ĐÁP
TỪ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỚI CÁC CƠ QUAN CHÁNH TRỊ ĐẠO TRONG DỊP LỄ SANH NHỰT tại HỘ
PHÁP ĐƯỜNG (5-5 Ất Mùi)
Có lẽ Bần Đạo hôm nay nói nhiều một
chút, nhưng cũng nhờ Trời không có nắng.
Nếu Trời không có nắng có lẽ cả toàn
con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài có thể cố tâm nghe đặng.
Bần Đạo xin không trả lời cho các
cơ quan khác nhau như ngày Tết Nguyên Đán, những lời của Bần Đạo sẽ nói ra đây
xin cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài để ý hiểu cho sâu xa một
chút. Bần đạo có dành để riêng biệt một chỗ tư tưởng của mỗi người đặng suy gẫm. Xin cả thảy đều nhớ
mỗi phen tới ngày sanh nhựt của Bần Đạo con cái Đức Chí Tôn đến chúc thọ, nhứt
là Bần Đạo biết mình năm nay đã 66 tuổi, hiểu cả thâm tâm của toàn con cái Đức
Chí Tôn đã e ngại điều gì? Biết lắm, Bần Đạo niên cao, kỷ trưởng bao nhiêu, tình
ái của cả toàn con cái Đức Chí Tôn đã để trong thân hình nầy trọn 30 năm, lẽ dĩ
nhiên họ sợ khối tình ái đó phải tiêu hủy, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy.
Cả thanh niên con cái của Đạo dòm đó mà coi, hỏi thử ở
nơi một thế gian nầy, trong một kiếp sanh của mình có phần thưởng nào mà có hưởng
đặng xứng đáng như thế chăng? Các cơ quan khi nãy kể lể công nghiệp của Bần Đạo
mà các Ngài có biết thiệt tướng nó là gì chăng. Cả cơ nghiệp hữu hình ngày hôm
nay tượng hình của khối thương yêu vô đối đó, chớ Bần Đạo không có chi trong đó
hết, cái thiệt tướng nó là vậy.
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài và Phước
Thiện, các con Chiến Binh, Phục Quốc Hội, Hội Đồng Thánh Địa và Đại Diện Bắc
Tông Đạo, Bần Đạo xin kiếu lỗi.
Nhơn dịp hôm nay Bần Đạo có nhiều điều tỏ cùng Chư
Thánh tức nhiên là Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện là bạn
đồng khổ của Bần Đạo, từ 30 năm chúng ta đã chung khổ, cùng nhau dựng nghiệp Đạo
bảo vệ hạnh phúc tương lai cho toàn con cái Đức Chí Tôn, và hiện tại ta nên để
tâm quan sát coi hành vi của ta có xứng đáng làm Thánh Thể của Đức Chí Tôn hay
chăng cái đã. Cả hành vi 30 năm coi ta có xứng đáng phận sự Thiêng Liêng của Đức
Chí Tôn giao phó cho ta hay chăng?
Bên Quân Đội các con và bên Phục Quốc Hội nên để ý khoảng
nầy cho lắm, đã mang danh rằng Hội Thánh tức nhiên mạo hiểm mạng danh Thánh Thể
Đức Chí Tôn, thử hỏi cử chỉ hành tàng của chúng ta phải làm gì cho nên danh Hội
Thánh ấy, và xứng đáng Thánh Thể Đức Chí Tôn ấy. Cả thảy đều biết Đức Chí Tôn
là khác mà đời là khác, hai tinh thần hai hình chất nó không tương hiệp lại với
nhau, dầu rằng lẽ dĩ nhiên luật Thiên nhiên kia buộc phải tiêu diệt, nhưng mà cả
thảy đều biết thế tình với Thiên ý làm thế nào cho phù hạp đặng.
Cả thảy đều ngó thấy từ 30 năm, Hội Thánh đã đối cùng
đời thế nào, họ còn nghi hoặc chăng? Họ còn nghi hoặc phi thường cho Thánh Thể
Đức Chí Tôn hay chăng?
Thì đây Bần Đạo nói ở mặt thế gian nầy, chưa có một
nhân cách nào đã thiệt hiện đặng "Dĩ
ân báo oán" mà Hội Thánh đã làm đặng, dầu rằng Thánh Thể Đức Chí Tôn
không có quyền khen ai, không có quyền chỉ trích ai, hay bày tội của ai, nếu như
thế chúng ta có đặng phép phẩm cách phê bình bài trích ta, thì ta nên bày trích
ta mà thôi, quyền năng ấy có thể dạy cho cơ đời bớt khổ não và giúp ích cho
Thánh Thể Đức Chí Tôn lắm đó vậy, nhưng mà chính mình ta buộc phải cấm ta không
đặng làm như vậy thiên hạ có nhiều điều khen mà chê cũng ngậm miệng, vẫn có nhiều
điều chê chỉ có nuốt buồn ngồi mà chịu.
Cả trường hợp đương nhiên Bần Đạo để dấu hỏi, có ai biết
chỗ khen chỗ chê của Hội Thánh thế nào chăng? Chưa ai biết hết đừng ngó thấy sự
lãnh đạm hay sự dè dặt của Hội Thánh mà tự định mình, vì việc khen của Hội
Thánh có thể là một điều lầm lỗi quá đáng.
Dĩ ân báo oán, có một người nào ở thế gian nầy mà dám
dang tay đưa bàn tay mình, đưa bàn tay nhân từ vô đối đó, tha thứ cả tội tình của
kẻ nghịch, rồi còn có thể hiệp tác với họ đặng, có ai làm được chưa? Mà trong cửa
Đạo Thiêng Liêng của Đạo con cái của Đạo sẽ làm đặng, có ai biết kẻ nghịch phá
Đạo, giết Đạo và hại Đạo vì cái tôn chỉ bất công của họ, họ đồ mưu hàng ngày tận
diệt cho được Đạo Cao Đài mà Hội Thánh dám cho con cái của Đạo Cao Đài hiệp tác
cùng họ, không nói rằng cứu vãn cả lập trường nguy hiểm của họ, chưa có ai làm
đặng những điều làm đó, chẳng hề bao giờ Thánh Thể Đức Chí Tôn nói trong miệng
mà cũng không bao giờ từ của Thánh Thể Đức Chí Tôn thốt ra, chỉ để ngầm cho
toàn cả thiên hạ hiểu lấy mà thôi.
À bây giờ hỏi ra cái hành tàng của Đạo đương nhiên bây
giờ, đối phó cùng tình trạng của đời thế nào, dám chắc Thánh Thể Đức Chí Tôn định
cho một đường lối nào khác thử coi, trong khi mình không khen đặng mà cũng không
chê đặng, chỉ để mình đứng trong cái lập trường dung hòa mà thôi, lập trường
dung hòa ấy sẽ bị bao biếm nhẻ, sẽ bị trích điểm, bởi vì cái sống của Thánh Thể
Đức Chí Tôn hành vi của Đức Chí Tôn nó ở trong thời gian và không gian, nó ở
trong lịch sử nhơn loại, chớ không phải ở ngoài cá nhân hay là cá quốc, chỉ để
trong không gian và thời gian sẽ giải nghĩa cho họ biết rõ ràng hơn mà thôi.
Ta nói cả đồng bào Miền Bắc hơn ai hết ở mặt thế gian
nầy, cái đau khổ của Hội Thánh, nhứt là Hội Thánh đương giờ phút nầy, là máu mủ,
là cốt nhục của các người, các người đau đớn lắm, chớ tình thế của đời biến
thiên nó đưa đẩy cái mạng số của nòi giống Việt, Tổ quốc Việt Nam đến nơi nguy
hiểm, như thể giờ phút nầy vậy. Mỗi đêm Bần Đạo chỉ cầu nguyện, cầu nguyện một
điều mà thôi, cái tấn tuồng nguy kịch nầy, khổ não cả toàn dân nước Việt đây, Bần
Đạo cầu xin cả cái tai nạn tương lai kia nó sẽ làm cho cả nòi giống Tổ quốc Việt
Nam khỏi bị lệ thuộc một cách đau đớn, Đức Chí Tôn có thể cho Bần Đạo được 6
tháng mà thôi, trước cùng chẳng đã 6 tháng cho Bần Đạo được có 3 tháng trước để
cứu vãn tình thế, thế nào, nếu chẳng may mà cái tình trạng đương nhiên bây giờ,
Bần Đạo e cho cái ách lệ thuộc sẽ trồng trở lại trên cổ cả dòng giống Việt Nam
hết, không phương giải thoát.
Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và con cái của Ngài đã cầu
chúc cho Bần Đạo sống, sống nhiều chăng là do cả toàn thể con cái của Ngài muốn,
còn giờ phút nầy cái sống chết của Bần Đạo không có nghĩa lý gì hết, giấc chết
của Bần Đạo thật ra là một giấc an ổn, an nhàn của Bần Đạo đó vậy.
Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn cả con cái Đức Chí Tôn
từ dưới lên trên, nhứt là trong Thánh Thể của Ngài.
Q.
6/3-15: Hồng oai và Hồng từ.
LỜI
GIẢNG ĐẠO của ĐỨC HỘ PHÁP tại Đền Thánh đêm 15-5 Ất Mùi
Đêm nay Bần Đạo giảng đặc biệt
cho Hội Thánh Nam Nữ Lưỡng Phái và Hiệp Thiên Đài. Đêm nay Bần Đạo giảng về Hồng
Oai và Hồng Từ, hai tiếng Hồng Oai, Hồng Từ ấy là đặc quyền của Đại Từ Phụ đã Tạo
đoan Càn Khôn Vũ Trụ mà lại vì hai tánh đức ấy. Ngài trị cả Vạn Linh. Nếu ta luận
Hồng Oai và Hồng Từ, thì ta có thể nói luận ác và thiện, rồi ta có thể đem ra
hai kiểu mẫu, xã hội tức nhiên đời, cũng như Đức Khổng Phu Tử và Đạo Chích, nói
về Đạo chẳng khác nào ta luận Đức Chúa Jésus Christ, Juda đã nói tới Đạo Phật,
ta thử luận Đức Thích Ca Mâu Ni và Dévadata, cái luận thuyết về nghĩa lý ấy vẫn
không cùng, ta chỉ nương nơi
nghĩa lý và quyền
hành ấy, đặng để cho Thánh Thể Đức Chí Tôn đi cho trúng đường lối.
Hại thay! Chớ phải chi, hai lẽ
thiện và ác ấy cả Thánh Thể của Ngài đi một lối mà thôi, nói đơn giản, thà là
làm Thầy Chùa thì Thầy Chùa, Thầy Pháp là Thầy Pháp, Đạo thời Đạo đi cho triệt
để hay Đời cho triệt để đi. Khổ não thay Thánh Thể Đức Chí Tôn vì lãnh nơi mạng lịnh của Ngài, đến làm tôi con của Ngài cho
toàn vẹn, thế gian của Ngài hỏi vậy chớ Đại Từ Phụ đã giao cho ta có phải giao Thánh hay là giao Phàm, nếu
ta lấy theo sự suy gẫm của ta, ta phải nhìn rằng Đại Từ Phụ đã giao cho ta Phàm
nhiều hơn Thánh, lẽ dĩ nhiên trước mắt
ta đã ngó thấy.
Tự thuở nay, con người dầu sức lực mạnh mẽ thế nào gánh một vai mà thôi.
Đại Từ Phụ lại buộc cả Thánh Thể của Ngài phải gánh hai vai Đời và Đạo. Cái kiểu
vở hai Tôn Giáo trước mắt ta, ta ngó thấy Phật Giáo thì nghiêng cái gánh bên Đạo,
Công Giáo lại nghiêng cái gánh bên Đời, Đời Đạo Phàm Thánh. Đức Chí Tôn đến lập
Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu phải đứng ngay chính giữa của nó. Luận ra cho
cùng lý, thì Hội Thánh của Ngài, buộc không Đời mà cũng không Đạo ở giữa cái mức
trung tim của Đời và Đạo.
Cái khó khăn cho phận sự Thiêng Liêng ấy là vì lẽ đó Hồng
Từ ta thử kiếm hiểu, phải có cái tinh thần, Đại Từ Bi, Đại Bác Ái, nghĩa là mọi
điều, nó phải do nơi luật tương đối hiện tượng bây giờ, là cái tình đời, thì ta
phải khoan hồng dung thứ. Muốn làm cho không lầm phải có tinh thần lịch lãm và
khoan dung. Nắm được tính Đức Hồng Từ của Đức Chí Tôn. Lịch lãm ta phải biết
mình, biết người một cái gương lịch lãm từ cổ tới kim chưa hề có một lần thứ nhì
nữa. Là Vua Nghiêu có 9 người con 7 trai, 2 gái mà đi tìm ông Thuấn, đặng truyền
ngôi vua lại, còn 7 người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã. Khi tìm đặng
ông Thuấn đem 2 người con gái gã hết, Nga Hoàng, Nữ Anh, mà ta thử nghĩ ông Thuấn
ổng là gì, tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng ghét đáo để, nhứt
là Bà Kế Mẫu của Ngài. Bị hiếp bức, ít học bất quá là một người cày ruộng vậy
thôi. Ta thử nghĩ vì lẽ gì Vua Nghiêu chọn ông Thuấn làm Vua kế nghiệp cho
Ngài, chỉ vì ông Thuấn là hiếu mà thôi, với cái lịch lãm Vua Nghiêu Ngài cho
tính đức hiếu nghĩa đó là đủ hết rồi. Hễ hiếu cùng Cha, Mẹ nghĩa cùng anh em,
hai đức tính đó đủ cả tinh thần đặng trị thiên hạ, Ngài đoán rồi chọn ông Thuấn,
Ngài không lầm, quả nhiên ông Thuấn đã thành một vị Hoàng Đế, từ cổ tới kim
chưa hề có một người thứ nhì nữa.
Ấy là lịch lãm, nhờ cái tâm thần lịch lãm của Vua
Nghiêu mà cả cái sự hèn hạ của ông Thuấn kia nó mất hết. Ông chỉ lấy có Hiếu với
Nghĩa mà thôi. Ấy là cái gương lịch lãm khoan dung mà cái cử chỉ của ông Nghiêu
đã truyền ngôi cho ông Thuấn, là một cái Hồng Từ mà từ thử tới giờ chưa có ai
làm một lần thứ nhì nữa.
Bây giờ luận về Hồng Oai, Hồng Oai nhiều cái khúc chiết,
phải có tâm thần suy đoán và tha thứ cả tội tình thiên hạ. Ta chỉ chọn một cái
Hồng Oai của ta, khi ta trị ta, ta phải làm sự trị ấy của ta lại vì cho kẻ bị
trị, cái trị đó, ta toan tính liệu lượng thế nào, cái Hồng Oai của ta đây nó là
một món thuốc trị bịnh cho kẻ đã bị bịnh.
Cái tính đức suy đoán có nhiều khi nó không cùng luận,
một điều nên nói, Bần Đạo đem ra hai cái thí dụ mới đây có hai vợ chồng ông đó
(người Pháp), bà vợ đau bịnh lao không thể trị được, thấy chết trước mắt đó vậy.
Bà vợ biết mình không thể sống, chỉ có sống đi thì chỉ làm khổ não chồng và con
mà thôi. Cái tình thương vợ chồng nồng nàn mà thân hình của bà hôm nay như thế
đó, chỉ có trong cái chết mà không chết đặng bà mới cậy ông chồng giết mình
dùm, tội nghiệp bà đã khóc cầu khẩn không biết bao lần, ông chồng chỉ có khóc
mà chịu thôi, chừng đáo để ông chồng ngó thấy sự đau đớn của bà vợ không thể gì
mà hết được, không thế gì mà thoát khỏi bịnh ngặt đó được, nghe lời yêu cầu của
bà vợ, bắn vợ. Tòa đem ra Đại hình và buộc án sát nhơn, nhưng may thay cả thảy
thiên hạ đều biết tính đức hiền của ông, nên họ làm chứng và quả quyết rằng: Bà
kia cầu xin ông nọ giết mình dùm, nên được tha, là một gương thứ nhì.
Bần Đạo đã đọc sự tích đó hồi còn đi học, có hai anh
em học ở chung một trường với nhau, tới kỳ thi Tú Tài, thi Bachot kêu Bachelier
của Pháp, thì người bạn thi rớt về thất chí đến nước muốn hủy mình, mà may có một
điều được người bạn tâm tình kia, đem cả sự đau khổ tâm hồn của mình tỏ cho bạn
mình, người bạn an ủi, khuyên lơn chi cũng không đặng hết.
Hôm nọ người thất chí đó nhứt định đi ra đón xe lửa đặng
nhào đầu vô xe lửa đặng chết, đặng tự tử, mà không dè là người bạn của mình đi
theo bén gót, đi theo xa xa giữ gìn mà không cho hay. Ông ta mới vừa đi lại gần
xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó, người kia vùng vẩy đổ quạo
lên nói: Mầy tưởng đâu mầy thương tao mà mầy kéo dài sự đau khổ của tao chớ
không phải mầy thương tao. Bây giờ không thế gì can gián được, phải dùng chiến
lược khác, phát gây lộn nói: Cái thân thể mày đã dở, mầy ngu, rồi mày thi rớt,
rồi mầy muốn hủy mình mầy, mầy mà có chết đi nữa, linh hồn mày xuống Địa ngục
là thằng tù ngu, dầu mày có được Đức Chí Tôn tức nhiên Đức Chúa Trời ban cho
mày thành ông Thánh đi chăng nữa, mày cũng là ông Thánh ngu, mắng, hai đàng
đánh lộn ôm vật với nhau, đánh thẳng tay mà cái ông kia mình làm mưu không nở
đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn ông kia, ông bạn kia đổ quạo thật, đánh thôi
mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm. Vô đó, người bạn đó mới
nói: Mầy ơi, tao cốt yếu, cố tâm đặng cứu mầy, mà mầy làm tao thân thể như vầy,
thôi hết sức nói, tới chừng người kia nằm kế gần bên, mới động lòng khóc mướt,
rồi ôm người bạn khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó anh kia theo mãi, tới thi đậu
ra trường thôi. Đó Hồng Oai đó, hai cái Hồng Oai đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi
Hồng Oai mà làm được như vậy cũng nên làm chớ.
Bây giờ luận trong Hội Thánh, em thì đông, Nam, Nữ gần
đôi ba triệu, được cái phải của đứa nầy, nó có cái quấy của đứa khác không đồng
nhau, vì lẽ đó. Đức Chí Tôn mới lập Pháp Chánh thử cái cân công bình của Hội
Thánh nghĩ làm sao mà chớ? Chỉ có mong một điều là đoàn em nó đặng đắc giáo, được
dạy dỗ cho hiểu Đạo, đặng nó sống dùm cho bạn của nó.
Đại gia đình Thiêng Liêng nầy nó phải tương liên sống
chung, chết chung với nhau đó. Nếu cả Thánh Thể Đức Chí Tôn không có giáo hóa
cho họ hiểu thấu đáo nghĩa lý cái sống trong cửa Thiêng Liêng nầy, trong đại
gia đình Thiêng Liêng nầy là gì? Thì bao giờ cũng vậy. Đứa phải trở lại đả đảo
đứa quấy, đứa quấy cũng không nhịn đả đảo trở lại đứa phải. Tấn tuồng đời chuyển
luân ngay giữa cửa Thiêng Liêng cửa Đạo đây, Nam, Nữ em cũng đồng em hết, mình
coi quyền lợi cả thảy của nó, mình tính cái nào nhiều theo đa số, giờ bắt chước
theo kiểu vở chánh trị thiên hạ bên Âu Châu, hễ đầu phiếu nhiều là được, bây giờ
hễ đoàn em của mình, hễ đa số chịu cái gì, nếu phải mình làm theo nó, giúp đỡ
cho nó làm. Đa số nó không bằng lòng cái gì thì mình từ từ, rán cố gắng mà
tránh. Có một điều nên để ý hơn hết, trước mặt Đức Đại Từ Phụ, Đại Từ Phụ coi cả
con cái của Ngài ở dưới thế gian nầy là đám mồ côi, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy,
vì lý do đó mồ côi nên Ổng chống gậy đến, Ổng nói con Ổng mồ côi, bây giờ ta
cũng kể em ta là đám mồ côi nương lấy anh, muốn nuôi nấng dạy dỗ nó, nhứt là phải
dạy dỗ chẳng phải bằng lỗ miệng mà thôi, mà dạy dỗ sự hành vi của nó. Có nhiều
đứa nhứt là đám mồ côi của Phái Nữ, tâm thần thì hay thương yêu, có nhiều đứa mồ
côi chưa được lỗ mũi mẹ hun hít, một cái nó thèm thuồng tìm kiếm trong cửa Đạo
mẹ của nó, trông kiếm nơi cửa Đạo cha của nó Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy. Cả
Thánh Thể Đức Chí Tôn cố gắng làm cha làm mẹ nó dùm, cố gắng mỗi người đều dạy
dỗ.
Bần Đạo chỉ có buồn một điều thay vì dạy nó đặng dìu dắt
cho nó đi vào Thánh Đức, có nhiều người dạy nó đi theo cái gì, Bần Đạo không
nên nói rõ ra đây.
Từ đây tới sau, xin cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đã gọi là
Thánh Thể của Ngài, thì bắt chước mảy may theo Ngài đặng cho nó có tánh đức Hồng
Oai, Hồng Từ ấy.
Mai đây Bần Đạo làm oai cho biết chừng, ai đời không
có tiền cất chợ cho em, rán làm được 4 cái nhà lồng, đặng cho sắp nhỏ vô chui đục
nắng mưa. Mấy bà nào đó không biết giăng ngang qua hết thảy vậy, đem trại thiết
giăng ngang chận đường mà năn nỉ biểu dời, đặng cho sắp nhỏ có chỗ vô nhà lồng
buôn bán với, ngăn ngang qua đó, đáo để đuổi cũng không đi. Cho đất đặng dời
cũng không đi nữa. Mai này Bần Đạo làm oai ra lịnh vở tốc đồ đó hết. Bần Đạo
làm oai một lần thử coi.
Q. 6/3-16:
Lễ Đại Tường Ngài Khai Pháp Chơn Quân.
ĐỨC HỘ
PHÁP THUYẾT ĐẠO TẠI ĐỀN THÁNH.
ngày
12-8 Ất Mùi (1955) Lễ Đại Tường ông Khai Pháp Chơn Quân
Thưa cùng Chư Quan Viên và Chức Sắc cùng mấy em Nam, Nữ.
Hôm nay là ngày Lễ Đại Tường Đức Khai Pháp Chơn Quân,
Bần Đạo không cần minh tỏa, tưởng lại toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng hiểu Đức
Ngài là một vị Chơn Quân nơi Hiệp Thiên Đài là một Chơn Linh nguyên nhân Đức
Chí Tôn đã định.
Nhắc lại công nghiệp của Ngài Bần Đạo lấy làm ngậm
ngùi cảm xúc vô cùng, sự cảm xúc của Bần Đạo đối với Đức Ngài không giờ phút
nào Bần Đạo quên cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với Đạo. Bần Đạo chắc chắn
rằng, trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Bần Đạo chỉ nhờ Đức Ngài Khai Pháp nhiều hơn
hết, đó là bằng chứng hiển nhiên ngày nay Đức Ngài đã qui Tiên, thì Bần Đạo đã
bớt một cánh tay gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng vĩ đại của Đức Chí Tôn tại mặt
thế nầy.
Bần Đạo đã thấy cái sống ở đời của Đức Ngài Khai Pháp
trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả, vì sự nghiệp
giàu sang vinh hiển của Ngài mà Ngài cũng không màng, chỉ nguyện đem cái xác
thân nầy hiến trọn vẹn với cửa Đạo.
Đức Chí Tôn đã định sẵn đâu hồi nào mà chính mình Đức
Chí Tôn lựa thật là xứng đáng. Trong buổi lập Hiệp Thiên Đài Đức Chí Tôn dạy
con muốn ra gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng lập nên nền Đạo. Trước hết con phải
lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được.
Buổi nọ Bần Đạo nguyện để trọn vẹn Đức Chí Tôn lựa, chớ
không phải phàm lựa, khi được lịnh Cơ Bút dạy đi tìm Pháp thì chỉ dạy Bần Đạo đến
Tỉnh Gò Công mà tìm tên Trần Duy Nghĩa. Đức Chí Tôn chỉ cho biết nơi Tỉnh Gò
Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu có phải hay chăng? Bởi vì nơi Tỉnh Gò Công Bần
Đạo chưa từng đến và không có làm bạn với một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh,
để đi tìm. Khi vừa đến Tỉnh Thành Gò Công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng
ngay nhà ông Trần Duy Nghĩa và gặp người đứng trước thềm nhà, người nói tôi là
Trần Duy Nghĩa đây, bèn mời Bần Đạo vào nhà. Bần Đạo không ngần ngại để trọn đức
tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài hứa và
nguyện cố một đời là hủy cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo,
Bần Đạo không tin còn hồ nghi bị gạt, khi Ngài về đến Sài Gòn chỉ xách theo một
gói đồ trên tay và không trở lại gia đình lần nào.
Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài
thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi
nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nổi sự nghiệp của
Chí Tôn đã giao phó.
Ngài nói rằng: Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt Nam
trên 4 ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đến định lập Quốc Đạo thì
chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống
nòi dân tộc Việt Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.
Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo
và sự kính nể đáo để không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.
Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho giọt lệ Bần
Đạo đã chảy không ngừng, chẳng phải riêng Bần Đạo, mất một người ân trọng nghĩa
thâm, mà là toàn cả Đạo Nam, Nữ thấy đều mất một người bạn yêu mến Thiêng Liêng
đó vậy.
Lúc Chánh quyền Pháp đày ra Hải đảo Madagascar. Trong
đó nhiều vị Chức Sắc Đại Thiên Phong cũng chung chịu ảnh hưởng.
Bần Đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiền hết lòng
phụng sự giúp đỡ Bần Đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần
Đạo đáo để. Anh Trọng già rồi chẳng nói chi, nhứt là Ông Thái Phấn và Gấm, dựa
quyền lợi theo thuyết Cộng Sản Nga Xô, dùng sức mạnh trở lại hành phạt khổ khắc
Bần Đạo mà chưa vừa lòng, họ còn xúi giục Chánh quyền đày Bần Đạo lên chỗ nguồn
cao nước độc đặng giết một cách gián tiếp cho vừa lòng, nếu chẳng phải quyền
năng Thiêng Liêng giúp sức thì không thế trở về Tổ Đình, Thánh Địa đất nước Việt
Nam với ngày nay.
Tội nghiệp thay! Em Thánh Hiền với Đức Ngài Khai Pháp
thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đánh đuổi mà tìm kế đi theo nuôi dưỡng Bần
Đạo cho được, Thánh Hiền vì đi theo Bần Đạo bị uống nước độc, mà bỏ mình nơi rừng
sâu nước thẳm, chỉ còn Bần Đạo và Đức Ngài ôm lấy Bần Đạo mà khóc chỉ van vái
có một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu đem xác về gởi đất Thánh Địa
lúc cởi xác mà thôi, thật quả nhiên lời nguyện không sai.
Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật
riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không bao giờ khắc nào mà quên trong cảnh
tù đày lao lung.
Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí Tôn rất chú ý
về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không
thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu
Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than
khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì
Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao Đài, ai vui hứng chớ
riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau
làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ.
Sau ngày Trung Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) bị
quân đội Thành ám sát Đức Ngài thường đến Trí Huệ Cung mà ôm Bần Đạo vào lòng
mà than rằng: Thầy ôi! Cái sợ của tôi ngày nay đã đến rồi, tôi hằng than thở với
Thầy từ nơi Hải đảo là chốn đày khổ thân của Thầy trò mình, tưởng là về đất
Thánh Địa được yên vui; nào dè có Quân Đội cho nên ra nỗi nầy. Than rồi khóc lại
càng định nếu Bần Đạo mà nói Thầy ơi vì lời khuyên xưa kia Thầy trò mình mới về
để dìu dẫn con cái Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết đi rồi
thì tôi thấy càng gây nhiều hiểm họa dẫy đầy, từ từ gây phản bội mà làm ly tán
bầy con dại của Chí Tôn rồi đây họ phải sống nơi nào cho an phận. Thưa Thầy, nếu
mà tôi biết hậu quả và tình trạng ngày nay như thế nầy, thà là Thầy trò mình ở
lại nơi chốn tù đày hải đảo là nơi rừng xanh nước độc còn thú vị hơn về đây thấy
cảnh đổ máu không lịch sử, giòng dõi chủng tộc Việt Nam sẽ ly tán, tiền đồ Tổ
quốc không dựng lại mà hầu hết nhơn loại chịu trong cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo
chinh nghiêng bởi cảnh đó.
Nghe qua những tiếng than thảm thiết làm cho giọt lệ Bần
Đạo phải chảy theo không ngừng, nhưng Bần Đạo cố gượng cho khuây khỏa, hồi nghĩ
lại Bần Đạo làm vui mượn cớ an ủi cho Ngài bớt buồn rầu đau thảm.
Không anh à, mấy em vì nó có óc thanh niên không phải
như mấy anh lão thành vậy đâu, vì máu nóng phải vậy, còn đua tài chất lợi quyền
trọng tham danh chớ buộc cả thảy như chí của anh vậy sao được. Bần Đạo thấy
Ngài buồn kiếm chước cho vui đở, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung được khuyên
Ngài vào ở cho an tịnh cho bớt cảnh thảm họa trên diễn mãi trước mắt hằng ngày.
Bần Đạo gẫm lại, đã lãnh cái sứ mạng dầu khổ tâm Bần Đạo
cũng cố gắng dằn lòng để thi hành trách nhậm là phận sự của Đại nghiệp Thiêng
Liêng đó thôi, để gầy dựng tương lai hạnh phúc cho toàn cả nhơn loại chung hưởng
hạnh phúc hòa bình đại đồng thế giái.
Trước kia Bần Đạo cũng chạy theo quyền lợi chắc lót từ
đồng lương cũng có thể an thú lạc hoan với gia đình, cả cuộc mộng ảo của trường
đời là chỉ biết có quyền lợi đó thôi.
Chớ họ đâu có biết được cái nghiệp sống Thiêng Liêng
vĩnh cửu vô bờ bến kia mà!
Ngày nay mấy em nương lấy quân đội đã chạy theo quyền
lợi quá mức bạo hành mà quên hẳn sự nghiệp của Đại gia đình là tấm đất Thánh Địa,
là chỗ miên viễn và tồn tại.
Hầu hết họ đã nhờ bóng từ bi của nhà lãnh đạo Đại gia
đình nầy mà dựng nên sự nghiệp cá nhân, có quyền thế vinh hiển với người ta, mà
trái ngược lại còn đang tâm hủy hoại nó, họ không biết giá trị cao trọng đó phải
nương nhờ nơi đây do Đại nghiệp Đại gia đình nầy mà có.
Bần Đạo nói thật, họ không nhờ Đại gia đình nầy, ngoài
ra thì đã bị người khinh rẻ mà phải bị tiêu diệt ngày gần đây mà chớ.
Q. 6/3-17:
Lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc Từ.
ĐỨC HỘ
PHÁP GIẢNG ĐẠO LỄ KHÁNH THÀNH TẠI BÁO QUỐC TỪ Ngày 16 tháng 8 Ất Mùi
(01-10-1955)
Bần Đạo xin trân trọng để lời cám ơn Quan Khách quyền
Đời và Chức Sắc Thiên Phong của Hội Thánh Cao Đài cùng Quân Đội Quốc Gia đã có
hiện diện nơi đây, đặng giúp cho Lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc Từ thêm phần long
trọng.
Các Ngài cũng như Bần Đạo đã chung chịu một tình trạng
đau thảm, sau 80 năm nước nhà bị lệ thuộc, 80 năm dài đăng đẳng, nỗi thương đau
khổ của toàn quốc, mong mỏi đặng ngày quật cường cứu quốc, thì công cuộc tranh
đấu thời gian dài đăng đẳng ấy, biết bao nhiêu bực tiền bối ái quốc chơn thành,
đã chịu lắm nỗi hy sinh cho vận mạng Tổ quốc giống nòi.
Tiếp tục công trình vì dân vì nước ấy, chủng tộc đồng
bào ta cùng con đường đấu tranh chánh nghĩa duy có một, nhưng phương pháp tranh
đấu bất đồng mới khiến gây nạn nồi da xáo thịt.
Những danh nhân chí sĩ, vị quốc vong thân ta chỉ được
quí danh quí tánh thờ phụng tôn sùng đã đành, còn những vị anh hùng vô danh vị
quốc, có lẽ ta phải mang một tội tình cùng họ vì ta không nghĩ đến việc hy sinh
công danh và xương máu cao cả của họ. Còn những chiến sĩ đương xông pha nơi chiến
địa buổi hôm nay cũng thế ta chỉ biết danh tánh của họ một phần ít còn quên lại
là phần nhiều, bởi cớ họ phải bị thân danh mai một.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài chỉ cho phép
những Tín đồ của mình phụng sự quốc gia và chủng tộc Việt Nam, chớ không phân
biệt màu sắc Đảng Phái.
Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu
Hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng
theo thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng
trung quân ái quốc của xã hội Việt Nam mà thôi.
Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng
đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy.
Tưởng niệm tới Lễ ấy, nên Hội Thánh mới quyết định lập
Báo Quốc Từ thờ trọn cả các Vong Linh của các Anh Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công
Thần cùng là Trận Vong Chiến Sĩ.
Tưởng khi các Ngài cũng đã rõ cả hành tàng của Đạo. Từ
ngày xuất hiện Đạo nhà của ta trước đã rồi sau mới biến thành nên nền Tôn Giáo
quốc tế, vì tư tưởng Đạo giáo khoan hồng của Tổ Phụ chúng ta, mới đem phương
pháp tín ngưỡng duy nhứt mối Đạo thờ Trời và Người của Tổ Phụ ta noi truyền từ
trước. Ấy vậy đã nói rành Đạo nhà ta trước đã thì ta cũng phải vì nhà của ta là
Tổ quốc và nòi giống Việt Nam đặng phụng sự trước, hầu định tỉnh quốc hồn, thống
nhứt tinh thần và năng lực trong cuộc Đại Đoàn Kết của khối Quốc Gia mới đủ
phương cứu nguy cho Tổ Quốc.
Biết đâu gương mẫu ấy, nếu ta thực hiện ra được, nó sẽ
không thành một phương pháp duy nhất cho các Quốc gia nhược tiểu một phương
châm duy nhứt đặng tranh thủ tự do độc lập cho họ, quan niệm tưởng đến công trình
tranh đấu của đàn anh may ra nó sẽ an ủi và giúp tâm cho các bạn, đồng thời phục
vụ cho Quốc gia xã hội.
Trái lại, nếu ta vô tình lãnh đạm để cho họ phải chịu
mai một thân thể lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta vong ân bội nghĩa không cải chối.
Hôm nay các anh linh chư vị anh hùng tiền bối và hậu bối đang ngự trị trong khối
Quốc hồn của ta và đang vơ vẫn bên ta.
Giờ phút Thiêng Liêng nầy. Bần Đạo xin cả các Ngài hiệp
tâm làm một cùng Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đặng cầu xin các Đấng
ấy giúp cho nòi giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn đặng đem hạnh
phúc hòa bình lại cho nước nhà và cho toàn thiên hạ.
Q. 6/3-18:
Ngỏ lời cùng toàn Đạo nhơn dịp Lễ Chúc Xuân năm Bính Thân.
ĐỨC HỘ
PHÁP
Ngỏ lời
cùng toàn Đạo nhơn dịp Lễ Chúc Xuân ngày 1 tháng 1 năm Bính Thân
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh Cửu
Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện và toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ
Lưỡng Phái. Các bạn cùng Bần Đạo. Hôm nay đã thêm một tuổi nữa tức Bần Đạo đã
67 tuổi.
Thưa cùng Chư Huynh, Chư Đệ.
Giữa thế kỷ 20 đạo đức suy vi, nhơn luân điên đảo,
phong hóa suy đồi. Bởi cớ cho nên, Đức Chí Tôn đến đặng chung chịu cùng con cái
đau khổ của Ngài, tạo nên một Cơ Quan Cứu Thế, mở Chơn Truyền Đại Đạo của Ngài
vì cả nhơn luân của thiên hạ nó đã điên đảo. Cả thảy Thánh Thể đều thấy một nền
Tôn Giáo tối cổ đã đến lập quốc cho nước Việt Nam nầy là Nho Tông, Tổ Phụ ta để
lại nền Nho Tông cốt yếu giữ gìn bảo trọng Nhơn luân của Nhơn loại.
Vì cớ cho nên, Ngài đến lấy căn bản ấy làm "Thước
ngọc, khuôn vàng" cho toàn thể tâm lý nhơn sanh. Bởi cớ cho nên Ngài để
hai tiếng "Chuyển Thế" chẳng cần luận cho xa xuôi, Thánh Thể đều biết
giữa buổi nguy hiểm khó khăn này, Đại Từ Phụ đã đến giao cho ta một phận sự
Thiêng Liêng như thế đó. Phận sự khó khăn không có hình hài xác thịt, Ngài đến
phú thác phận sự cho ta làm Cha, làm Thầy. Phận sự Thiêng Liêng làm Cha thế
nào, làm Thầy thế nào gìn trọn, cả thảy khuôn luật đó dường nào, cả con cái Đức
Chí Tôn đều hiểu biết. Làm Cha là tạo sự nghiệp, tạo hạnh phúc lưu lại cho con.
Làm Thầy là tạo trí óc tinh thần danh thể và hạnh phúc tương lai cho nó. Làm chủ
hai phận sự ấy khó khăn biết mấy!
Trong đại gia đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao
phó cho ta phải theo một khuôn luật thiên nhiên ấy, là khuôn luật tiểu gia đình
của ta mà thôi không chi khác.
Lạ gì tuồng đời đương buổi này, tâm lý của nhơn loại
thế nào ta đã chán biết. Trong một gia đình con cái bất hòa với nhau, bao nhiêu
tội lỗi ấy đều trút trên đầu của người Cha nó. Trong một trường, nếu có tranh
hơn, tranh thua, tranh ngu, tranh khôn, tranh hơn, tranh thiệt, cả danh vọng
quyền thế bao giờ kẻ bất mãn cũng đổ trút trên đầu Thầy nó, lẽ tự nhiên vẫn vậy.
Trong một gia đình dầu cho Ông Cha công bình thế nào,
đứa con bất mãn hoang đàng chi địa, vô nghĩa, vô nghì nó đổ trên đầu Cha nó, nó
nói Cha nó hại nó.
Trong một trường lập thân danh nó không nên với đời,
nó cho Thầy nó dở dạy, tấn tuồng đời vẫn vậy.
Mấy em! Cả thảy Nam, Nữ Lưỡng Phái, Qua nói thật,
"Trường hợp biến thiên ra vì con cái của Đạo không đủ yêu ái, không đủ căn
bản tinh thần đạo đức, nó mới ra nông nỗi". Mấy em biết một gia đình nhỏ mọn
kia, nếu xảy ra sự vô phúc ấy, nó làm thế nào? Huống chi đại gia đình Thiêng
Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, Thánh Thể của Ngài cho Qua, tránh sao cho khỏi,
làm thế nào tránh cho khỏi những kẻ ấy. Một Ông Cha tạo con cái của mình chia từ
tinh khí, huyết quản tạo hình hài cho nó, là của sở hữu của mình, có khi làm chủ
tinh thần của nó không được. Huống chi nơi cửa Đạo, nơi cửa đại gia đình Thiêng
Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, biết bao nhiêu đầu óc, trí não tâm hồn không đồng
một thể.
Ông Thầy mở một trường như Đức Khổng Tử có quyền lựa
chọn môn đồ của Ngài. Trái lại trong đại gia đình của Đức Chí Tôn, Thánh Thể của
Ngài không quyền lựa chọn, thế nào tránh cho khỏi kẻ bất nghĩa vô nghì? Mấy em
đừng coi điều ấy là trọng hệ, trái lại phải định phận, cố gắng hơn, dạy mấy đứa
nhỏ nó là hương hỏa tương lai đại gia đình của mấy em và Thánh Thể của Đức Chí
Tôn mai hậu.
Qua thường nói, nếu giờ phút nào thân già yếu đuối nầy
còn, Qua cố gắng làm nên sự nghiệp cho Đạo cốt yếu là vì chúng nó. Nếu Qua
không vì chúng nó, giờ phút nầy chẳng còn lầm lủi đặng tạo dựng cơ nghiệp
Thiêng Liêng nầy. Qua là một thằng điên, đáng đem nhốt nơi nhà thương điên Biên
Hòa mà chớ!
Một đời Qua chịu khốn khổ, đàn anh của mấy em cũng thế,
chung chịu một trường hợp đau đớn như Qua, Qua không thế nào buổi sanh tiền nầy
còn thấy dưới mắt sự đau khổ đối với chúng nó. Vì cớ cho nên Qua tạo hạnh phúc
tương lai cho nó.
Mấy em thử nghĩ! Trót 31 năm, cả thảy con cái của Đức
Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, từ trên tới dưới đã hy sinh biết bao nhiêu mồ hôi nước
mắt, tạo dựng Đại Nghiệp Thiêng Liêng cho Đạo. Vì ai, thử để dấu hỏi? Mấy em sẽ
lấy làm đau đớn lắm vậy!
Trường hợp khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng Qua, Ông Già
nghèo ấy. Ông đến với một cây Cơ thôi. Ông đến với một xác thân hèn yếu, nghèo
nàn. Bởi do nơi hèn yếu đó tạo nên một sự nghiệp trọng đại, sự nghiệp đó biết
bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, xương máu toàn cả mấy em hiện tượng như thế đó.
Có một điều đừng lầm lộn, cả con cái của Đức Chí Tôn
nhớ điều nầy: "Giàu sang phú quí của Đạo là cái giàu sang cả toàn thể con
cái Đức Chí Tôn đôi triệu người hiệp lại. Nếu thoản như cả phần tử đôi triệu ấy
nghèo khổ, đều thống khổ, tới hôm nay mấy em nhìn lụng lại sự nghiệp Thiêng
Liêng nầy, mấy em đào tạo được sang trọng vẽ vang như thế này, mấy em nhớ rằng
hình trạng đó là mồ hôi nước mắt thành tướng đó vậy".
Chúng Qua có mục đích là phận sự Thiêng Liêng mà chúng
Qua thay thế cho Đức Chí Tôn tạo nghiệp Thiêng Liêng cho mấy em, là nghiệp của
Đạo. Chúng qua mơ ước thật sự. Tâm hồn chúng Qua mơ ước cái giàu sang vinh hiển;
đại thể là cái giàu sang vinh hiển đa số, mạnh mẻ hơn, cao trọng hơn thật sự là
cái giàu sang vinh hiển của Đạo mà chớ!
Trái lụng lại dầu cho Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đức
Chí Tôn sang trọng thế nào, mà mấy em bị nghèo hèn đói khó, khổ cực thì giàu
sang bóng dáng mà thôi chớ không nghĩa lý gì hết, giả tướng mà thôi.
Chúng Qua đã nghèo khổ 31 năm trước, Hội Thánh chỉ
mong một điều là kiếm phương nuôi cả toàn con cái của Đức Chí Tôn, tìm phương
thế nuôi lẫn với nhau chưa hề biết trước Đại Nghiệp Thiêng Liêng vĩ đại như vầy.
Qua chỉ mong một điều tạo đặng hạnh phúc cho mấy em, đó là mục đích tối yếu trọng
của chúng Qua đó vậy.
CHUNG
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài
01
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 13 tháng 8 năm Mậu-Tý (16-9-1948)
Đêm
nay Bần-Đạo thuyết Đạo có hơi dài chút rán ngồi nghe.
Kể từ đêm nay Bần-Đạo bắt đầu thuyết một đề-tài trọng
yếu đề-tài này phải thuyết nhiều đêm mới hết, bởi thế cho nên cứ mỗi bốn đêm
thì thuyết một lần, Bần-Đạo rán thúc nhặt cho con cái Đức Chí-Tôn có một bửu-bối
nơi tay, để ngày kia tìm đường đoạt Đạo.
Đề tài đêm nay là: "Con
đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống".
Con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là gì? Nếu hiểu theo
Chơn-Pháp của Đức Chí-Tôn thì con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là: Con đường
dành cho các chơn-hồn khi thoát xác, rồi quay về với Đức Chí-Tôn để được định vị,
thăng hay đọa. Nhưng nếu hiểu theo triết-lý nhà Phật, thì con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống là con đường của Luân-Hồi.
Như vậy, Con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là một đề-tài
thuyết-pháp khó khăn, muốn cho toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn thấu đáo, lãnh hội
đầy-đủ nghĩa lý sâu xa của đề-tài đó, ít ra phải viết thành sách, mà sách ấy tới
mấy ngàn trang là ít.
Ấy vậy, con cái của Đức Chí-Tôn rán nghe và rán đi
cúng đặng nghe, để nữa sau khỏi hối tiếc và oán trách, nói sao Bần-Đạo không
cho hay trước, không cho biết trước, để được nghe những điều bí yếu trong nền Đạo
Cao-Đài, những triết-lý cao siêu mà chỉ có Đạo Cao-Đài mới có, tuy nhiên, âu
cũng là một đặc ân của Đức Chí-Tôn dành cho Đạo Cao-Đài ngày nay, nên mới có mấy
đứa nhỏ cố gắng học được tốc-ký để ghi chép những lời thuyết Đạo của Bần-Đạo,
vì những lời thuyết Đạo này, không phải của Phạm Công Tắc mà là của Hộ-Pháp, Hộ-Pháp
thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quý hay chăng
là ở chỗ đó.
Bần-Đạo may duyên được Đức Chí-Tôn chọn làm Ngự-Mã-Quân
của Ngài để thay Ngài, lập nền chánh-giáo, tức là nền Đạo Cao-Đài này để thay
thế tất cả Tôn-Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn-Giáo ấy, ngày nay không phù hợp
với lương tri lương năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền
Tôn-Giáo ấy ngày nay đã bị bế.
Nhớ lại, từ khi Đức Chí-Tôn chọn Bần-Đạo làm Hộ-Pháp;
dạy Bần-Đạo phò-loan và chấp bút, đặc biệt hơn hết là chấp bút, vì nhờ chấp
bút, mà Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn dạy cách Tham-Thiền, khi biết Tham-Thiền rồi mới
Nhập-Tịnh, nhưng Nhập-Tịnh không phải dễ, chỉ sai một tí, sót một chút là có thể
hỏng cả cuộc đời, Nhập-Tịnh mà không tới thì bị hôn trầm tức là ngủ gục, còn Nhập-Tịnh
mà quá mức thì phải điên đi mà chớ; Nhập-Tịnh mà đúng rồi, còn phải nhờ các Đấng
Thiêng-Liêng mở Huệ-Quang-Khiếu nữa, mới xuất hồn ra được. Con đường mà Chơn-Thần
xuất ra rồi về với Đức Chí-Tôn là con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống đó vậy.
Chính Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn mở Huệ-Quang-Khiếu nên mới được về hội kiến cùng
Đức Chí-Tôn và đã học hỏi được nơi Đức Chí-Tôn nhiều điều bí-yếu bí-trọng.
Ngày nay, giảng con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là Bần-Đạo
muốn dìu dắt chơn-thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn về với Đức Chí-Tôn qua
một hình thức thuyết Đạo.
Con đường về với Đức Chí-Tôn không phải dễ, mà cũng
không phải về là tới liền, muốn về với Đức Chí-Tôn ta phải qua nhiều Cung nhiều
Điện, mỗi Cung chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Điện chúng ta gặp một huyền vi khác
nhau, phải đi từ Cung này đến Điện nọ, nên gọi là "Dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống". Về được
với Đức Chí-Tôn thì không còn hạnh-phúc nào bằng.
Một kiếp tu chưa chắc đã về được với Đức Chí-Tôn, muôn
năm ngàn kiếp mà nếu thiếu tu, cũng không khi nào về được với Đức Chí-Tôn, mấy
anh mấy chị rán nhớ điều đó, mà tu thì sao? Trong cửa Đạo Cao-Đài này đã dạy tu
rồi, nhứt là Bần-Đạo đã giảng nhiều rồi, ấy là ta phải: Lập Đức, Lập Công và Lập
Ngôn đó vậy.
Bây giờ trở lại đề-tài dục tấn trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Như hồi nãy Bần-Đạo có nói, nhờ hồng ân đặc-biệt của Đức
Chí-Tôn. Bần-Đạo được diễm phúc hội-hiệp cùng Ngài và trước khi hội-hiệp cùng
Ngài, Bần-Đạo cũng đã được hội-kiến cùng các Đấng Thiêng-Liêng nơi cõi
Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kể từ đêm nay, Bần-Đạo không thuyết Đạo, mà Bần-Đạo chỉ
nói lại, thuật lại những gì Bần-Đạo đã thấy, đã nghe, đã biết, khi gặp các Đấng
nơi cảnh Thiêng-Liêng kia, âu cũng là phương-pháp giúp cho toàn-thể con cái Đức
Chí-Tôn biết trước cảnh đó như thế nào, để nữa có về thì không bỡ ngỡ.
Bần-Đạo nói, con cái Đức Chí-Tôn nghe, rồi tưởng-tượng
như mình có một người hướng dẫn, và đi đến đâu, thì người hướng-dẫn giải-thích
đến đó, tỷ-dụ như người ngoại-quốc đến nước Việt-Nam được một người hướng-dẫn
và giới-thiệu các thắng cảnh tại Việt-Nam đó vậy.
Mỗi chơn-hồn nơi thế gian này, khi thoát xác đều phải
qui tựu tại Đền-Thánh này và đi từ trong Đền-Thánh này đến các cảnh giới khác.
Tại sao phải vào Đền-Thánh này, mà không vào các Đền-Thánh khác? Tại vì Đền-Thánh
này tỷ như một trường thi: Mỗi năm Chánh-Phủ mở một kỳ thi như thi Tú-Tài chẳng
hạn, địa-điểm đã ấn định rồi, chỉ có thi nơi đó mới có giá-trị: Tòa-Thánh này
cũng vậy Đức Chí-Tôn lập ra để con cái của Ngài Lập-Công, Lập-Đức, Lập-Ngôn mà
về với Ngài.
Vào Đền-Thánh tức là vào Hiệp-Thiên-Đài, đi từ Hiệp-Thiên-Đài
đến Cung-Đạo, nhưng muốn vào Cung Đạo phải qua Cửu-Trùng-Đài, mỗi nấc của Cửu-Trùng-Đài
là mỗi lần khảo-dượt của các Đấng Thiêng-Liêng, là mỗi lần cứu-rỗi của Cữu-Vị Nữ-Phật,
là mỗi lần cầu xin, của các đẳng linh-hồn, toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn đọc lại
mấy bài kinh từ Đệ Nhứt-Cửu đến Đệ Cữu-Cửu, đến Tiểu-Tường và Đại-Tường thì biết.
Trong cửa Đạo Cao-Đài có ba cách về với Đức Chí-Tôn,
hay là có ba cách lập vị mình:
* Cách thứ nhứt: Các chơn-hồn mượn xác phàm phải đi
theo phẩm-trật Cữu-Thiên Khai-Hóa, tức là theo Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, dùng
tài sức mình lập công để đoạt Đạo, nghĩa là phải đi từ bậc Đạo-Hữu lên Lễ-Sanh,
Giáo-Hữu, Giáo-Sư, v.v... Phải lập công từ Tiểu-Thừa, Trung-Thừa đến Thượng-Thừa,
phải ăn chay từ sáu ngày mỗi tháng đến mười ngày, rồi ăn chay trường luôn, phải
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, các chơn-hồn đi theo phẩm-trật Cửu-Thiên
Khai-Hóa còn phải có tự-tín rồi tha-tín, tức là giác-nhi giác-tha đó vậy, có tự-tín
rồi tha-tín tức là có tự độ mình rồi độ chúng-sanh. Đạo Cao-Đài khác với các nền
Tôn-Giáo khác là ở chỗ đó, trước hết phải độ mình, độ gia-đình mình rồi độ
ngoài thân tộc, tức là độ cả nhơn-loại vậy; mình phải học để mình hiểu Đạo. Hiểu
Đạo rồi, nói sao cho thân tộc mình hiểu Đạo, chẳng những nói Đạo cho thân tộc
mình biết mà thôi, mà phải nói Đạo cho toàn nhơn-loại nữa. Mình học để biết Đạo
là lập Đức, nói Đạo cho thân tộc mình biết Đạo là lập Công, độ toàn nhơn-loại là
lập Ngôn, có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Cữu-Thiên
Khai-Hóa.
* Cách thứ hai: Lập vị mình theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp
Thiêng-Liêng tức là theo Hội-Thánh Phước-Thiện, nơi đây ngoài việc ăn chay giữ-gìn
luật Đạo tùng theo chơn-pháp của Đức Chí-Tôn còn phải dùng Đức để lập vị mình.
Muốn lập đức phải đi từ Minh-Đức, Tân-Dân, Thính-Thiện,
Hành-Thiện, Giáo-Thiện, Chí-Thiện, v.v...
Lập đức là gì? Là dùng sự thương yêu để cứu độ
chúng-sanh mà Đức Chí-Tôn đã có nói: "Sự
thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh" là vậy đó.
Các đẳng chơn-hồn tái kiếp đang chơi vơi trong "Tứ-Diệu-Đề-Khổ". Muốn thoát khổ họ
phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người đi theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp
Thiêng-Liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ
trước hết thì mình phải thọ khổ đã, muốn thọ khổ thì không gì hay bằng dùng Đức
Thương-Yêu. Cho nên bậc thứ nhất của Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là Minh-Đức
đó vậy.
Có thương yêu mới thọ khổ được, ta thương Cha-Mẹ ta,
ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng Cha-Mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo
lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền ta mới tầm
phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp họ là thọ khổ đó vậy.
Thọ khổ rồi mới thắng khổ, thọ khổ không phải một ngày,
một bữa, mà phải thọ khổ cho đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi Cha-Mẹ cho đến tuổi
già, lo cho con từ khi còn bé cho đến lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn
dễ, đến lo cho thiên-hạ hết khổ mới khó, vì khi lo người này, hết người này đến
người khác và cứ như vậy trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ, có thắng khổ mới
về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng.
* Cách thứ ba: Cách thứ ba Là cách Tu-Chơn hay là cách
Tịnh-Luyện cũng thế.
Những người đi trong Cữu-Phẩm Thần-Tiên hay đi trong
Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng, khi mình nhận thấy là đã Lập-Đức, Lập-Công, Lập-Ngôn
rồi. Hay là đã thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa, thì vào nhà Tịnh để được
Tu-Chơn. Nơi đây các vị đó sẽ được học phương-pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện
Khí hóa Thần, tức là Tinh-Khí Thần hiệp nhứt là Hườn-Hư đó vậy.
Bây giờ trở lại con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Khi
chúng ta qua khỏi Cửu-Trùng-Đài bước vào Cung-Đạo, trực ngó lên trên không thấy
Bát-Quái-Đài nữa mà thấy Đại-Hải minh mông, thấy mờ-mờ mịt-mịt. Càn-Khôn Vũ-Trụ
bao la không thể gì tưởng tượng được, bắt đầu từ lúc này chúng ta bước vào
Con-Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống rồi đó.
Nếu đi theo con đường Cữu-Thiên Khai-Hóa và con đường
Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng thì khác. Vì đi hai con đường đó là khi ta mãn
kiếp về với Đức Chí-Tôn, ta đi với cả Linh-Hồn và Thể-Phách. Còn hôm nay chúng
ta về với Đức Chí-Tôn bằng Chơn-Thần vì Bần-Đạo may duyên được đặc ân của Đức
Chí-Tôn cho phép nên mới đi riêng cũng như đi tắt vậy.
Chúng ta ngó lên thấy như Đại-Hải minh mông, nhưng thật
ra không phải Đại-Hải mà là vòm trời của Càn-Khôn Vũ-Trụ, nơi xa xa khi ẩn khi
hiện trong mây, một tòa nhà nguy nga đồ-sộ, thoạt ẩn thoạt hiện mập-mờ, vừa ngó
thấy thì ta muốn đến ngay, không biết làm sao đến, vừa lúc đó pháp-thân ta như
có một sức mạnh hút đi, không đi mà đến, đến mau như đi bằng máy bay vậy.
Đến rồi ngó thấy quần sanh nhơn-loại muôn trùng, lớp đến
lớp đi không biết bao nhiêu mà nói, nhiều như vậy, mà dường như không có tiếng
động nào, thứ-tự lớp lang có trật-tự lắm. Nơi đó gọi là Cung Thánh, tức là Cung
để cho các chơn-hồn ra khỏi cảnh Thiêng-Liêng đi tái kiếp mà cũng là nơi tiếp
rước các đẳng linh-hồn sau khi tái kiếp trở về. Nơi đó giống như một trạm hàng
không, hay là trạm xe lửa vậy, kẻ đi, người đến muôn trùng, đi thì buồn, về thì
vui, nhưng tất cả đều hiển-hiện lên khuôn mặt của mọi người một sự lo lắng
chung; đi cũng lo mà về cũng lo, đi mà lo là lo không biết xuống thế-gian có
làm tròn bổn-phận khi giao-ước với Đức Chí-Tôn không? Về cũng lo là lo không biết
phẩm-vị mình ra sao có còn hay mất, lo lắm, mọi người đều lo lắm.
Kỳ sau, Bần-Đạo giảng tiếp về Cung Thánh và Cung Thể-Thiên
Hành-Hóa./.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 02
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 18 tháng 8 năm Mậu-Tý (21-9-1948)
Y như lời hứa hẹn của Bần-Đạo hôm qua, chúng ta rủ
nhau dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Hôm qua chúng ta, đã đến Cung Thánh, chúng ta đã hiểu
sơ lược quần sanh nhơn-loại trên mặt địa-cầu này. Hôm nay Bần-Đạo dắt chư Hiền-Hữu
vào nơi Cung Thừa-Thiên Hành Hóa, nơi đó Chư Thánh đang ngồi cân lường từ việc
tương lai, từ trái địa-cầu này, qua trái địa-cầu khác, nơi đó không có một buổi
nào họ không tưởng đến tinh thần nhơn-loại trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Từ nước này
qua nước khác, họ ngồi, họ lập chương-trình định quyết, ai đến, ai về để cứu
vãn tình thế, không có buổi nào họ quên được, hạng nhứt hơn hết trong Cung Thừa-Thiên
Hành-Hóa, chúng ta hiểu rằng Chư Thánh không buổi nào họ quên lo cho số mạng của
chúng ta. Ta phải dục tấn tới nữa, tới Cung Hành-Hóa ta giong ruỗi trên con đường
xa xăm, vòi vọi, bởi trên đường đi đến Cung Hành-Hóa thiên hạ vắng vẻ, ít ai. Từ
thử tới giờ, muốn qui Tiên, muốn vị Phật, chẳng phải dễ gì đoạt đặng. Từ loài
người, biết người, ta so sánh coi luật-pháp giúp nhơn-loại thành Tiên, thành Phật
như thế nào? Tức nhiên muốn thành Tiên thành Phật phải tu bao nhiêu năm? Chúng
ta coi Đạo-Giáo tại sao không tăng tiến, chúng ta tính xem Đạo-Giáo đã giúp
thiên hạ đoạt vị gì? Phong-Thần Trung-Hoa hay của Phù-Tang không giúp họ gì hết
chỉ làm họ tạo thêm bất mãn, luân-luân chuyển-chuyển, không giúp họ tạo được phẩm-vị
gì hết, phần đông họ nhờ quả kiếp họ định-vị cho họ mà thôi. Vì cớ chúng ta thấy
trên mặt địa-cầu này nhiều vị oán Đạo-Giáo lắm.
Bần-Đạo nói điều ấy để quan-sát vì chúng ta phải dục tấn
trên con đường vô cùng vô tận, kiếp sanh của chúng ta mặc cho thiên-hạ nói dễ
mà khó gìn chơn-lý. Chúng ta đi đến nơi khác hơn cảnh náo nhiệt đã trải qua.
Trái lại, con đường chúng ta đi hôm nay thật là huyền-diệu
đẹp-đẽ, an-nhàn làm sao. Ta vừa bước tấn tới thì thấy trong mình ta thơ-thới nhẹ-nhàng,
dọc theo hai bên con đường ta đi ấy, cảnh nào cũng hữu tình, khi nhắc đến thế-gian
làm ta buồn rầu, nhưng nơi đây không có cảnh nào làm cho các bạn thơ-thới bằng.
Hễ nói Tiên, thì có Tiên, mấy bạn biết sao không? Mơ mộng chẳng phải là chuyện
không có. Ta đi tới mãi, càng đi sâu chúng ta thấy hưởng vui khoái-lạc vô cùng.
Chúng ta sẽ đi tới cảnh đó, để tạo ra các Pháp Giới. Muốn đặng thì đặng vô biên
huyền bí, chúng ta thấy các việc ta chưa đoạt đến mà dòm thấy mặt thiên-hạ đặng.
Họ không phải lãnh-đạm với ta đâu, chờ ta đặng đón rước ta. Ta thấy trên khuôn
mặt họ hiện ra đủ khôn ngoan, hiền từ, đức tánh Thiêng-Liêng lộng-lẫy không còn
một mảy may phàm cách. Cái phong-thần vẫn còn huyền-bí vô biên, họ muốn thế nào
thì đẹp cả đôi như vậy. Trái lại có một điều vẫn giữ Thể Pháp của họ cho dễ
nhìn: Như chúng ta gặp Bát Tiên y như trong tượng vẽ không thay đổi mấy, đặng,
thiên hạ nhận ra cho đặng (*1). Bởi trong thâm-tâm cao-siêu ấy cho chúng ta tìm
phương đoạt tánh. Chúng ta thấy địa giới không thua gì Càn-Khôn Vũ-Trụ, từ Thượng-Cổ
đủ hết. Tôi xin nói không phải địa-cầu này làm bạn với địa-cầu này mà thôi, mà
nơi địa-cầu khác họ đến làm bạn. Những Đấng đến đó họ ở địa-cầu khác họ qua
không phải ở địa-cầu này, họ ở địa-cầu về đoạt phẩm-vị cao siêu, chớ địa cầu 68
này, Bần-Đạo nói: Ở địa cầu 68 này có loạn nhiều chớ không phải có con cái nhiều.
Bần-Đạo nói, họ đương nói chuyện mà trên đầu họ muôn
ánh hào quang xẹt tứ tung ở không trung, họ đương nói chuyện ở đây mà họ điều đình
tới địa-giới khác, cả Càn-Khôn Vũ-Trụ huyền bí vô biên không tỏa đặng. Ấy là một
phẩm-vị Thể-Thiên Hành-Hóa cầm quyền Tạo-Đoan, không có điều gì họ không làm đặng.
Cái quyền ấy như đàng cựu chúng ta nói: "Tiền trảm
hậu tấu". Họ nịnh có, trung có; nhưng chúng ta muốn tìm bạn mực thước
tinh-thần nghị lực, trí não huyền bí, nơi Cung Thể-Thiên Hành-Hóa có cảnh nào
mà không có, ta thấy hoàn cảnh phủ phê Pháp-Giới, không sở năng nào thiếu thốn.
Địa-cầu này muốn đủ thì họ bảo bọc cho tồn tại không thể thiếu Pháp-Giới nào./.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn
thứ 4: ... Trái lại có một điều vẫn giữ Thể Pháp của họ cho dễ nhìn: Như chúng ta gặp Bát Tiên y như trong tượng vẽ không
thay đổi mấy, đặng, thiên hạ nhận ra cho đặng. Bởi trong thâm-tâm cao-siêu ấy
cho chúng ta tìm phương đoạt tánh... ...
Nguyên bản chánh in là: ... Trái lại có một điều vẫn
giữ Thể Pháp của họ cho dễ nhìn: Như chúng ta gặp Bát Tiên y như trong tượng vẽ
không thay đổi mấy, đặng, thiên hạ cho đặng. Bởi trong thâm-tâm cao-siêu ấy cho
chúng ta tìm phương đoạt tánh... ...
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 03
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 08 tháng 9 năm Mậu-Tý (10-10-1948)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống,
chúng ta đã đình bộ tại Cung Thể-Thiên Hành-Hóa, ngày nay giảng về Cung ấy.
Chúng ta đi tới nữa sẽ gặp cảnh ly kỳ, nhứt là buổi giảng
Đạo hôm nay, cốt yếu giảng cho cả Chức-Sắc Thiên-Phong là các phần-tử trong
Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn đó vậy. Chúng ta tiến tới mãi đi trên con đường đó xa
vô cùng tận, không thể gì định thời gian, chúng ta tới nữa, thử nghĩ, chúng ta
ngồi trên chiếc máy bay như thế nào thì đi theo cơ huyền-diệu-pháp như thế ấy.
Ngồi trên cơ huyền-diệu-pháp tức là ngồi trên chiếc xe bí-mật của Chí-Tôn để đến
một đài sáng suốt chiếu diệu. Đài ấy có tám góc kêu là Bát-Quái-Đài không thể gì
chúng ta tả ra với lời nói đặng. Bởi đài ấy huyền-bí biến hóa vô cùng, nó có
tám cửa, trong tám cửa chúng ta ngó thấy cả Vạn-Linh và Vật-Loại, các hình thể
Vạn-Linh đều xuất hiện hình ảnh sáng suốt hiện ra hào quang chiếu diệu. Trong
tám góc có tám cái cầu. Lạ thay, cầu ấy không phải bằng cây ván, mà nó là tám đạo
hào-quang. Cầu ấy bắt ngang bờ. Dưới cầu ấy chúng ta ngó thấy dường như một
Bích-Hải nước xao, sóng dợn như biển sôi nổi đó vậy. Trong tám góc chúng ta thấy
đó, chắc cả thảy đều để ý nơi góc ta đến, thấy nhơn-loại đi tới đi lui nhiều
hơn hết.
Lạ thay, cầu ấy rất huyền-diệu, ai đứng đó được mới biết
mình nhập vô Bát-Quái-Đài. Lúc để bước lên cầu, cầu ấy chuyển đi, làm cho chúng
ta phải yếu, đi không đặng. Chúng ta muốn thối bộ. Khi chơn vừa bước tới chính
mình ta ngó thấy dường như mình yếu đi nhưng người nào bước tới cũng đặng. Đi
được nửa chừng nếu không đủ thiên-vị, hay vì tội tình oan gia nghiệt chướng chi
mà chúng ta đã đào tạo nơi mặt thế này, chúng ta đi tới nữa cầu sẽ bị lọt xuống
Bích-Hải. Lọt xuống đó rồi ta thấy hồi lúc đi, còn ở trên cầu, chúng ta thấy
hình ảnh còn đẹp-đẽ tốt tươi, hễ lọt xuống Bích-Hải rồi chúng ta thấy hình thù
đen thui dị hợm lắm, ta không thể tưởng-tượng, còn hơn loài mọi kia tối đen như
vậy. Tội nghiệp thay khi ta thấy nơi ấy, có nhiều bạn đồng tu với ta, những bạn
chung sống với ta ở trong lòng Đức Chí-Tôn đó vậy. Chúng ta may duyên được ngó
thấy mình ngồi trên chỗ cao trọng để làm người khán giả, dòm thấy người bạn của
chúng ta lâm vào cảnh ấy, dầu ai vững tâm thế nào tôi tưởng khó cầm giọt lụy đặng.
Ngộ-nghĩnh có một điều là không khi nào sai chạy. Bần-Đạo dám quả quyết rằng:
Không có điều nào qua Pháp-Luật vô biên ấy, chúng ta ngó thấy mỗi việc nơi thế
gian này ta nên lấy làm bài học đặng định tâm chúng ta, đặng tu tỉnh tinh-thần
ta cho nên chí thiện, chí Thánh, hầu xứng đáng làm phần-tử Thánh-Thể của Đức
Chí-Tôn, đừng mộng tưởng một hành tàng nào trong kiếp sống thế-gian này của ta
có thể khuất lấp qua khỏi quyền Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn được.
Ta minh-mẫn, sáng suốt, biết phân biệt tội phước đặng
định số phận Thiêng-Liêng, quyết hẳn rằng không có điều nào khuất lấp Luật-Pháp
Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn đã định cả.
Bần-Đạo may duyên đặng thấy hình trạng ấy, chúng ta
không thể gì định hành-tàng người này hay, người kia dở, người này nên, người
kia hư, nhiều điều ta ngó thấy trong cảnh này khác hẳn với khuôn luật vô hình,
chúng ta chẳng thể nào đoán trước được. Bần-Đạo thấy người bạn nhờ ơn Thiêng-Liêng
của Đức Chí-Tôn, ơn riêng ban cho người bạn ấy, Người ấy có Người chí thân là một
Đấng cầm quyền trọng hệ trên Hư-Linh tức là Diêu-Trì-Cung Thất-Nương, Bần-Đạo
nói rõ, Người ấy là Vương-Quang-Kỳ chú ruột của Thất-Nương vậy. Người mở Đạo mà
chẳng biết Đạo là gì hết. Đi theo một tư-tưởng của nền chánh-giáo do Đức
Chí-Tôn định quyết tư-tưởng của Người ấy và cả hành-tàng, nếu chúng ta thấy ta
sẽ lên án là Tả-Đạo Bàn-Môn chắc hẳn vậy.
Lạ thay! Khi Bần-Đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi
xuống Bích-Hải khóc lóc, còn người đó bận Thiên-Phục giống hình đội mão Giáo-Sư,
lại áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật-ngờ, ngật-ngưỡng
cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát-Quái-Đài như không vậy.
Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu-vi
thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng Ngài, ta đoán
không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm
nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được. Chúng ta
nên (*1) lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích. Thoảng ta
có phận sự dạy-dỗ để dìu-dắt cả các phần-tử Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, và chúng
ta có được quyền lấy oai-nghiêm của mình tìm phương thế nào dạy-dỗ đặng hiểu biết
về phần hình-thể và phần hồn của toàn con cái Đức Chí-Tôn, ngoài ra không có
quyền gì công kích, tự kiêu, mình bất quá là một phần-tử trong Thánh-Thể Ngài
mà thôi, không đặng quá tự-tôn tự-trọng, cửa Thiêng-Liêng, chúng ta có những
linh hồn, thoảng may duyên tạo nhiều linh hồn nữa, tức nhiên ta có đủ quyền
năng, dìu dắt con cái của Đức Chí-Tôn trở về trong đường lối khai phá của Người,
ấy là phận sự của chúng ta đó.
Phận sự, khi nào gọi đến phận sự thì không có quyền sở
hữu chi riêng của mình nơi đó, chẳng phải quyền hành riêng tư của mình, thì
không có lý do được tự-kiêu, tự làm phận sự, nếu nói chánh đáng nữa, thì ta bất
quá là cái máy Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn, mạnh yếu tại nơi người điều khiển,
không phải tại chúng ta có quyền tự-chủ tự-kiêu gì mà đọat được. Chúng ta có
quyền thay thế làm Thầy làm Cha của con cái Đức Chí-Tôn, chúng ta không có quyền
làm chủ sự đày đọa họ bắt làm nô lệ. Chẳng phải vì công-nghiệp vĩ-đại hay là
công-nghiệp tối cao của mình mà trở lại khi rẻ các chơn-linh xuống thế-gian
này, nếu các bạn không giữ cho nó công-bình ấy cũng không phương thoát khỏi tội
đó. Bởi nó là phương-pháp trị loạn vậy.
Có điều thảm trạng hơn hết là có nhiều kẻ đi đến nơi,
biết mình đi không được đến bờ, khóc lóc rồi trở lại. Cả thảy tưởng-tượng coi họ
cốt yếu tái kiếp làm người để trả oan- nghiệt của họ là vì lẽ đó./.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng
của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng
Ngài, ta đoán không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được,
duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được.
Chúng ta nên lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích....
Nguyên bản chánh in là: Ấy các bạn đủ biết, dầu hành
tàng của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm
tín-ngưỡng Ngài, ta đoán không đặng, người thọThiên-Phục áo mão dầu không thế
gì mặc vô được, duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào
ngăn cản được. Chúng ta đến lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình
công kích....
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 04
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 12 tháng 9 năm Mậu-Tý (14-10-1948)
Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Kỳ
trước Bần-Đạo đã đi đến Bát-Quái-Đài, tưởng cả thảy đều nhớ. Hôm trước Bần-Đạo
chỉ giảng về bài học của chúng ta khi vượt qua khổ hải để đến Bát-Quái-Đài.
Hôm nay, Bần-Đạo giảng tiếp, tại sao chúng ta lên
Bát-Quái-Đài bằng con đường khác hơn con đường những kẻ đã đến. Vì những kẻ
khác bị một cây cầu ngăn cách giữa khổ hải và Bát-Quái-Đài, cầu ấy buộc họ
không thể gì đến Bát-Quái-Đài, phải thối bước, sự thảm trạng của họ không thể gì
tả được, sự thối bước đó diễn tiến trước mắt, chúng ta không có người nào cầm
giọt lụy của mình đặng, ngó thì đau khổ vô ngần.
Vậy kiếm hiểu coi: Bát-Quái-Đài ấy là gì? Phải chăng
là Tòa-Tam-Giáo của Đức Chí-Tôn, do Thánh-Ngôn để lại, chúng ta quan-sát coi trạng
thái. Muốn đến Bát-Quái-Đài chúng ta phải qua ao Ô-Trì chúng ta thấy,
Bát-Quái-Đài nó thù lù ở dưới trồi lên trước mặt chúng ta, chúng ta thấy hình
nó giống như cây cột có tám cửa vậy. Cột đài ấy có tám cửa là Thất-Đầu-Xà, có bảy
đầu trong tám cửa ngăn cản các chơn hồn không cho vào Bát-Quái-Đài duy chỉ chừa
có cửa Phật mà thôi. Cả bảy cửa kia Quỉ giữ không cho ai qua lại, không có lực
quyền nào đi ngang qua đặng, chúng ta dòm phía dưới thấy Đại-Hải mênh mông, nước
cuồn-cuộn xanh như biếc, sóng dợn ba đào, mỗi làn sóng có đề chữ "Khổ".
Chúng ta chia ra đi trên ấy, chúng ta thấy dợn hào-quang nổi lên dữ tợn lắm; mấy
chữ lớn là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, làn sóng dợn lên rồi hạ xuống, mỗi làn đều có
một chữ "Khổ", chúng ta thấy đau khổ trong buổi sanh, thấy làn sóng rồi
chúng ta thấy khổ nhục, khổ dữ lắm, mỗi làn sóng đều thấy khổ, thử nghĩ Đại-Hải
như thế nào thì khổ hải là cả nước của chúng ta như thế ấy.
Nếu chúng ta xin phép Đức Chí-Tôn vô đài ấy, chúng ta
biết trước rằng: Đó là Tòa Tam-Giáo Ngọc-Hư Cung, chúng ta được hiểu trước hết,
nếu Chí-Tôn cho vô thì chúng ta chẳng phải đi ngang qua cầu như những người kia
vậy con đường ta đi khác hơn. Chúng ta tưởng rằng: Đường Bần-Đạo dắt cứ đi, đi
trên con đường Hằng-Sống. Con đường này khác hẳn với con đường kia, chúng ta
dung rủi trên con đường Thánh cho nên chúng ta muốn đến tức nhiên sẽ đến.
Chí-Tôn có Bát-Quái-Đài, chúng ta ở ngoài thấy
mênh-mông hào quang chiếu diệu một nhà tám cửa. Khi chúng ta vô rồi đài ấy biến
mất, chỉ còn Càn-Khôn Vũ-Trụ chung quanh chúng ta. Đài ấy vẫn xây, xây mãi, mà
ta biết rằng đài ấy là Tòa-Tam-Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể
nó ra sao. Khi chúng ta đến hào quang chiếu diệu xông lên làm như ngọn lửa vậy.
Lửa ấy chẳng phải là lửa thật, nó là hào quang, cho ta
thấy trước rồi nó biến mất đi, kế thấy một cây cân Công-Bình hiện ra trước mắt
chúng ta rồi cũng từ từ biến mất. Chúng ta thấy mình chẳng khác nào như khán giả
đứng trước đài kia coi cả kiếp sanh chúng ta, từ trước nó sẽ có trước mắt chúng
ta, không điều gì sót, phải chăng nơi ấy kinh Phật nói là Minh-Cảnh-Đài? chớ
không phải kiếng, trước mặt chúng ta, chúng ta thấy, khi trước chúng ta làm những
việc gì nay nó sẽ chiếu lại cho xem chẳng khác gì như mình xem tuồng hát bóng vậy.
Mỗi khi mình hành động gì trong kiếp sanh khi xưa hôm
nay đều ngó thấy trước mặt, và cân ấy tùy theo nên, hư, tội phước mà hiện tượng
ra hết thảy, quyết đoán một cách công-bình không sai chút nào hết, phải chăng
đó là huyền-bí của Tòa Thiêng-Liêng ấy. Vậy hành tàng đã có trước mắt, luật
Tam-Giáo chẳng hề sai chạy. Kiếp sanh đã làm gì Đời hay Đạo, mặt Luật
Thiêng-Liêng không sót một điều, chúng ta muốn coi cái Bí-Pháp sửa trị ra sao,
đi vô đó thì biết. Những người khác, họ đi đường nào, chúng ta không ngó thấy,
khi vô trong Đài rồi họ cũng như mình, đồng thể như mình, nếu họ vô rồi không
phân biệt họ được nữa, ngó thấy quyền-pháp trong Đài ấy tình trạng rất ngộ-nghĩnh
hào quang chiếu diệu, khi bước lên cây cầu đứng rồi thấy chung lộn với nhau, vạn
vạn người đi ngang qua đấy. Có một điều ngộ-nghĩnh là chúng ta ngó thấy Nam hóa
Nữ, Nữ hóa Nam không còn hình ảnh nữa, đến bây giờ trong Đài ấy hiện ra hai ánh
lửa: Nếu người nào thiếu lòng thương yêu không biết thương mình, không biết thương
người, nếu phạm vào luật thương yêu ấy thì dầu Nam cũng phải hóa Nữ, Nữ đã trọn
kiếp tu thật hành nghiêm luật thương yêu đó thì đặng hóa Nam. Có một điều ta
nên để ý là không biết lúc nào họ ra cửa, khi họ ra không biết họ ra cửa nào,
chúng ta ra chỉ biết mình thôi, không thể gì đoán được mấy người kia, nếu có đoạt
phẩm-vị họ chỉ biết lấy họ mà thôi, họ thành Tiên, thành Phật cũng tại đó, khi
họ ra Nam hóa Nữ nếu họ có tội tình gì thì bắt họ phải trở lại đầu kiếp.
Dầu cho hình luật định, họ phải đầu kiếp, nhưng họ còn
quyền duy chủ của họ nữa không có quyền luật nào buộc họ phải đầu kiếp liền được,
họ đặng vô Đài ấy 1.200, 2.400 tới 3.000 năm ở đó an nghĩ vui hứng, ngày giờ
nào biết ta có thể đầu kiếp trở lại, đặng chuyển Pháp, đến giáo Đạo, hành Đạo,
chừng ấy chúng ta ra khỏi Niết-Bàn đặng đầu kiếp. Ngày ấy chúng ta định cho
chúng ta chớ không phải Ngọc-Hư-Cung định cho chúng ta, ta có quyền tự chủ khi
đã định nơi cõi Hư-Linh, còn khi mang xác phàm này rồi thì mình không định được
nữa. Có nhiều Đấng Thiêng-Liêng đến trọn một kiếp sanh mà không làm gì được lại
phải đầu kiếp. Ấy vậy chúng ta nên kể trong sử của chúng ta từ thử đến giờ, nhứt
là Đạo-Giáo họ để tâm-thần tìm cho nhơn-sanh một thuyết, thuyết không đúng với
chơn-lý Thiêng-Liêng chút nào, họ lập thuyết là phân chúng sanh ra Nam Nữ, làm
ra khuôn-khổ "Nam Nữ thọ thọ bất thân", cả nền Tôn-Giáo tạo ra
Pháp-Giới bất công là Nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi hơn Nam.
Đạo vợ chồng ở trên thế gian này chúng ta nên cẩn thận
để ngày kia về đến Bát-Quái-Đài khỏi thất lỗi với vợ, nếu người vợ đối tròn bổn-phận
với mình thì họ được hóa Nam, chừng ấy là người bạn mật thiết với chúng ta, thoảng
như chúng ta làm sai với bạn chúng ta, thì ngày kia bạn ta trách ta rằng: Tôi
xuống trần chung sống với bạn, những cảnh khổ bạn không dìu dắt tôi, bạn còn
hân-hủi tôi nữa, câu trách ấy ta phải chịu không thể gì trả lời được.
Vì cớ cho nên Phật-Giáo cho Nữ đồng quyền Nam, tôi nói
quả quyết rằng: Chừng nào chúng ta thấy nơi mặt thế này đoàn em Nữ phái mình biết
sợ, kiêng nể Pháp-Luật thì nó cũng như Nam vậy. Nếu bạc đãi nó, hủy bỏ nó không
dìu-dắt đồng sống nhau, ngày giờ đến Bát-Quái-Đài nó hóa Nam dòm lại nó là người
bạn quí nhứt của mình, cũng chịu đau khổ trọn kiếp sanh, chúng ta tưởng lấy làm
đau đớn không giúp được, trái lại còn khi rẻ gớm ghiếc, chúng ta đến sẽ thấy chỗ
đó không còn Nam Nữ nữa. Hư-Linh kia quả quyết rằng: Có nhiều bạn Nam ta quen
biết, đầu kiếp Nữ tại thế-gian này, không biết là bao nhiêu, nhiều lắm. Có các
Đấng cao siêu đến Ngươn Tứ-Chuyển này đặng tạo hình các chơn-hồn, họ xuống tại
thế đặng chuyển thế, dầu Nam Nữ ở các Cung cũng đến tại thế gian này, làm đàn
bà đặng thay các sắc dân ấy, để chuyển thế, chơn thật nơi cõi Hư-Linh kia không
phân biệt Nam Nữ, Đức Chí-Tôn nói: Nam không được lấn quyền hành hơn Nữ, Nam Nữ
đều con của Đức Chí-Tôn hết, nói như thế ta biết không có gì lạ./.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 05
Đức
Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 19 tháng 9 năm Mậu-Tý (21-10-1948)
Đêm nay chúng ta rủ nhau dục-tấn
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, trước Bần-Đạo
đã đắt chư Hiền-Hữu, chư Hiền-Muội
vào Bát-Quái-Đài chung chịu với các bậc Quỉ-Nhân, hay Nguyên-Nhân, tưởng khi chúng ta vào đó mỗi đứa chắc hẳn rằng sẽ được
gặp nhiều người bạn quen có thâm tình
yêu mến chúng ta. Trước khi
chúng ta ra khỏi Bát-Quái-Đài rồi không còn hình-thể nhơ-nhớp
như trước nữa, bỏ bảy khí chất tạo thành hình-thể chúng ta, nhờ đi ngang qua Bát-Quái-Đài, bước Thiêng-Liêng ấy, Bần-Đạo tả cho chúng ta rõ con đường đi ấy không phân biệt
Nam-Nữ, còn cả thảy hình-hài thể-chất chúng ta nhờ huyền-diệu ấy mà tiêu hủy,
nó biến thành đạo hào-quang. Chúng ta dòm lại, Bần-Đạo quả quyết rằng chúng ta
tưởng như thể xác này là gió bụi, chúng ta không còn mặc một mảnh áo, hay mảnh
vải gì khác nữa, chúng ta trở nên trầm lộn với đạo hào-quang vinh diệu kia che
phủ, khi chúng ta ra khỏi Bát-Quái-Đài rồi thấy vui sướng chúng ta không tả được, phải chăng nơi ấy là nơi
chúng ta đã đoạt đặng
Thánh-Thể ta, nhà Phật gọi "Tiên-Phong
Đạo-Cốt", khi ra khỏi Bát-Quái-Đài, các bạn chúng ta ở trong
Bát-Quái-Đài không có người
nào là không bạn với chúng ta, chẳng bao lâu nữa các vị ấy là thân nhơn của chúng
ta, đây rồi chư Hiền-Hữu, chư Hiền-Muội còn ba điều vui hơn nữa, ba hạnh phúc mà chúng ta không
bao giờ hưởng được nơi mặt thế này.
Chúng ta đi, chúng ta dục tấn tới con đường Thiêng-Liêng ấy, con đường này là
con đường chúng ta phải đi. Duy có một điều đi trên con đường chúng ta đã đi,
con đường quen này chưa gặp trong Bát-Quái-Đài có người nào ác hết, dầu biết
hay không biết chẳng hạn, khi về cảnh ấy không Đấng nào xa lạ với chúng ta,
không phải một loài với chúng ta, mà lại trong Bát-Quái-Đài có cả thân nhân
chúng ta đó vậy.
Một điều chúng ta sẽ ngạc nhiên hơn hết là: Chúng ta
đi trên con đường Thánh này thấy những hạng lãnh-đạm ấy cũng mừng rỡ cũng vui
thấy nhau vậy, nhưng không bằng những người đi qua cầu Bát-Quái-Đài rồi, khi
chúng ta tưởng-tượng các Đấng ấy thì họ sẽ nghinh tiếp mừng rỡ chúng ta, mừng rỡ
một cách nồng-nàn như người thân nhân của họ vậy, và họ còn ứa lụy nữa. Trong
Đài tiếp rước mừng rỡ tôn trọng ấy, chúng ta chưa thấy vị Đế-Vương nào tại thế-gian
này mà hưởng được đặc ân ấy.
Chúng ta tự hiểu rằng: Cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia
không phải để rước những vị Chí-Thánh mà thôi, mà cảnh Thiêng-Liêng vinh diệu
kia thoảng chúng ta biết tự tu thân giải oan nghiệt, tội chướng, thì đoạt đặng
chơn huệ tinh-thần của chúng ta vậy. Một điều chúng ta đừng tưởng họ ganh-ghét
chúng ta, sự vinh-hiển của họ có bao nhiêu thì mình cũng được vui hưởng bấy
nhiêu như họ vậy, tới cửa đó hết sự ganh-ghét, giành-giựt, hiềm thù với nhau, cảnh
đó là cảnh vui hưởng hạnh-phúc chung với nhau, chúng ta thấy vật loại cũng có tình
đời với chúng ta, có một cảm-tình không thể gì tả đặng, như loài chim chóc, thú
cầm, cây cối, đều có để (*1) trong tinh-thần của chúng ta một thâm tình quen biết
nồng-nàn đặc-biệt với nhau, con người ở thế gian này gọi Nam thanh, Nữ tú, nhưng
Bần-Đạo quả quyết rằng: thế gian này không có, nếu có thì cũng chẳng đẹp bằng, ở
trên đó không người nào không xinh, nơi cảnh ấy không cần gì ăn mặc, họ muốn
thì hiện tượng có, tỷ như mình muốn cái gì đẹp thì có cái nấy, nhứt là mấy cô
nhỏ muốn chi đặng nấy, cái kiếp chúng ta nơi cảnh này là cảnh giả, chúng ta đoạt
ý muốn một điều vui hơn nữa là những người thiếu-thốn nơi mặt thế này nếu họ đoạt
vị được thì ngày đó họ vui hưởng biết bao nhiêu. Chúng ta đến nữa xa xa dòm tới
một phương trời xanh thấy một Vân-Động đẹp vô- biên, vô-giới, không tả bằng mực
hay bút nghiên được, Vân-Động ấy hữu tình nồng- nàn với chúng ta làm sao đâu!
Chúng ta thấy xa xa kia phất-phới một cây phướn theo
chiều gió phất-phơ, màu chiếu diệu, đầy hào-quang, mà cây phướn ấy lại quen,
phướn ấy là tình cố hữu với chúng ta nữa.
Bần-Đạo dám nói chắc rằng những kẻ nào gốc-gác ở
Tây-Ninh này đã lìa khỏi xứ sở lâu rồi, đến khi về tới Trảng-Bàng trực lên ngó
thấy hình dạng Núi Bà xanh ngắt kia, bắt nhớ lại mọi cảnh đáo để. Bần-Đạo nói
cái tình của mình đối với cây phướn trước mặt kia, có muôn triệu sự mến yêu. Bởi
vậy nên chúng ta ngó thấy, thấy rồi dường như kẻ ấy muốn chạy sao cho mau đến
Tây-Ninh, đến đặng thấy Tòa-Lầu nguy-nga chớn chở đẹp đẽ vô cùng. Tại đó cũng
biến hóa vô biên nào nhà nghề, nào nhà kiến-trúc, làm cho cả tinh-thần phải gẫm
nghĩ xem mê man, không có họa đồ nào vẽ được hết. Chúng ta thấy bước qua nền
bên kia chúng ta đi đó chẳng phải cát đất, nó là hào-quang chiếu diệu, chúng ta
vô Tòa-Lầu-Các ấy đủ các hạng người chúng ta quen thuộc hồi trước.
Bần-Đạo chẳng cần nói cả thảy cũng đều biết, nội bao
nhiêu đó chúng ta sẽ biết cảnh đó thế nào, chúng ta được gặp bạn thân yêu không
còn e lệ Nam Nữ, kìa bạn ôi! bạn thân mến, không có gì ngần-ngại nữa, tình thương
chúng ta sống lại, ân-ái chập chồng, anh em xác thịt đối với cảnh ấy nó không
nghĩa lý gì hết.
Bần-Đạo nói rằng cái luật thương yêu ấy nó hiện tượng
ra không phải vô nhơn-đạo, nó hiện tượng tình hạnh-phúc lớn lao làm cả mấy người
dòm thấy hiểu hạnh-phúc, vui hưởng cái tình ấy, họ để cái thâm tình nơi cảnh ấy,
có một điều quyền-năng vô tận mà chúng ta không hưởng được, chúng ta không thể
hưởng được cảnh ấy nơi thế-gian này. Ngộ-nghĩnh thay tỷ như chúng ta đã lưu-lạc
cõi xa, khi Bần-Đạo về đến, thấy cảnh ấy, thấy nó nồng-nàn thâm-thúy biết bao
nhiêu, họ mừng rỡ tiếp rước, Bần-Đạo nói, nơi cảnh ấy chúng ta muốn gì đều có
trước mắt, nên giờ khắc này, chúng ta vừa tưởng muốn người bạn nào thì sẽ có người
bạn ấy ngay. Bần-Đạo căn dặn một điều, đặng ngày sau về cõi Thiêng-Liêng khỏi
ân-hận là: vợ chồng với nhau, Bần-Đạo nói đồng ý-kiến hay không, là về tâm-lý để
về đến cõi ấy rồi ân-hận.
Bần-Đạo khó tả được vì sự thương yêu của họ còn mặn nồng
yêu ái hơn nữa, những hạnh-phúc đã qua họ rớt giọt nước mắt đau thương, trong
thế-gian làm người một trăm năm, còn cảnh kia đời đời kiếp kiếp. Chúng ta đi tới,
vô cửa, họ sẽ dắt chúng ta đi tới nữa thấy vui hớn hở vào thân ta, không biết
vui hưởng thế nào có phải chăng là nhờ nơi cửa Đạo.
Gọi là Cực-Lạc Thế-Giới, ngoài cảnh đó ra Bần-Đạo chưa
tìm được cảnh nào hơn cảnh ấy, chỉ có nơi đó mà thôi Phật gọi là Cực-Lạc Thế-Giới.
Chúng ta vào trong cũng thấy một cái Ngai, đến trước
Ngai vinh diệu ấy, chúng ta vừa dòm lên dường như có một Đấng, Đấng ấy chúng ta
có thể gọi là Bà Già, nếu chúng ta tưởng một vị Tiên-Nữ thì có một vị Tiên-Nữ,
muốn thấy già thì già, muốn thấy trẻ thì trẻ, rất huyền-diệu, chúng ta được
vào, vô thấy bà mẹ mình.
Ông Nội, dòm lên cũng thấy Mẹ, cháu nội dòm lên cũng
thấy mặt Mẹ, bởi vậy cho nên cả tình ái của mình đều thấy cả nghiệp năng yêu-ái
của mình. Ở thế-gian này, Mẹ hay chửi mắng, rầy la, khi chúng ta về cảnh ấy thấy
người Mẹ có nhơn tình làm sao đâu, chớ không phải như các Bà Mẹ ở thế-gian này
vậy.
Hễ khi thấy Bà rồi cả tình ái xưa không thể gì tả ra
hình-trạng được, rồi tình ấy buộc chúng ta dầu đứa nào cứng đầu bao nhiêu mà
khi thấy cái thâm-tình cao trọng của Bà Mẹ cũng phải đổ lệ, rơi châu, Bần-Đạo
dám chắc có nhiều người tin Đạo, hiểu Đạo mà chưa biết. Thử hỏi Đức Di-Lạc
Vương-Phật, dầu Ngài đến bực cao trọng bao nhiêu cũng là con, nghe ra dường như
Chưởng-Quản các nơi, do quyền của Đức Di-Lạc. Còn Phật-Mẫu nơi Cung Tạo-Hóa-Thiên
là Mẹ của chúng ta, có một điều Bần-Đạo chẳng dám nói. Muốn biết cái tình Mẹ
yêu con thế nào? Chúng ta thấy tượng của Phật-Mẫu, Đức Di-Lạc quì đằng sau lưng
chấp hai tay đưa lên đó, dầu Bần-Đạo không tả hai nghĩa lý ấy cả thảy cũng đều
hiểu quyền-năng bực nào, nghĩa là "Mẹ
cũng vẫn là quyền Mẹ".
Trái ngược lại cầm quyền vi chủ mà Bần-Đạo làm con phải
hiếu hậu vi tiên, quyền năng ấy cũng để là Mẹ./.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 3: ... chúng ta thấy vật loại cũng
có tình đời với chúng ta, có một cảm-tình không thể gì tả đặng, như loài chim
chóc, thú cầm, cây cối, đều có để trong
tinh-thần của chúng ta một thâm tình quen biết nồng-nàn đặc-biệt với nhau,...
...
Nguyên bản chánh in là: ... chúng ta thấy vật loại
cũng có tình đời với chúng ta, có một cảm-tình không thể gì tả đặng, như loài
chim chóc, thú cầm, cây cối, đều có thể
trong tinh-thần của chúng ta một thâm tình quen biết nồng-nàn đặc-biệt với
nhau,... ...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài
06
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 9 năm Mậu-Tý (28-10-1948)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp dục tấn trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Trước khi tiếp Bần-Đạo nói rõ cái chí hướng của Bần-Đạo
thế nào mà từ trước đến nay Bần-Đạo giữ căn bản đặng rủ các bạn đi cùng Bần-Đạo
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Cả thảy các bạn Nam cũng vậy Nữ cũng vậy, có một điều
làm cho Bần-Đạo ái ngại lo-lắng hơn hết. Trước khi mở nền Đạo đã có định phận đặng
đi độ những chơn-hồn Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, nhứt là đối với mấy anh mấy chị
niên cao, kỷ trưởng. Bần-Đạo lo-lắng với nhiều điều hơn hết, vì cớ cho nên Bần-Đạo
giảng dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, cốt yếu là để cho có địa vị
trước mặt cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nhứt là mấy anh mấy chị lớn biết con đường
đi, hiểu rõ thấy trước mặt dường như mình đã biết rồi, định tinh thần, đừng mờ
mệt, áy náy, sợ sệt, ngập ngừng, đường mình đi quen tức nhiên mình đặng, đặng
mình đi mạnh bước trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo-Hóa-Thiên
tức Tòa Thiên-Cung Phật-Mẫu là Diêu Trì Cung. Bần Đạo có nói một điều làm cho
chúng ta nên suy nghĩ nhiều là: "Huyền-bí vô biên của Phật-Mẫu".
Bần-Đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng
ta vào kiến diện Ngài, ta ngó trên mặt Ngài ta thấy mặt Bà Mẹ ta, sanh ta,
đương như buổi sống, đương lo buổi trở về, Bần-Đạo tưởng ngó thấy Bà Mẹ sanh Bần-Đạo,
tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người Mẹ của họ vậy.
Nếu lấy theo cái trí học tưởng-tượng không biết con mắt
Thiêng-Liêng có chiếu hình Mẹ ta chiếu diệu ra không? Hay là huyền-diệu vô biên
của Phật-Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.
Bà Mẹ hình hài chúng ta đây, là nhơn-viên của Đức Phật-Mẫu
bên phái Nữ đó.
Phái Nữ rán để tâm nghe điều ấy, là nhân-viên mật thiết
của Đức Phật-Mẫu, trước khi đã để tại thế-gian này một hình-hài vào lòng mình sản-xuất,
tức nhiên là Phật-Mẫu đã giao quyền năng Tạo-Đoan trong tay mình đó vậy.
Chẳng cần nói cái vinh-diệu của người đàn bà khi người
con ấy nên người, biết dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Mình về tại Cung Diêu-Trì dòm lên thấy tượng ảnh của mình,
không vinh-diệu nào bằng, cái vinh-diệu ấy, có điều trọng hệ là dầu Nam, Nữ
cũng vậy rán giữ một điều này, coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình
ngó thấy hình ảnh của Đức Phật-Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền-hậu vô cùng,
hạnh-phúc mình được hưởng đó, còn trái ngược lụng lại nếu ta thất hiếu, ta dòm
vào hình ảnh của Phật-Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm-nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ
hết sức đau khổ đó.
Bây giờ, chúng ta đi vô đến cảnh ấy, muốn cái gì đặng
cái nấy, vì cớ cho nên Đức Phật Kim-Cang, khi đoạt Đạo có đi vào cảnh ấy để một
câu "Thơ tượng hành khúc" là chơn-thần ấy vậy. Bởi nơi cảnh ấy, hễ mình
tưởng cái gì, muốn cái gì, thì được cái nấy. Nếu mình chưa thỏa mãn trong mấy
ngàn kiếp sanh thuở trước mà khi mình được hữu hạnh, hữu phước, về đến Phật-Mẫu
được, thì chừng ấy chúng ta muốn cái gì nó sẽ hiện ra để làm cho chúng ta thỏa
mãn cái tinh thần, cũng như cái hạnh phúc ở thế gian này vậy.
Loài người tìm mãi hạnh-phúc của kiếp sanh, mà trong
kiếp sanh, không bao giờ đoạt được, chúng ta có thấy, khi trước trong Đạo-Sử để
lại nếu chúng ta muốn biết Đạo Minh-Châu chúng ta đều ngó thấy trước mắt, có một
điều kẻ nào có đi thì mới biết, còn tánh tọc mạch nghe nói nơi Diêu-Trì-Cung có
Vườn Ngạn-Uyển mà Vườn Ngạn-Uyển ấy ra sao? Trong kinh luật có nói mỗi mạng
sanh con người đều có hiện tượng một bông nở trong Vườn Ngạn-Uyển, mỗi khi bông
ấy héo rụng tức nhiên là có một người chết, tại thế này gọi là chết chớ không
phải chết. Loài người không bao giờ chết cả, chết ấy là chúng ta thay một cái
áo để ngoài, vào nhà tắm, tắm rồi ta mặc lại nữa, sự sống chết như thay đổi cái
áo kia vậy thôi. Trước mắt chúng ta, hiện-tượng hào quang chiếu diệu một vườn
hoa, đẹp-đẽ đủ màu, vườn hoa ở cảnh Thiêng-Liêng ấy, không phải như vườn hoa ở
thế-gian này đâu. Bông hoa Thiêng-Liêng ấy sẽ sống một triệu lần, do nơi quyền-năng
biến hóa của nó, và nó sẽ hiện-tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng tận vậy. Bởi
vì nó thay đổi màu sắc rực- rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế này,
đường tấn hóa trên con đường trí-thức tinh thần, mỗi khi nhơn-loại tấn triển
lên thì Vườn Ngạn-Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp-đẽ vô ngần.
Nghe trong kinh luật nói: Nơi ấy là nơi Vạn-Linh hay
nơi Ngọc-Hư-Cung hoặc là nơi Cực-Lạc Thế-Giái, nếu chúng ta tưởng-tượng thì nó
sẽ hiện-tượng ra trước mặt chúng ta, có một điều là kẻ tọc mạch muốn đi tới đặng
biết cái hướng của mình thế nào?
Khi dòm lại thế-gian phía sau lưng hiện-tượng trước mặt
chúng ta dường như con sông đại-hải và thấy bờ sông bên kia người ta đứng muôn
trùng thiên số không thể nào đếm được. Còn phía xa mù tịch bên bờ sông đông đảo
vô cùng, mắt ta không thể nào trông thấy và đếm được, chúng ta thấy xa xa thiên
hạ vô số bên kia bờ họ đương khóc than đau khổ vô cùng, có một điều làm người tọc
mạch ngạc nhiên hơn hết là: không biết họ sao mà đông đảo. Bên bờ sông bên nây
Nam cũng có, Nữ cũng có, bên bờ sông bên kia Nam cũng có Nữ cũng có, nhưng họ cứ
dòm chừng nhau ở bên mé Thiên-Cung, họ buồn rầu như lo lắng, như đợi chờ ngày
tái kiếp, muốn đi nữa đặng mà sống. Thương thay người mé bên kia sông dòm qua
mé bên nây sông, thấy họ thảm đạm khóc lóc, buồn rầu, không biết bao nhiêu mà kể.
Nam cũng vậy Nữ cũng vậy, rán để tâm mà nghe một điều
này là một điều bí-mật trọng yếu cho kiếp sanh, nên hiểu kìa. Ở mé bên nây
thiên hạ hào-quang chiếu diệu đẹp- đẽ vô cùng, còn ở mé bờ bên kia sông, thấy
hình thể họ khô khan đau thảm tiều-tụy và buồn rầu.
Hỏi vậy bên này làm gì dòm bên kia lại khóc, bên kia
dòm qua bên nây lại đau khổ, đó là luật thiên-nhiên vẫn có một, vì luật thương
yêu mà những người đứng bờ sông bên kia dòm qua, bên nây dòm lại, là những người
trước kia đã có tình thương yêu với nhau mà những khi có sự trắc trở nhơn tình
nên họ bị quả kiếp mà họ phải tự sát lấy họ. Người đàn bà nào tự vận hay người
đàn ông nào tự sát rồi người nào có thiệt lòng thương yêu chơn thật ấy, trước đã
xuống Uổng-Tử-Thành để đầu kiếp mà trở lại căn quả vì không trọn căn số của
mình còn niên kỷ bao nhiêu cũng phải trở lại đầu kiếp, vừa đến tuổi cập kê Nam
Nữ đôi bên vừa có tình-dục đã phát động ra thì là chết, làm cho chết, dầu hai
đàng đứng trước mặt nhau cũng không khi nào làm chồng vợ với nhau đặng. Chừng ấy
người trọn lòng thương yêu chơn thật thì Đức Phật-Mẫu siêu độ cầu rỗi với Đức
Chí-Tôn đem vào cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, còn người nào không biết tình thương,
thương bằng tình giả dối xảo trá phải đầu kiếp trao lại từ người.
Kiếp người hữu-hình, đời người vô-hình, xây nhau cả
năm mười kiếp, thiên trùng đau đớn đáo để. Nếu biết con đường Thánh vào ở nơi
đó, thì trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là con đường Đạo hay là con đường
giác-ngộ mà thôi.
Chúng ta dòm bên kia thấy họ đau khổ họ chỉ mong cái ước
vọng của họ đoạt thành, nhưng tuyệt vọng! Họ cũng phải đành chịu vậy thôi.
Chúng ta ngó thấy tình-trạng này làm cho kẻ ấy ngày đêm mơ-mộng, họ ước mong
sao qua khỏi con sông ấy. Bần-Đạo tưởng là Ngân-Hà sông đó vậy. Chúng ta dòm xuống
mặt sông bờ bên nây giữa con đường khi chúng ta phải đi ngang qua đó dòm lại thấy
Bát-Quái-Đài đứng giữa không trung.
Con sông ấy có tám đạo hào-quang mù-mịt chiếu ra tám cửa,
chúng ta dòm tiếp trong các hào-quang đều có tượng hình ảnh vạn-vật cả thảy.
Bên bờ sông kia có một chiếc thuyền, thuyền ấy của Đức
Phật-Quan-Âm Bồ-Tát đã vâng lịnh Đức Di-Lạc-Vương-Phật đi độ sanh, thuyền ấy
thường qua qua lại lại, vì cớ cho nên bờ bên nây ngó bờ bên kia như mơ-mộng để
trông chờ, tôi tưởng bài học này ai biết được quyền-năng vô biên ấy, ngó lại kiếp
sống của mình, ngó thấy cả trạng thái đương nhiên, nó không phải là cảnh phàm
này vậy. Mà mãi từ thử đến giờ, làm người ai có biết kiếm chỗ thật của mình
không?
Hại thay, họ không biết họ sống, họ không biết kiếp
sanh của con người khổ não là thế nào./.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 07
Đức
Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 29 tháng 9 năm Mậu-Tý (31-10-1948)
Ngày nay chúng ta lại tiếp tục tiến
bước trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ rồi Bần-Đạo rủ cả thảy các bạn đi Cung Diêu-Trì,
chúng ta lại còn rủ nhau ra trước Cung Diêu-Trì dòm trở lộn lại xem cảnh tục của
chúng ta, vừa thoát qua coi thế nào? Bần-Đạo chỉ nói nơi xa-xăm của chúng ta đi
qua, chúng ta thấy hình-trạng Bát-Quái-Đài, dưới chân có Thất-Đầu-Xà, và dưới mình
của Thất-Đầu-Xà là khổ hải tức là cảnh trần của chúng ta vậy. Bên kia có liên
tiếp mật thiết vô một nẻo sông Ngân-Hà, rồi Bần-Đạo chỉ cho hiểu rằng, từ khổ hải
ấy về cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống phải đi ngang qua Ngân-Hà, có một chiếc thuyền
Bát-Nhã của Đức Quan-Âm Bồ-Tát, vâng lịnh Đức Di-Lạc Vương-Phật chèo qua lại
sông Ngân-Hà và khổ hải đặng độ sanh thiên-hạ.
Có một điều chúng ta để ý ngó lại tám cửa Bát-Quái-Đài
xuất hiện ra tám hào-quang chiếu diệu rực-rỡ và xây tròn trong tám hạng sanh
linh, đều có đủ tám cửa có Bát-Hồn hiện ra đủ hết: Vật-Chất, Thảo-Mộc, Thú-Cầm,
Nhơn-Loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật.(*1) Chúng ta thấy các Đẳng chơn-hồn ấy rải
khắp trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, có điều đặc-sắc chúng ta để ý dòm coi người ta thế
nào? Chúng ta ngó thấy các vật loại, nhứt là hạng bất động-vật cũng vẫn bình-tịnh
trong đạo hào-quang ấy, xuất hiện ra mà không xao-xuyến dữ tợn, ra khỏi một phần
ba đường, bề xa xuôi của nó chúng ta không thế gì đoán đặng, tỷ như ra khỏi cửa
ấy ba bực, chơn-hồn ấy vẫn còn có thứ-tự, ra ngoài nữa thì lộn-xộn. Phải chăng
nơi ấy Đạo-Giáo cho là Kim-Bàn đó vậy, tức nhiên là nơi các chơn-hồn hiện ra, còn
các chơn-hồn nữa, chúng ta ngó thấy trên đầu mỗi người có một đạo hào-quang, đặc
sắc hơn nữa là, trong ấy hiện ra một điểm linh-quang hiển hiện chơn-tánh kiếp
sanh họ tức nhiên là vị Phật, chúng ta quan-sát tìm hiểu ngó thấy trong mỗi người
chúng ta có ba món đặc-sắc mà Đức Chí-Tôn đã để vào hình ảnh con người là:
Tinh, Khí, Thần, thật ra thì ba vật là: Thú, Người và Phật. Thỉnh-thoảng có dịp
Bần-Đạo sẽ giảng-giải điều ấy cho biết nguyên-căn của người xuất-hiện nơi nào,
đến đây để làm gì, và chết rồi đi đâu?
Phải chăng cái cảnh của Đức Phật Kim-Cang đã đoạt vị
(Vô thọ thường thức Diêu-Trì) chúng ta đến đó ngó thấy tinh-thần tư-tưởng hiện-tượng,
chúng ta thấy bất quá là tin- tưởng Đạo-Giáo, Bần-Đạo dám chắc người nào đi tìm
Đạo mà có tâm định tưởng là thấy ngay, chớ nếu đi theo Đạo Chí-Tôn dìu-dắt tới
đâu thì hay tới đó, thành ra không phải tin tưởng, thì cái thế-giái vô-hình là
con đường đã mở để dìu-dắt cả toàn nhơn-loại trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, không thấy
được.
Chúng ta thiết nghĩ Đức Chí-Tôn mở Đạo cho chúng ta biết
phân biệt Bí-Pháp chơn-truyền đặng đi theo Ngài, hay là theo thú, vì thi hài chúng
ta là thú không thể gì chối cãi được.
Nếu chúng ta quan-sát trong cái bí-mật huyền-vi của
Thiêng-Liêng Tạo-Hóa từ trong phẩm Tiểu-Hồi đến Đại-Hồi, tới phẩm Thần, Thánh,
Tiên, Phật, thì con đường ấy đi không biết bao nhiêu thời gian mà nói, thật sự
từ hồi mới tạo trái địa-cầu này, tức nhiên mỗi địa-hoàn mới phôi thai, chúng ta
có thể tính nó là 700 triệu năm. Tiểu-Hồi đã đến tại mặt thế gian này tạo hình ảnh
vật loại thú cầm, cho nên cốt cách nhơn-phẩm, từ trong giác-hồn đi cho đến
linh-hồn, tính ít nữa cũng 100 triệu năm. Con thú chúng ta đang mang nơi mình
đây là con kỵ vật nó lăn-lóc, chết sống nơi mặt địa-cầu này, tới chừng nào nó
có đặng nhứt điểm linh-tâm, thì Đại-Hồi chúng ta đến nhập thể-phách của nó là
thú thì nó tranh sống đủ điều, phải ăn phải mặc, đồng sanh dưới mặt địa-cầu này
đặng bảo tồn sanh mạng, phải đối phó với áp-lực Tạo-Đoan như: lửa, nước, gió,
mưa, nóng nực, thú dữ v.v...
Loài người cũng dữ đã bảo tồn sanh mạng thì chiến-đấu
không biết bao nhiêu là chiến-đấu, với tánh đức thú đã qua chẳng biết bao nhiêu
thời gian chiến-đấu đặng sống. Con người giữ được nhơn-phẩm thì đừng để con thú
ấy nó dữ đặng nó bảo-tồn mình, tức nhiên nó sẽ đày đọa mình. Mình ở giữa trên
kia là Chí-Tôn, dưới đây là thú, hỏi mình có đủ linh-tánh bảo tồn danh-thể khỏi
phải theo ai chăng? Không lẽ mình theo thú, thú là cái khí, cái khí là sự
sáng-suốt khôn ngoan là linh-tâm mình vậy.
Nơi trí mình đây, đương nhiên bây giờ, chúng ta thấy cả
huyền-vi bí-mật của Tạo-Đoan, một ngày kia không khỏi trí óc của loài người có
điểm quang-minh cực kỳ, họ sẽ đoạt được huyền-vi ấy, bởi trí họ quá khôn ngoan,
vì vật-chất, trí ấy dục họ vô Đạo, phản loạn lại linh-tâm và dục tánh, phản lại
Tạo-Đoan. Chính mình đứng trong hạng quyền-năng, tức nhiên khí ấy là quyền-năng
khôn ngoan ấy, do Đấng Tạo-Đoan ban cho, mà Đấng Tạo-Đoan, tức nhiên là Đức
Chí-Tôn vậy. Chí-Tôn ban cho chúng ta hưởng cái khôn ngoan hơn vạn loại mà loài
người thường phản lại với Tạo-Hóa, trở nên tự-kiêu, tự-đắc, sách Thánh, sách Phật
nói: "Cái khôn ngoan của người là quỉ". Hèn chi Ông Bà mình nhất là
An-Nam, hễ khi nào thấy đứa nào xảo trá ngang ngược họ nói: "Thằng đó quỉ
quái", Cái khôn ngoan của mình là quỉ nếu nó dìu đường mình đi theo nó thì
mong gì đoạt được ngôi vị cao trọng đối phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật mà Chí-Tôn
đã hứa.
"Nếu các con có thể hơn Thầy, thì Thầy cũng hạ
mình cho các con đoạt được ngôi vị", ấy là hàng phẩm của Đức Chí-Tôn đối cả
Chơn-Thần.
Hại thay, họ không muốn nghe và không muốn biết, bởi
không dám biết mình sợ e cho họ không biết, nên Quỉ tánh họ dục theo con đường
thú, thành thử ra cái tấn tuồng tương-tàn, tương-sát nhau tại thế-gian này
đương nhiên, chúng ta thấy tình-trạng khổ sở trước mắt là do nơi loài người mất
nhơn-phẩm mà theo tùng phục con thú, làm nô-lệ cho nó rồi họ chiến-đấu sát hại
nhau như con thú rừng. Tương-tàn, tương-sát nhau mà giành sống, đó là bài học để
cho chúng ta biết, và Bần- Đạo còn thuyết nhiều nữa, hôm nay chỉ nói sơ lược đặng
mở trí để kỳ tới chúng ta có thì giờ đặng dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống./.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 3: Có một điều chúng ta để ý ngó lại
tám cửa Bát-Quái-Đài xuất hiện ra tám hào-quang chiếu diệu rực-rỡ và xây tròn
trong tám hạng sanh linh, đều có đủ tám cửa có Bát-Hồn hiện ra đủ hết: Vật-Chất,
Thảo-Mộc, Thú-Cầm, Nhơn-Loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật.,...
Nguyên bản chánh in là: Có một điều
chúng ta để ý ngó lại tấm cửa Bát-Quái-Đài xuất hiện ra tám hào-quang chiếu diệu
rực-rỡ và xây tròn trong tám vạn sanh linh, đều có đủ tám cửa có Bát-Hồn hiện
ra đủ hết: Vật-Chất, Thảo-Mộc, Thú-Cầm, Nhơn-Loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật....
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ
nghĩa hơn.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 08
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 05 tháng 10 năm Mậu-Tý (05-11-1948)
Ngày nay Bần-Đạo giảng tiếp cuộc dục tấn trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Hôm trước Bần-Đạo rủ các bạn đình lại nơi Bát-Quái-Đài
để xem cái bí-mật huyền-vi của cơ tạo. Chỗ ấy là toàn cả chơn-thần của vạn loại,
biến tướng ra tạo thành Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bần-Đạo không cần tỏa, duy lấy cái bí-mật huyền-vi mà
làm bài học, ngày nay Bần-Đạo tỏa hình tướng nó ra cho rõ-ràng coi có phải Phật-Giáo
gọi Kim-Bàn là đó chăng? Chúng ta day mặt ngó lại nơi cõi trần là khổ hải, liên
hệ với sông Ngân-Hà, cõi Thiêng-Liêng thì giòng Ngân-Hà, có chiếc thuyền
Bát-Nhã, người ngồi dưới thuyền ấy là Đức Phật Quan-Âm Bồ-Tát, vâng lệnh Đức
Di-Lạc Vương-Phật, để đưa rước các chơn-linh đoạt Đạo. Bần-Đạo xin tỏa Đài
Bát-Quái ấy nó huyền-vi bí-mật làm sao. Trong tám cửa xuất hiện ra 8 phẩm
chơn-hồn, nó xây tròn như bánh xe, chúng ta thấy chẳng khác cây đèn pha nơi mé
biển, hễ có xây thì thấy 8 đạo hào-quang chiếu diệu khắp cả Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Cái tôn nghiêm không thể tỏa, mặt Thiêng-Liêng huyền-bí vĩ-đại làm cho kinh khủng
sợ-sệt, bởi hào-quang chiếu diệu ấy nó lẫn lộn trong khối sanh-quang. Cái
hình-trạng các chơn-thần như chúng ta thấy ở mặt thế-gian này vậy. Dầu thú-cầm,
nhơn-loại, thảo-mộc, chơn-thần hình tượng nó vẫn tốt đẹp như thường, không phải
như xác thịt thú-chất chúng ta vậy. Hễ 8 đạo hào-quang ấy soi tới đâu thì 8 phẩm
chơn-thần đều cuồn-cuộn chiếu diệu ra, lớp thì đi, lớp thì về, lớp vô, lớp ra,
muôn trùng vạn điệp không thể gì tưởng-tượng được.
Vả chăng, trong Càn-Khôn Vũ-Trụ có nhiều Tam-Thiên Thế-Giái,
Tứ-Đại Bộ-Châu, Thất-Thập Nhị-Địa, ngoài cảnh giới ấy, thế-giái này qua thế-giái
kia, có nhiều thế-giái chưa biến hình-tướng cả thế-giái, chưa có Vạn-Linh Vũ-Trụ.
Chúng ta lấy sự so-sánh gọi là chủ quyền hơn hết là trong phần 72 trái địa-cầu
có nhơn-loại ở, chúng ta tưởng-tượng trái đất này bề ngang có 10 ngàn cây số,
chúng ta chỉ lấy một tấm ban-gian chúng ta cân thử thế giái chỉ xa chúng ta 280
cây số, mà xa trái đất có một tấc thôi. Chư Hiền-Tỷ, chư Hiền-Muội tưởng-tượng
Càn-Khôn Vũ-Trụ lớn vĩ-đại, lấy mặt Thiêng-Liêng mà thấy càng sợ-sệt, thì ngoài
ra không thể nào chúng ta thấu đáo đặng những chơn-hồn biến hóa ra Vạn-Linh.
Chúng ta ngó lại coi, trước Diêu-Trì-Cung, nguy-nga đẹp-đẽ vô cùng, bên mặt có
thế-giái, bên trái cũng có thế-giái chẳng khác, nơi cung giữa cũng chiếu diệu
hào-quang như trước mặt chúng ta đó vậy.
Tưởng cả thảy muốn biết trước Diêu-Trì Cung, ba Cung ấy
là gì? Bần-Đạo nói rõ: Cung giữa trước Diêu-Trì-Cung, là Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, bên mặt là Cực-Lạc Thế-Giái, bên trái là Ngọc-Hư-Cung.
Tuy vân chúng ta thấy, với con mắt Thiêng-Liêng Bần-Đạo
nói quả quyết rằng: Đường xa muốn đoạt đến muôn trùng xa thẳm chúng ta thấy đặng
là vì tại Cung-Diêu-Trì chúng ta muốn cái gì thì được cái nấy. Muốn đoạt đến
Bát-Quái-Đài như chúng ta thấy khi nãy chẳng phải dễ. Kim-Bàn chúng ta thấy con
đường muôn trùng mà không thể gì quan-sát và tưởng-tượng được, bây giờ chúng ta
chung vô cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, rồi lần-lượt qua hai Cung kia. Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, Đức Chí-Tôn để ở thế-gian này cho chúng ta hiểu biết hai chữ Hiệp-Thiên
đem để trong cửa Đạo, tức nhiên đem hình-tượng để nơi mặt thế-gian này. Ấy là
nơi ngự của Tam-Trấn Oai-Nghiêm, là nơi của các Đấng Trọn Lành đóng đô tại đó.
Chẳng phải nơi mặt địa-cầu này thôi, trong Tam-Thiên Thế-Giái, Thất-Thập-Nhị Địa-Cầu
cũng vậy, đều có đại-diện của mình nơi đó đặng để bào chữa tội cho Vạn-Linh
sanh chúng.
Bần-Đạo nói nơi đây chẳng khác gì ở nơi cõi trần này,
như các chỗ Tòa-Án để làm việc vậy. Các Đấng Trọn-Lành mới được về đó làm đại-diện
cho Vạn-Linh, phải có đặc quyền mới vào được Cung ấy.
Dầu Thần vị, Thánh vị, hay Tiên vị, Phật vị cũng phải
đoạt được cấp bằng Trọn-Lành mới vào Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa. Cung ấy đặc biệt
để binh vực Vạn-Linh sanh chúng. Bần-Đạo tưởng Đức Chí-Tôn lập Hiệp-Thiên-Đài tại
thế này rất ngộ-nghĩnh thay! Có một điều là khi Bần-Đạo vào thì thấy họ niềm-nỡ,
Bần-Đạo dám chắc nơi miệng họ, khi thấy mình đến đó hiểu được và biết được như
có lời yếu thiết, họ muốn nói với mình rằng: Về nếu có thể nói lại với sanh
chúng tức là nhơn-sanh, hiểu rằng cái án của kiếp sanh họ nơi Hiệp-Thiên
Hành-Hóa đã có nhiều, chúng ta đã đảm nhiệm nhiều nỗi khó khăn, ước ao sao các
bạn hiểu luật nhơn-quả Thiêng-Liêng, quyền Thiêng-Liêng thưởng phạt là gì? Định
quyền Thiêng-Liêng đặng về nói lại, thuyết lại dỗ-dành họ cho biết rằng nơi cõi
Hư-Linh còn có kẻ chí thân vẫn hằng ngày cầu nguyện và xin tội cho mọi người.
Nơi Ngọc-Hư Cung rất nghiêm khắc, nơi Cực-Lạc Thế-Giới khó khăn mà các bạn đều
có binh vực và dìu đường mở lối cho họ đi, đặng các bạn có một điều tu tỉnh đặng
nối gót theo Đức Chí-Tôn, tận hiếu với Ngài tận trung cùng Thánh-Thể Ngài.
Cả anh em nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa đủ phương chước,
đủ quyền hành để bảo tồn con cái Đức Chí-Tôn, họ biết tự-trọng họ, thì chẳng
quyền-năng nào ép họ đặng.
Bần-Đạo tưởng, từ thử tới giờ, chưa có nền Tôn-Giáo
nào công-chánh, nhơn-từ và đặc sắc công-bình là quyền Thiêng-Liêng vô cùng, vô
tận. Tưởng lại tiếng hứa của Đức Chí-Tôn "Tận độ" chúng-sanh không phải
quá đáng vậy. Có lẽ phương-pháp khó khăn ấy, Đức Chí-Tôn định quyền năng dầu thế-giái
vô-hình cũng vậy mà thế-giái hữu-hình cũng vậy.
Các bạn duy có tu mà thành, tu hành thì không ai có
quyền-hành nào biếm nhẻ các bạn, và không có quyền-hành nào bỏ rơi các bạn. Nhớ
hằng ngày tưởng-tượng tới lẽ ấy, để tâm hăng-hái đặng làm bửu-bối mà theo chơn
Chí-Tôn cho trọn Đạo./.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 09
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, Thời Tý, đêm 08 tháng 10 năm Mậu-Tý (08-11-1948)
Bần-Đạo ngày nay thuyết vấn-đề có liên-hệ với Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa.
Chúng ta kỳ trước đã ghé nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa,
đã hội đàm cùng các Đấng Trọn-Lành, các Đấng cứu rỗi nhơn-loại toàn cả Càn-Khôn
Vũ-Trụ.
Có một điều trọng hệ, đương buổi này là buổi náo nhiệt,
tại sao? Tại mãn Hạ-Ngươn Tam-Chuyển, Thiên-Thơ đã định Long-Hoa Hội,
Thánh-Giáo Chí-Tôn nói: "Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập
Long-Hoa Hội, định vị cho các chơn-linh trong kỳ Hạ-Ngươn Tam-Chuyển này, định
vị cho họ đặng mở Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển cho các chơn linh". Ngài mở
Long-Hoa Hội ấy, tức nhiên là Ngài định chấm rớt đậu cho các chơn-linh vậy. Vì
cớ cho nên chúng ta ngó thấy có huyền-vi bí-mật nơi mặt thế này, Đức Chí-Tôn đến
mở Đạo ngày nay, chúng ta có thấy oan-gia nghiệp-chướng phải trả liền buổi này,
không cho thiếu, trả mãn mới thôi.
Bần-Đạo đã thuyết-minh dầu cho một cá nhân, một quốc-gia,
hay cả toàn thiên hạ, mỗi nơi đều có quả kiếp của mình, đương hiện-tượng, tấn
tuồng chúng ta thấy than thở, nạn nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn, sát hại
lẫn nhau, nguyên do không có gì lạ, cái tấn tuồng loạn Tây Sơn buổi nọ thế nào,
tấn tuồng này cũng vậy. Quả kiếp của nước Việt-Nam vay trả đó là xong. Vì cớ
cho nên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa nắm quyền nhơn-loại cả Càn-Khôn Vũ-Trụ nhiều
trái địa-cầu, duy có trái-địa cầu 68 này các chơn-linh ở Hiệp-Thiên Hành-Hóa,
khổ tâm hơn hết là lo trái địa-cầu này phải chịu oan gia của Hạ-Ngươn Tam-Chuyển.
Ấy vậy Bần-Đạo đã thuyết-minh từ buổi mới khởi đoan, chúng ta dắt nhau đi trên
con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bây giờ chúng ta để dấu hỏi (?) Vì cớ nào cả toàn cầu
nhơn-loại buổi này sanh hỗn loạn, náo nhiệt, tương-tàn, tương-sát nhau? Vì có tấn
tuồng ấy mà cả nền chánh-trị thế- giới Quốc-Gia nào cũng chinh nghiêng, xiêu đổ.
Nguyên do tại chỗ nào? Ta tìm hiểu trước rồi mới để ý truy nguyên căn nhơn-quả
của trái địa-cầu 68 này, mới có thể hiểu được con đường tấn bộ trong cõi
Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Con vật nó còn chung sống cùng xã-hội, tức nhiên hiệp-chủng
cùng nhau đặng sống . Loài thú có nhiều giống, nó tự-chủ lấy nó, dầu cho côn
trùng, thú vật, hay ngư điểu, có nhiều loại đã sống tự-chủ lấy nó được. Nhơn-
loại là người, chẳng hề khi nào sống riêng mình được, tại sao? Tại cái thương
yêu ràng buộc trong phương sống, con người chỉ lấy trí khôn ngoan tức nhiên cái
thiên-lương mình đặng chung hiệp.
Nói về mưu trí bảo vệ sanh mạng mình là cái mưu trí
con người không đủ, lấy luật sống để làm căn-bản, thì con người thua nhiều hơn
con thú lắm. Bần-Đạo thường nói thua mà sợ, nào kêu là Ông Cọp, Ông Voi, Ông Sư
Tử v.v...
Nhiều con thú mà con người sợ như vậy, nên lập xã-hội
đặng bảo vệ cho nhau, tức nhiên có lập luật xã-hội, quây-quần chung sống cùng
nhau, mới có tinh-thần vững chắc. Mà con người bao giờ cũng vậy, họ chẳng hề
khi nào định phận họ phải đối trả lại xã-hội nhơn quần. Trái lại, trí khôn
ngoan để mâu-thuẫn, lường gạt xã-hội mà thôi. Ăn gian xảo mị, con người có thể
qua mặt xã-hội được, nhưng luật công-bình Thiêng-Liêng căn quả chẳng hề khi nào
chúng ta qua mặt đặng. Vì cớ trái-chủ, oan-gia là tự chúng ta tạo nghiệp nơi kiếp
sanh của chúng ta đã nương theo đặng sống, đặng bảo vệ sanh mạng mình mà ra.
Mình còn mượn cái sống cả vật loại đặng làm phương sống, phải ăn mới sống, phải
mặc mới lành, nếu nhơn-loại trần-lổ thì dở hơn con thú nữa, con thú không có
manh quần tấm áo, nó tìm phương thế che để sống, mà hễ nương sống, tìm sống tức
giết nhau đặng giành sự sống. Con người nếu giành sống như con vật tức nhiên phải
sát nhơn đặng bảo vệ sanh mạng mình. Tấn tuồng ấy chúng ta thấy hiển nhiên trước
mắt. Bần-Đạo chức-vụ Thiêng-Liêng là Hộ-Pháp, Bần-Đạo vấn-nạn các Đấng
Thiêng-Liêng buổi ban sơ, không thể gì con người có thể đầu kiếp làm thú. Các Đấng
Thiêng-Liêng trả lời dè-dặt: Khi tôi tưởng có nhiều chơn-linh không đáng địa-vị
nhơn-phẩm, Chí-Tôn vẫn ban ơn cho, làm thế nào cho có sự tấn-hóa toàn-thể. Còn
nhơn-phẩm trở lại, tấn tuồng ấy có hai lẽ, hoặc đứng chựng phẩm người tấn tới
mà hễ ta đứng không đặng phải thối bộ, mà con người đã thối bộ, tức nhiên con
người trở lại thú rồi!
Chơn-lý ấy để lại có lẽ thiên-hạ quả quyết không xứng
đáng bảo thủ. Kỳ dư nếu buổi Hạ-Ngươn này định Long-Hoa Hội, Chí-Tôn đã đau khổ
về con cái của Ngài biết bao nhiêu, Đấng Cha Lành Thiêng-Liêng ấy đã thảm khổ dường
nào vì con cái của Người. Ta tưởng-tượng từ tạo-thiên-lập-địa tới giờ không có
nhơn-loại nào nơi mặt địa-cầu nào được hưởng hồng-ân đặc-biệt như chúng ta ngày
nay vậy.
Nhơn quần xã-hội đồng sống cùng nhau tức nhiên ta phải
có định chủ-quyền, từ lúc còn ăn lông, ở lổ dĩ chí ngày nay, muốn bảo vệ phương
sống, cất nhà trên ngọn cây, rồi tạo ra hang ổ, rồi thỉnh-thoảng làm nhà. Hồi
buổi ấy duy có sợ thú dữ, ở trong hang coi chừng không thấy thú gì dữ mới dám
chạy ra bưng, ra ruộng tát cá đem nấu ăn. Rồi coi chừng không có con gì dữ hại
đến tánh mạng, chạy ra cuốc đất trồng khoai đặng nuôi sống. Có nhiều khi sợ thú
dữ, không dám chung ra khỏi hang, bị ba thằng điếm nó lén ăn cắp của mình, rồi
mình yếu hơn nó, không thể gì bảo vệ sanh mạng được phải chịu thua, rồi cập bầy,
cập bọn, hễ nó làm được bao nhiêu củ thì tao mầy hiệp nhau giành lấy. Một mình
mầy đánh không lại nó, tao hiệp với mầy đánh nó, đứa này kiếm hai, ba người,
đàng kia tìm bốn năm người hiệp nhau đánh giết tàn phá. Thành ra Mán, Mọi kia
chưa chắc bảo thủ cả sanh mạng đặng, duy sợ chúng đánh trước rồi cùng phương, hết
thế mới chịu thua, rồi phải phục lụy làm tay chơn nô lệ, bọn này làm chủ bọn
kia, tổng-số lại làm xã-hội, quốc-gia nguyên do là vậy.
Từ thử tới giờ, muốn giữ trật-tự công-bình, bảo vệ mạng
sống chung cho nhau có phương công-lý, tức nhiên có định chủ-quyền. Chủ-quyền hồi
trước, mỗi nơi có một vị đủ trí-thức, đủ tài tình, đủ mạnh mẽ làm chủ nơi Mán,
Mọi. Khi lập quốc phải tôn sùng, cung kỉnh vị làm Chúa của nước, tức nhiên
chúng ta đã thấy sau này vậy. Nhờ kiến-thiết, nhờ định phận có nghiêm-luật, như
ở Nhật Bổn có khuôn khổ buổi ban sơ, bảo vệ sanh mạng nhân dân, cân giữ
công-chánh, cái khuôn khổ làm chúa của Mán, Mọi, dĩ Chúa quốc-gia, làm chủ sanh
mạng toàn-thể quốc dân, nó đã định vận của toàn quốc-gia Mán, Mọi vậy. Tấn tuồng
ấy chúng ta thấy hiển nhiên bây giờ còn dấu tích mà buổi đó theo Mán, Mọi một
quốc-gia không có khó như bây giờ, nhơn-trí buổi ấy hiền lương, Thánh-Đức của họ
không xảo trá, không hung ác, không như vào thế-kỷ hai mươi này, chịu ảnh hưởng
của Thiên Chúa Giáo, trí-lự khôn ngoan của nhơn-loại đi quá xa, không phương thế
trị an đặng. Vì cớ cho nên chánh quyền thường bị đánh đổ. Họ nói gì công chúng
kêu gọi đại đa số nhân-dân cướp chánh-quyền lập lại chánh-trị.
Ngày nay chúng ta thấy cả toàn mặt địa-cầu này đều xu
hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? Là đại đa số dân chúng tổng họp lại nắm chủ-quyền,
mà ảnh-hưởng cũng do đại đa số đó cầm vận mạng mặt địa-cầu này. Hại thay có nhiều
hạng người không đủ tinh-thần học-thức hay không đủ tâm-đức cầm sanh mạng
nhơn-loại, thảo nào ta trông thấy(*1) phương tranh-đấu ai mạnh là hơn, làm Chúa
thiên-hạ với phương xảo mị, không phải làm chúa loài người theo phương-pháp tối
cổ. Nhơn-loại để lại cái giống loạn, cả tinh-thần toàn-thể trên mặt địa-cầu này
đều loạn, chỉ vì không có quyền vi-chủ.
Vì cớ cho nên vận mạng nước nhà không chủ-quyền đặc biệt,
không quyền vi-chủ, tức nhiên phải loạn. Có loạn đương nhiên bây giờ họ mới biết,
họ tự hiểu có quyền vi-chủ ấy, mới cầm vững quốc vận, nhưng quyền vi-chủ họ đã
đập tan nát hết rồi. Bây giờ họ tìm-tàng phương thế đào tạo chủ-quyền ấy mới ra
tấn tuồng ngày nay, chúng ta ngó thấy nhơn-loại đương mong chiếm đoạt quyền ấy
đặng bảo tồn vận mạng cho nước được tồn tại.
Bây giờ nhơn-loại đương chạy kiếm chủ-quyền, chủ-quyền
ấy dầu nó thế nào, nó cũng không thể tồn tại được. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn đến,
Đức Ngài nói: "Phương-pháp tạo quyền của nhơn-loại không thể gì bền vững
được. Ta coi các người đập tan tành hết. Ta đến cho lại. Ta chỉ đường
cho".
Đường Đức Chí-Tôn chỉ là con đường Pháp-Chánh vậy.
Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu này, quốc-gia xã-hội nhơn-quần
biết tìm chủ-quyền đặc-sắc vĩnh-cửu, công-chánh, tức phải đồ theo Pháp-Chánh của
Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng chánh-thể quốc-gia,(*2) có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ
mới thấy, chủ-quyền Đạo Cao-Đài định thật quyền cho quốc-gia, và cho toàn
nhơn-loại, Bần-Đạo nói Pháp-Chánh có năng lực đào tạo quyền hành cho nhơn-loại.
Khá sửa lại, chỉnh đốn lại, ít nữa muốn đoạt được món báu ấy, nhơn-loại phải tự-tỉnh,
định vi-chủ trước lấy mình; dầu cho cá nhân, quyền sở-hữu tự-chủ của họ cũng do
nơi đạo-đức tạo thành vậy.
Ấy vậy ngày giờ nào nhơn-loại trở lại con đường đạo-đức
đặng giải kiết, gầy dựng phương-pháp sống, mới sống vinh-quang, sống ôn tồn hạnh-phúc,
ngày giờ nào tiêu diệt được quả kiếp hung tàn, trở lại con đường đạo-đức, ngày
giờ ấy quốc-gia mới yên ổn, ngày giờ ấy thiên-hạ mới hưởng hồng-ân đặc-biệt của
Đức Chí-Tôn ban cho./.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 11: Ngày nay chúng ta thấy cả toàn mặt
địa-cầu này đều xu hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? ... ... ... Hại thay có
nhiều hạng người không đủ tinh-thần học-thức hay không đủ tâm-đức cầm sanh mạng
nhơn-loại, thảo nào ta trông thấy phương tranh-đấu ai mạnh là hơn, làm Chúa
thiên-hạ với phương xảo mị, không phải làm chúa loài người theo phương-pháp tối
cổ....
Nguyên bản chánh in là: Ngày nay chúng ta thấy cả toàn
mặt địa-cầu này đều xu hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? ... ... ... Hại thay
có nhiều hạng người không đủ tinh-thần học-thức hay không đủ tâm-đức cầm sanh mạng
nhơn-loại, thảo nào ta không thấy phương tranh-đấu ai mạnh là hơn, làm Chúa
thiên-hạ với phương xảo mị, không phải làm chúa loài người theo phương-pháp tối
cổ....
(*2) Nơi đoạn thứ 15: Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu
này, quốc-gia xã-hội nhơn-quần biết tìm chủ-quyền đặc-sắc vĩnh-cửu, công-chánh,
tức phải đồ theo Pháp-Chánh của Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng chánh-thể quốc-gia,
có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ mới thấy, chủ-quyền Đạo Cao-Đài định thật quyền cho
quốc-gia, và cho toàn nhơn-loại,...
Nguyên bản chánh in là: Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu
này, quốc-gia xã-hội nhơn-quần biết tìm chủ-quyền đặc-sắc vĩnh-cửu, công-chánh,
tức phải đồ theo Pháp-Chánh của Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng Thánh-Thể quốc-gia,
có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ mới thấy, chủ-quyền Đạo Cao-Đài định thật quyền cho
quốc-gia, và cho toàn nhơn-loại,...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Bài 10
Đức Hộ-Pháp
Thuyết-Đạo
tại Đền-Thánh, đêm 12 tháng 10 năm Mậu-Tý (12-11-1948)
Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, bởi
vì có chơn-lý triết-lý bí yếu về phần hồn của chúng ta.
Buổi chúng ta đương hội đàm cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật
đã đoạt-vị trọn lành làm đại-diện bào chữa cho chúng ta nơi Ngọc-Hư Cung và Cực-Lạc
Thế-Giái.
Bần-Đạo hôm nay giảng qua ảnh-hưởng với các triết-lý của
nền Đạo, đặng mở con đường trí-thức cho cả toàn-thể theo bước, đặng thấu đáo
chơn-truyền. Bần-Đạo nói, chúng ta đi tìm triết-lý này, hồi lúc chúng ta còn
sanh tiền, tức nhiên chúng ta đi tìm con đường Thiêng-Liêng tối cao trước mắt,
chúng ta không thể gì tìm học triết-lý đặng dạy dỗ chúng ta được, cho nên từ thử
đến giờ, Bần-Đạo muốn dìu-dắt con cái của Ngài, đi trên con đường chơn thật; nếu
cả thảy đều để tâm nghe và suy nghĩ tìm tàng, Bần-Đạo nói một cách chơn thật,
cái triết-lý chơn thật nó không có giả dối. Bần-Đạo cần chỉ điều trọng yếu, nên
tầm hiểu để ý, đặng vô Cung Diêu-Trì, đặng tìm hiểu chơn-lý của họ. Nền
Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn, các bạn đã ngó thấy, nơi Kim-Bàn Bát-Quái-Đài xuất
hiện ra Bát-Phẩm chơn hồn, chánh-thể của họ thể nào? Cái phách của họ thể nào?
Bần-Đạo đã minh tả kỳ trước cái Chơn-Thần của chúng ta như xác thú chúng ta vậy.
Chơn-Thần ấy là gì? Bần-Đạo chỉ sơ qua đó
thôi, nó là một khối linh-quang (bởi vì khối linh-quang tạo Chơn-Thần) thì hình-thể nó là xác thân,
thọ linh-hồn chúng ta vậy, hình-thể chúng ta mang ngày nay là xác thú. Bần-Đạo
đã có dắt các bạn ngoạn cảnh sanh-hoạt của hình-thể và thể-chất. Bần-Đạo đã
dìu-dắt các bạn đi trên con đường mới sơ sanh, cái thể của con người tức nhiên
là con thú hữu-hình chúng ta đương mang, đương lập là nhờ nơi khối thiên-lương Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đã tạo. Quyền năng chơn-linh chúng ta có hai con thú trong
chơn-linh chúng ta, để bảo vệ tánh mạng chúng ta, ngày nay loài người còn tồn-tại nơi mặt thế này chẳng phải vì mạnh mẽ mà thắng cả vạn-vật nơi mặt
địa-cầu này để bảo tồn mình đặng.
Nếu các bạn hiểu số cộng lịch-sử của trái đất, các bạn sẽ thấy, trái đất
này từ mới phôi thai, duy trì cho đến ngày nay biết bao nhiêu thế-kỷ có thế lực,
bảo sanh mạnh-mẽ, mà có phương
thế nào bảo trọng cho đến ngày nay chăng? Nếu một kiếp, chúng ta tưởng-tượng được,
thì thấy luật sanh hóa ngày nay, nó dữ tợn lắm, ngày nay các vật loại cầm thú,
nó mạnh lụng lại, đặng bảo vệ cả sanh mạng của nó, còn loài người yếu ớt, bạc
nhược. Muốn bảo-vệ sanh mạng mình được tồn tại, thì phải làm sao mới đặng?
Chúng ta đến nhờ khối sanh-quang ấy tạo chơn-thần, ấy là nhứt điểm linh của Đức
Chí-Tôn đó, mình nương nhứt điểm linh đó, nên con người mới bảo tồn sanh mạng
cho được đến ngày nay, không thể gì mình diệt nhứt điểm linh-quang này đặng.
Bây giờ, chúng ta đã thấy giáp vòng Càn-Khôn Vũ-Trụ,
phải chung vô Hiệp-Thiên Hành-Hóa, coi đại-diện mình bảo vệ mình về phương diện
nào? Vả chăng, trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chư Hiền-Hữu, Hiền-Muội, Hiền-Tỷ, Hiền-Huynh
đã ngó thấy, hằng hà sa số nhơn-loại, chớ không phải một số hệ-định mà hết
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này.Trái đất này chúng ta sánh lại với Càn-Khôn Vũ-Trụ,
dám chắc không có bằng hàng xóm láng giềng chớ đừng nói đến một thành-thị hay một
xã-hội gì được. Bởi vậy cho nên, các Đấng Trọn Lành đại-diện chúng ta, đã tạo
thành hình-thể, trong trái địa-cầu này, chưa biến tướng ra sao, vì nó còn định
một ở trong như mặt trăng, nó đủ bảy phần của nó, nó biến thể này ra hằng-hà chơn-linh
của trái địa-cầu.
Hồi nhứt kiếp của nó đoạt biết bao nhiêu vị Thần,
Thánh, Tiên, Phật, các Đấng Trọn Lành đã tạo trước kia dám chắc danh-thể trái địa-cầu
68 này, Bần-Đạo nói quả quyết với các bạn, hình thể của nó cao trọng lắm, vì
sao nó là một hạng địa-cầu chót hết trong 72 mà đứng vào hàng 68. Nói đến chót
mà danh-thể nơi đó, nó đã tạo ra. Chúng ta có được đoạt phẩm-vị, là nơi cửa Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, Bần-Đạo nói quả quyết, các Đấng Đại-Diện cho chúng ta có một danh-thể
đặc biệt, danh-thể cao trọng lắm đó vậy.(*)
Chúng ta vấn nạn, chúng ta vào nơi ấy ngó thấy các Đấng
Thiêng-Liêng hằng hà sa số, đối phẩm một cách vinh-quang cao trọng. Bần-Đạo tưởng
cả thảy lấy làm ngạc nhiên lắm. Nếu chúng ta tọc mạch tìm coi trái địa-cầu ở
trước làm thế nào, mà tạo các Đấng Trọn-Lành được? Tạo vinh-quang cao trọng được?
Chắc cả thảy đều tọc mạch như Bần-Đạo, cũng muốn biết như Bần-Đạo. Loài người
do ai sanh ra thì Phật Kim-Cang trước kia đã có triết-lý buổi sơ sanh cái
nguyên-căn tạo ra Tứ Khổ, mối khổ sanh kia còn tạo ra chúng ta ba cái khổ nữa.
Tại sao phải sợ? Cái sợ phải hay quấy, chúng ta để ý theo dõi, chúng ta sợ khổ
lắm, triết-lý các Đấng Trọn-Lành đại-diện chúng ta nơi cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa
sợ phải, sợ mà tránh khỏi, thì cái sợ ấy hữu lý, sợ mà tránh không khỏi, thì
cái sợ ấy vô lý, lại còn khuôn mẫu, sửa ra tánh đức chơn thành, hồn phách còn
hèn hạ tại sao ai cũng vậy. Hết thảy chúng ta quan-sát như thế này: Tại sao chúng
ta phải làm? Phải ở đây? Tại sao chúng ta phải mang Tứ Khổ? Bằng cớ đã có hiển
nhiên, chúng ta không thể gì chối cải được. Sự thật phải tìm cái sự thật chớ, tại
sao sợ? Bần-Đạo đã thuyết: Dầu cho cá nhân, dầu cho thôn lân, dầu cho xã-hội, dầu
cho toàn-thể thiên-hạ nơi mặt địa-cầu này cũng vậy, cũng đều có quả kiếp, quả
kiếp ấy gầy dựng ra, sản-xuất ra do cơ sanh-hóa của nó, vì cớ cho nên Bần-Đạo dắt
chư Hiền-Hữu đi trên con đường ấy.
Chúng ta sanh tại mặt thế này, vừa lọt lòng mẹ phải chịu
mấy muôn quả kiếp rồi. Thánh-Giáo Gia-Tô đã gọi là: Tội Tổ-Tông chúng ta đó vậy,
thì thân thể này mới làm sao đây? Bởi vì chúng ta vừa có thì khóc tu oa, cái tiếng
ở trong lòng mẹ mới ra mà có tất cả các nợ, nợ trái chủ, nợ quả kiếp(*1) đủ thứ,
không biết bao nhiêu món nợ. Cửa Hư-Linh các Đấng Trọn-Lành đại-diện chúng ta
biết bao nhiêu Đấng đã gớm-ghiết quả kiếp ấy, vì sợ giựt giành quyết thắng
không nổi phải chịu muôn triệu năm trong quả kiếp.
Họ mãi ngồi trong địa-vị họ thôi, không tấn thối được,
phải chăng là mối nợ mình biết để tìm phương thế đặng mình trả, mà hễ trả rồi
mình lại giàu thêm nữa mới là lạ chớ! Cái nợ nó thiết yếu nó trọng hệ, nó mắc mỏ
lắm, chừng nào mình trả được mối nợ ấy, rồi thì nó sẽ vinh diệu cho mình lắm. Nếu
chúng ta sợ, như người chiến-sĩ ra mặt trận mà sợ chết thì không có giá-trị gì
hết, phải quyết thắng mới đáng mặt Tướng-Quân, Tướng Soái, đáng mặt anh-hùng,
còn chiến-sĩ mà sợ chết, trốn lính thì có danh-vọng gì đâu?
Trái Địa-Cầu 68 này, nó có danh-thể đặc-biệt của nó
nơi Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Cũng nói sợ mà các Đấng Trọn-Lành đến cư ngụ, cũng
do nơi đó mà ra, các Đấng ấy quyết thắng, lập vị mình một cách khó khăn, nhưng
vinh-diệu lắm. Chơn-lý ấy, chúng ta không khi nào đặng mờ hồ, duy có một điều
là những trái chủ, quả kiếp nặng-nề của chúng ta từ thử đến giờ, làm sao mà trả
cái quả kiếp ấy cho rồi, đừng để nó theo ràng buộc cái khối Thiên-Lương của
chúng ta, buộc nhứt điểm Linh-Quang của chúng ta, tức là nó ràng buộc lấy ta,
chẳng khác nào mang theo một thây chết. Làm sao bỏ được cái thây chết thúi tha ấy,
thì mới thong thả, nhẹ-nhàng, nhưng không thể bỏ được!
Cái tình trạng khổ não ấy, làm người ta ai cũng đều biết,
không cần gì tả hình-tướng nó ra, cái sanh-hoạt của con thú này, Bần-Đạo tưởng
Đạo Phật gọi nó là con kỵ vật, con thú cỡi của chúng ta, vì cớ nên triết-lý của
Đạo Phật nói ví-dụ như: Đức Từ-Hàng cỡi con Kim-Mao-Hẩu, Đức Phật Kim-Cang cỡi
con Đề-Thính giải kiếp họ một cách vinh diệu. Con vật này nó làm cho ta thiếu
chịu kiếp sanh của nó, nó làm ta phải biểu nó trả cho đặng. Phương-pháp nó phải
trả thế nào? Là nó phải nương theo cơ-quan hữu-vi này, mà nó sống nó tạo, nó
gây ra quả kiếp tồn tại, nó mới nương theo xã-hội nhơn quần, nương theo mặt địa-cầu
này mà sống, nó nương theo mối nợ riêng của nó, để nó trả nợ riêng cho nó. Nó
có phần đoạt được cái triết-lý cao thượng rồi, nó không nương theo mặt địa-cầu
xã-hội mà sống nữa. Nó quyết định làm tôi tớ cho xã-hội, làm tôi cho mặt địa-cầu
này, để trả nợ tình của nó. Ngày giờ nào nó không làm tôi tớ cho cơ-quan hữu-hình
này, thì mối nợ ấy vẫn còn vậy. Cái triết-lý cao thượng hơn hết là mình không sống
cho mình, mình sống cho xã-hội nhơn quần, tức nhiên chung sống trên mặt địa-cầu
này, thì cơ-quan giải khổ của chúng ta ngày nay, chắc-chắn không ai là không đoạt
được đó vậy./.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 9: Chúng ta sanh tại mặt thế này, vừa
lọt lòng mẹ phải chịu mấy muôn quả kiếp rồi. ... ... ..., cái tiếng ở trong
lòng mẹ mới ra mà có tất cả các nợ, nợ trái chủ, nợ quả kiếp đủ thứ, không biết
bao nhiêu món nợ.... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Chúng ta sanh tại mặt thế này,
vừa lọt lòng mẹ phải chịu mấy muôn quả kiếp rồi. ... ... ..., cái tiếng ở trong
lòng mẹ mới ra mà có tất cả các nợ, sợ trái chủ, sợ quả kiếp đủ thứ, không biết
bao nhiêu món nợ.... ... ...
Chúng tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể
dàng, chúng tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản
chánh không có phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét