từ bậc Hữu Tử Thiên trở xuống biết bao nhiêu mà nói. Họ không đáng
gì là Thầy ta mà họ mơ vọng dạy ta, biểu ta làm học trò họ, đám chơn linh đó
nhứt là ở trong Đại Hải Chúng, đệ nhứt nguy hiểm hơn hết là Kim Quang Sứ tự là
Quỉ Vương, nếu chúng ta đã tu rủi lầm nghe người thì làm đầy tớ cho người, làm
môn sanh của người. Có một điều Bần Đạo thấy hiển nhiên trước mắt, khi Đạo mới
mở, Thánh Thể Đức Chí Tôn còn thương yêu hòa ái với nhau, chưa đến đổi chia rẽ,
chưa đến nỗi thù địch, kế người đến, Kim Quang Sứ đến cầm cơ cây viết câu này:
-
Chín phẩm Thần tiên nể mặt ta.
Ông
Giáo Sư B... ở Kim Biên nói: "Ông nào đây chắc lớn lắm", bước ra quì
xuống lạy. Cơ viết luôn:
-
Thích Ca dầu trọng khó giao hòa,
Kế
ông C... bước ra quì xuống lạy nữa. Cơ viết tiếp:
- Lấy
chơn đem giả tô thiên vị,
-
Thắng bại, phàm tâm liệu thế à ?
Tới
chừng ký tên Kim Quang Sứ mới biết là Quỉ vương, là Tà Giáo. Hai người này đã
theo nó, bằng cớ hiển nhiên các bạn ngó thấy các bạn của ta đã lầm cái thiệt ra
cái giả. Nếu không giải quyết được cái hư thiệt chúng ta phải theo Tà Giáo mà
chớ. Duy có Đức Chí Tôn lấy cái giả làm cái chơn được.
Kỳ
tới Bần Đạo giảng về Bí Pháp nhập Tịnh Đường.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đọan thứ 9: Ôi! Huyền diệu cơ bút, chúng ta không thể gì tả cho được, trong
Càn Khôn Vũ Trụ có hai ông chủ: ... ... ... Lạ chăng là cây cờ của chúng ta đưa
lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên là lấy hai cái sống
của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt,...
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ôi! Huyền diệu cơ bút, chúng ta không thể gì
tả cho được, trong Càn Khôn Vũ Trụ có hai ông chủ: ... ... ... Lạ chăng là cây
cơ của chúng ta đưa lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cơ đưa lên
là lấy hai cái sống của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt,...
Q. 4/08: LỄ KỶ NIỆM NGÀY HƯNG
QUỐC.
Tại Đại Đồng Xã, ngày 02-05
năm Tân Mão (1951)
Thưa
cùng Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh nam nữ và chủ quyền các cơ quan Chánh trị
Đạo. Lời nói hôm nay nhứt là để thấu tai toàn thể quốc dân Việt Nam, Bần Đạo chỉ
cái kết liễu mỹ mãn vận mạng quốc gia Việt Nam ngày nay là do ngọn cờ nhơn
nghĩa Quân Đội Cao Đài đó vậy.
Bần
Đạo phải giải quyết rõ rệt nghĩa lý cuộc lễ và Bần Đạo coi ngày lễ Hưng Quốc
Khánh Niệm này, là một ngày trọng hệ trong cửa Đạo Cao Đài, tức là cửa Thiêng
Liêng Hằng Sống, mà Đức Chí Tôn đã để nơi mặt địa cầu này, nó không phải vì một
xã hội nhơn quần, không phải vì một chủng tộc, chính nó là cơ quan tạo hạnh
phúc cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này.
Một
kiếp sống Bần Đạo rất may duyên được Đại Từ Phụ, tức nhiên Đức Chí Tôn đã chọn
giao cái trách nhiệm Thiêng Liêng là gầy dựng sao cho đặng hạnh phúc cho toàn
thể con cái của Ngài, tức nhiên toàn thể nhơn loại. Càng suy gẫm càng tìm tòi
thấy không phải vì mê tín mà biết cái tư tưởng hành tàng cao thượng về đời ấy.
Bần Đạo nói rằng: Nếu không phải Đấng Tạo Hóa của Vạn linh chủ trương thì không
có một trí óc phàm nào chủ trương cho được. Bần Đạo tự nghĩ nếu nói Ngài mà
lầm, lựa chọn một người thiếu đạo đức giao cái trách nhiệm đem hạnh phúc cho
toàn thể con cái của Ngài là Ngài lầm, Ngài phải lựa một người dẫy đầy lòng yêu
ái vô tận như Ngài, đặng thực hiện tương lai mong mỏi của Ngài. Nhưng đặt nơi
nào cho chắc hơn? Ngài đã lựa chọn Bần Đạo, Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên, và tự
hiểu rằng Ngài không có lầm.
Ngài
đã giao cho một trách nhiệm tạo dựng hạnh phúc cho người nào biết yêu ái nhơn
loại hơn hết, cái lựa chọn của Ngài để lại nơi tâm trí của Bần Đạo một bài học
là lựa chọn không lầm. Bần Đạo cũng phải lựa chọn người nào như Ngài đã lựa
chọn Bần Đạo vậy. Lựa chọn những tay nào có thể tạo dựng hạnh phúc cho nhơn
loại, trước nhứt phải thí nghiệm với Dân Tộc Việt Nam là bạn chí thiết của Bần
Đạo, là máu mủ của Bần Đạo, là đồng bào của Bần Đạo, thí nghiệm trước với một
sắc dân ấy rồi mới có thể thí nghiệm toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này tức
nhiên toàn thể các xã hội nhơn quần.
Bần
Đạo là người đơn giản thật thà lắm, không biết xảo mị, không biết một triết lý
gì quá mức tưởng của nòi giống Bần Đạo. Bần Đạo phải kiếm một lý lẽ gì đơn
giản. Bần Đạo hiểu rằng: Cái hạnh phúc không ai cho đặng, không ai cướp đặng,
không có tay nào đào tạo cho vừa sức mình muốn đặng. Hạnh phúc đã có sẵn cho
chúng ta, cũng như thân thể chúng ta vậy, nó phải phù hạp với tâm tình thân thể
của chúng ta, dầu cho ai có đủ thừa hạnh phúc ấy mà cho chúng ta, cũng không
phù hạp với chúng ta được. Không phù hạp thì không có hạnh phúc gì hết.
Vậy
cơ quan đào tạo hạnh phúc là một cơ thể liên quan trọng yếu với ta, mỗi người
sanh ra phải đặng tự do không bị ai cướp quyền hay lệ thuộc cho ai mới có đủ
quyền năng tạo dựng hạnh phúc của mình, nếu chúng ta mất tự do, mất độc lập,
mất tự chủ thì không phương thế gì tạo hạnh phúc mình được. Bởi vậy cho nên
muốn đào tạo hạnh phúc ấy, Bần Đạo phải tiêu diệt các trở lực làm cho chúng ta
không thiệt hiện được. Vì mỗi cá nhân đều ở trong vòng thúc phược thì không thể
gì tạo hạnh phúc cho mình được.
Bần
Đạo đơn giản thật thà lắm, Bần Đạo lấy cái tỉ thí nhỏ đặng định tương lai cho
toàn xã hội nhơn quần, dầu cho con em của chúng ta, chúng ta cũng phải lựa chọn
người để gởi gấm, coi trong thân tộc của mình người nào biết thương yêu nó,
biết bảo trọng tương lai của nó, để cho nó nương năng lực của người ấy tạo thân
danh cho được vững chắc. Điều đó làm cho cha mẹ ai cũng có tinh thần ấy. Bần
Đạo đây cũng thế, Bần Đạo lựa người, lựa người đặng gởi đồng bào của Bần Đạo,
tức nhiên gởi Quốc Dân Việt Nam trong tay của người nào biết yêu ái, đặng đem
tạo hạnh phúc cho họ, có thể chúng ta nói rằng: Muốn tìm người giao cho đặng
không phải dễ, hoặc là kẻ có tài mà không đức, kẻ có đức lại không tài. Kẻ có
tài chúng ta nhìn thật quả là tài, nhưng tinh túy tài tình kia chúng ta còn để
dấu mơ hồ, chúng ta không lựa chọn người đó được. Còn người có dù bất tài,
nhưng không biết chúng ta có thể nói rằng: Họ gây được nhiều cái phải, cái phải
ấy chúng ta có đủ chủ quyền chuyên cho được, người ấy đã cùng sống với chúng
ta, cũng chia khổ với chúng ta, gieo nơi tâm não chúng ta nhiều tình cảm, ta có
thể chọn lựa được hơn người kia.
Bây
giờ nói trắng ra Vương Quyền của Việt Nam với Cộng Sản, thà là Bần Đạo giao cái
tạo dựng hạnh phúc nòi giống cho nhà Vua hơn là Cộng Sản. Bần Đạo cũng nhận
rằng: họ có lỗi với Bần Đạo nhưng có thể tạo dựng hạnh phúc được, còn hơn người
kia không thể tin họ, giao cho họ được, cho nên Bần Đạo gởi trong tay của nhà
Vua. Nếu nhà vua lỗi với Bần Đạo, Bần Đạo có thể trích điểm được. Có ăn thì
phải có chịu. Còn kẻ vô cớ kia tạo hạnh phúc bằng những lý thuyết mơ hồ, nếu
không sáng kiến được để cho nòi giống Việt Nam lệ thuộc lần thứ hai nữa, mà lệ
thuộc trong thế kỷ nầy dám chắc không ai giải thoát cho đặng đó vậy.
Nhứt
định Bần Đạo không lầm, quả quyết không lầm lựa tay đào tạo thống nhứt Hoành đồ
ấy, có thể bảo trọng được Hoành Đồ đã có sẵn cầm nơi tay, để cho thiên hạ chiếm
đoạt, ngày nay đòi lại được thì có thể cầm quyền bảo thủ tồn tại được, người ấy
là kế chí, kế nghiệp cho nhà Nguyễn tức nhiên kế nghiệp cho Hoành đồ nước Việt
Nam, đặng vi chủ định quyền sở hữu tạo hạnh phúc cho nó, quả quyết được cho nên
ngày Hưng Quốc Khánh niệm mồng 2 tháng 5 nầy, Bần Đạo đề xướng ra trọng hệ hơn
hết, đối với các xã hội nơi mặt địa cầu nầy, hạnh phúc của Quốc Dân Việt Nam
không ai cho đặng, họ có chủ quyền hạnh phúc ấy, họ phải đào tạo cho mà thôi.
Hạnh phúc ấy quyền Thiêng Liêng cho ai nấy hưởng, hạnh phúc của mình không ai
có quyền nào làm cản trở hay tiêu diệt nó được.
Nếu
Quốc Dân Việt Nam có đủ phương pháp bảo vệ hạnh phúc được, thì có thể làm môi
giới bảo vệ hạnh phúc tương lai cho các sắc dân tộc khác được.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét