Lời Thuyết Ðạo Của Ðức Hộ Pháp - Toàn Tập 13


Q. 5/19: TAM DỤC: THỂ DỤC, TRÍ DỤC VÀ ĐỨC DỤC.
Đền Thánh đêm 14/6 năm Nhâm Thìn (1952)

Đêm nay Bần Đạo giảng về Tam dục, dục đây là lấy chữ dục tức nhiên là nuôi.

Vả chăng trong kiếp sống của chúng ta nơi thế gian này, chỉ chúng ta có ba món cần ích đặng định mạng của chúng ta,
sống nơi mặt thế này ba món trọng yếu ấy nó phải nuôi dưỡng ta như : Đói khát chúng ta phải ăn, phải có nó mới sống. Ba món ấy là: Thể dục, Trí dục và Đức dục. Chúng ta nói chữ dục tức nhiên chúng ta có thể nói rằng dưỡng dục. Ba món ấy có ba chủ quyền của nó đặc biệt, thân thể chúng ta đã nên người đây, đương sống đây chúng ta thọ ân vô biên vô tận trong kiếp sinh của ta là cha là mẹ. Nếu hai Đấng ấy không có dưỡng dục ta, thì ta đã chết, đã tiêu xác hồi nào rồi. Điều ấy Bần Đạo không cần phải minh biện rõ rệt cho lắm, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy có con có hiểu điều ấy. Bởi thế Tiên Nho chúng ta đã có nói: "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân". Chúng ta có nuôi con mới biết được ơn cha mẹ đã sanh thành dưỡng dục.

Ấy vậy quyền năng dưỡng dục về thể dục ta, đó thuộc chủ quyền cha và mẹ ta, nếu không có nhờ mớm cơm vú sữa thì thân ta ngày hôm nay không được làm người đấy, thử lãnh đạm đi, thi hài phàm tục đã bị tiêu hủy rồi, không tiêu hủy về phương diện này, cũng tiêu hủy về phương diện khác, đừng nói chi không có nuôi dưỡng chăm nom săn sóc thi phàm chúng ta, thử nghĩ coi chúng ta có thể sống được hay chăng. Điều ấy cả thảy đều ngó thấy dễ dàng không cần phải luận.

Trí dục, trí của chúng ta đã khôn ngoan tài tình, hễ có trí thì có tài mà ai cần dùng tài của chúng ta và ta lấy trí ấy nơi đâu mà đặng, tức nhiên ta phải nhớ đồng sống cùng xã hội nhơn quần, tức nhiên đồng sống cùng chủng tộc, ta mới có thể mở mang trí lực được. Có đồng sống với họ, họ mới mở quyển sách đời cho ta đủ khôn ngoan tài đức, ta mới đồng sống với họ đặng. Thảng như chúng ta thiếu, Bần Đạo nói thiếu, Bần Đạo quả quyết duyên cớ hiển nhiên rằng: Thử bỏ xã hội nhơn quần chúng ta lên non cao rừng rậm chúng ta ở từ thuở bé xuân, thì con người chúng ta sự khôn ngoan sẽ thiếu kém, trí thức chúng ta không thể mở mang đặng rộng rãi hoạt bát như chúng ta đã đồng sống trong xã hội nhơn quần. Mà xã hội nhơn quần cần yếu chúng ta có trí tài đặng chi? Đặng chúng ta mới có phương thế giúp ích cho họ, nếu không đủ trí tài thì chúng ta sẽ làm một con vật mà thôi, làm một vật ăn bám của xã hội nhơn quần không có hữu ích gì hết. Bần Đạo nói đây cả thảy con cái của Đức Chí Tôn ngó thấy một người ngơ ngơ không đủ trí, ngu xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy làm quấy, không thể gì biểu họ làm điều phải với hay cho đặng. Hạng nhứt xã hội nhơn quần sợ cái đó hơn hết, nên cần nhứt họ phải giáo hóa mở mang trí lự toàn thể quốc dân của họ. Ấy vậy lập trường họ viết sách, họ luận biện họ thuyết cả lý do chia sống của chúng ta, họ đem cả phương pháp tạo cho đặng trí tài ấy hầu giúp ích cho sự sống cùng toàn thể chủng tộc của họ.

Ấy vậy về trí dục là về phần của xã hội nhơn quần, nói trắng ra thuộc về phận sự tối yếu tối trọng của quốc gia xã hội của nhà nước.

Bây giờ tới đức dục phải lập đức, họ có kiếm nơi nào không được hay chăng, không phải do quyền thiêng liêng mà có, chúng ta tự tạo lấy mà có, chớ không hề xin ai đặng, chưa xin ai mà đặng. Nơi mặt thế này thì bao giờ cũng tranh sống thì chẳng hề khi nào chúng ta định quyết họ đã lập đức, với sự tranh đấu kịch liệt của họ, mà họ đã lập đức đặng, chữ đức ấy thiên hạ đã nói khẩu thuyết rất nhiều, mà thiết tưởng của họ tưởng cả phần đông xã hội nhơn quần nơi mặt thế này, giờ phút này Bần Đạo đứng tại tòa giảng nói rằng: Chưa biết kiếm nơi nào cho đặng phương pháp lập đức ấy, chưa biết nơi đâu mà họ tìm.

Nếu xã hội nhơn quần mà có đức, cả toàn nhơn loại mà có đức, thì trường tương tàn tương sát kia đương náo nhiệt không thể có được, bị họ thiếu đức ấy, mà thiên hạ đã điên đảo, thiên hạ đã thống khổ tương tàn tương sát với nhau, không buổi nào trên mặt thế gian này đặng hòa bình, là thiên hạ do thiếu đức. Tiên Nho của chúng ta đã có giáo hóa dân mà thôi, nói một câu rất hay: "Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc; bất như tích âm đức, ư minh minh chi trung dĩ di tử tôn trường cửu chi kế". Nghĩa là: Chúng ta để vàng cho con chưa biết con giữ gìn còn hay chăng, chúng ta để sách cho con cốt yếu mong cho nó làm quan, trên thiên hạ, khôn hơn thiên hạ, giỏi hơn thiên hạ, trí tài hơn thiên hạ, chưa biết nó đọc hay chăng, chẳng bằng chứa đức lại nó vẫn còn tồn tại mãi thôi.

Lập đức, bây giờ chúng ta để dấu hỏi đức ấy tìm đâu mà có? Bần Đạo lại giải nghĩa quả quyết rằng: Ngoài cửa tinh thần đạo đức ở đâu mà có được món ăn thiêng liêng ấy, duy có trong cửa Đạo Cao Đài này mà thôi. Bần Đạo lại còn nói quả quyết rằng: Bất kỳ Tôn Giáo nào giúp cho ta đạt đặng cái đức, nền chơn giáo ấy gọi là chơn. Nhưng bất kỳ Tôn Giáo nào dầu họ đem lý thuyết cao siêu bao nhiêu mà giục nhơn sanh tàn ác vô lương thất đức, thì nền tôn giáo ấy bất quá là giả Đạo. Chúng ta thử nghĩ lại coi cửa Đạo Cao Đài chúng ta, Đức Chí Tôn lấy triết lý nó là gì, thử coi chúng ta lập đức được hay không suy đoán coi? Ổng đến Ổng tuyển chọn lương sanh làm Thánh Thể của Ổng, mà phụng sự cho nhơn loại đương thống khổ, tưởng không nền chơn giáo nào tu tâm có năng lực hơn phương pháp ấy.

Q. 5/20: NÊN LẬP GIÁ TRỊ CHO CHỨC SẮC HÀM PHONG.
Hội Thánh Phước Thiện ngày 17-6 Nhâm Thìn (1952)

Trước khi mở hội, Bần Đạo xin để đôi lời tâm huyết nói cùng Chư Chức Sắc Hàm Phong những điều làm cho Chí Tôn vui lòng hơn hết.

Từ thử đến giờ Hội Thánh vì công nghiệp nên cho những Chức Sắc niên kỷ quá lục tuần đặng vào hàng phẩm Hàm Phong hầu an dưỡng lúc tuổi già, gọi là hồi hưu dưỡng lão, một điều Hội Thánh thương tâm hơn hết, là thấy toàn Đạo xem Chức Sắc này dường như vô giá trị, còn kéo lẽ ngay nhẹ thể hơn Tín đồ, bởi cớ vì nét công bình của Chí Tôn, thấy con cái Thầy chịu khó nhọc trong buổi ban sơ, nên đến lập giá trị cho Chức Sắc Hàm Phong, cốt yếu là muốn cho Hội Thánh nhìn nhận các công nghiệp ấy đặng để cho đoàn hậu tấn noi gương, kẻo chúng nó quên mấy anh mấy chị thành ra thất lễ nghĩa, và Hội Thánh cũng vì công lý và quyền hành Chí Tôn ban cho mấy anh mấy chị tức là quyền sở hữu của mỗi người nên mới lập được trong Hội Thánh Hàm Phong, có Ban Ủy Viên để bảo hộ cho Chức Sắc Hàm Phong vậy. Vả chăng Chí Tôn đến lập Đạo Cao Đài, chẳng cần nhắc đi nhắc lại mấy Anh mấy Chị cũng hiểu nghĩa là Ngài đến lập Đền Thờ cao trọng của Ngài tại mặt thế này, mấy anh mấy chị đã thấy tấn tuồng bi kịch của Đời nó đã biến thiên đảo ngược, cái sống của toàn cầu là sống trong đường danh nẻo lợi, chẳng phải nhơn nghĩa là gì, chỉ có cái sống của con người, là cốt yếu nhứt mà thôi, nơi trường thảm khóc kia Chí Tôn đã thấy nhơn loại đương tranh ăn giành sống, sắp giết hại lẫn nhau, thời tưởng nếu mình ngồi một địa vị Ông Cha lành, ngồi thấy con tàn diệt như vậy, nghĩ có an lòng không? Lẽ tất nhiên Ngài phải tầm phương giải kiết, chúng sanh đã thất đạo nhơn nghĩa, nhơn luân, sự tranh sống trước mặt của nhơn loại đã hết tánh chất loài người, cái tham tâm dục lợi càng buông lung thêm mãi, nên nạn tự diệt hầu gần, cũng do tại đó; ấy vậy muốn có món thuốc giải kiết cứu sống nó lại, thời tức phải phục hưng cái đạo nhơn nghĩa, đã có từ mới tạo Thiên lập Địa, đặng qui tựu thiên lương, hễ ngày nào loài người biết lấy nhơn nghĩa làm trọng, thì chừng đó cơ quan sanh sống mới hết quyền năng tàn hại, vì vậy Chí Tôn mới kiếm món thuốc ấy đặng cứu loài người mà toàn cầu chỉ dùng viên thuốc của Chí Tôn đến đặng lựa chọn. May thay Tổ Phụ chúng ta đã bốn ngàn năm lập nghiệp chịu yếu ớt bạc nhược đè ép, khổ khắc nhưng vẫn ôm mãi mối đạo nhơn luân, không giản không xa nhờ cầm vững món thuốc ấy, nên Chí Tôn quyết chọn thuốc Nam, lấy Đạo Nhơn Luân lập nền Quốc Đạo cho chúng ta, thời tưởng ra đâu phải điều mới mẻ, chẳng qua là lấy cái báu nhà trau giồi cho sạch đem ra phô bày nơi mặt thế, chúng ta không cần học hỏi nơi ai, mà chính thật hành y theo đó. Chí Tôn lại chia phận sự, nhứt là phận sự lập vị Thiêng Liêng thời về phần Ngài làm chủ cả vạn vật, mà lập vị cho con cái của Ngài không đặng, hỏi còn ai nữa, hay là còn mê về Thánh Thể tại thế, chúng ta không cần thuyết hay cần suy nghiệm tức nhiên cũng hiểu rằng: Ngài giao Thánh Thể Ngài bảo tồn nhơn luân đạo, chẳng phải là Ngài biểu chúng ta làm cho cả loài người phải hiển Thánh hiển Thần, mà trái lại chỉ thay thế cho Ngài giáo hóa nhơn luân, chỉ đạo cho họ là đủ, rồi do cái công nghiệp ấy để tự Ngài định vị cho mình. Hiện thời những sự mê tín của đời, đã làm cho cả trí não đầu óc của người trở nên điên đảo rối loạn tinh thần. Hồn cũng vì đó mà tiêu hủy, nhưng chúng ta đã may duyên sẵn có nền Đạo chơn chánh trong tay, thời chúng ta chỉ dụng cái báu nhà mà thôi, không còn ai mong mỏi nhồi nắn chúng ta đặng. Ấy vậy, ngày nào quốc dân Nam tỉnh giấc, tùng y theo chơn pháp của Đạo Cao Đài, thời ngày ấy không còn ai đem mê tín dị đoan nhét vào cái óc ta đặng, không tiếc gì cái óc mê tín phần đông vẫn còn nên bị cám dỗ, phân chia Đảng phái, mà phá tan cả gia nghiệp Đạo của ta phải phản quốc mà thôi, lại còn bất hiếu với Tổ Phụ nữa mà chớ. Trót 13 năm trường Chí Tôn chọn mấy vị niên kỷ, hao biết bao giọt mồ hôi chan hoà giọt lụy khổ não với Đạo mà vào hàng phẩm Hàm Phong nói ngay ra nhiều chơn lý, thiệt tay tạo thành chơn tướng của Đạo, là do nơi công nghiệp của mấy anh, mấy chị chớ không phải đám thanh niên sau này, ngày nào mấy anh mấy chị dựng lại đặng cả hồn phách Quốc dân Nam, để đền đáp ân sâu của Tổ Phụ rồi mới thỏa nguyện, mấy anh mấy chị, có trăm tuổi rủi phần xuống tuyền đài nhìn mặt Tổ Phụ của chúng ta cũng không thẹn, vì đã trả xong mảnh hiếu tâm với Đạo, còn hiện giờ cái gia nghiệp của mấy anh mấy chị tạo thành đây, biết đâu đến phiên đoàn hậu tấn, thay vì chúng nó bảo trọng trở lại tàn diệt tiêu tan, thời lý nào mấy anh mấy chị lại làm ngơ, ngồi xem kẻ vô cổ sau này mặc tình phá hủy. Đến đổi Chí Tôn đến tạo Đạo, còn lo các Đấng Chơn Linh tối cổ để giao mối chơn truyền, chẳng khác chi một vị tân quan đến trấn nhậm xứ nào, cũng phải nhờ mấy ông kỳ lão, mới rõ thông xứ ấy đặng, thời có đâu Hội Thánh chẳng coi hạng kỳ lão là trọng. Mấy anh mấy chị nhớ ngó lại xem đoàn hậu tấn thời thấy trí não nó đã đảo điên hết rồi, hình xác An Nam mà đầu óc chẳng còn mảy mún chi An Nam nữa. Vậy Đạo mà nên hay chăng, thiệt tướng hay chăng, chẳng phải nhờ nơi đám tân thời, mà do nơi mấy anh mấy chị. Mấy anh mấy chị tưởng mình già rồi đã hết phận sự nên xin nghĩ về nhà an dưỡng, rồi thử hỏi gia nghiệp này hư hủy mấy anh mấy chị có bằng lòng không? Cái gia nghiệp vĩ đại này gẫm lại toàn nòi giống chúng ta hưởng tận thế cũng vẫn còn, thời lý đâu lại coi nó rẻ hơn cái gia đình cỏn con của mấy anh mấy chị. Bần Đạo thay thế cho Hội Thánh, xin gởi cái Đạo nhà chúng ta nơi tay mấy anh mấy chị vì là người lịch duyệt khôn ngoan đạo đức hơn, đặng nắm giềng mối Đạo, nếu để hư thời tội tình ấy mấy anh mấy chị phải gánh vác. Bây giờ Bần Đạo mới chỉ rõ chẳng phải nói ngồi nhà mà thành ra vô dụng, tỷ như trị thế không đặng chớ giáo hóa cũng không đặng nữa sao? Vậy nơi nào có Chức Sắc Hàm Phong ở đó, chẳng cần nói là một vị Tín Đồ dầu Hộ Pháp hay là Giáo Tông đi nữa mà thất Đạo, thời phần trách cứ ấy về phần mấy anh mấy chị phải chịu, nếu mình biết coi cái đại nghiệp nước nhà, mà người nào sẵn tay tàn phá làm rẻ rúng nó, thời có lý đâu mình điềm nhiên toạ thị. Từ đây dầu cho Hộ Pháp hay là Giáo Tông, chẳng lựa chi là Tín Đồ, mà thất Đạo nghịch chơn truyền, thời tội tình ấy mấy anh mấy chị lãnh phần gánh vác. Lâu lâu nữa tháng hoặc một tháng, hễ nghe đứa nào thất Đạo, thì mời nó đến để lấy lời giáo hoá, nếu nó không nghe, mấy anh mấy chị dầu có trầu rượu lạy nó, đặng đền cái hiếu cái nghĩa cho Tổ Phụ, chúng ta tưởng cũng không phải hổ mà, ngày nào dầu ngoài Đời hay là trong Đạo, thất Đạo nhơn luân mà Bần Đạo không thấy một mảnh thơ của mấy anh mấy chị thời Bần Đạo trở nên người thù nghịch của mấy anh mấy chị, nếu hiển nhiên trước mắt mình thấy một vị Chức Sắc dầu cơ quan nào làm điều chi sái, phi pháp hại danh thể Đạo thời mình không cần nói đến, chỉ lấy đủ bằng cớ cả hồ sơ gởi về cho Hội Thánh, hoặc là xin trục xuất cất chức ngưng quyền hay đuổi đi nơi khác, tùy theo tội nặng nhẹ, nhưng phải hứa với Hội Thánh rằng: Mình chấp giữ quyền hành ấy cho đến ngày nào có vị Chức Sắc khác thế. Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, kể từ nay Bần Đạo xin giao quyền kiểm soát cả nền Đạo nơi tay của Hội Thánh Hàm Phong, giao cả hành trình, giao cả tinh thần đạo đức đoàn em Quốc dân Nam này, cho mấy anh mấy chị giáo hoá chúng nó. Vậy nơi nào có vị Hàm Phong thì đặng quyền cử Ban Kiểm Viên Kỳ Lão, chọn một vị Chủ Trưởng, một vị Phó Chủ Trưởng, một vị Từ Hàng, một vị Phó Từ Hàng, từ vị Nghị Viên trở lên, 12 dĩ hạ, tùy số kỳ lão nhiều hay ít, để giáo hóa quan sát điều đình trong địa phận mình.

Q. 5/21: VÍA QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN - QUYỀN HÀNH TAM TRẤN OAI NGHIÊM.
Đền Thánh đêm 29/6 năm Nhâm Thìn (1952)

Hôm lễ vía Quan Thánh Đế Quân, Bần Đạo đã có nói đến quyền hành của Ngài về Tam Trấn Oai Nghiêm, có liên quan với cái lễ tối trọng tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng về Tam Bửu ấy. Tỷ như một người kia tìm Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà mình gọi là ba báu, rồi người ta để mắt thấy Bông, Rượu, Trà người ta để dấu hỏi (?), ba món ấy báu lắm hay sao? Báu ấy là báu gì ? Bần Đạo đã giảng ba cái đó tượng trưng cho báu vật của ta là: Thứ nhứt thân phàm xác thịt của chúng ta đây, thuộc về Tinh, Bông tượng trưng xác thịt. Thứ nhì là trí não của ta, khôn ngoan hơn vạn vật gọi là Khí, Rượu tượng trưng cho trí não. Thứ ba Trà tượng trưng cho linh hồn của chúng ta là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta, nó mới gọi là ba cái báu. Thật ra chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết.

Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác. Giả tỷ như đời Thượng Cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người, nên người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi.

Giờ phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng Tam Bửu : Bông, Rượu, Trà; tưởng đâu là gì, thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu của ta đó vậy.

Bây giờ nếu như người tầm Đạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì? Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là xác thịt, trí não và linh hồn của mình để Ông làm gì? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên ta phải trả lời.

Chúng ta đã thấy hiện tượng Đức Chí Tôn đến qui Tam Giáo: Nho, Thích, Đạo, lấy cả tinh thần đạo đức của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì Tam Trấn Oai Nghiêm? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta, và Tam Trấn Oai Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn, sự thật như vậy. Nếu không phải vậy Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì cho chúng ta thờ phượng, ấy vậy Tam Trấn Oai Nghiêm trượng trưng bao báu vật ấy.

Đức Quan Thánh tượng trưng Tinh, tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ngày nay không có cái giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần, quả vậy tôi tưởng chắc rằng: Nếu chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này, kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn là Nho Giáo.

Ấy vậy hôm kỳ vía của Ngài, Bần Đạo đã có nói Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là đại diện của Nho Tông chuyển thế đó vậy. Bần Đạo đã có thuyết minh nếu trong cử chỉ hành tàng kiếp sống của chúng ta, chúng ta có thể học đòi theo cả hành tàng của Ngài, lấy Xuân Thu làm chuẩn thằng lập chí. Tưởng nếu cả toàn thiên hạ lập chí cho xã hội, phục vụ cho xã hội dường này, tôi tưởng nhơn loại không hạnh phúc nào cho bằng.

Bây giờ nói Đức Lý, tức nhiên anh cả Thiêng Liêng chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo Tông trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa, Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta đã thấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Đạo. Phải chăng Đức Ngài chỉ cho chúng ta thấy chữ Đạo là gì? Đạo là cái sống. Cái sống mà thiên hạ đã biết, nhưng mà không hiểu hình trạng và tướng diện của nó, bí mật của nó thiên hạ nơi thế gian này chưa biết, Bần Đạo lấy một tỷ thí như nam nữ phối hiệp nhau, sao lại sanh ra đứa bé, cái bí mật đó là gì? Trứng gà, nếu có trống khi ấp lại nở ra con, cái sống đó là gì? Đức Lão Tử gọi đó là Đạo. Đạo ấy trong cái sống tối thiểu, có cái sống tối đại của nó. Cũng như cái sống bí mật của ta, đương giờ phút này, đương nhiên sống với bạn đồng sinh của ta đây. Ngoài ra cái sống nữa, cái sống bí ẩn, sống thiêng liêng mà Đức Chí Tôn gọi là sống, hằng sống của Ngài ban cho ta đó vậy, đấy là Đạo.

Ấy vậy, Đức Lão Tử đã dạy cho trí khôn ngoan, của loài người mở rộng cái sống bí ẩn sống với vạn linh, trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ. Các người bảo trọng cái sống của các người, thì các người phải cung kỉnh thờ phụng cái sống của vạn linh. Ấy là Ngài dạy cho ta tôn sùng cái sống, tức nhiên trí não của mình mở mang, hiểu sống đã là Đạo mà người thay quyền cho Đạo Lão tức nhiên Đức Lão Tử đặng cầm giềng mối giữ gìn cái mực thước sống của chúng ta cho còn tồn tại đó vậy.

Ấy vậy Đức Lý tượng trưng cho cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh. Thuộc về Khí.

Về phần Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài tượng trưng cho linh hồn chúng ta, phải chăng chúng ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài xác thịt này, cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn đến giáo Đạo dìu dắt Vạn linh. Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sức mạng tối yếu tối trọng ấy thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn, lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.

Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị đại hội này, hay tiểu hội vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong tiểu hội vật loại thì bất công, chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm, nếu để trong đại hội, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo giáo để phẩm Maya, tức nhiên quỉ vị, phẩm vị riêng biệt là "quỉ vị".

Ấy vậy Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng Thường Du Nam Hải, các cửa Phong đô nơi Cửu tuyền đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt, để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng đó hơn Quan Thế Âm Bồ tát không? Ba cái gương ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể gì làm được.
Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng liên quan mật thiết Tôn chỉ về Tam Giáo Ngũ Chi.

Q. 5/22: HÀNH PHÉP XÁC CHO ÔNG THỪA SỬ PHẠM NGỌC TRẤN.
Đền Thánh ngày 09/7 năm Nhâm thìn (1952)

Hôm nay là ngày qui liễu của vị Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn, Bần Đạo để lời phân ưu cùng Hiệp Thiên Đài và Quân Đội, vì các người đã mất một người bạn đồng khổ.

Từ khi mở Đạo cái kiếp sanh của Thừa Sử Trấn không biết thú vị mùi Đời là gì, trọn hiến thân cho Đạo, hai mươi mấy năm gian lao khổ nhọc, không có một điều chi chúng ta đã chịu, mà Thừa Sử Trấn không chịu. Gánh nặng của Đạo cũng đã chia sớt, gánh nặng của Đời cũng dám hy sinh, vì nước, vì nhà, vì chủng tộc; hiến thân cho Đạo trọn đời đó vậy. Hỏi? Từ thử đến giờ Thừa Sử Trấn có đặng vui hưởng hay chăng? Bần Đạo nói không, không có gì hết.

Tuy vẫn biết con người có mặt tại thế gian này thì phải sống, hễ có sống tức nhiên có chết, bởi không ra ngoài tứ khổ, dù chết thế nào cũng chết; nhỏ cũng chết, lớn cũng chết, luật thiên nhiên ấy không từ bỏ ai. Đã mang mãnh thi hài này, dầu chết thế nào cũng là chết.

Duy có một điều may mắn cho Thừa Sử Trấn hơn hết là biết mình đã mang mãnh thi hài xác tục sống ở mặt thế gian này, mà không có vui sống; nếu có cái sứ mạng thiêng liêng hiệp công tạo Đạo, thì Thừa Sử Trấn là người đã chờ Đức Chí Tôn đến, hiệp cùng Đức Chí Tôn để tạo nền chơn giáo của Ngài.

Nay có kẻ đã giết Trấn, thảng như Trấn còn oan nghiệt quả căn tiền kiếp, thì kẻ đã giết Trấn tức nhiên kẻ đó sẽ giải nợ cho Trấn và chịu quả kiếp của Trấn, từ khi có linh hồn tới giờ, bởi nó đến nó trả mà kẻ ấy không cho nó trả, tức nhiên lãnh cho nó.

Tội nghiệp thay!... Đi năm non bảy biển, vào sanh ra tử mà không chết, về ở trong nhà máu thịt mà chết, thảm thiết có bao nhiêu đó mà thôi.

Dưới bóng cờ cứu khổ, dưới bóng cờ nhơn nghĩa, hai bóng ấy tưởng đâu gởi mảnh thân phàm, có thể bảo vệ được! Nhưng ngày nay đã ra nông nỗi, chúng ta buồn duy có bao nhiêu đó mà thôi.

Kẻ giết rồi tưởng đâu kiếp sống bền bỉ có hạnh phúc mà hưởng cho tới tận thế, hưởng cho đặng sống nơi mặt địa cầu này hoài, chớ không tưởng có cái chết, nhưng sự thật thì chết cũng chết. Thử hỏi trong lương tâm của họ vui hưởng được cái gì? Nếu kẻ thù địch giết Trấn thì không nói làm chi. Nếu trong cửa Đạo này, có kẻ phản Đạo, phản Thầy, phản bạn, đưa mũi súng bắn Trấn , họ không nghĩ rằng: "Họ bắn chết Đạo của họ" họ không nghĩ rằng họ đã bắn chết thân danh của họ, duy tiếc có bao nhiêu đó mà thôi. Còn ngoài ra thì con cái Đức Chí Tôn nên mừng giùm cho Trấn, ấy là lời của Bần Đạo nói quả quyết như thế.

Q. 5/23: LỄ TRUNG NGUƠN LÀ NGÀY CẦU NGUYỆN CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN.
Đền Thánh đêm 14/7 năm Nhâm Thìn (1952)

Đêm nay, đêm Rằm Trung Nguơn, ấy là ngày kỷ niệm và cầu nguyện cho các đẳng linh hồn. Bần Đạo có dịp thuyết rằng, không có cô hồn, chỉ có các đẳng linh hồn mà thôi, chứ cô hồn không có nữa.

Bần Đạo đã thuyết minh Tam Nguơn, trái địa cầu này, Nguơn niên tức là Nguơn nửa năm, Nguơn kỷ là Nguơn vào 12 tuổi, Nguơn thế là Nguơn giữa trăm tuổi. Nếu nói ra thì phải 120 tuổi, Nguơn giáp là Nguơn chuyển cũng giải rồi, đêm nay Bần Đạo xin con cái của Đức Chí Tôn làm toán pháp với Bần Đạo.

Vả chăng Đức Chí Tôn đến trong thời buổi này là mở Thượng Nguơn tứ chuyển, ta chưa biết nó sẽ ăn sâu vào trong như thế nào, ta chỉ biết nó vừa qua khỏi Hạ Nguơn tam chuyển, ta lấy tam chuyển làm căn bản mà thôi, nếu ta tính 3 chuyển ấy, là 3 lần 61 triệu năm, tức nhiên 183 triệu năm, trái đất này phục sinh lại lần thứ nhì được 183 triệu năm.

Bây giờ ta nói luôn mặt địa cầu này, giờ phút này nhơn loại tức nhiên các đẳng linh hồn đã đến ở mặt thế gian này là 2.700 triệu, tức nhiên là 2.700 triệu chơn hồn đã có mặt tại thế gian này.

Bây giờ ta phỏng định trái đất này, có khi chứa nhiều nhơn loại, mà cũng có khi chứa ít, nhứt là buổi con số nhơn loại trên mặt địa cầu này không có tổng số, lẽ dĩ nhiên nhân loại tiến triển đến chừng nào, nhơn loại tiến triển đến mức nào thì trái địa cầu này con người vẫn còn tăng độ lên mãi, cái khuôn luật thiên nhiên kia muốn tăng độ nhơn loại lên đa số là cho trái đất này phải tới giờ tiêu diệt, nó có hạn định kiếp số của nó, mà muốn làm cho tiêu diệt, nó phải làm cho giảm sức sanh sức sống của nó, trái địa cầu này, nếu nói giờ phút này 2.700 triệu nhơn loại coi có muốn mệt mỏi rồi đa, nhơn loại sẽ ăn cả sự sống của nó, ăn mãi cho đến khi tới thời hạn kiếp số của nó, khuôn luật thiên nhiên vẫn vậy.

Bây giờ ta lấy tỷ số nửa trong 2.700 triệu ta chỉ lấy chiết bán thôi, không cần chiết bán lấy khi ít, khi nhiều, lấy số chỉ định, nó có 500 triệu số nhỏ hơn hết, bây giờ lấy số 500 triệu nhơn cho 183 triệu tức nhiên 91.500 triệu thế kỷ, thử hỏi số nhơn loại trên mặt địa cầu này từ 3 chuyển đến giờ là bao nhiêu họ lộn, họ đến, họ chết, họ sống, chúng ta thấy mặt địa cầu này, duy có 10 triệu thước vòng quanh mà nơi mặt đất này chứa đựng giỏi lắm, tôi tưởng đựng cho đều là 10 ngàn triệu là quá chừng, nhưng số đó hằng hà sa số triệu. Nơi khoảng đất chúng ta đứng đây một chút xíu đất là có một chơn hồn đứng đó, nhưng mắt của chúng ta không thể thấy đặng, chúng ta lấy một ngón tay chỉ xuống đất là đã có một chơn linh đứng đó rồi.

Bởi cớ cho nên Bần Đạo đã nói không một hành tàng chi chúng ta làm mà không có chứng cớ, những chứng cớ không di dịch gì hết, bởi họ có đó, có mãi đó thôi, thử chúng ta nghĩ một anh khách trần nào ham mê quan tước thì đến 100 kiếp, tôi không nói chúng ta phải ngàn ngàn, muôn muôn kiếp, từ vật chất đoạt đến nhơn loại, không luận điều ấy, chỉ luận các vị nguyên nhân đã đến tại thế gian này, bị giam hãm trăm kiếp, trăm kiếp ấy, chúng tạo biết bao nhiêu cốt nhục, biết bao nhiêu tình ái, biết bao nhiêu gia tộc, biết bao nhiêu thân bằng quyến thuộc, chúng ta giờ phút này, luận đấy trăm kiếp của những kẻ đã có hiện diện nhờ lòng yêu ái mà được an ủi, nhờ lòng đạo đức được yên vui trong phẩm nhơn hồn đã tái kiếp để lập vị của mình.

Có quyết đoán như vậy mới được, nhứt là thời buổi này Đức Chí Tôn đến ở cùng con cái của Ngài. Ôi! Biết bao nhiêu chơn linh tình nguyện, biết bao nhiêu chơn linh đương đón đường tìm Ổng, tội nghiệp thay cho Đấng chơn hồn từ trước muốn gặp như ta, gặp Đức Chí Tôn mà không thể gặp, họ còn ở nơi cõi vô hình kia, chúng ta thử nghĩ họ sẽ ham muốn số phận họ như ta biết bao nhiêu mà nói.

Luật thiên nhiên kia buộc mỗi cá nhân ta đã đến nơi mặt địa cầu này có định số không phải ai đến cũng đặng, quả căn kiếp số đời đời có mực thước, như chúng ta đã ngó thấy mặt địa cầu này quá nhiều nhơn số, quyền thiêng liêng kia định cho nó có mực thước có khuôn luật đặng định cho nó ở hay là đi, bởi vì thân phàm của chúng ta bị quả kiếp nơi trái địa cầu này, là trái địa cầu tồi tệ khổ não.

Thật ra chúng ta đã thí nghiệm trong một kiếp sanh trăm năm, chúng ta đặng 100 tuổi, thì khối thảm khổ đau đớn càng nhiều không có thời giờ thương yêu nhau, đâu có thì giờ thù hận.

Chúng ta đã ngó thấy xung quanh của chúng ta, cả toàn thể nhơn loại có tới 2.700 triệu, chúng ta liếc mắt ngó lại nhiều kẻ còn mang thân cô quạnh ngồi giữa chợ đau khổ không ai hay, không cơm ăn, tật nguyền không ai ngó đến, không ai giúp sức cho, hiu quạnh đường đời, nhiều quả mạng căn kiếp số của hạng chúng ta, chúng ta không vi chủ nó đặng.

Biết đâu những tinh thần tàn ác tội tình, rồi ngày kia phải mang nghiệp chướng, chúng ta sẽ chà xát họ như con vật, chừng đó mới biết ăn năn sám hối thì đã rồi.

Giờ phút này nếu không bảo vệ, binh vực cái sống của ta và bạn chúng ta thì tốt hơn đừng thèm sống.

Q. 5/24: LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU TỨC LÀ ĐỨC ĐẠI TỪ MẪU.
Đền Thánh ngày 14-8 năm Nhâm Thìn (1952)

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong, Chư Đạo Hữu Nam, Nữ Lưỡng Phái.

Đêm mai đây là đêm thuyết Lễ Hội Yến Diêu Trì. Bần Đạo đã minh thuyết nghĩa lý cuộc lễ. Theo Cựu Luật hễ khi nào chơn thần của chúng ta, tức nhiên lời ngoài đời gọi là cái "Vía" của chúng ta đây, mà được trở về cùng Mẹ Sanh của chúng ta, tức nhiên Đức Diêu Trì Kim Mẫu, thì ta đã đạt Pháp và đã thoát kiếp nghĩa là ta đã đoạt Đạo.

Từ trước biết bao nhiêu Đấng đã tìm Đạo khó nhọc gay go không biết mấy trăm kiếp đã chịu khổ hạnh, nâu sòng đã đạt Pháp, tức nhiên đạt Đạo, thời buổi đó loài người đi tìm Đạo, ngộ nghỉnh thay thời buổi này Đức Chí Tôn lại đến mở Đạo, lại để cho Đạo đến tìm ta, khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo rồi thì Ngài đã giao cả Thánh Thể của Ngài cho Đức Phật Mẫu, nghĩa là: Đại Từ Phụ khi đã đến nhìn con cái của Ngài rồi Ngài liền giao cả con cái của Ngài lại cho Đức Đại Từ Mẫu của chúng ta đó vậy.

Hạnh phúc thay cho nhơn sanh đã có toàn vẹn Cha Mẹ, nương dưới bóng từ bi của hai Đấng ấy. Hỏi thử chúng ta còn hạnh phúc chi hơn nữa hay chăng?

Ở dưới mặt thế gian này nếu chúng ta đạt được cái đặc ân thiêng liêng ấy, hưởng lòng yêu ái vô tận của thân sinh ta là cha và mẹ, thì thiên hạ gọi là đã quá hạnh phúc rồi.

Còn hôm nay phần hồn, phần Thiêng Liêng của chúng ta đã rủi sanh nơi cõi thảm khổ này mà đặng Cha Mẹ đến cùng ta, lại cùng chia sớt khổ não với ta, hỏi thử cái hạnh phúc ấy dường nào.

Thưa các bạn đồng sanh cùng Bần Đạo, nghĩa lý Đức Chí Tôn và Phật Mẫu đến, chắc cả thảy các bạn cũng đã hiểu rồi, nhưng đến đặng chi? Đến đặng nhắc ta, dầu cho cảnh khổ não các con đã mang thi hài xác tục này chịu Tứ Khổ, tức nhiên Tứ Diệu Đề các con nên nhớ rằng, các anh em đồng sanh cùng các con cũng chịu trong Tứ Khổ ấy. Nếu các con biết phận sự của mình, phận sự Thiêng Liêng yếu trọng là các con nhìn nhận cả toàn nhơn loại, tức nhiên cả chúng sanh là anh em đồng khổ của các con đó vậy. Ngày giờ nào các con biết Đạo nương dưới lẽ ấy, cái lẽ trọng yếu ấy, phận các con là đặc phận ấy làm mầm thương yêu vô hạn, hầu một ngày kia các con trở về ngôi vị không thẹn nhìn nhau trong một kiếp sanh dù có sống trăm tuổi chẳng qua là một giấc chiêm bao mà thôi. Một giấc huỳnh lương thảm khổ này không vui sướng gì, chúng ta biết cả thảy đồng khổ cả.

Nếu chúng ta biết chun xuống "cái mồ khổ não sâu sắc đau đớn" đặng lấy cái khối ngọc vô đối của Chí Tôn dành để cho chúng ta, là cái khối từ bi bác ái vô tận của Ngài đã để trong tâm hồn ta đồng sống với nhau trong một khối ấy, thì kiếp sống của chúng ta nó hạnh phúc là dường nào.

Nhưng trái ngược lại, quả kiếp của kiếp sanh của chúng ta hiện nay sẽ trở nên trường tranh đấu tàn sát lẫn nhau, nếu Bần Đạo nói quả quyết kiếp sanh vô vị ấy, nó có thể nào lôi cuốn chúng ta sẽ tới tận đồ chi khổ hay là xuống cửa địa ngục luân hồi đời đời kiếp kiếp. Thử so sánh hai lẽ ấy rồi ta lựa chọn lẽ nào? Lấy trí khôn ngoan mà suy đoán tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy khổ não ấy, và đã suy đoán nhiều rồi. Bần Đạo chỉ mơ ước Đức Mẹ và Đại Từ Phụ ban hồng ân cho cả thảy con cái của Ngài khôn ngoan hơn nữa, đặng định phận đối với bạn đồng sanh của mình. Tạo lập hạnh phúc của mình đặng hay chăng, là hưởng được lòng yêu ái của hai Đấng ấy, rồi lấy lòng yêu ái ấy rải khắp cho toàn nhơn loại được hưởng. Ấy là bổn phận của chúng ta khi Chí Tôn đã nhọc nhằn đến giao phó cho chúng ta đó vậy.

Q. 5/25: LỄ HỘI YẾN ĐỨC DIÊU TRÌ CUNG.
Đền Thánh ngày 15-8 năm Nhâm Thìn (1952)

Thưa cùng Chư Quan Viên Chức Sắc,
Chư Sứ Thần Đại Diện các nước bạn nơi đây.

Bần Đạo xin phép mấy Ngài cho Bần Đạo để đôi lời với vị Thủ Tướng của Chánh phủ Việt Nam, tức nhiên là vị Thủ Tướng của Bần Đạo đó vậy.

Thưa cùng Thủ Tướng,

Chúng ta đã chán hiểu, lập một chánh thể Quốc Gia cốt yếu do nơi căn bản bá tánh qui nhứt gia, tức nhiên trăm họ làm một nhà. Nếu từ thử từ ngày định quốc, chúng ta đã có chúa, có vua thì những Đấng ấy chẳng qua cũng một chủng tộc trong Đại gia đình Việt Nam của chúng ta đó vậy chẳng có chi khác.

Thưa Thủ Tướng,

Lấy cái nhỏ mà luận cái lớn, một gia đình nào cũng có vài phần tử của gia đình ấy, tâm chí, tinh thần không xứng đáng. Nếu rủi một gia đình nào đó đôi ba phần tử như thế thì tội nghiệp thay. Gia đình ấy chỉ có biết mình là vô phước, chịu thống khổ để tâm than thầm cho các con cái của mình mà thôi. Chúng ta chưa biết tâm não của cha hay mẹ của gia đình đó thế nào, hoặc đành phế bỏ cái lòng thương yêu vô tận của mình, đặng dùng quyền lực quá ư nghiêm khắc, hoặc là tàn sát các phần tử ấy. Hay chỉ biết rằng gia đình mình chịu một hoàn cảnh vô phước đấy mà thôi.

Lấy cái nhỏ định cái lớn, đương nhiên bây giờ cái xã hội của chúng ta, tội nghiệp thay một Quốc gia đã chịu một mầm chia rẽ. Quốc dân không có tưởng đến lòng ái quốc cổ truyền của chúng ta đã bị tiêu diệt, thì có lạ chi chúng ta ngó thấy một phần tử trong cái đại gia đình của chúng ta, họ quên hẳn đồng bào cốt nhục của họ, trở nên một kẻ thù địch, thù địch một cách rất lợi hại, thù địch có thể xô đẩy tương lai chủng tộc tổ quốc của chúng ta đến cảnh diệt vong mà chớ.

Thưa Thủ Tướng,

Ngài là vị Thủ Tướng của nước Việt Nam vâng mạng lịnh tối cao của Chúa chúng ta là Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, thay thế vì Ngài là Cha Mẹ của dân. Tôi tưởng cái thắc mắc của Ngài đương buổi nầy, không ai biết gì hơn là người đã bảo trọng phong hóa cổ truyền của chúng ta. Tổ Phụ ta để lại từ ngàn xưa, cái thắc mắc ấy Ngài không nỡ đang tay tàn sát những kẻ bất hiếu vô nghĩa ấy mà thôi, không phải cái năng lực của chúng ta thiếu, không thể giải quyết được vận mạng tương lai của chúng ta. Nếu có thắc mắc chăng là cũng vì lòng từ ái ấy, nhưng Bần Đạo xin kiếu lỗi cùng Ngài, để một lời tâm huyết này một quốc dân thiểu số từ trước đã chịu cái nạn áp bức của một đại cường quốc, tức nhiên lệ thuộc dưới hoàn đồ của Trung Hoa mà đã bảo vệ được nền độc lập và bảo vệ được cả chủng tộc của mình còn tồn tại đến ngày hôm nay, tức nhiên sắc dân ấy có lẽ cũng đủ khôn ngoan, đủ quyết đoán định tương lai vận mạng của mình. Sự giải quyết đó là mong mỏi tinh thần ái quốc nồng nàn của họ.

Ngài mong mỏi nơi sự khôn ngoan từ ngàn xưa để lại, trong óc não của họ và họ cũng sẽ thấy đâu là Chánh, đâu là Tà, đâu là thiệt, đâu là hư, chừng đó họ sẽ ở sau lưng Ngài giờ phút đó Ngài sẽ làm đặng cái sứ mạng thiêng liêng của Ngài, đặng đoạt đến cái vận mạng tương lai của toàn thể đồng bào đó vậy.

Q. 5/26: LỄ HỘI HIỆP CÙNG ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU.
Cửu Long Đài chiều ngày 15-8 năm Nhâm Thìn (1952)

Hôm nay là ngày chúng ta hội hiệp cùng Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ Đức Chí Tôn mới đến mở Đạo, Ngài làm một Bí pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng đến. Ngài ra lịnh lập một cái tiệc rất trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài đời, lấy trong số13 người chúng ta kể Cửu Vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với 3 Người sống, tức nhiên 3 người hữu hình 10 người vô hình dự tiệc ấy. Ba người hữu hình là: Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và Bần Đạo, tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào hơn là ngồi ăn uống với những vị khuất mặt buổi nọ Bần Đạo chưa có Đức tin, thấy một cái đó cho là việc nghịch nhứt, nhưng mà khi vào ngồi tiệc rồi, không biết cái tinh thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác gì như chúng ta dự một cái tiệc trọng hậu có mặt đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy. Đức Chí Tôn thi hành Bí pháp ấy, buổi nọ chúng tôi không hiểu gì hết, tôi cũng tìm tòi kiếm nghĩa lý, có lẽ những người đoạt được cơ siêu thoát tức nhiên tầm được cái huyền bí giải thoát cho mình, thì có đặc ân thiêng liêng cho Bàn Đào Hội Yến, tức nhiên là Hội Yến Diêu Trì.

Cái nghĩa lý sâu xa ấy chúng ta thử để dấu hỏi tại sao Đức Chí Tôn đã đến bảo chúng ta Hội Yên Diêu Trì. Ngài muốn gì đó. Muốn cho toàn cả con cái của Ngài, chớ không phải với ba người đó mà thôi.

Đoạt cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của Ngài đoạt đặng cơ siêu thoát đó vậy. Vì cớ cho nên hôm rồi Bần Đạo có nói một câu rất chánh đáng: Xưa kia con người đi tìm Đạo, còn hôm nay trái lại Đạo đến tìm người. Ôi! Nếu ta tưởng tượng cái ân hậu vô biên của Đức Chí Tôn đã thi thố, thì chúng ta hạnh phúc không thể gì có ngôn ngữ nào mà tả cho đặng.

Thật ra hôm nay chúng ta hội hiệp cùng nhau đây, nó sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh Giáo Gia Tô, tức nhiên là Công Giáo họ có phương thông công cùng Đức Chí Tôn đó vậy.

Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Trì hôm nay tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi mình, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là lòng yêu ái của Ngài, mà rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng.

Mỗi một năm chúng ta được hưởng cái hạnh phúc hội hiệp cùng nhau, chính mình Bần Đạo mỗi khi Hội Yến Diêu Trì được sum hiệp cùng mấy em Nam, Nữ đông đảo chừng nào, thì Bần Đạo càng thêm vui mừng hân hạnh chừng ấy.

Bần Đạo có nhớ một tích xưa, có một bà mẹ đó nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay phiên đặng nuôi mẹ. Hễ khi anh cả nuôi rồi thì cân được bao nhiêu, tới em thứ nuôi, rồi cân phải hơn ra hay như số đấy mới đặng. Nhưng trong đám con ấy rủi thay người nghèo mà là út, kẻ nghèo ấy lại được bà mẹ yêu ái bệnh vực hơn, phần nghèo khó có phương gì nuôi mẹ cho đầy đủ đặng, nên hễ khi trao đổi đến nơi tay cái người út ấy, thì bả ốm o gây mòn. Ăn không đủ thế nào cũng ốm, bây giờ đến phiên ngày cân, đây thì bà phải làm sao, bà lận lưng thêm chì cho nặng để cân, không thì tội nghiệp cho đứa nhỏ nghèo. Cho nên lời tục họ gọi là "Bà mẹ thương con phải bù chì" là lẽ ấy. Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta cũng vậy. Tôi tưởng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng sống kia, không ai mà bảo vệ binh vực cả linh hồn của chúng ta hơn Bà Mẹ Thiêng Liêng ấy.

Mỗi phen chúng ta hội hiệp cùng Người mỗi năm một lần, thử khí nghiệm coi, cả con cái của Ngài khi về thì sẽ đặng an ủi và có cái vui hứng làm sao đâu, không biết mấy em Nam, Nữ có cái cảnh tượng đó hay chăng, chớ Bần Đạo mỗi phen được Hội Yến Diêu Trì, làm như Bần Đạo có uống một chén thuốc bổ. Tinh thần Bần Đạo nó vui hứng, mạnh mẽ tráng kiện làm sao đâu, có phải là cái huyền diệu ấy duy để cho cả con cái, Chức Sắc Thiên Phong, những người lãnh sứ mạng cao trọng trong Đạo hay cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn đều hưởng được. Bần Đạo dám quả quyết nơi Đền Thờ của Đại Từ Mẫu chúng ta, Bà không kể con cái sang trọng cao sang của con Bà đâu, trái ngược lại Bà lại thương yêu binh vực những đứa con nào nó thiệt thà hèn yếu hơn hết.

Ấy vậy Qua nói rằng: Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần và vật chất, thiệt thòi nghèo khổ, tật nguyền, Qua dám chắc Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy. Qua chẳng phải nói để an ủi mấy em, mà sự thật quả quyết vậy. Qua chỉ cho mấy em thấy một cái Bí Pháp, là khi nào mấy em quá thống khổ, quá đau đớn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu thảm, các em quì xuống giữa không trung, các em nguyện với Bà Mẹ Thiêng Liêng ấy một lời cầu nguyện, Bần Đạo quả quyết rằng: Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Qua đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức Phật Mẫu thí nghiệm như Qua thử coi.

Trong cảnh đồ lưu nơi hải ngoại cái chết đưa bên lưng, Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên ta đó vậy. Cái hiển hách anh linh của Bà, Qua đã quả quyết rằng: Từ thử đến giờ chưa có trong cửa Đạo nào hưởng được. Mấy em thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy, nếu muốn cho Bà thương yêu, mình có cái Bí pháp hay ho hơn hết, mấy em thương yêu những kẻ tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt, mấy em thử nghiệm lấy cái huyền linh của Bà. Qua cầu chúc ân Thiêng liêng của Bà chan rưới bủa khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút.

Q. 5/27: VÍA ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG LÀ ANH CẢ THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA ĐÓ VẬY.
Đền Thánh đêm 17/8 năm Nhâm Thìn (1952)

Đêm nay là Vía Đức Lý Giáo Tông, tức là Anh Cả thiêng liêng của chúng ta đó vậy.

Đã hai (*) năm dài đăng đẳng, nhưng Bần Đạo ngó lại chẳng khác nào như giấc chiêm bao. Khi ban sơ mới khai Đạo, Đức Chí Tôn đến mở Đạo, đem lòng thương yêu vô tận của Ngài, Ngài đến chung sống cùng con cái của Ngài. Theo luân lý thường tình của ta, một ông Cha cực nhọc đi đến tìm con, bao giờ lòng thương yêu vô tận ấy cũng trên hết mọi tâm tình. Chính mình không có kể đứa con nào nên, đứa nào hư, đứa nào hèn, đứa nào sang, không kể gì cái đó hết thảy. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn mở Đạo, Ngài ôm cả con cái của Ngài vào lòng, theo thể Bần Đạo ngó thấy hiển nhiên rằng: Đức Chí Tôn không kể Nguyên Nhân, Hóa Nhân, Quỉ Nhân gì hết. Bằng cớ khi nọ có một người đàn bà, Bần Đạo không nên nói tên ra làm chi, đội sớ quì mãi đến bãi đàn, tôi không biết xin điều gì, quì đến bãi đàn, đội sớ quì như vậy từ đàn này đến đàn khác, theo đuổi giỏi giắn siêng năn lắm. Ngày nọ đến cái đàn chót Đức Chí Tôn kêu tên người đó, rồi hỏi muốn lung lắm sao con? Người kia thầm vái cái gì không biết, Đức Chí Tôn lại nói: Thôi phong con chức Giáo Hữu đó. Thành thử ta ngó thấy rằng: Giá trị của chức Giáo Hữu không có gì hết, bất kỳ ai cũng cầu được, đem vô cái thể của Ổng với những phần tử vô giá trị, làm cho Đức Lý buổi nọ cầm quyền Thiêng Liêng của Đạo, Ngài khổ não không biết sao luận được. Buổi nọ Bần Đạo không hiểu gì hết. Đức Chí Tôn đến ban sơ khi mở Đạo, Đại Từ Phụ đòi truyền Bí Pháp cho Bần Đạo đi thôi, còn về Thể Pháp thì Hội Thánh không biết gì hết. Nội Bí Pháp không, Đại Từ Phụ đã truyền giáo, Ngài mở Đạo tại Từ Lâm Tự, đến ngày khai đàn Bần Đạo cười chết, cười sống, cười lộn mật, cười quên đầu quên đuôi hết ráo. Bởi cớ cho nên quỉ lộng cho đến chừng bị rầy cam chịu, bơ bơ có biết gì đây, về Thể Pháp Bần Đạo bị chê, Đức Lý phiền biết bao nhiêu, Bần Đạo không dám mở miệng nói gì hết, lại một nỗi Phật Mẫu và Đại Từ Phụ đem quyền Chí Tôn, Bát Quái Đài duy có một Ông mà thôi, còn quyền Chí Tôn Thánh Thể của hữu hình, Ông hỏi lấy ai hiệp một mới đương đầu với Ổng, tức nhiên Hộ Pháp, Giáo Tông hiệp một cùng nhau, hai quyền ấy mới nắm quyền Chí Tôn của Ngài. Ngẩm ra buổi nọ Đức Lý nói với Bần Đạo, theo Ngài phải hay theo Đức Chí Tôn phải. Theo Đại Từ Phụ chắc hẳn, Bần Đạo nói thật chẳng hề Bần Đạo nghe theo Đức Lý được. Thánh Thể của Đức Chí Tôn hồi buổi đó không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái gì thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu, không thể tưởng tượng được.

Đức Giáo Lý Tông hội Chư Thánh, nhưng đương đầu với Đức Chí Tôn chẳng dám vì lẽ đó họ chia phe phân phái lập đảng. Ngài thấy tình cảnh như vậy Ngài mới biểu Bần Đạo xuống tại Thủ Đức, trong 7 tháng Bần Đạo chung sống cùng Ngài đặng cho Ngài truyền Thể Pháp. Giờ phút này Bần Đạo đứng tại Tòa giảng đây tưởng tượng nhớ đến tâm tình ấy thắm thiết biết bao nhiêu, nồng nàn mà nói, không có một điều gì sơ sót, chỉ đủ mọi hành tàng, rành rẽ chi tiết hết. Bần Đạo vừa biết rồi, Đức Lý liền từ chức không làm Giáo Tông của Đạo trọn 3 năm vậy.

Khi Bần Đạo ở Thủ Đức về, Đức Lý dắt một đàng Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội Thánh lại, một đàng Đức Chí Tôn nói đừng nghe Lý Thái Bạch đa nghe Phạm Công Tắc! Một đàng kéo một đàng trì, làm cho Bần Đạo không biết đường đi chút nào, thất thơ thất thưởng, mất linh hồn, muốn nửa tỉnh nửa say, Ngài đến 11 giờ Ngài viết cho đến 4 giờ sáng, chỉ rành rẽ thế nào, nhứt là Ngài biểu Bần Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí Tôn hữu hình tại thế này, Hiền Hữu muốn cho Đạo Cao Đài còn tồn tại, hay nghe lời Đức Chí Tôn để cho nền Đạo phải mất? Bần Đạo cứ nghĩ ngợi, đó rồi Đức Chí Tôn đến, thật sự Ông Già hơi buồn thật, Ngài nói Tắc, con sửa soạn đặng làm Lễ Đăng Điện cho Đức Lý Giáo Tông đa nghe. Rồi đó Ổng ở, Ổng nghe Đức Lý Giáo Tông cầm quyền.

Đức Lý Ngài biểu Thiên Phong Chức Sắc cả Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài lập Cửu Trùng Thiên để Ngài đăng điện, khi Ngài đăng điện rồi, Ngài cầm cây viết Ngài viết Bài Diễn Văn đăng điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo Tông nào làm một Bài Diễn Văn hay như vậy. Bài Diễn Văn của Ngài vạch rõ tinh thần, con đường hay ho làm sao, nhứt là trong Bài Diễn Văn đó cho cả Hội Thánh hay rằng: Kể từ khi Ngài cầm quyền Giáo Tông đây, các người ấy đừng ỷ công khi lịnh, Ngài chẳng hề tha thứ bao giờ, Ngài nói một đàng về hữu hình, chính mình Bần Đạo chưa thấy Ngài làm gì được về vô hình Ngài trừng thanh bí mật quyền linh không thể tưởng tượng.

Khéo là cái làm Ngài không lợi dụng, chính mình Ngài dùng quyền hành Thiêng Liêng trừng thanh độc lập mà thôi. Duy có Ngài làm, Bần Đạo không biết, chỉ có cười một điều cả con cái Đức Chí Tôn không biết lựa người đặng bợ đít, đêm nay đi cúng thưa thớt, nhè Đấng oai quyền sang cả kể từ mực thước nhỏ nhen nhứt. Trên đường lập thân hành Đạo, có Đấng bảo vệ mình mà không biết bợ đỡ rồi làm sao nên. Bần Đạo xin nhắn lại với họ điều ấy.

Q. 5/28: VÍA ĐỨC KHỔNG THÁNH - TRIẾT LÝ ĐẠO CỦA NGÀI.
Đền Thánh đêm 27/8 năm Nhâm Thìn (1952)

Đêm nay là ngày vía của Đức Khổng Thánh, mỗi năm Bần Đạo có dịp giảng giải kiếp sanh của Ngài và triết lý Đạo của Ngài, chúng ta chỉ để ý một điều trọng hệ này là Đức Chí Tôn đến lấy chơn tướng Nho Tông đặng chuyển thế. Vì cớ cho nên triết lý của Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế.

Bần Đạo đã có dịp giảng về kiếp sanh của Ngài rồi. Tưởng cũng không cần lập đi lập lại, nhưng chúng ta tự tìm hiểu nghĩa, một câu cao siêu của Đức Chí Tôn đến lập giáo, lấy Nho Tông làm căn bản mà đó là triết lý của Ngài ấy là tại duyên nào.

Chúng ta đã ngó thấy Đức Khổng Phu Tử giáng sanh buổi Đông Châu Liệt Quốc, chúng ta dư hiểu, từ thử đến giờ chưa có một quốc gia nào hỗn loạn hơn là Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ. Dầu cho tới ngày hôm nay cũng còn là nước Tàu buổi trước, phân ra là sáu nước tranh quyền lợi với nhau. Một tấn tuồng tương tàn tương sát của Trung Hoa là nòi giống vinh quang của họ, dầu cho họ tầm phương sống, để sống, sống trong một cõi đại đồng, tức nhiên họ chưa tạo dựng một cái gì để làm cho ta kinh khủng, họ có cách thí nghiệm sơ sài ngay buổi ấy và khi Đức Khổng Phu Tử Ngài đã đến.

Nếu chúng lấy theo Nho thì chúng ta có thể nói: Bao giờ cái quyền Thiêng Liêng có tại mặt thế này. Tinh thần của con người tổng số lại làm một xã hội hay cả thiên hạ và hễ khi nào có loạn tức nhiên cả thảy thiên hạ tìm kiếm phương pháp đặng làm chủ lấy mình.

Đức Khổng Phu Tử đã sanh ra trong cái thời kỳ hỗn loạn ấy, vì cớ nên Ngài mới tìm một phương pháp để cứu nước, cứu toàn sanh mạng của giống dân Trung Hoa của Ngài cho còn tồn tại, chớ không thì tấn tuồng tương tàn, tương sát ấy không thế nào dứt được.

Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã nói: Hễ chúng ta sống một ngày thì hay một ngày, chớ chẳng hề khi nào chúng ta cãi đặng khuôn luật thiên nhiên của Tạo hoá được, ví như muốn cứu vãn, muốn thức tỉnh các nước như Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ, Bần Đạo xin nói: Phải giữ gìn phương pháp đạo đức thì mới có thể làm dứt được cái nạn nồi da xáo thịt của nước Trung Hoa buổi nọ. Vì vậy nên Đức Khổng Phu Tử mới đem đạo nhơn luân của con người ra làm căn bản. Bởi cớ cho nên Ngài chỉ tìm một phương pháp là Nhơn Đạo để cứu vãn tình thế dân Trung Quốc. Nhưng Trung Hoa buổi nọ cũng vẫn còn các bậc siêu hình khôn quá, không ai cho là giả thuyết.

Đức Khổng Phu Tử đến nước Châu hỏi lễ, Đức Lão Tử nói cùng Đức Khổng Phu Tử: "Người quân tử đức thạnh dung mạo như kẻ ngu" chúng ta biết rằng cái thuyết Đạo giáo của chúng ta là cái thuyết siêu hình, một lời nói ngộ nghĩnh là khi gặp Đức Lão Tử, rồi các Môn đệ của Ngài hỏi Ngài, Ngài trả lời rằng: "Rồng biết nương mây nương gió". Ngài trả lời một câu hay ho làm sao! Can chi họ lại kiếm Ngài mà hỏi nữa, Ngài đáp: "Con cá nó lội dưới nước, dưới bàu bằng vi, con thú nó chạy trên đồng bằng chân và đã biết căn bản của mỗi con rồi, duy có con rồng bay trên mây kia ta không thấy được hình, ta đoán không được mà thôi. Đức Lão Tử là Rồng đó vậy".

Cả thảy đều hiểu lời nói đó khéo léo làm sao, mà Ngài không quyết định đặng. Chính mình Ngài cũng không tìm hiểu được lẽ sống chết của Môn đệ của Ngài. Ngài nói cái sống đương nhiên mà chúng ta đã sống chừng nào chết chúng ta sẽ hay. Ngài nói một cách đơn giản cái thuyết chen lấn của xã hội như thế.

Ấy vậy cái thuyết bảo vệ nhơn luân chi đạo của Ngài đó, chúng ta đã hiểu như thế, Đức Chí Tôn đến đặng đem Thượng Nguơn Tứ Chuyển và tinh thần đạo đức mà tìm chúng ta để làm căn bản, nhưng hiện giờ đạo đức tinh thần của nhơn loại không còn như thời Thượng Cổ nữa. Chúng ta có thể nói theo Tiên Nho rằng: "Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh đức, kim nhơn biêu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc". Tất cả nhơn quần xã hội trong thời văn minh này họ hay hỏi lắm, họ làm tinh thần trí não của chúng ta thêm rối, ta tiếc có một điều là Thánh đức của họ không có.

Hại thay! Họ không cần Thánh đức, thì tức nhiên cái sống của họ không phương nào bảo vệ được đạo nhơn luân của họ, nếu bảo vệ không được đạo nhơn luân, tức nhiên họ xu hướng theo vật hình thú tánh mà thôi. Họ sống theo vật hình, theo thú tánh thì ngoài ra không biết gì hết. Như thế Thánh đức không còn giá trị gì nữa.

Vì cớ cho nên nhơn loại đã ly loạn, đạo nhơn luân nó đi đảo ngược con đường Thánh đức. Bởi cớ cho nên Đức Chí Tôn đến lấy Nho Tông trước kia làm căn bản, Đức Khổng Phu Tử đã cứu vãn tình thế nước Trung Hoa thế nào, thì ngày nay Đức Chí Tôn đến cứu vãn nhơn loại với phương pháp ấy.

Q. 5/29: HAI BÀI THI CỦA THẤT NƯƠNG VÀ BÁT NƯƠNG LÚC BAN SƠ MỚI KHAI ĐẠO.
Đền Thánh đêm 30/8 năm Nhâm Thìn (1952)

Hôm nay Bần Đạo giảng hai bài thi của Thất và Bát Nương lúc ban sơ mới khai Đạo, trong hai bài thi ấy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh và con cái của Ngài chẳng luận Nam, Nữ suy gẫm rồi sẽ thấy lời tiên tri kết liễu ngày nay một cách lạ thường, nhứt là đêm nay Bần Đạo giảng cho mấy em Luật Sự Hiệp Thiên Đài lãnh sứ mạng đi cùng các nơi cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đạo.

Vả chăng chơn lý của Đạo Cao Đài đã tỏ cho toàn thể nhơn sanh đều hiểu lời tiên tri của Phật Giáo đã nói: Qua cuối Hạ nguơn Đức Chí Tôn đến để mở Hội Long Hoa đặng lập vị cho Đức Di Lặc Vương Phật. Nhưng khi ấy cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Ngọc Hư Cung cầu xin Đức Ngài để cho các Đấng ấy đảm đương phận sự thay thế cho Ngài. Vì cớ cho nên Ngài không đi, Ngài không có đến tức nhiên Ngài không có giáng trần tái kiếp.

Từ thử đến giờ, Bần Đạo chưa hề biết nói đến sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo, là vì Đức Chí Tôn không đi, nên mới có Hộ Pháp của Ngài đến. Hộ Pháp của Ngài đến, cốt yếu thay thế cho Ngài đặng lập vị cho Đức Phật Di Lặc Vương Phật mở Hội Long Hoa, tức nhiên sứ mạng của Hộ Pháp là cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, nắm cả tâm lý tinh thần nơi mặt địa cầu này đặng hòa giải hầu sửa đương tâm đức tinh thần của nhơn loại, tức nhiên là Ngài đến trước khi mở Hội Long Hoa tạo Tiên, Phật tâm đức từ trong cửa Thánh của họ đặng họ từ từ bước đến phẩm vị của họ tại mặt thế này.

Ngày giờ nào nhơn sanh đã tiến bước, Bần Đạo chỉ nói một người mà thôi, đạt được Phật Vị thì ngày ấy Hội Long Hoa mới mở, mà Hội Long Hoa chưa mở thì Đức Di Lặc Vương chưa có đến, nghe cho rõ rồi nhớ, phải chăng là chung tâm cả thảy Thánh Thể và con cái của Ngài thấy cái trường Đời tức nhiên nhơn quần xã hội đương ly loạn, mà chính trong một quốc dân Đức Chí Tôn đến đặng lựa chọn một phần làm Thánh Thể của Ngài tức là nước Việt Nam đương nhiên, mà ngày giờ này cũng bị đảo lộn loạn ly hỗn loạn, mà lẽ dĩ nhiên là hễ không có hỗn loạn thì tức không có bình trị.

Chúng ta đã thấy luật thiên nhiên tương đối kia muốn cho nước đục được trong, phải đánh cho nó đảo lộn đi rồi nó mới lóng phèn nước mới trong lại được. Cuộc thế đương thời là vậy đó. Bây giờ vận mạng nước nhà Nam cũng thế ấy, phải có loạn mới có bình trị, cũng như chúng ta thấy giờ này đạo lý đã xuất hiện, và nhờ đạo lý ấy họ mới nhìn nhận Hội Thánh chúng ta, mà chúng ta có sợ sệt chi chăng? Bần Đạo nói: Chẳng hề khi nào biết sợ, Bần Đạo quả quyết như thế. Đây là cái bằng cớ mà con cái của Đức Chí Tôn đã thấy rõ, từ khi mở Đạo đã gặp khó khăn ấy rồi. Bần Đạo chưa hề sợ ai làm khó hết. Càng hỗn loạn ấy Bần Đạo cũng mở tầm mắt xem coi và đợi kết liễu của nó. Bần Đạo chẳng hề khi nào khủng khiếp, tại sao lại khủng khiếp chớ! Đức Chí Tôn biểu mình hiến trọn Tam Bửu của mình tức là mảnh thân phàm, trí não và linh hồn mình cho Ngài, thì mảnh xác thân của ta đây đã làm tế vật cho Ngài, thì dầu chết dầu sống vì thời thế nào cũng không sao, vì rằng: Dầu ta đương sống với Đời mà đã chết với Đời còn sống cốt là sống vì Đạo, có gì phòng sợ, cái gì mà khủng khiếp? Khủng khiếp là điều bạc nhược của chúng ta đó. Cái trường đời còn đảo ngược thì Bần Đạo càng có phương thế đem cái sứ mạng của mình làm cho nó có mực thước. Trái ngược lại Bần Đạo cầu cho như thế, cái hổn loạn ấy nó khởi từ lúc ban sơ. Đức Chí Tôn đến đặng đem mối Đạo đưa cho con cái của Ngài, tức nhiên là các phần tử Thánh Thể của Ngài đầu tiên mà Ngài đã đến kiếm. Ngài tự đưa cái hỗn loạn ấy, cái khó khăn ấy khởi đương trong gia đình Thánh Thể của Ngài là mỗi phần tử ấy, Bần Đạo trông lại đàn anh của chúng ta cho đến Bần Đạo đây cũng vậy, đem thân vào cửa Thánh của Ngài thì thấy khổ nhọc khó khăn biết bao nhiêu. Nói đến sứ mạng yếu trọng của mình hôm nay thì cũng thế đó.

Trong gia đình có hỗn loạn, có thống khổ thì tới xã hội nhơn quần cũng vậy, cớ sao xã hội có như thế? Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả nhơn quần xã hội thấy đặng khó khăn thống khổ tức phải thọ khổ rồi mới thắng khổ.

Bài thi của Bát Nương lúc ban sơ nói về nỗi khó khăn khởi đương của nền Tôn giáo của Ngài mà Ngài đã gánh vác, đã đảm đương, thấy cái khó khăn ấy Bần Đạo lại e sợ cho phần tử Hiệp Thiên Đài làm không đặng mà thối chí ngã lòng.

Buổi nọ Bát Nương đến kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư của chúng ta, Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là bạn thân của Đức Cao Thượng Phẩm, làm một bài thi mình thương Đạo kêu nói ngay Bà Nữ Chánh Phối Sư một điều, để Bần Đạo đọc rồi cả thảy nghe câu văn cũng ngộ nghĩnh, cho kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư lại:

Bài Thi
Mua vải dùm em để phất diều,
Treo văn trước mõ mới là kêu.
Cánh sườn cột nẹp cân cho đúng,
Lèo lái so dây gióng đặng đều.
Luồng gió ồ ào vừa thổi dậy,
Mấy anh tỉnh mỉnh phóng lên kêu.
Chín từng lồng lộng bay cho thấu,
Thì hiểu Hiệp Thiên nghĩa ít nhiều.

Đức Hộ Pháp giải nghĩa từ câu. Nhứt câu: "Treo văn trước mõ mới là kêu" Ngài nói thêm ý chỉ nói văn mà thôi chớ không phải võ.

Khi đến viếng Hội Thánh Ngoại Giáo nơi Tần Quốc Kiêm Biên xong việc, Đức Quyền Giáo Tông và Bần Đạo tính về Tòa Thánh, Bát Nương muốn cầm lại. Giáng làm Bài Thi như vầy:
Dường đợi Thanh Loan đến Hớn Đài,
Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.
Nghe danh Ông Tắc, Y lìa ruộng,
Lóng tiếng Vua Nghiêu, Thuấn bỏ cày.
Ái vật Thành Thang quên dở ná,
Thương dân Hạ Võ mặc hài gai.
Ngóng mưa đã đợi ba thu mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.

Đức Chí Tôn mới mở Đại Đạo thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã cầu cơ, Bát Nương đến biểu chúng ta đem cả năng lực đặng cứu chúng sanh, sứ mạng cứu thế phải khổ hạnh khó khăn thế nào, nguy hiểm thế nào! Bần Đạo để cho con cái Đức Chí Tôn suy gẫm hiểu cho thấu, tự hiểu lấy mình vì nó không phải khó kiếm hiểu.

Q. 5/30: CÂU CỔ NGỮ: "NHỨT TÂM NHỨT ĐỨC"
Đền Thánh đêm 14/9 năm Nhâm Thìn (1952)

Đêm nay Bần Đạo giảng câu cổ ngữ "Nhứt tâm nhứt đức".

Chữ nhứt tâm nhứt đức; riêng tâm và đức có một mà thôi. Chúng ta chẳng cần gì luận, chẳng cần để công kiếm cho lắm. Chữ tâm Bần Đạo đã giảng, cổ nhơn chưa có biết Chơn linh của ta đó vậy. Nó là hồn cái danh là Tâm hay là chữ Đạo. Tâm ấy tức nhiên Chơn linh của chúng ta đó. Vậy Chơn linh ấy tại sao có một mà thôi? Tức nhiên chữ Tâm biến ra đó vậy. Bởi vi ta muốn nói nó là Thiên Tâm.

Còn đức, nhứt đức thì chúng ta chẳng cần kiếm xa xôi, chỉ biết nó là Thiên Đức mà thôi. Thiên Tâm, Thiên Đức, Đức Chí Tôn đã đến để hiển nhiên trước mặt đó vậy. Ta đã biết Nguơn linh của chúng ta do nơi Đức Chí Tôn mà sản xuất, tức nhiên cả toàn thể nhơn loại thống hiệp lại là cái khối Nguơn linh của Đức Chí Tôn. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã để "Thiên Thượng, Thiên Hạ". Thiên Hạ tức nhiên toàn thể nhơn loại, bây giờ ta muốn nói cả toàn nhơn loại có nhứt tâm hay chăng? Ta đã rõ biết rằng do nơi nguyên căn của nó, tức nhiên do nơi Đức Chí Linh sản xuất; nếu nó hiệp lại làm một với nhau thành ra Đấng Chí Linh, mà cả thảy biết mình là một căn bản với nhau hay chăng? Nếu cả toàn nhơn loại biết mình là một căn bản, xuất hiện do nhứt tâm ấy, thì cơ thể sống của họ, tranh sống lại với nhau nơi mặt thế này, nạn tương tàn, tương sát không có hiệu lực đau đớn vậy.

Vì họ chưa biết cái nhứt tâm ấy, hễ nói chữ Tâm thì tức nhiên nói đến Thiên lương vô đối, mà lấy Thiên lương vô đối làm căn bản, tức nhiên nhơn loại có thể lấy nhơn luân làm căn bản, họ thống hiệp làm một cùng nhau, con người chẳng hề kiếm, mà phải đến và họ đường tìm nẽo đặng đến. Chúng ta ngó thấy họ đương tò mò rờ rẫm tiến tới trạng luận vô đối. Nào là Trung Quốc, nào là Liên Hiệp Quốc, nơi Á Đông, Âu Châu, nơi Mỹ Quốc họ đương đem cái tinh thần họ tìm tòi.

Ấy vậy, nhứt tâm ta đã biết ta đã do nơi Trời, lấy cái căn bản của ta chỉ biết duy Thiên Tâm mà thôi, mà Thiên Tâm ấy nó đã biểu ta tôn sùng mạng sống, tức nhiên tôn sùng cái nguơn linh của người, không đặng chia rẽ, câu: "Khi nhơn tức khi tâm, khi tâm tức khi Thiên". Hễ khi người tức khi lại mình, mà khi lại nguơn linh của mình, tức nhiên khi Đấng Chí Linh là Đức Chí Tôn đó vậy. Hễ khi Trời tức nhiên có tội."Khi Thiên vô sở đảo dã" hễ khi Trời thì không có người trốn.

Trái ngược lại Ngài đã căn dặn một điều trọng yếu này: Ngài nói thà các con vô lễ cùng Thầy, Thầy đặng lòng từ bi mà tha thứ; Thầy chỉ dặn các con chẳng nên vô lễ cùng Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, bởi họ chẳng hề tha thứ bao giờ. Đức Chí Tôn đã căn dặn rõ ràng, biểu chúng ta đừng sát sanh, biết đâu trong một cành hoa kia không phải là một vị Phật giáng sanh, nếu chúng ta đang tay bẻ nó, chúng ta đã phạm đến cái tội ấy rồi.

Hại thay các Chơn linh cao trọng đã đến thế gian này, có một điều nguy hiểm cho chúng ta hơn hết là họ sẽ lấy một hình thể căn bản của họ, hèn tiện, thiệt thòi, có khi họ lại lấy hình thể họ ngu dại nữa chứ.

Hại thay! Những kẻ đó không biết tôn trọng nguơn linh của người, khi rẻ đến họ, hiện diện trên thế gian này họ sẽ chịu những hình phạt, chẳng hề khi nào tránh khỏi.

Bần Đạo mục kiến vài ba bằng cớ rõ ràng, dầu cho Tiên vị, một chơn linh cao trọng mà họ phạm đến điều ấy, Thiên điều chẳng hề tha thứ họ. Bằng cớ Bần Đạo chỉ rõ căn nguyên của Đức Quyền Giáo Tông là Tiên vị, những kẻ đã khi rẻ Ngài hồi còn sanh tiền. Các con cái của Đức Chí Tôn dòm coi, những kẻ đó giờ phút này thế nào, dầu cho hạng đồng bực cùng Ngài mà đã khi rẻ Ngài, rồi giờ phút này không còn gì hết. Một cảnh tượng nữa, Bần Đạo mục kiến Phối Thánh Màng, người thiệt thòi làm sao, hiền lương không thể nói, bần tiện lắm, mà có kẻ đã khi rẻ hiếp đáp, giờ phút này tàn gia cả thảy những người đó không thể chối tội. Phối Thánh Thoại cũng vậy cũng thế đó. Mấy vị Đại Thiên Phong và cả con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ phải dè dặt cho lắm, đừng thấy sắp em của mình nó hèn tiện thiệt thòi, ngu dại mà khi dể nó. Biết chừng đâu Đức Chí Tôn đã dành để một tình cờ bất ngờ chúng ta sẽ phạm đến họ, rán coi chừng cho lắm, nhứt là trong cửa Đạo Cao Đài, dầu nam cũng vậy, nữ cũng vậy, không biết có chơn linh trong ấy.
Bần Đạo xin căn dặn một điều trọng yếu hơn hết: đừng khi người.

Q. 5/31: TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NỀN VĂN MINH CỦA THỜI ĐẠI.
Đền Thánh đêm 29/9 năm Nhâm Thìn (1952)

Đêm nay Bần Đạo giảng về Tôn giáo đối với một nền văn minh của thời đại.

Hai chữ văn minh thiên hạ đã nói, chúng ta cũng nên tìm hiểu nghĩa lý của nó, và tìm cho biết cái nguồn cội đã sản xuất nó. Văn, chúng ta ngó thấy thiên hạ cũng gọi là văn chương hay là văn hóa. Nhờ văn hóa mà đã ghi rõ những gì từ trước đã lưu chiếu lại, những biến cố trong lịch sử của toàn nhơn loại, trong lịch sử của một quốc dân, xã hội và văn hóa, ấy là những văn từ đã lưu chiếu lại tạo một sự hiểu biết, để phổ hóa trong một sắc dân, trong một xã hội hay là toàn thể nhơn loại.

Ấy vậy chữ văn chương chúng ta đã ngó thấy lưu chiếu lại một lịch sử của toàn thể một thế hệ, của một xã hội trong một thời đại. Văn chương ấy hữu ích thế nào, chúng ta chằng cần gì luận cũng đã chán biết. Lạ thay! Con người bao giờ cũng có một cái linh. Cái linh tâm lạ lùng lắm! Vả chăng loài người bao giờ cũng sản xuất trong một đời sống của mình, đời sống ấy từ 1 dĩ chí 100 tuổi, chúng ta đã ngó thấy họ nhớ lại hết và tìm tòi biết mãi tới, họ có lạ lùng ấy. Họ sống trong một thế hệ của họ, mà họ đã có năng lực hiểu biết cả căn bản trong thế hệ đã qua rồi, họ còn có thể định đoạt cái thế hệ sẽ tới. Đó là một điều phi thường từ trước tới giờ không có phương gì để lại, chỉ có căn bản là làm cho phát khởi cái đó do cảm động và nhớ.

Văn chương lưu chiếu lịch sử làm một bài học để tìm tòi hiểu biết thế tình nhơn loại, thì văn học phải phổ hóa tinh thần và vật hình của con người đời. Nếu muốn phổ hoá cho đặng cái vật hình của con người, thì chúng ta ngó thấy văn chương trên lịch sử, nó phải có một năng lực nuôi cả tinh thần và hình thể của người mà chớ.

Hễ muốn nuôi cho đặng cái vật hình của họ vẫn dễ, còn nuôi tinh thần của họ rất khó. Bởi vì tinh thần ấy nếu không do Đạo Giáo, chẳng hề khi nào có năng lực phổ hóa họ đặng. Chúng ta ngó thấy mỗi phen Đức Chí Tôn đến, hay là sai vị Giáo chủ nào đến đặng tạo Tân dân bao giờ cũng vậy. Trước tiên cái nền văn minh đến, thì nền Đạo Giáo đã thành lập trước, bởi Đạo Giáo là căn bản của nền văn minh đó vậy.

Đạo là khuôn khổ, còn văn minh là hình chất, Đạo là hình, văn minh như bóng. Chúng ta đã quan sát thấy văn minh sản xuất hình thể và tinh thần là do một nền Tôn giáo đã tạo dựng nó ra. Chúng ta ngó thấy như Đạo Phật đã tạo ra một thế hệ, thế hệ ấy nó có năng lực tạo cả hình chất của Tân dân Phật Giáo, tức nhiên trong tình trạng của họ, họ tỏ ra rằng: Họ là người trong Đạo Giáo. Chúng ta đã ngó thấy các vị Thầy tu nhà Phật, cạo đầu bận đồ vàng, bộ tịch của họ dù cho đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ cái sống của họ đều trong khuôn khổ do nơi Đạo Giáo mà xuất hiện đặc biệt. Thiên Chúa Giáo, chúng ta để mắt quan sát cho tới hình thể tinh thần của họ, cử chỉ đều có vẻ đặc biệt riêng. Nho Giáo cũng vậy, Bần Đạo chẳng cần gì tả cho nhiều, cả thảy đều biết điều ấy rồi.

Còn trọng hệ hơn hết là cái nền văn minh lưu chiếu lại, chỉ có năng lực để bảo tồn được các Tân dân của mình tạo ra, cốt do tinh thần vi bổn. Chúng ta ngó thấy các nền Tôn giáo đã tạo văn minh hiện tại. Hiện nay còn cái hai nền văn minh. Thật ra từ Thượng cổ các nền văn minh đã lưu chiếu tại mặt địa cầu này vẫn nhiều. Tỉ như các nền văn minh tối cổ bên Âu Châu là văn minh: Grecque, Egypte, Romain hay (Rome). Còn bên Á Đông của chúng ta, văn minh của nhà Phật, văn minh của Đức Lão Tử, văn minh của Đức Khổng Phu Tử, Châu Công (kế Đức Khổng Phu Tử). Các nền văn minh ấy họ tạo Tân dân của họ thế nào Bần Đạo chẳng cần nói cả thảy các con cái Nam, Nữ cũng vậy đã quan sát.

Bần Đạo thuyết đêm nay cho đám thanh niên nam, nữ con cái của Đức Chí Tôn nên để ý và hiểu biết cho lắm. Chúng ta ngó thấy trước mắt kiểu vở của các nền văn minh đã có, là do nơi các Tôn giáo đã tạo. Đương nhiên bây giờ có hai nền văn minh trọng yếu hơn hết của tinh thần nhơn loại là: Văn minh của Phật Giáo và văn minh của Thiên Chúa Giáo. Hai nền văn minh tinh thần của hai Đạo giáo đó rất cao thượng. Bần Đạo chỉ nói rằng: Tốt đẹp không thể gì tả hình trạng ra cho đặng. Tại sao nó tốt đẹp ấy? Là nó có năng lực bảo sanh hình chất của nhơn loại, nó có thể bảo vệ cho đời sống tinh thần thiêng liêng của họ mà chớ.

Con cái của Đức Chí Tôn biết rằng: Các Tôn giáo xuất hiện rất có ích cho nhơn loại tại mặt thế gian này, về hình thể, tinh thần và nó phải làm thế nào bảo tồn sống còn của nhơn loại, mà trong sự sống ấy khó mà bảo tồn đặng sống còn tinh thần họ. Hỏi có phương pháp nào giải quyết cái khổ của họ đặng chăng? Bần Đạo đã giải nghĩa nào là thắng khổ, nào là tùng khổ, nào là giải khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết là phải tìm phương nào cho các nền văn minh ấy, phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống với nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ được sống còn của nhơn loại, mà tranh sống tức nhiên phải tiêu diệt. Gương của hai vị Giáo Chủ đã lưu lại nơi mặt thế gian này, bên Á Đông, bên Âu Châu hai nền văn minh đặc biệt. Hai vị Giáo Chủ đó trước kia là gì chớ? Một người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từ miếng vải rách đặng chầm khiếu mặc cho lành, tức là Đức Phật Thích Ca.

Còn cái người đã chia từ miếng bánh mì, từ miếng cá nuôi kẻ đói là Đức Chúa Jésus Christ, Ngài lấy sống của Ngài, Ngài chia cho kẻ đói, đến đổi Ngài phải nhịn miệng ăn của Ngài cho nó sống.
Gương hai vị tạo nền văn minh đó đẹp đẽ làm sao.

Q. 5/32: NGÀY MAI NÀY LÀ NGÀY VÍA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG TRUNG NHỰT.
Đền Thánh đêm 12 /10 năm Nhâm Thìn (1952)

Ngày mai này là ngày Lễ vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, tưởng khi cả anh em chúng ta nam, nữ lưỡng phái đều tưởng nhớ Ngài lắm vậy. Ấy là người Anh Cả đầu tiên của chúng ta. Đức Chí Tôn đã ban hồng ân Thiêng Liêng vô đối ở dưới thế gian này, có một vị Giáo Tông đầu tiên của nền Đạo.

Nhân dịp ngày Lễ Đức Quyền Giáo Tông, chúng ta nên để tâm suy đoán nhớ lại thử coi cái gương của Ngài để lại cho chúng ta là cái gì, Bần Đạo xin nói rõ giúp cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn có phương thế suy đoán.

Hỏi lúc nòi giống Việt Nam và Quốc gia Việt Nam ở vào thời kỳ Pháp thuộc một người như Đức Quyền Giáo Tông, Bần Đạo nói rõ là một người bần hàn xuất thân, cha chết sớm duy có bà mẹ nuôi cho đến khi lớn, chỉ ở vậy thôi, không tái giá, chớ phải chi nhà giàu có "Môn đăng hộ đối" chẳng nói gì, nhà nghèo mà hẩm hút làm lụng nuôi con ăn học đến nên người.

Bần Đạo còn nhớ lại Đức Quyền Giáo Tông có nói với Bần Đạo một chuyện rất ngộ nghĩnh, Bần Đạo minh tả ra đây cho tất cả bên phái nữ để ý cho lắm, để làm một bài học hay, khi Bà thân của Người đã qua đời, thì cả trong làng thương yêu một cách không thể nói được, Chức Sắc làm bàn đưa linh mà trong bài châm ấy để mấy chữ như vầy: "Tích Mạnh Mẫu" tức nhiên toàn thể nhận tang cả, chẳng khác gì Mạnh Mẫu cho lắm, chỉ biết mình là hạng bần hàn nên con mắt của người không bao giờ ngó đến kẻ nghèo khổ, lam lụ như Ngài thuở ấu xuân vậy. Vì cớ cho nên Ngài đem tâm chí làm sao ích lợi cho dân, tức nhiên cho đồng bào trong nước. Vì thế cho nên Ngài phản đối một cách không thể tưởng tượng trong buổi lệ thuộc ấy, can đảm chúng ta không bao giờ dám đề xướng như vậy đặng. Trong nước chúng ta buổi nọ, nhứt là trong Nam Kỳ (Bần Đạo dùng tiếng xưa) buổi nọ nếu có một người An Nam nào đứng đầu quần chúng, thì duy có Ngài mà thôi. Bởi chính mình Ngài vào Thượng Nghị Viện Chính Phủ Pháp buổi nọ duy có một mình Ngài trong Nam Kỳ.

Ấy vậy, nếu như buổi nọ Ngài muốn giong ruổi trên con đường danh lợi, thì cái công danh phú quý của Ngài vẫn ở trong tay, không xin ai, không hạ mình mà bợ đỡ hay nịnh hót ai đặng danh lợi ấy.

Danh lợi sở hữu vì tài đức của Ngài, Bần Đạo có thể nói Ngài là một người sống trong trưởng giả đó vậy, nhưng mà dòm trước mắt thấy cả đồng bào thống khổ, cái lẽ bất công nó cứ chàng ràng trước mắt của Ngài hoài, cho nên thật sự ra, dầu ngồi trên địa vị cao kỳ sang trọng bao nhiêu đi nữa Ngài không buổi nào thỏa thích được, đến nỗi Ngài tranh đấu, tranh đấu thấy mình bất lực muốn chết đi cho rồi, muốn tự vận nên hút á phiện đặng chết cho sớm, cho khuất con mắt, tránh cái thống khổ của dân đã chịu. Nhưng cái người mà Đức Chí Tôn đã dành để đó, dễ gì chết một cách dễ dàng như thế. Nên Ngài sống, Ngài sống cho đến khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo. Một lời Đức Chí Tôn phán thì cả cái sang trọng phú quý của Ngài, Ngài coi như bọt nước, nội một ngày cả sự nghiệp đều để cho thiên hạ. Ngài bán cả của cải ấy, Ngài ra với một mình không. Buổi nọ hút một ngày năm mười đồng bạc, mà bỏ hút rồi có một ngày ăn trường trai kể từ ngày Đức Chí Tôn đến, chính mình Bần Đạo làm chứng cho vậy.

Cái đức tin phi thường đã thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy có hai người: Một Đức Quyền Giáo Tông, hai Đức Cao Thượng Phẩm mà thôi. Phải chăng do nơi khối đức tin vô đối ấy đã làm cho Đạo Cao Đài nên hình như ngày hôm nay.

Một cái sứ mạng khó khăn nhứt là buổi nọ Đức Chí Tôn đến, Bần Đạo nhớ lại thiên hạ trở thành vô Đạo, cả toàn thể quốc dân giong ruổi theo duy vật, văn minh đương thời bây giờ, quên hẳn cả lễ nghi phong hóa nước nhà, làm cho sống lại chẳng phải là một điều dễ, phải chiều chuộng, bợ đỡ, nâng niu, chẳng khác nào bà mẹ coi từ vú sữa, mớm cơm cho con thơ dại, mới tượng hình của Đạo ngày hôm nay. Cái khó khăn hơn hết Bần Đạo nói có bằng chứng, chính mình Đức Chí Tôn đến mở Đạo Ngài than khó lắm. Chính mình Ngài là Đức Chí Tôn quyền năng vô đối mà còn than về cái khó đó. Bần Đạo để bằng cớ hiển nhiên cho con cái Đức Chí Tôn ngó thấy, Đại Từ Phụ đã làm hai bài thi than buổi nọ như vầy:

"Cao Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.
Chiều lụy đòi phen, xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cường khan".

"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy".

Bằng cớ hiển nhiên đó chính mình Đức Chí Tôn còn than, chúng ta nhớ lại, buổi nọ cái sứ mạng thiêng liêng của Đức Quyền Giáo Tông và của Đức Cao Thượng Phẩm nó khó khăn dường nào. Thật sự phải chìu luỵ về tâm hồn con người buổi nọ một cách không thể tưởng tượng được. Bần Đạo thú thật, buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cũng vậy, chỉ có ba anh em ôm sứ mạng thiêng liêng ấy nơi mình. Lãnh sứ mạng khó khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài cũng như Đạo Phật hay Minh Sư, Minh Đường, đáo để, cạo đầu vô chùa làm thầy Chùa tu là cùng, tưởng dễ dàng lắm, kiếp sanh nơi thời bấy giờ đã khổ não tâm hồn và xác thịt lệ thuộc như thế, Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời gian ngắn ngủi không bao lâu thấy cả con cái của Ngài, đến cùng Ngài, cả muôn, cả triệu, chừng đó mới biết sợ sệt. Chính mình buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông ra hậu điện, Người hỏi Bần Đạo: Đại Từ Phụ làm cái gì vậy? Thấy thiên hạ vào cửa Đạo quá chừng Đại Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy? Chính mình Bần Đạo cũng không biết, biết đâu Ông làm gì, Ông đến Ông thâu Tín đồ nhiều quá ảnh than rằng: Tới đâu hay tới đó chớ biết sao!

Kể từ đó bị khảo miết Đức Cao Thượng Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng nằm trên giường bệnh cho tới hơi thở cuối cùng, không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục nhã. Cái luật thiên nhiên không có điều gì xin xỏ điều gì cũng phải mua chuộc.

Bần Đạo đã quyết rồi xin để Bần Đạo kết luận bởi mua chuộc với cái khảo đảo nhục nhã của đời, để bảo trọng danh giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang trọng vô đối.

Chúng ta thấy gương rõ ràng Đức Phật Tổ là Chúa cả linh hồn của nhơn loại bên cõi Á Đông nầy. Đức Chúa Jésus Nazareth hay Christ Chúa của các linh hồn bên cõi Âu Châu. Hai người ấy một người thì đi ăn xin, cầm Bình Bát đi ăn xin, không phải ăn xin cho Ngài, ăn xin cho kẻ đói khó nghèo nàn đem về cấp Cô Độc Viện, đặng nuôi dưỡng họ, một đời không có cái áo lành. Ngài đi mót máy đồ rách rưới, rồi chầm khiếu, gặp người nào lạnh cởi ra đưa cho bận, ở trần mãi thôi. Đức Chúa Jésus Nazareth (Christ) không có được hai cái áo, không có chỗ nương thân Ông than một câu, than nghe thảm thiết làm sao: Con chim nó có cái ổ, con chồn nó có cái hang, mà con người này không biết chỗ nào gối đầu của mình!

Hai người ấy mà cái nghiệp họ đã đào tạo nơi thế gian này, một người hai ngàn năm, một người hai ngàn năm trăm năm vẫn còn tồn tại mãi thôi. Biết bao nhiêu cơ nghiệp Đế Vương, biết bao nhiêu người giàu sang ở dưới mặt thế gian này, nào là đài Tần, đảnh Hớn cả thảy đều tiêu tan, chúng ta không còn ngó thấy một dấu tích gì lưu lại. Mà hai người nghèo ấy, hai người bần hàn ấy, một người hai ngàn năm, một người hai ngàn năm trăm năm, đại nghiệp họ vẫn còn tồn tại.

Một điều Bần Đạo buồn cười hơn hết, ở ngoài đời dùng cường lực nào là bom nguyên tử, nào là gươm đao, súng đồng mọi thứ để tàn sát thiên hạ đặng làm bá chủ, đặng giành bá chủ không phải dễ làm. Bởi vì họ muốn làm bá chủ của thiên hạ nhưng không được đâu, thiên hạ phản đối luôn, chống lại cường lực mãi thôi, chẳng buổi nào ngừng.

Mới đây con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy Xá Lợi Phật, tức nhiên xương của Đức Thích Ca buổi nọ thiêu còn sót lại miếng nhỏ nhỏ để lại phân phát các Chùa ở bên Ấn Độ qua tới bên Ấn Độ Dương một miếng có một chút, đem Xá Lợi Phật bằng đầu mũi kim chớ có lớn đâu, thiên hạ hoan nghinh cả Xá Lợi Phật, không có súng, không ai ràng buộc, không đem súng mà họ theo, cả thảy đều cúi đầu không phải cầm súng mà người ta coi mạnh phi thường không thể gì tưởng tượng được. Cái Ông mà nghèo nàn đệ nhất hơn hết, bây giờ thiên hạ thấy hình trái tim của ông cháy lửa ra, hễ ngó thấy hình trái tim thì cúi đầu hết thảy, mà cả toàn thể các liệt cường sắc dân Âu Châu cho tới Á Đông 600 triệu Tín đồ ngó trái tim đời đời không khi nào mỏi.

Đức Quyền Giáo Tông đã khéo lựa, Ngài bỏ cái ngôi vị Thượng Nghị Viện của Ngài, chỉ theo Đức Chí Tôn, nên người ta gọi Ông già tu Tiên (gọi theo lối kiêu ngạo) mà ngày hôm nay địa vị nầy Bần Đạo nói thật nó còn đời đời kiếp kiếp, cái danh giá của Ngài không bao giờ tiêu hủy. Cao Đài còn, danh giá của Ngài vẫn còn, công nghiệp của Ngài đối với nhân loại vẫn còn. Ngộ nghĩnh thay! Cả thiên hạ hạng nhứt là quốc dân Việt Nam đã nô lệ về phần xác, Đức Chí Tôn cho một người Tướng Soái đến đặng giải thoát họ, quí trọng hơn hết trong kiếp sống của họ là giải thoát về phần hồn. Nắm về phần hồn làm chúa thiên hạ, ngộ nghĩnh thay! Tượng hình làm chúa trong đó tay Đức Quyền Giáo Tông là tay thứ nhứt hơn hết. Sao, giờ phút này, Bần Đạo ngó lại phải để câu hỏi: Nền Đạo Cao Đài ngày kia sẽ tạo nền văn minh như thế nào? Thật vậy nền văn minh sẽ ra sao?

Bần Đạo nói hai vị Giáo Chủ kia đã mang thi phàm xác tục, mà họ còn để lại hai gương đẹp đẽ vô biên ấy, họ tạo Tân dân, họ đã đến đây phương kế hiệp thành chữ "Khí" của Đức Chí Tôn đến giữa Thánh đức của Ngài, rồi giờ phút nầy Đức Chí Tôn đến để nơi mặt thế gian này nền Tôn Giáo Cao Đài, thì nền văn minh ấy thế nào con cái của Đức Chí Tôn đoán biết.

Q. 5/33: NỀN TÔN GIÁO CỦA ĐỨC CHÍ TÔN LẠI THÊM MỘT TUỔI NỮA, TỨC LÀ 28 TUỔI.
Đền Thánh đêm 14 /10 năm Nhâm Thìn (1952)

Kể từ đêm nay nền chơn giáo của Đức Chí Tôn lại thêm một tuổi nữa, tức nhiên đã đặng 28 tuổi. Con đường viễn vọng trên 28 năm ngó lại như giấc chiêm bao ngắn ngủi.

Chúng ta cũng nên mừng, một nền chơn giáo mới mở 28 năm, mà độ rỗi cả các chơn linh về Đạo về Đời như thế này, cũng gọi nó là may mắn lắm vậy. Khi Đức Chí Tôn đến chính mình Ngài nói: Hễ Đạo mở trể một ngày, tức nhiên hại cho chúng sanh không biết mấy. Đại Từ Phụ nói: Một con đường của chúng ta đi, cái năng lực phàm của ta nơi cõi trần nầy nhiều điều gay trở khó khăn, mà điều ấy có lẽ Đức Chí Tôn, tức nhiên Đại Từ Phụ đã chung chịu cùng chúng ta đó vậy. Lại nữa đêm nay là đêm chúng ta kỷ niệm các bạn Thiêng liêng của chúng ta, dầu các chơn linh ấy ở nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống hay là các bạn đồng khổ với chúng ta đã quy hồi cựu vị của họ.

Bần Đạo thừa dịp kỷ niệm của các Đẳng linh hồn, thuyết một vấn đề, Bần Đạo nói trước, hạng nhứt bên phái nữ, nghe câu chuyện rùng rợn đừng về nhớ giựt mình giựt mẩy đa nghe.

Trước khi mở Hội Thánh, Bần Đạo có dịp hội đàm cùng Đức Lý Giáo Tông, Ngài chỉ cho biết trước, kết liễu của Hội Thánh như thế nào, nhưng điều ấy tưởng cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng không nên tìm hiểu điều tọc mạch đó làm gì, chuyện tới nó sẽ tới.

Luôn dịp, luận về một vấn đề: Nó thắc mắc làm cho Bần Đạo để ý hơn hết. Mới rồi đây, các báo cáo cả toàn cầu mới đăng cái tin, nói tại Mỹ Quốc có một nơi nào đó đĩa bay rớt xuống, những tay hiếu kỳ muốn đi tìm cho đặng, coi đĩa bay như thế nào? Họ lên núi cao kia, xa thẳm trong rừng già, họ tìm đĩa bay rớt xuống, vô trỏng không thấy gì hết, chỉ thấy xuất hiện một kỳ nhân lạ lùng, nghe nói mà rùng rợn: Con người gì mà ước độ 19 thước bề cao, 5 thước bề ngang, mình xanh lè, hào quang xanh chiếu diệu ra, con mắt đỏ như huyết, chiếu ra như đèn pha xe hơi. Người ta thấy dị hình, dị dạng, bắt sợ hãi lắm, trong mình người đó xuất ra hơi khí, cái mùi lạ lùng lắm, giống như thể mùi kim khí cháy vậy; nghe như mùi xe hơi cháy ra mùi khét. Khi ấy làm cho người đó chịu không nổi, đến khi về phải ói mữa, phải đau. Trong số ấy cũng có người phụ nữ cũng tọc mạch vậy, theo bên phái nam là bảy người, có một người phụ nữ làm chứng chắc rằng: Dị hợm lắm có bốn chân, mấy người kia không chắc 4 chân hay 2 chân. Duy có người can đảm hơn hết ở lại đặng coi, người ta đã chạy hết mà ở lại coi cho được đến khi người Dị Nhân đó đi lại gần thì hoảng la ré lên phát chạy, sau khi về bị đau gần chết.

Bần Đạo nghe chuyện đó dị kỳ lắm mới vấn nạn Đức Lý Giáo Tông, hỏi cái người đó là gì?

Đức Lý Giáo Tông trả lời: Thần chớ gì. Té ra từ thử đến giờ họ vô Đạo, không kể Trời, Đất, Thánh, Thần, Tiên, Phật gì hết, nên Đức Chí Tôn lại sai một chơn linh, một lấy năng lực nguyên tử mà họ thí nghiệm, đặng tạo hình hài của vị Thiên Thần đó cho Đời ngó thấy, nhứt là lời nói của Đức Chí Tôn cho con cái trong Đạo Cao Đài của Ngài sẽ còn thấy nhiều cái dị nữa.

Bần Đạo hỏi vậy chớ Đức Chí Tôn cho ngó thấy điều đó để làm gì?

Đức Lý Giáo Tông nói Đại Từ Phụ cho ngó thấy đặng nhơn loại hay rằng: Nếu họ không trở lại Thiên tánh của họ, không tự mình lấy bổn nguyên sanh hóa của Tạo Đoan, tức nhiên không lấy căn bản của Đại Từ Phụ mà làm mực thước, làm tinh thần, làm năng lực thì nhân loại ngày kia sẽ tiêu diệt và thay đổi cả xác thịt, hình thể nhân loại nơi mặt địa cầu nầy thành một hình thể khác hẳn bây giờ.

Bần Đạo mới hỏi cái thi thể của người Dị Nhân đó lấy năng lực nguyên tử tạo hình, cái sự làm đó có phải là do quyền năng vô lượng của các Đấng Thiêng Liêng mới làm được, hay là ai cũng có thể làm được.

Đức Lý nói: Các chơn linh nơi Càn Khôn Vũ Trụ đều làm được hết, chư Hiền Hữu một ngày kia cũng có thể làm được, bất quá vị đó là một chơn linh Thần vị mà thôi. Hiền Hữu đừng tưởng rằng: Loài người dị hình dị trạng vậy mà thôi. Trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, nhơn loại ở Càn Khôn Vũ Trụ đều tạo hình hài bằng ngũ hành hết.
- Nói vậy cái vị Thiên Thần nói đó, tạo hình bằng kim khí. Còn chúng tôi ở quả địa cầu 68 tạo hình hài bằng gì?

Đức Lý nói: Chư Hiền Hữu là Thổ Hình.
- Còn chỗ nào có hình khác, khác nữa không?

Đức Lý nói: Chư Hiền Hữu ở thế gian này, thấy sống trăm năm, cầu ước cho trường sanh bất tử, nếu Chư Hiền Hữu đầu kiếp lên ngôi Hỏa Tinh kia các người có thể sống đôi ba ngàn năm, bởi vì nó thuộc về Hỏa, cho nên nó không bị tiêu diệt. Mà sống đây có nhiều người, sự sống đó biết bao nhiêu vì sống lâu quá!
- Cái thân thể vậy mà sống khổ cái nổi gì?
- Chư Hiền Hữu biết rằng: Ngũ hành tương khắc với nhau, hễ có thân nầy thì có thân kia, tương khắc với nhau làm đau đớn, khổ não chớ vui sướng nỗi gì.

Thành thử luận rồi Bần Đạo cũng xét mình với cái Thổ hình của chúng ta, nghĩ ra mình hạnh phúc hơn hết. Nếu sự thật có thi hài nơi Hỏa Tinh dầu sống trăm năm trong Thổ hình còn hạnh phúc hơn họ nhiều. Trên kia có nhiều Đấng Chơn linh Phật thể của mình, trong Ngũ hành họ chịu đau đớn khổ não hơn mình. Mang một kiếp sanh dầu có quyền năng thế nào thì cái khổ não ấy chẳng hề khi nào thoát khỏi, dầu có thoát khỏi đặng hay chăng là nhờ cái quyền năng của Đức Chí Tôn cho ta đặng sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

Q. 5/34: NĂNG LỰC PHI THƯỜNG CỦA ĐỨC TIN.
Đền Thánh đêm 14 /11 năm Nhâm Thìn (1952)

Trước khi giảng Đạo Bần Đạo để lời khen cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn hành lễ rất nghiêm chỉnh, nhứt là tụng kinh có niêm luật qui tắc.

Đã mấy kỳ đàn rồi, Bần Đạo không có đi cúng, hôm nay dự lễ nầy có thể nói làm cho Bần Đạo hết đau.

Đêm nay Bần Đạo giảng về năng lực phi thường của đức tin trên con đường chí chơn chí Thánh, chí là khối thương yêu, Bần Đạo đã giảng về đức tin nhiều lần rồi, và cũng đã giảng cái năng lực của khối thương yêu như thế nào rồi.

Đêm nay Bần Đạo chỉ giảng về năng lực phi thường của đức tin hay là cái năng lực huyền diệu của đức tin và khối thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn. Chúng ta đã chán biết cũng như Đức Phật Thích Ca khi đạt đặng bí pháp mà trước kia chưa có vị Phật nào đạt đặng là nhờ Ngài đã tìm hiểu quả quyết. Cái đức tin của Ngài nó mạnh mẽ phi thường và Ngài dùng nó để làm cái thuyết vô nhơn vô quả.

Nếu có nhơn quả, thì tức nhiên con người phải chịu trong Tứ Khổ, ấy là vì cái căn quả đó vậy, mà muốn đạt đặng vô sanh vô tử, tức nhiên phải đạt đặng năng lực thương yêu giải thoát cho mình, phải diệt quả. Ngài đã quả quyết, rồi Ngài ngó lộn lại Vạn Linh sanh chúng đang chìm đắm trong khổ hải, chịu trong Tứ Khổ là "Sanh, Lão, Bệnh, Tử" nên Ngài đem cái thuyết thương yêu vô tận của Ngài truyền bá cho toàn thể nhơn sanh noi theo cái chí chơn chí Thánh ấy, đặng họ đạt bí pháp của họ, có phải đức tin của Ngài mạnh mẽ chăng? Ngài để đức tin trên khối thương yêu của Ngài và Đạo của Ngài đã 2.500 năm mà vẫn còn tồn tại bền vững đến ngày nay.

Đức Lão Tử khi đạt được cơ quan vô đối của Ngài tức nhiên Ngài lấy chí chơn chí Thánh để hiểu trong kiếp sanh của chúng ta và nếu chúng ta có phương thế tương liên với cả chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ để làm khối thương yêu duy nhứt, chúng ta mới có thể siêu thoát đặng, chúng ta chớ tưởng sự ấy làm không được, chúng ta sẽ đoạt đặng mà chớ nếu đoạt đặng quyền vô sanh, vô tử thì sẽ đi đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Bởi cớ cho nên Ngài để cái luật vô tử nầy cho nhơn loại tìm hiểu mà đạt Đạo. Cũng như Đức Khổng Phu Tử, Ngài thấy nhơn loại đã phế vong Đạo Nhơn Luân của mình, nên mới tương tàn, tương sát với nhau, như hồi Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ, Ngài lấy Đạo Nhơn Luân làm căn bản, đặng cứu Đời gọi là lấy Đạo Nhơn Luân cứu thế. Cũng như ngày nay, Đức Chí Tôn quả quyết rằng: Cái thuyết ấy nó thuộc về năng lực thương yêu, nên Đức Chí Tôn mới đem tạo nền Chơn giáo của Ngài. Ngài lấy Đạo Nho làm căn bản, lấy Đạo Chơn Luân của nhơn loại làm phương cứu cánh, để cứu khổ cho loài người, cũng như Đức Lão Tử trước kia đó vậy.

Đức Chí Tôn ngày nay cũng thế, chỉ vì lòng thương yêu nhơn loại vô tận, nên Ngài tìm cách giảng cái thuyết ấy, truyền ra cho cả nhơn sanh đều hưởng ứng theo, để họ biết cái sanh tử của họ, đặng họ tự giác, đó là phương cứu thế vậy.

Tưởng cả chúng sanh Chức Sắc trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn nam, nữ cũng biết cái đức tin ấy là ngọn đuốc Thiêng Liêng, còn lòng thương yêu của ta là khối lửa Tam Muội để đốt cây đuốc ấy cho sáng láng, cho rực rỡ, đặng dìu đường cho Vạn Linh sanh chúng.

Chúng ta đã ngó thấy cái quyền năng ấy trong một đại gia đình nên hư đều ngó theo ngọn đuốc Thiêng Liêng đó, đặng đi đến con đường vinh quang vô đối của Đức Chí Tôn đã rọi sáng, đã dành để cho chúng ta hồi ban sơ.

Bần Đạo nói quả quyết mỗi sự khó khăn gay trở, mọi sự khổ hạnh, mà Thánh Thể Đức Chí Tôn đã chịu mà có thể thắng được mọi trở lực là nhờ khối thương yêu của Đức Chí Tôn đã dành để cho chúng ta, nếu chúng ta lấy khối thương yêu cứng rắn ấy làm căn bản, thì không có quyền năng nào dưới thế gian nầy làm cho khối ấy lay chuyển, tiêu diệt được.

Q. 5/35: LƯỢC GIẢI VỀ NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO: PHẬT ĐẠO, TIÊN ĐẠO, THÁNH ĐẠO, THẦN ĐẠO VÀ NHƠN ĐẠO.
Đền Thánh, ngày 15 /12 năm Nhâm Thìn (1952)

Đức SHIĐARTA (Cakya Mouni) nghĩa là người ở xứ Cakya, lấy lòng nhân bao trùm thiên hạ, tầm thêm đặng chơn lý sanh khổ, mà lập thành Phật Giáo, nên dùng đoạn trái oan trừ nghiệt chướng, đặng làm phương giải thoát luân hồi.

Ấy là giữa chốn khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh từ bi tự tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào ngạt.

Ngài nhờ Lão, Bịnh, Tử Khổ, giác minh bổn thiện mới đạt phương cứu khổ loài người.

Đức Lý Lão Đam (Lão Tử) là Thái Thượng Lão Quân, vì lòng nhân phổ độ thế gian nên tìm đặng chơn lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật lụy hình, định tự chủ kỳ tâm là diệu pháp, lại lấy phép an nhàn làm cơ thoát tục.

Ấy đời là cảnh sầu thảm khó khăn, mà Ngài đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào Ngài là người đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt.

Ngài nhờ quyền vật dục trong trường công danh phú quí của lục quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh "bổn thiện" của Ngài, nên Ngài ái dân sanh, mới truyền phương thoát khổ.

Đức Chúa Jésus de Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân cứu thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn bác ái nhân sanh, đặng thay mặt Chí Tôn khai hóa, xem phổ tế chúng sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật mạng sanh hành thiện Đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng chân lý để răn đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên Cảnh.

Ngày hằng dạy rằng: Cái khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ cơ thoát tục.

Ấy là đời đang giả dối mà Ngài đem chân thật đặng khử trừ, chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà Ngài đờn tiếng thanh tao hòa nhã.
1/- Ngài nhờ Đạo luật của Môi-sen (Moise), thế kỷ ấy quyền hành biến đổi nên sanh nhiều chi Tả Đạo Bàn Môn, lại thế lực của (Cai phe) về bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ buộc dân Do Thái (Juifs) nhiều lẽ nên tà. Cả mê tín của dân (Giu Đê) buổi ấy luận không cùng.
2/- Quyền luật đời nước La Mã (Rome) của César nghiêm khắc khốc hại sinh linh đồ thán.
Những nguyên ủy khai minh "Bổn thiện" của Ngài làm cho Ngài phải cam tâm gánh vác cả sự đau đớn của loài người, cũng bởi ái tuất thương sanh chịu tử tội đặng truyền gương thọ khổ.

Khương Thái Công gọi là (Thái Công Vọng) hay là Khương Tử Nha vâng lịnh Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn Sơn lấy Phong Thần Bảng đến giúp nghiệp Châu, cũng vì nhơn sanh mà khai minh chơn lý của quyền hành thưởng phạt thiêng liêng giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn, tôn sùng trung liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân ấy là dụng phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng nạn ác đã đào tạo kiếp sống của con người, chẳng trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ quyền năng cả xác cùng hồn. Thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo lại còn Thần minh giám sát. Triết lý Thần linh nghĩa là: Quyền phép của lương tâm, do đó mà lập thành căn bản và năng lực vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng bổn nguyên Thần pháp đặng nảy sanh.

Ôi! Cũng vì cớ quả nhiên thật sự bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.

Tuy vân, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết tùng lịnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Ngươn Thỉ Thiên Tôn, thì công ấy cũng đủ làm đầu Thần giáo.

Đôi (Đời?)(1*) khi ấy dường như đang bị phát bối ung thư, chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.

Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Châu vua Văn Vương và Võ Vương dục khai "bổn thiện" nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực giúp đạo đức, khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước lửa, tuy đôi bên Thương, Châu khác giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong tước phẩm.

Đức Khổng Phu Tử tự là Trọng Ni, cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của Đời nên lo trù hoạch phương châm giảm ác, mới đạt đặng triết lý chí thiện là cơ quan bảo thế, Ngài đắc thông nên tự nhiên biết rằng cơ tạo nghĩa là Trời Đất và vạn vật hữu hình, phải tấn hoá lần lần cho tận con đường chí thiện. Người thì tận thiện, vật thì tận mỹ gọi là Đạo. Ngài chỉnh chiếu theo sự tự nhiên hành động tâm lý của người đời đặng làm chuẩn thằng đoán xét, ngoài phép an tâm luyện tánh, Ngài không nhìn phương pháp nào tự giác đặng "bổn thiện" và kềm chế lấy điểm lương tâm, nên không chịu tin theo lý thuyết mị thuật huyền vi mà trí khôn ngoan của người không thấu đáo. Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản kháng thế nào, cũng tùy theo một chủ quyền chính thể, hoặc do nơi đông tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm chúa Đời, cầm luật pháp trị bá tánh.

Ngài cho chánh trị hành tàng, của xác thịt thế nào thì chánh trị tinh thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng trên các chủ quyền trị thế, có quyền vô vi của Đấng Chí Tôn, Ngài gọi là Nhứt Đại nên viết Thiên () nắm trong phép thiêng liêng thưởng phạt, Đấng Chí Tôn ấy chẳng phải có quyền năng về phần hồn mà thôi, lại cũng đặng oai linh phần xác, lý thuyết Trời và Người đồng trị nảy sanh ra trí đó.

Cơ nghiệp Văn Vương qua đến Đông Châu là cùng vận , mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp quốc đem luật đặng trị bình, lấy nghĩa nhân đặng khử bạo.

Ngài hiểu rõ rằng quyền hành chánh trị chia ra 2 phần:
1/ - Sanh hoạt của thi hài.
2/ - Biến hóa về tâm lý.

Nên Ngài cho luật pháp là cơ quan độc thiện để trị an thiên hạ, còn đạo nhơn nghĩa đủ thế kềm thúc tánh đức người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn hưng.

Thương thay một Đấng Chí Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất vọng, bởi gặp buổi đời quá bạo tàn, nên cây quạt và mảnh mền là đạo nhơn nghĩa của Ngài không đủ thế quạt nồng đắp lạnh, Ngài phải thối bước về quê, cam phận thiệt thòi trọn đời ngồi dạy học.

Bài tự thán "Chi Lan" của Ngài ai đọc đến cũng phải rơi châu đổ lụy.

May thay! Qua đến đời Khổng Cấp (Tử Tư) là đích tôn của Ngài dạy đặng một trang môn đệ là Mạnh Tử, rất nên bậc hiền triết nối chí Thánh nhơn, cố mở mang Đại học.

Triết lý của Mạnh Tử là tại Minh Đức tại Tân Dân tại chỉ ư Chí Thiện.

Người đi châu lưu nước nầy qua nước nọ, lấy nhơn nghĩa đặng khuyến khích nhơn tâm, cảm hóa các chư hầu, chỉnh đốn chế chuyên Vương Đạo.

Thật ra các xã hội Á Đông nầy đã nhờ ảnh hưởng công nghiệp của Người lắm lắm.

Đời Đông Châu sôi nổi, giặc giả chiến tranh cả ác hành, sử chép không cùng, mà qua đến đời của Người thì trở lại như xưa, tin dùng "bổn thiện" thật tài chính trị của Ngài rất nên siêu việt.

Đức Khổng Phu tử cũng nhờ ác hành Đông Châu Liệt Quốc trong trường chiến đấu đua tranh, giành quyền lợi, mà giáo minh "bổn thiện" của Ngài mới đắc pháp cao thâm, chí thiện.

Những triết lý Thánh Hiền, dầu cổ kim cũng thế, cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong thả trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục nguyên bổn thiện của mình, các Tôn giáo gọi tên là Đạo.

Ngày nào "bổn thiện" đã phát minh, thì cảm hoá chúng sanh rộng thế. Hèn thì làm cho một gia đình thiện hành gia pháp, trọng thì giúp quốc gia xã hội thiện hành quốc chánh. Còn tối đại thì làm cho toàn thiên hạ đặng thiện giao hiệp chủng đại đồng.

Q. 5/36: LỄ RƯỚC CHƯ THÁNH ĐÁO TÂN NIÊN.
Đền Thánh đêm 30 /12 năm Nhâm thìn (1953)

Thưa Chư Chức Sắc Thiên phong và toàn cả con cái của Đức Chí Tôn nam nữ, xin ngồi chỉnh tề tịnh tâm đặng Bần Đạo dâng Thần cho Đức Chí Tôn đến ban phép lành cho toàn thể (ngồi xuống hết sau khi ban phép lành).

Bần Đạo nhắc lộn lại, khi Đức Chí Tôn đến mở đạo năm Bính Dần tại chùa Gò Kén, đêm giao thừa 30 tháng chạp Bính Dần, sáng ngày mồng một Đinh Mão. Đức Chí Tôn giáng cho Bần Đạo và Đức Cao Thượng Phẩm bảo đứng dậy giơ cần cơ ra ngay chính giữa, dặn các con cái của Đức Chí Tôn mỗi người phải chun qua cần cơ đó. Cái ơn Thiêng Liêng ấy không người nào mà Đức Chí Tôn không có ban cho. Con cái của Ngài giờ phúc nầy cũng vậy.

Mỗi năm đêm nay là đêm trọng hệ hơn hết. Bần Đạo dám chắc và quả quyết giờ phút này là giờ phút tối yếu tối trọng hơn tất cả. Vì cớ cho nên Bần Đạo dâng Thần cho Đức Chí Tôn đặng Ngài lấy hình thể hữu vi ấy mà ban ơn cho con cái của Ngài.

Bần Đạo có giảng "Tam Bửu" đã nhiều phen rồi, cái Bí Pháp huyền diệu vô biên ấy nếu toàn thể con cái của Ngài dầu cho đứng trong phần tử Thánh Thể của Ngài lớn nhỏ cũng vậy, toàn cả con cái của Ngài, tức nhiên Thánh Thể của Ngài tại thế này đó vậy.

Nếu cả thảy khi dâng "Tinh" tức nhiên dâng cái xác thịt và cái sống của mình cho Đức Chí Tôn, chỉ nhờ Đức Chí Tôn ban huyền diệu mới độ tận chúng sanh được, nếu cả thảy triệu người đều nhứt tâm nhứt đức thì dầu cái thân hình và kiếp sống của mình có khổ sở thì cái cơ cứu khổ chẳng hề khi nào mà không làm được.

Tiếc thay! Con cái của Ngài chưa trọn tâm đức, nên cơ giải khổ của nhơn loại chưa thực hiện đặng.

Nói về"Khí" tức nhiên cả trí óc khôn ngoan của chúng ta nếu toàn con cái của Ngài cứ lo vật chất hữu hình, nào quyền lợi, nào thân danh dưới thế gian nầy nó đều là mộng ảo; thì kiếp sống ấy là vô vị, chúng ta đã thấy câu "Mộng huyễn bào ảnh" nên Đức Chí Tôn có nói "Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ" cái tâm của mình đã bị cái hình xô đẩy vào con đường trụy lạc, thì không mong gì thoát khỏi kiếp luân hồi của Đức Chí Tôn đã định; vậy cả thảy dâng"Khí" tức là trí óc của mình đó.

Bần Đạo dám nói chắc: Cái thống khổ tâm hồn con người nơi mặt thế gian này chúng ta có phương pháp, có quyền năng an ủi được. Bần Đạo nói thiệt chúng ta sống là do cái hồn mà sống, chớ cái xác là vật tạm để cho chúng ta mượn đặng trả quả kiếp đó thôi. Còn các bạn của chúng ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng sống có hồn mà không xác là vì họ đã thoát kiếp trần rồi.

Bây giờ họ ở trên ấy, họ sẽ đến cái cơ Thiêng Liêng vận chuyển Pháp luân không cùng tận đó, rồi họ ở ngôi vị ấy chuyển luân mãi mãi, còn nơi mặt địa cầu này các đẳng linh hồn đồng chung sống với nhơn loại, nhưng chỉ cách nhau ở chỗ vô hình và hữu hình mà thôi.

Nếu toàn thể con cái Đức Chí Tôn trụ hồn lại cả thảy muôn triệu hay là một ngày kia toàn nơi mặt địa cầu này, mặt thế gian này làm một, thì cái khối quyền năng vạn linh của thiên hạ nơi mặt địa cầu nó sẽ hiện tượng, mà có hiện tượng được là họ phải thọ khổ, thắng khổ, rồi giải khổ thì mới mong đoạt vị được.

Chừng ấy chẳng phải đại đồng thiên hạ mà thôi, lại còn đại đồng tất cả Càn Khôn vũ trụ nữa mà chớ.

Q. 6/1-01: Trong dịp chúc xuân tại Giáo Tông Đường.
Phần 1: Năm Quý Tỵ (1953)
Năm Quý Tỵ - Giáp Ngọ - Ất Mùi
(1953 - 1954 - 1955)

Lời đáp từ của ĐỨC HỘ PHÁP tại Giáo Tông Đường trong dịp lễ các Cơ quan chúc xuân Đức Ngài. (Ngày 1-1 Quý Tỵ)

Bần Đạo lấy làm cảm khích được nghe mấy lời tâm huyết của toàn các cơ quan Chánh Trị Đạo đã chúc thọ cho Bần Đạo.

Hồi tưởng lại khi Bần Đạo để bước trở về cố quốc sau 5 năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, thì cũng tưởng rồi cái vận mạng của nước Việt Nam, có lẽ chờ đến ngày về của Bần Đạo nó sẽ đặng hoàn tất, và đem sở năng hạnh phúc đặng thành tựu, thì cả tinh thần anh dũng của toàn quốc dân đứng dậy phá hủy xiềng xích lệ thuộc, điều ấy Bần Đạo đã nghe ra từ khi còn ở nơi Hải Đảo.

Ôi thôi! Trái lại khi Bần Đạo bước chân trở về thì đã ngó thấy cái chí quật cường và lòng phục quốc chẳng có năng lực nào khác hơn là năng lực của Quân Đội Cao Đài.

Thưa cùng các Cơ Quan Chính Trị Đạo, Hành Chánh, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Quân Đội, Bần Đạo xin cả toàn thể đứng yên lặng trong 5 phút đồng hồ để tưởng niệm đến các Thánh Tử Đạo, vì vận mạng của nước nhà, vì chánh thể của nền chơn giáo đã hy sinh đặng làm sứ mạng Thiêng Liêng của mình bằng xương máu. Bần Đạo xin cả thảy đều tịnh tâm cầu nguyện.

Các bạn Hiệp Thiên Đài, nhứt là Cao Tiếp Đạo những lời châu ngọc của Hiền Hữu nó đã ăn sâu trong tâm hồn của Bần Đạo thật vậy, nếu kiếp sanh nầy may duyên nó có thể nói rằng: Kiếp sanh tại thế nầy nó là con vật, mà con vật ấy có thể hữu dụng được cũng là hạnh phúc cho kiếp sanh của Bần Đạo đó vậy.

Trên nhờ ơn Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu thương tưởng, dưới nhờ toàn thể con cái của Ngài nam cũng vậy, nữ cũng vậy. Bần Đạo nghĩ lại chẳng còn phần thưởng Thiêng Liêng nào hơn, cả bao nhiêu lời cầu chúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã trả công nghiệp cho Bần Đạo với một giá rất mắc mà không hay đó vậy.

Các bạn Hiệp Thiên Đài, các người cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đạo mà Đức Chí Tôn đã để tại nơi mặt thế nầy, hạnh phúc hay đau khổ của toàn thể nhơn loại một ngày kia đều mơ vọng trên mặt cân của Chư Hiền Hữu. Bần Đạo xin nhắc lại lời yếu thiết của Đức Chí Tôn đã hòa ước với chúng ta là: "Công bình" mà công bình ấy Bần Đạo đã gởi nơi Hiệp Thiên Đài đó vậy.

Hành Chánh Bần Đạo để lời cám ơn từ khi Bần Đạo để bước về cố quốc tới giờ thì năng lực của toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn nam nữ lưỡng phái, nên giờ phút nầy Bần Đạo đủ năng lực, đủ quyền hành đặng làm trách vụ Thiêng Liêng của mình một cách mạnh mẽ oai quyền, Bần Đạo để lời cám ơn và cầu chúc cho Đức Chí Tôn ban khiếu huệ quang cho toàn thể nam nữ thấu đáo cho đặng Thánh ý của Đức Chí Tôn thêm nữa đặng tạo thành cơ quan cứu khổ thiên hạ và tạo hạnh phúc cho đồng bào quốc dân Việt Nam tức nhiên là đồng bào của Thánh Thể buổi nầy vậy.

Hội Thánh Đường Nhơn giờ phút nầy trong giai đoạn ngắn ngủi đây Hội Thánh Đường Nhơn sẽ có một trách vụ yếu trọng, Bần Đạo nói tiên tri cho biết đặng sửa soạn lấy mình định phận trước.

Hội Thánh Phước Thiện. Ôi! Nếu Bần Đạo dòm trước mắt thấy một điều đau khổ của chúng sanh chừng nào thì Bần Đạo để hy vọng trong cơ quan ấy hơn hết.

Trải qua một thời gian định quốc đây rồi cái sự thống khổ của toàn Quốc Dân Việt Nam nó sẽ định quyền lực lại nhứt là các chiến sĩ đã hy sinh vì nước họ đã bị bịnh hoạn tật nguyền, đau khổ, nghèo nàn, muốn cứu vãn tương lai ấy đặng đem mãy may hạnh phúc lại cho họ, Bần Đạo chỉ trông mong nơi Phước Thiện mà thôi đó nghe.

Các con chiến sĩ anh dũng Cao Đài, một lần nữa Thầy để lời cám ơn các con.

Trong sáu, bảy năm Thầy đã dìu dẫn các con đi trên đường hy sinh vô bờ bến, hồi tưởng lại nếu các con để tâm bình tỉnh lấy cả đạo đức tranh đấu vì non sông vì Đạo, thì Thầy chắc các con chiến thắng đó vậy, và Bần Đạo dám nói rằng: Lời ấy không phải là lời quá đáng, các con đã đi đủ hai giai đoạn.

Giai đoạn đầu, các con đã tạo thành năng lực cách mạng đã đảo chánh quyền đem cả năng lực chiến đấu của nòi giống Việt Nam, lộn lại mới có một tấn tuồng mạnh mẽ như thế hiện trước mặt Bần Đạo đã ngó thấy cái ngày đã đảo chánh quyền quật cường của nòi giống các con.

Ngày nay nó đã tới giai đoạn phục quốc thì cũng nhờ cuộc đảo chánh quá cường liệt ấy cho nên phục quốc của các con mới liên tiếp mãi, vì cớ nên đoàn anh của các con họ mơ vọng ngày định vận mạng của Tổ Quốc chỉ ở sớm tối đặng thành tựu mà thôi, nhưng tội nghiệp thay! Các đoàn anh mơ vọng ấy họ phải ân hận trong giờ chót của họ.

Vậy Thầy cho các con biết giai đoạn phục quốc đã qua, giai đoạn định quốc đã đến, tức nhiên giai đoạn lập chánh thể nước nhà các con. Nếu nền độc lập nước Việt Nam bền vững hay chăng, Bần Đạo không ngại ngùng không thẹn thuồng nói: Năng lực bảo vệ nền độc lập nước nhà các con được vinh hiển bền bĩ hay không là do nơi năng lực quốc tế mà thôi.

Hạnh phúc thay! Mới thâu hoạch lại nền độc lập đã mất hơn 80 năm mà hôm nay được hơn 40 nước liệt cường nhìn nhận, dầu muốn, dầu không, không có quyền lực nào thâu nền độc lập ấy lại đặng, không có quyền lực nào dang tay phá hủy nó cho đặng, chánh thể lập quốc của các con sẽ tới trong giai đoạn ngắn ngủi đây.

Hôm nay Thầy nói rõ, chắc các con lấy làm lạ, sao đương lúc bình tịnh nầy mà xảy ra một đại cuộc làm đau đớn cả cơ thể các con, các con cứ yên tâm, Thầy giải nghĩa cho các con biết, giai đoạn tới trước rồi Thầy dìu dẫn các con để bước lần đến địa vị cho đúng, đó là phận sự các con phải làm bất quá cả cơ thể Thầy xô các con bước tới một bước mà thôi. Các con đừng tưởng phận sự phục quốc các con là vậy đâu, còn nữa. Thầy sẽ xô các con đi đến mức chánh thể nước nhà và lập phương pháp để bảo vệ nền độc lập của các con được bền vững chớ không có chi khác.

Khi thầy ở Hải Ngoại về, Thầy có giao một tờ hòa ước với kẻ cầm quyền nước Pháp, ở trong đó Thầy nhứt định phải trả từ mũi Cà Mau dĩ chí đến ải Nam Quan lại, tức nhiên Hoàng Đồ đất Việt Nam phải giao dưới quyền lãnh đạo của nhà Vua Bảo Đại là người kế tự cho các Đế Vương ta. Dòng nhà Nguyễn duy có người đó mới có đủ quyền lực ăn nói cùng với Quốc Tế. Vì cớ cho nên ngày về Thầy qua bên Hồng Kông Hương Cảng Thầy đã nói với Ngài, theo mặt luật Quốc Tế thì Hoàng Thượng vẫn còn Hoàng Đế, còn nói với toàn thể Quốc Dân Việt Nam khi Hoàng Thượng thoái vị có nói rằng: Hoàng Thượng để hạnh phúc Quốc Dân trên ngôi báu của Hoàng Thượng "Thiên Tử vô hí ngôn" đối với Quốc Dân Hoàng Thượng còn làm Quốc Trưởng. Tôi xin hứa với Hoàng Thượng cái giai đoạn nầy nó sẽ tới giai đoạn "Quân chủ lập hiến" mà thôi, chớ chưa hề nước của mình đi đến Dân Quốc được.

Đức Quốc Trưởng đã chịu và hứa như vậy, nên ngày nay Ngài đã thi hành mấy lời hứa với Bần Đạo thì ngày Lập Quốc Dân Quyền giờ phút tới đây Bần Đạo giữ lời hứa với Ngài, Bần Đạo sẽ sắp đặt Quân Chủ Lập Hiến ra thiệt hiện.

Bần Đạo nói quả quyết, các con trụ cả khối tin trung lộn lại đối với toàn thể nước nhà chủng tộc của các con, thì trên Đức Quốc Trưởng không thay lời hứa, dưới Thầy không lỗi hẹn, thành thử Thầy xin lại cho dân tộc của các con độc lập thiệt hiện đặng.
    Home             1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  [ 17 ]  [ 18 ]  [ 19 ]  [ 20 ]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét