
HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS
THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
Kính Gởi: Hiền Huynh HIẾN
PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền
Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo
tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn
để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14
tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
Phụ bản.
THÁNH
THƠ CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG SANH
LỜI TỰA
Những bài
Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH
chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy.
Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành
cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các
nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.
Đức HỘ-PHÁP là một trong
các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ
thuyết Tam-Lập: “Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn”.
Về lập đức: thì Đức Ngài
là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho
toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC- HOÀNG - THƯỢNG-
ĐẾ ).
Về lập công: thì Đức Ngài
vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt
gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là
một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!
Về lập ngôn: thì Đức Ngài
lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng
thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn
Đạo nên lưu ý.
Nhơn danh Hiến-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý
độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính
chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG
HỮU ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT
Mỗi lần ly loạn là mỗi lần
thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử : những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch
đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua
các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện
chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.
Những kinh nghiệm đau
thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập
những tài liệu này.
Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung
tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến
cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn
trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng
thay Trời dạy Đạo.
Nếu một may thay thời cuộc
lại biến thiên, có thể các cuộc phần
thư lại tái diễn, thì thiết tưởng trong
số tài liệu này vẫn còn có nhiều người
nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn
Đây không phải là việc làm
của một cá nhân hay một đoàn thể, nhưng
là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình
để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển
tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công
việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.
Việc làm của chúng tôi
không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo
trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU
ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi
xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi
chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng
tiếng ngọc của Đức HỘ PHÁP.
Từ đây bản quyền sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để
cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu
ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta
trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28
tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ
Q. 1/01: Lời Tiên tri của Ðức
Lý Giáo Tông.
Thuyết đạo tại Báo Ân Từ, đêm
rằm tháng 9 năm Bính Tuất (1946)
Trong
năm Bính Dần (1926) Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo phổ hóa chúng sanh làm
lành, lánh dữ, tức là Cơ Quan Cứu Thế. Khi mà Ðạo đã truyền bá khắp các Tỉnh
rồi, qua đến ngày Rằm tháng 6 năm Ðinh Mão (1927) Ðức Lý Giáo Tông cấm cơ bút,
thì chư vị Chức Sắc Ðại Thiên Phong không rõ tại sao, nhứt là Ðức Quyền Giáo
Tông có lòng sở mộ về cơ bút đã trải qua một thời gian lắng nghe lời Thánh
Giáo, nên Ðức Quyền Giáo Tông định cầu Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương
đặng học hỏi về Ðạo đức.
Ðến
ngày 14 tháng 11 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông mới giáng cơ thì xem hình như
Ngài có đại nộ, mà chẳng hiểu Ngài giận việc chi, Ngài mới cho một bài Thánh
Giáo như vầy:
"Hỉ
chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư chúng sanh, hảo hội hiệp. Thảm cho nhơn loại,
khổ cho nhơn loại! Ðời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia cũng đáng đó chút.
Lão vì thương yêu nhơn sanh hội 10 ngày nơi Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhơn
loại, nhưng luật Thiên Ðình chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết
chém giết lẫn nhau, đến buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu
mày, nhưng ôm lòng rán chịu, lạy lục khẩn cầu; chư Ðạo Hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ
ngáo ngáo như trẻ không hồn, thấy càng thảm thiết.
Lão
tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhen đã đặng danh Thánh Ðịa là Nước Nam
nầy, mà Lão xin không đặng tội cho Thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Huế, Hải
Phòng, Hà Nội... Thảm! Thảm! Thảm!"
Ðây
là lời tiên tri đã trải qua 20 năm trường đến ngày nay kết quả vẹn toàn trước
mắt nhơn sanh đều thấy rõ.
Ðức
Lý Giáo Tông, Ngài định phạt Ðức Quyền Giáo Tông 10 hương, Hộ Pháp 5 hương, ông
Phối Sư Bính 5 hương, xét kỹ ra là Ðức Ngài giận ai chớ chẳng phải giận anh em
tôi đâu. Tiếc thay cho nhơn sanh, chớ chi trong thời kỳ Ðại Ðạo hoằng khai, mà
để tâm tín ngưỡng chung thờ một Tôn Giáo, tròn giữ theo Luật Pháp của Ðạo, lo
trau giồi đức hạnh, làm phải làm lành, liên lạc thương yêu, thuận hòa cùng
chung, thì nay đâu có lâm nạn đao binh như thế.
Trái
lại, Chức Sắc Thiên Phong là người cầm phướn chiêu hồn dìu dắt chúng sanh thoát
khổ, mà đi đến đâu đều bị họ chê bai, biếm nhẻ, kích bác, hân hủi đủ thứ, Chức
Sắc Hội Thánh đem hồng ân của Ðức Chí Tôn rải khắp các nơi cho nhơn sanh chung
hưởng, mà họ coi như vật thường, không có giá trị gì, họ đã mài miệt chạy theo
khoa học, chú trọng về văn minh vật chất, chớ không hấp thụ được đạo đức tinh
thần, họ đeo đuổi theo nguồn tranh đấu là cơ tự diệt, chớ nào rõ biết cơ bảo
tồn qui cổ là gì, mãi đến ngày nay mà họ cũng chưa tỉnh.
Còn
nói về phần chư Môn Ðệ của Ðức Chí Tôn, từ buổi đem thân vào cửa Ðạo trong lúc
nhập môn đã quì trước Bửu Ðiện có bàn Ngũ Lôi, mà lập minh thệ rằng: "Từ đây tôi biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc
Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Ðệ, gìn Luật lệ Cao Ðài, như sau
có lòng hai thì thiên tru địa lục". Than ôi! Cho những người thề như
vậy, mà cũng không để trọn đức tin nơi Chí Tôn lại thối bước ngã lòng, cổi áo
Ðạo, dẹp khăn tu, mong mãi xu hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây tạo
ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.
Vậy,
ai là người thất thệ với Chí Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn năn sám
hối, cầu xin Ðại Từ Phụ cùng các Ðấng Thiêng Liêng, từ bi ân xá tội lỗi tiền
khiên, họa may đặng chung hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn ban cho sau nầy.
Ngày
nào toàn thể nhơn sanh đều biết hồi đầu hướng thiện, nhìn Ðạo Trời là một Cơ
Quan Cứu Thế, thật hành chủ nghĩa thương yêu cho ra thiệt tướng thì ngày ấy mới
đặng hưởng hòa bình đại đồng thế giới.
Q. 1/02: Vấn đề Nho Giáo.
Báo Ân Từ, đêm 30 tháng 9
năm Bính Tuất (1946) hồi 12 giờ khuya
Nhắc lại Thầy Mạnh Tử khi qua yết kiến Vua nước Lương, ông Huệ Vương hỏi
Ðức Mạnh Tử: Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước Quả nhân có chỉ
giáo điều chi hữu lợi chăng? Thầy Mạnh Tử đáp rằng: Tôi chỉ biết nói đến nhơn
nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi, nếu trong nước
mà dục vọng về sở lợi, thì đình thần có trăm hộc lại muốn
có thêm ngàn hộc, thượng hạ đại phu có ngàn hộc lại
muốn có muôn hộc, còn vì Thiên Tử đã có dư muôn hộc, lại muốn có thêm triệu hộc.
Nếu
trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao lung, muôn dân đồ
thán, trong nước thế nào bình trị được? Còn như trong nước biết chú trọng đạo
nhơn nghĩa, thì toàn thể quốc dân đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc
nghiệp âu ca.
Thầy
Mạnh Tử thuyết minh đủ mọi điều lợi, hại rồi thì Vua Huệ Vương chịu nạp dụng.
Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại
mất, con người trên mặt thế đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa
đạo đức, tinh thần, nên mới có nạn chiến tranh tương tàn, đồng chủng giết hại
lẫn nhau, hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi
mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế
không thể nào ngưng được.
Chức
Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn sanh không
ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý
đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì
chăng? Nhắc lại lời Thánh Giáo của Ðức Chí Tôn có dạy về chữ Nhơn...
" Nhơn là đầu hết các hành
tàng,
Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan."
Ngày
nào toàn thể quốc dân mà biết thực hành hai chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng,
thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến
tranh sẽ trở nên thái bình an cư lạc nghiệp.
Q.1/03: Vấn đề Bác Ái Từ Bi.
Báo Ân Từ, ngày rằm tháng 10
năm Bính Tuất (1946)
Từ
xưa đến nay các nhà Tôn Giáo đem chữ từ bi bác ái phổ hóa nhơn sanh, cốt yếu là
để bảo tồn sanh mạng của quần chúng, gầy lại sự hạnh phúc cho đời chung hưởng.
Chữ từ bi bác ái chẳng lạ gì.
Bần
Ðạo nói ra thì chư Chức Sắc nam, nữ Chức Việc Ðạo Hữu cũng đều hiểu rõ.
Cái
nghĩa lý của bốn chữ từ bi bác ái cũng không phải là sâu xa mắc mỏ gì, từ lớn
chí nhỏ làm được tất cả mà tiếc thay cho nhơn sanh không chịu thực hành.
Từ bi
là gì? Bác ái
là gì? Bần Ðạo xin được giải chữ Từ bi ai ai cũng đều có sẵn trong tâm, trẻ con
nên năm bảy tuổi thì nó đã biết sự thương yêu cha mẹ, thương yêu
anh em là người thân tộc gần gũi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu bạn
thì nó lại thương yêu rộng ra hơn nữa, một khi đã thấy sự đau khổ hoạn nạn, tai ương của quần chúng
thì nó cảm hóa xúc động đến tâm thương yêu lan tràn ra, không biết đâu là giới
hạn, ấy là tánh từ bi đó.
Còn Bác ái là thể theo
lòng Trời Phật thương yêu toàn cả chúng sanh không biết đâu là bờ bến,
thấy chúng sanh làm được việc gì có đạo đức nhơn nghĩa, thì Trời Phật vui mừng thương yêu chẳng xiết, ấy là Bác ái.
Hiện
nay nhơn loại thiếu sự từ bi bác ái cho nên tạo ra trường tranh đấu, quyết
chiến với nhau, sát hại đồng bào tương tàn cốt nhục, Ðức Chí Tôn giáng trần
hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cốt yếu đem chủ nghĩa từ bi bác ái làm tôn
chỉ, để cho nhơn sanh theo đó mà làm một cơ quan bảo tồn tánh mạng và bảo an
quốc thể được hòa bình.
Ngày
nào toàn cả quần chúng, đồng bào biết giác ngộ, tu tỉnh hiệp nhứt tâm thực hành
chủ nghĩa từ bi bác ái cho ra chơn tướng, thì nhơn sanh sẽ đặng chung hưởng mọi
điều hạnh phúc, chẳng luận quốc dân nào, xã hội nào mà toàn cầu thế giới cũng
được thọ hưởng cái hạnh phúc ấy.
Q.1/04: Tự Tín, Tha Tín,
Thiên Tín.
Báo Ân Từ, đêm 10 tháng 11
năm Bính Tuất (1 giờ 46)
Ðức tín chia ra làm ba phương diện:
- Tự
tín
- Tha
tín
- Thiên
tín
1 /. TỰ TÍN là gì?
Là
mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình. Con người
từ buổi ấu thơ đã biết ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ anh em. Ðến lúc
trưởng thành cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng
xã hội nhơn quần, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ phân minh cũng
như có một quyển sách lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe
và thấy các tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên
ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong
đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem
lên trên Linh Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và
ta đủ đức tin nơi đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó tự tín
nghĩa là tu thân.
2/. Còn THA TÍN nghĩa là gì?
Là ta biết quan tiền vũ
hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên
người cao quí, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả
mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập lại làm quyển
sách thứ nhì
nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh
Ðài (tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn
tánh mạng của ta ấy là Tha tín.
3/.
Tự tín và Tha tín chưa đủ hoàn toàn phải có THIÊN TÍN là trọn đức tin nơi Chí
Tôn có đủ quyền bảo hộ sanh mạng của ta và toàn thể chúng sanh nơi mặt thế. Nếu
để trọn đức tin nơi Chí Tôn và tuân theo bài học của Ðức Chí Tôn dạy từ bi bác
ái, nhơn nghĩa thuận hòa, và tất cả đem vào hai quyển sách nói trên hiệp lại
thành một khối đức tin đặc sắc, ta mới dựng lên để tên Cao Ðài rồi ta do đó mà
thi hành cho chu đáo, ấy là cơ bảo tồn trường cửu của ta và tất cả nhơn loại.
Nếu
có cái Tự tín và Tha tín là cái năng lực hữu hình, mà không có Thiên tín là
Huyền pháp vô vi, thì cái năng lực ấy nó sẽ cuốn lôi theo cơ tự diệt, vì vậy
nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng mạng sống của con người, bởi
Ðức Chí Tôn hóa sanh một người là một vật báu của Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu
loài vật báu ấy thì phạm Thiên điều tức là đại tội. Ngày nào toàn thể nhơn loại
trên mặt thế giới nầy, mà có đủ đức tin nơi Chí Tôn và thật hành y theo chủ
nghĩa "Từ Bi, Bác Ái, Nhơn Nghĩa" cho được hoàn toàn thì mới mong
chung hưởng đời thái bình hạnh phúc, ấy là gầy lại đời Minh Ðức, Tân Dân tái
lập Tân Thế Giới.
Q.1/05: Ðãi tiệc công thợ,
giải nghĩa về con đường thứ ba Ðại Ðạo.
Khách Thiện Từ trước bữa đãi tiệc công thợ.
Ngày rằm tháng 11 năm Bính
Tuất (1946)
Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa, hành
tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí Tôn và
Phật Mẫu. Cái yêu ái và hiếu hạnh ấy phải là phi thường
do tâm linh điều khiển, phải thương yêu nhơn sanh và vật loại hơn mình và coi đồng thể, đồng sanh với mình. Phải tạo dựng cố thủ Thánh tâm cho
nên Chí Thánh, và đạt cho đủ ba ngàn công quả thì sẽ đi đến, lướt đặng và vững
vàng thắng muôn điều trở ngại.
Q.1/06: Phát thưởng cho học sinh.
Huấn từ nhân lễ bãi trường và
phát thưởng cho học sinh trường Lê Văn Trung (1946)
Về
nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự, một điều quan trọng mà tất cả
các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là quốc thể của một nước, tức là sự
tập hợp của một khối cá thể của những cá nhân nước ấy. Vậy thì, mỗi công dân
một nước phải có một cá thể đã. Cá thể của một người tức là nhân cách và nhân
phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để
lại cho hai chữ vô cùng quí báu ấy là Tu Thân vậy.
Q.1/07: Khai Hội Nhơn Sanh.
Ngày 1 tháng chạp năm Bính
Tuất (1946)
Thưa cùng chư Nghị Viên và Hội
Viên Lưỡng Phái,
Ðã
trót 5 năm dư, Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì đã từng chịu biết bao nhiêu
là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Ðạo, nỗi sợ cho vận nước tránh
không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con
cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ.
Bần
Ðạo chẳng cần minh tả thì chư Hiền Hữu, Hiền Muội cũng rõ từ trước ta đã chán
thấy nhãn tiền rằng: Chỉ có thương một người mà năng lực tình ái ấy cũng đủ làm
cho phải hủy mình mà tùng mạng lịnh của nó. Ôi! Cái mãnh lực tuy vô hình mà nó
oai quyền rất dữ, Bần Ðạo nếu chẳng đủ tinh thần cường liệt nương lấy đức tin
thì e nó đã giết hẳn mạng sanh của Bần Ðạo một triệu lần mới phải.
Hễ cùng
chia đau thảm nghèo khổ, hèn tiện có bao nhiêu thì cường lực tình ái càng tăng
nhiệt độ thêm cao hơn nữa. Bần Ðạo đã quyết thắng, thắng đặng sống, sống vì
Thầy vì Ðạo vì yêu con cái của Người. Bần Ðạo thiệt là người đã phục sanh với
một quyền Chí Thánh đó vậy.
Về tổ
quốc sau khi đã chịu đủ vị thảm sầu, tưởng đã đủ cớ phô bày cho cả chúng sanh
thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Ðạo, đã nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của
mình đặng vẽ vời giọt huyết lệ, hai chữ nhơn nghĩa cho đời; nào dè trái lại
thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm, nước mất nhà tan, xương chồng
máu đổ. Một trường sát khí bao trùm toàn quốc, gươm tử thần vùn vụt khắp nơi,
làm cho con cái không cha, tớ không thầy, vợ không chồng, cốt nhục tương tàn,
nhân dân đồ thán.
Con
hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết
nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng cuối một tiếng nỉ non giục kẻ tri
âm hồi đáp. Ôi! Dưới bức thê lương nầy
ai là tri kỷ, tri âm cùng Bần Ðạo, ngoài ra chư Hiền Hữu, Hiền Muội thì Bần Ðạo
đã kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy,
mà để tai lóng tiếng. Ôi! Cái khối sanh của Chí Tôn đã xiêu lạc nơi nào mà để
hai sắc con yêu ái của Người phải chịu nạn tương tàn như thế!...
Bần
Ðạo ngày nay hiển nhiên đứng trước mắt các bạn mà còn ngỡ là giấc chiêm bao.
Vậy Bần Ðạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên yếu thiết là: Hòa giọng đau
thương cùng con hạc lạc nầy đặng giục lòng bác ái một cảnh an nhàn thiêng liêng
cho toàn sanh chúng. Bần Ðạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái của Chí Tôn
trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử Thánh Thể
của Thầy, nên vừa để gót về đất Tổ Ðình thì đã quên hẳn mảnh thân tiều tụy hao
mòn, vội cầm quyền của Ðạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền, rồi lại tìm
phương hiểu tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu giồi mài thêm nữa, nên tức
cấp mở Hội Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước.
Bần
Ðạo để trọn tín nhiệm nơi các bạn, Bần Ðạo xin mở Hội.
Q.1/08: Khai mạc Ðại Hội Phước Thiện.
Ngày rằm tháng chạp năm Bính
Tuất (1947)
Ngày
nay, nhóm Ðại Hội Phước Thiện cũng là một Hội trong quyền Vạn Linh, Bần Ðạo cần
giải rõ cái nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước Thiện cho Chức Sắc, chư Phái Viên
và Nghị Viên được hiểu.
Từ
thử Thiên Phong nam, nữ Phước Thiện chỉ hiểu mảy may cái trách nhiệm tối cao
tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột. Bởi cớ cho nên nhiều người không
hiểu phận sự, hành Ðạo không đúng theo chơn truyền, sái hẳn giá trị của Cơ Quan
Phước Thiện, việc làm của chư vị không ra gì hết, thành thử Cơ Quan Phước Thiện
chưa có kết quả chi, lại còn theo lối giành giựt nhau.
Hội
Thánh có hai Cơ Quan: Hành Chánh và Phước Thiện thường tương khắc nhau, song
chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực
thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được.
Mấy
em cũng dư biết Ðạo Cao Ðài sản xuất có một Chơn Lý tối cao, tối trọng nên đời
buổi nầy khao khát đợi chờ như hạn trông mưa, những kẻ tội tình trong bể khổ
khát khao đợi giọt Cam Lồ của Ðức Chí Tôn chan rưới cho bớt sự đau thảm. Ðức
Chí Tôn đến tạo Ðạo giải khổ tâm hồn cả con cái của Ngài, Ðức Chí Tôn lại tạo
ra hình ảnh Thánh Thể của Ngài, mượn tay các em và các bạn làm hình thể của
Ngài, giải khổ cho đời về phần xác.
Phước
Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của Ðức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa
hồn, Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ
giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc. Chừng nào cả Cơ Quan khóc hại của loài người
mình gánh vác hết thì mới đúng cái nhiệm vụ của Chí Tôn phú thác, mấy em thử tự
hỏi: Hồi nào đến giờ làm nên những gì chưa? Chỉ lo bảo bọc anh em trong Ðạo mà
thôi, có đâu ngó đến ngoài Ðời. Các vật loại đều là con cái Chí Tôn, chớ không
phải nội trong cửa Ðạo mà thôi, như thế có đủ đâu? Cơ Quan giải khổ của Chí Tôn
cậy nhờ mấy em lo, nuôi mấy em còn chưa rồi. Từ ban sơ Qua chịu nhọc nhằn hẩm
hút, ăn từ miếng tương rau hiệp cùng nhau gầy dựng lập Phạm Môn, Qua chịu khó
nhọc như mấy em cho đến ngày Cơ Quan Phước Thiện ra thiệt tướng, đã tạo đủ lực
lượng cho mấy em thi hành nhiệm vụ.
Tuy
vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm,
Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới
không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác, đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc,
thủ phận Ðạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo Ðời, vì nếu ở thủ phận
theo Ðạo thì cũng chẳng ai nuôi.
Ngoài
nữa, Qua còn nghe, trong lúc Qua đi đứa nào có thế thì tự vi chủ, giành lấy cam
một mình để toại hưởng vậy thôi. Hỏi vậy mấy em có nghĩa hay không? Nếu Qua cho
Tòa Ðạo minh tra thì không có một người nào có thể đứng trước mặt Qua mà xưng
là đại công được, cái đói khó cùng khổ của các em nó tố cáo mấy em không còn
chối cải được.
Qua
nói thật, thể Ðạo chưa rồi thì có mong gì tạo thành chơn tướng của Ðạo. Phải
chi mấy em biết nghe lời, Qua mở cửa Bát Quái Ðài cho mấy em làm bạn với các
Ðấng Thiêng Liêng thì không đến nổi nầy.
Ngày
nay cửa Ðạo được mở rộng đây cũng nhờ các Thánh Tử Ðạo, nếu không thì vẫn còn
đóng cửa. Nếu mấy em xem đáng, thì Qua mở cửa cho các Ðấng Thiêng Liêng dìu đỡ
mấy em.
Qua
nói cho mấy em hay, Qua đang ngồi đây các Ðấng ở Bát Quái Ðài còn đợi mấy em và
chính Qua sẽ dìu dắt, kêu cửa Bát Quái Ðài cho mấy em về làm bạn thân yêu của
các Ðấng Thiêng Liêng. Nếu mấy em làm phận sự không tròn và còn một mảy phàm
tâm, thì cõi Hư Linh không đem mấy em vào bảng công nghiệp vĩ đại bao giờ. Các
em có làm trọng trách đối với con cái Chí Tôn, thì Bát Quái Ðài mới hiệp một
cùng mấy em vậy.
Mấy
em chưa nắm được hoàn ngọc thì chưa đủ bảo toàn Vạn Linh con cái của Chí Tôn.
Qua
nói Qua sẽ mở cửa Bát Quái Ðài dìu dắt mấy em mà mấy em có đến được cùng chăng
là do tâm lý của mấy em đó.
Ấy
vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần vi chủ nêu gương cho mấy em sau
nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ đoạt mục đích
tối cao, tối trọng được, phải có khối óc thiêng liêng mới mong thay hình Thánh
Thể Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần linh.
Ðến
đây Qua xin mở Hội, để trọn quyền Hội Thánh Phước Thiện đủ sáng suốt làm việc
và Bần Ðạo để trọn tín nhiệm về việc cầu phong, thăng thưởng một cách chánh
đáng và công bằng.
Q.1/09: Sự cầu nguyện.
Báo Ân Từ, đêm 24 tháng
chạp năm Bính Tuất (1947)
Sự cầu nguyện có cảm ứng với Chánh Trị Thiêng Liêng tức là các Ðấng Vô Hình
đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi
thế, triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản
xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật
thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi
cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể
của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc
là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác..v.v... đó là về phần tinh khí hình
thức của con người, còn về phần linh tánh thì do nơi Ðức Chí Tôn ban cho nhứt
điểm lương tâm, nó có cảm giác cùng Chí Linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành
tâm cầu nguyện.
Nền
Ðạo là một điều cảm ứng rất mầu nhiệm vô cùng, có câu: "Nhơn tâm sanh nhứt
niệm, Thiên địa tất giai tri". Từ đây chư Chức Sắc và Chức Việc cùng Ðạo
Hữu nam, nữ gắng thành tâm cầu nguyện cho nền Ðạo và cơ Ðời được an ninh trật
tự, kể từ ngày nay cho đến Tân Xuân đầu năm Ðinh Hợi thì sẽ thấy sự tiến hóa
phi thường và huyền linh mầu nhiệm, nếu toàn cả quốc dân mà đủ lòng tín nhiệm
với quyền hành Chánh Trị Thiêng Liêng, hiệp nhứt tâm cầu nguyện, thì cơ loạn
lạc sẽ trở nên an ninh trật tự, Ðời sẽ được cộng hòa chung hưởng mọi điều hạnh
phúc...
Q.1/10: Lễ thượng cờ tại sân
vận động & Ý nghĩa lá cờ Quân Ðội Cao Ðài.
Ngày 8 tháng giêng năm Ðinh
Hợi (1947)
Ngày hôm nay lá cờ của Chi Thế
ra mặt với đời cùng cây Thư Hùng Kiếm của nó, y theo lời hứa của Ðức Chí Tôn
lập cho nước Việt Nam một nền Quốc Ðạo, cơ quan cứu sanh cho vạn loại.
Vì do
sở định thiêng liêng và huyền diệu của Ngài nên người đời dễ chi biết được.
Quân Ðội Cao Ðài là một đội binh thiêng liêng của Chí Tôn lập ra để bảo vệ cơ
quan của Ngài.
Tuy
với mắt thường thấy cơ quan binh bị như thế nầy, chớ trong đó có đủ thiên binh,
thần tướng vì mục đích bảo tồn thiên hạ mà biến ra vậy. Cái sở vọng của Bần Ðạo
là Quân Ðội Cao Ðài có một tinh thần kiểu mẫu của những đội binh trên thế giới,
có mục đích bảo toàn cho nhơn loại dựng lại hòa bình. Quân Ðội Cao Ðài không
phải vì quyền lợi riêng mà tàn sát làm tiêu diệt thiên hạ.
Bần
Ðạo có lời yếu thiết căn dặn toàn Quân Ðội nên nhớ rằng: Lực lượng chúng ta dầu
mạnh đến đâu cũng không thể chống lại lực lượng tàn sát phá hoại của bom nguyên
tử được.
Quân
Ðội Cao Ðài phải hiểu cái mạnh của mình, mạnh vì lòng nhơn nghĩa và tánh nghĩa
hiệp cứu đời.
Vậy
muốn dẹp được cái mạnh của bom nguyên tử thì chúng ta chỉ dùng cái mạnh của
nhơn nghĩa và tính nghĩa hiệp mà thôi. Quân Ðội Cao Ðài ra thật tướng ấy là ý
Thầy muốn cho Quân Ðội Cao Ðài làm kiểu mẫu những Quân Ðội Quốc Tế mà thành hay
không do quyền năng của Chí Tôn.
Vậy
Quân Ðội Cao Ðài phải giữ gìn thanh gươm nghĩa hiệp, lá cờ nhơn nghĩa cho vững
vàng. Ðược như thế thì quyền năng của Chí Tôn lúc nào cũng có trong Quân Ðội
Cao Ðài vậy.
Giảng
tiếp ý nghĩa tượng trưng của lá cờ Quân Ðội.
Nền
vàng cốt yếu thuộc về Quốc Gia huỳnh chủng, gốc xanh da trời là lòng bao la
quảng đại, trong có bánh xe lửa chín chia gọi là pháp luân thường chuyển, lại
có ý nghĩa là Cửu Thiên Khai Hóa. Trong lá cờ có ba màu: vàng, xanh, đỏ ấy là
Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt, gọi là Bảo Sanh Kỳ (Lá cờ Bảo Sanh).
Quân
Ðội Cao Ðài có trách nhiệm thiêng liêng, làm cho đời được an ninh trật tự, đào
tạo hạnh phúc cho nhơn sanh chung hưởng cốt yếu làm khuôn mẫu cho sự hòa bình,
làm gương cả lân bang ngoại quốc. Hiện thời các nước liệt cường dùng khí cụ tối
tân, cho đến bom nguyên tử, chỉ có tàn sát với nhau mà thôi, còn Quân Ðội Cao
Ðài tức là một "Ðạo Thiên Binh" được toàn thắng, chỉ lưỡi gươm kiếm
hiệp khử tà tôn chánh, diệt giả phò chơn, nương theo lá cờ bảo sanh mà thật hành
nhơn nghĩa, thủ thắng về mặt đạo đức tinh thần, chẳng làm gì trái với lương
tâm. Tóm lại, Quân Ðội Cao Ðài tức là một Cơ Quan Hòa Bình Thế Giái.
Q.1/11: Lễ rước quả Càn Khôn.
Ðền Thánh, ngày 8 tháng giêng
năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày
nay đã dời quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí Tôn đã ngự nơi Ngai của Ngài,
chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Ðền Thánh nầy mà tiến hóa
mãi lên.
Ðền
Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối
đức tin của toàn con cái của Ðức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy.
Nhờ
những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách
khổ cực hơn 10 năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có
đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ
hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành
của Ngài.
Ðền
Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời
để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái
năng lực nhơn nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi
chuyển thế nầy.
Chúng
ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ khối đức tin của chúng ta mà hưởng ân huệ của
Ðấng Chí Tôn.
Bần
Ðạo nhắc lại, Ðức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng
ta đã thấy, Ngài cho chúng ta y theo lời hứa, Bần Ðạo đứng tại tòa giảng đây
chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian
qua để làm bằng chứng. Vì quốc dân Việt Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài, nên cơ
quan cứu khổ để giải thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến
ngày nay, mà trước mắt chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất
đau đớn thương tâm, phải chi quốc dân ta tin thử và cầu nguyện thử đi, rồi coi
Ðức Chí Tôn sẽ cho chúng ta y như lời hứa không.
Q.1/12: Ðại Lễ Ðức Chí Tôn.
Ðêm mồng 9 tháng giêng năm
Ðinh Hợi (1947)
Quốc
dân Việt Nam có một phần người thiếu đức tin về Ðạo Cao Ðài, họ chẳng tin rằng
Trời khai Ðạo để tạo Ðời, lập Minh Ðức Tân Dân, tức là một Cơ Quan Cứu Thế, làm
cho vạn loại hòa bình càn khôn an tịnh, tránh khỏi sự cạnh tranh giết hại lẫn
nhau. Hiện giờ cái họa chiến tranh, khói lửa lan tràn khắp nơi, nhơn sanh thống
khổ, cốt nhục tương tàn là vì có một phần người không tin có Trời, chẳng noi
theo luật công bình của Tạo Hóa, cho nên mới gây ra một trường náo nhiệt như
thế. Ngày nào nhơn sanh biết nhận định Ðạo Trời là phương châm giải khổ lập
thành Quốc Ðạo trong nước Việt Nam, đem lại sự an ninh trật tự cho nhơn loại
cộng hưởng hòa bình, thì ngày ấy là ngày của Ðức Chí Tôn rưới giọt hồng ân cho
nhơn loại gội nhuần hạnh phúc.
Q.1/13: Tam Bửu.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng
giêng năm Ðinh Hợi (1947)
Lễ Thượng Ngươn giảng về vấn
đề Tam Bửu.
Hiến
lễ Ðức Chí Tôn là: Bông, Rượu, Trà, thể theo Tam Bửu của con người là: Tinh,
Khí, Thần, ấy là vật báu nhứt của thế gian, khi chúng ta hiến lễ cho Ðức Chí
Tôn thì phải trau giồi tô điểm ba vật báu ấy cho tinh khiết, chẳng nên để nó
nhiểm lấy bụi trần ô uế, thì vật báu ấy trở nên vô giá trị.
Vậy
Chức Sắc, Chức Việc nam, nữ cần phải trau tria thân thể và trí não tinh thần
cho được trong sạch.
Mỗi
khi hiến lễ ta cần dâng các bửu vật ấy cho Thầy để làm hột giống tốt đặng gieo
trồng cho nhơn sanh nhuần gội chung hưởng ân huệ của Thầy ban.
Vậy
điều cần yếu là Chức Sắc vào hàng Thánh Thể, phải trọng tu dưỡng ba vật báu của
mình cho thanh bạch, hầu hiến lễ Ðức Chí Tôn.
Q.1/14: Hội Yến Diêu Trì.
Ngày 30 tháng giêng năm
Ðinh Hợi (1947)
Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc Ðạo tại thế. Ðức Kim Mẫu
cùng Cửu Vị Nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức Sắc, xướng họa thi phú và dạy Ðạo. Ấy là Hội Chư Tiên tại thế.
Ðức Chí Tôn thuộc về Phật, Ðức Diêu Trì Kim Mẫu thuộc về Pháp, nếu có Ðức
Chí Tôn mà không có Ðức Diêu Trì Kim Mẫu thì trong vũ trụ nầy không có chi về
mặt hữu vi, còn nhơn
loại là Tăng.
Ta
nhìn có Ðức Chí Tôn khai hóa, nhưng có sanh hóa càn khôn cũng như cơ sản xuất
nhơn loại tại thế cũng do nơi âm dương tương hiệp mới phát khởi vạn vật, cho
nên con người gọi cha mẹ là Tiểu Thiên Ðịa, còn nhiều ý nghĩa rất sâu xa nói
chẳng tột.
Q.1/15: Thờ Ðức Phật Mẫu
tại Báo Ân Từ.
Báo Ân Từ, ngày mồng 1
tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947)
Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Buổi mới mở Ðạo
Bần Ðạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt
con cái của Ðức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao
lại cho Thầy.
Ngày
mở Ðạo, vì cái tình cảm ấy, các vị Ðại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở
Ðền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là Chúa còn Phật Mẫu là
tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính
Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được.
Cả cơ
quan tạo đoan hữu tướng, thảy đều do Phật Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi trần
mang mảnh thi hài, cái chơn linh khi đến, khi về cũng do nơi tay Phật Mẫu mà
sản xuất. Phật Mẫu là mẹ của linh hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì ta
càng cảm mến cái công đức hóa dục sản xuất của Ngài vô cùng.
Chúng
ta ngày nay trên đường tu tiến, đắc Ðạo hay không cũng do bà Mẹ Thiêng Liêng ấy
nâng đỡ ấp yêu, vì không có ai cưng con hơn là Phật Mẫu. Nếu chúng ta biết đặng
cơ quan Tạo Hóa Càn Khôn sản xuất hữu hình của Phật Mẫu, thì chúng ta sẽ có
tình cảm kính trọng yêu thương Phật Mẫu đến ngần nào. Con cái của Ngài xin đem
vào thờ ở Ðền Thánh, thì Ngài lại từ chối mới biết cái cung kính của Phật Mẫu
đối với Ðức Chí Tôn ở thế gian nầy được đáo để đến dường ấy.
Còn
Nữ phái nên coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường
tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ,
chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng nàn của Mẹ vậy.
Bây
giờ nói về tại sao có Phật Mẫu trước khi có Ðức Chí Tôn là đấng không mà
có,(*1) nếu nói có tất cả là không, ấy là đấng vô hình, vô ảnh ở trong cảnh vô
tướng, Ðức Chí Tôn vì mộng tưởng chẳng khác kẻ phàm, sanh ra lớn lên lại muốn
tạo nghiệp, muốn tưởng Ðức Chí Tôn là nguồn cội cả Bí Pháp nên gọi là Phật.
Trong Bí Pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật Mẫu sản xuất
cả cơ hữu vi của vũ trụ. Bởi thế nên quyền năng của Phật Mẫu là Mẹ khí thể của
ta, nên ta có ba hình thể là Tam Bửu đó vậy.
Tam
Bửu là ba khí chất tạo nên hình hài xác thịt, cái xác là con kỵ vật, thiên hạ
lầm tưởng hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi Trời Ðất vạn vật một khi đã hoại
thì tan nát không còn sanh hóa nữa hay sao?
Bởi
mang xác thịt mắt phàm không thể thấy, chớ nếu có huệ nhãn thì thấy trong cái
xác của người có ba thể: Thể thứ nhứt là xác hài, thuộc vật chất khí biến sanh;
thể thứ nhì là chơn thần do tinh ba của vật chất khí mà sản xuất, từ phẩm Ðịa
Thần đến Thiên Thần; thể thứ ba là ngươn khí do chơn linh mà có, từ bực Thánh
đổ lên.
Chúng
ta đạt pháp do chúng ta có ba thể tương liên đừng tưởng chúng ta không đạt
được. Chúng ta hễ đi được thì đi hoài, đâu cũng có đường hết thảy. Song muốn
đạt được pháp thì phải luyện. Ban sơ mới khai Ðạo chúng ta phải thi hành thể
pháp nếu sau nầy không đạt được chơn pháp thì cũng như con người có quần mà
không có áo vậy.
Từ
khi cơ quan hữu tướng của Mẹ đã tạo thành, thì Ðức Chí Tôn không cho Mẹ thấy
nữa. Phật Mẫu thì biết tôn sùng và sợ sệt chớ không thấy Ðức Chí Tôn được, nên
bây giờ Mẹ thì vui cùng con cái, an ủi nhờ con cái. Lạ gì tình thương của đàn
bà, có mặt chồng thì ít thương con, ít ấp yêu, còn đến khi vắng mặt chồng thì
mới biết thương yêu con cái vậy.
Phật
Mẫu khi thấy con cái đến ngày qui liễu, bỏ cái áo xác thịt nầy về với Ngài,
Ngài rất vui lòng tiếp rước con cái, như người đàn bà gặp được đứa con yêu dấu
cách biệt từ lâu.
Ðền
thờ nầy là nơi lễ bái Ðức Phật Mẫu trong buổi nhơn đạo mãn sang hồi cựu vị.
(*1) Nơi đọan thứ 6: Bây giờ nói về tại sao có Phật Mẫu trước khi có Ðức Chí Tôn là đấng không
mà có, nếu nói có tất cả là không,...
Q.1/16: Quốc Sự Vụ.
Phiên nhóm Bộ Quốc Sự Vụ ngày
mồng 9 tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947) (*1)
Hôm
nay chúng ta bàn giải về Quốc sự, vậy trước khi bàn đến vấn đề Quốc sự, tôi có
mấy điều đưa ra trước để chúng ta vạch một con đường mà chúng ta sẽ đi hay nói
là sẽ làm, vì chúng ta phải có mục đích rõ ràng.
Chúng
ta cũng dư hiểu, hiện giờ các liệt cường như các nước Pháp, Anh, Mỹ, Nga mỗi
nước đều có một chế độ chánh trị riêng. Nói đến chánh trị, chúng ta nên hiểu
rằng, chế độ chánh trị là do một mục đích, một chủ nghĩa, một tinh thần của
quần chúng tạo ra.
Như
xưa kia, nước Pháp còn dưới chế độ Quân chủ độc tài làm cho dân Pháp chịu không
nỗi sự bất công tàn bạo của nhà vua, nên trong quần chúng có nhiều nhà triết lý
cao thâm như: Jean Jacques Rousseau, Montesquieu, họ muốn đem lại công lý dân
quyền, nên ngồi bóp trán suy nghĩ tạo nên một tinh thần chánh trị dân chủ, mà
một khi đã phát sanh một tinh thần dân chủ rồi thì mới lập thành một chế độ
chánh trị dân quyền.
Chế
độ nầy phát sinh ra rồi thì quần chúng Pháp nhìn nhận nó là một chủ nghĩa dân
quyền, phải tìm phương thi hành cho kỳ được, để đả đảo chế độ quân chủ độc tài.
Nước Nga cũng thế, trước kia dân Nga bị oằn oại bóp chẹt dưới chế độ quân chủ
độc tài nên Lénine cũng ngồi suy nghĩ tìm tòi phát sanh ra một tinh thần dân
chủ và do tinh thần dân chủ đó nên lập thành một chế độ dân quyền Cộng Sản.
Tóm
lại, quần chúng của mỗi nước vì cái nạn độc tài của quân chủ hay của một ông
Thủ Lĩnh mà phát sanh ra một tinh thần cách mạng, rồi thì quần chúng lại tạo ra
chế độ dân quyền.
Nếu
đã có tinh thần chế độ chánh trị dân quyền rồi, thì quần chúng coi đó là một
chủ nghĩa phải theo đuổi để bài trừ một chế độ không hợp lòng dân.
Ðến
đây tôi xin để một câu hỏi? Vậy chớ quần chúng phải làm thế nào để bài trừ cái
chế độ chánh trị tàn bạo kia hầu áp dụng chế độ dân quyền.
Theo
tôi thấy thì quần chúng dùng hai phương pháp sau nầy:
Phương
pháp thứ nhất: - Tranh đấu về tinh thần như biểu tình phản động, hoặc ngoại
giao tranh đấu, hoặc bất hợp tác hay dùng kinh tế mà tranh đấu để bóp chẹt,
đánh đổ một chế độ mà quần chúng cho là bất hợp thời.
Phương
pháp thứ nhì: - Vì tranh đấu theo phương pháp trên, quần chúng bị binh vực đàn
áp, thế nên quần chúng hiệp lại thành khối, tạo nên một lực lượng binh bị tương
đương làm hậu thuẩn đối phó lại để ủng hộ cái chủ nghĩa của mình.
Nói
đến đây chư vị cũng dư hiểu rồi, vì ủng hộ cho một chủ nghĩa nên quần chúng tạo
thành quân đội, để ủng hộ cái chủ nghĩa hay mục đích của mình vậy.
Nếu
đã biết rằng vì ủng hộ một chủ nghĩa, nên chủ nghĩa đó tạo ra quân đội để làm
hậu thuẩn, thì chúng ta phải nhận định rằng chánh trị tạo ra quân đội chớ quân
đội không khi nào tạo ra chánh trị.
Cũng
như chúng ta ngày nay, hỏi vậy chúng ta theo đuổi chủ nghĩa nào?
Có
phải chúng ta theo đuổi chủ nghĩa Cao Ðài không? Nếu đúng như thế thì chủ nghĩa
Cao Ðài vì muốn tồn tại nên phải lập ra quân đội. Như vậy quân đội là của chánh
trị lập thành, nên quân đội phải tuân theo nguyên tắc chánh trị. Như thế quân
đội phải do chánh trị điều khiển vì chúng ta làm chánh trị.
Làm
chánh trị là làm Quốc sự, nên nước nào cũng có Bộ Quốc Sự . Bộ Quốc Sự muốn đạt
thành con đường chánh trị của mình thì quân đội là cơ quan tạo nên để ủng hộ
chánh trị đó vậy.
Xin
chư vị thử nghĩ coi có phải thế không? Nếu phải thì chúng ta nên nhìn nhận
rằng: Quân đội phải chịu quyền điều khiển của chánh trị để chúng ta làm quốc
sự. Chúng ta có Bộ Quốc Sự để làm chánh trị thì quân đội phải tuân hành theo
những qui tắc chánh trị, còn về việc điều khiển quân đội khi hành binh thì do
Bộ Tham Mưu quân đội được trọn quyền và được quyền đòi hỏi những vật liệu chiến
tranh nơi Bộ Quốc Sự.
Tóm
lại, chúng ta đã xác định rằng: Bộ Quốc Sự phải ban hành những qui tắc chánh
trị để điều khiển quân đội hầu Bộ Quốc Sự đủ lực lượng và đủ điều kiện làm
chánh trị.
Cũng
như cổ kim lập triều đình, định chánh thể rồi, muốn ra nguyên tắc lập quân đội,
quân đội không tuân hành đi nghịch lại mạng lịnh của triều đình thì triều đình
bất lực nảy sanh loạn lạc. Bất cứ một ai trong nước mạnh đặng yếu thua, giựt
giành thì không còn gì chánh trị nhân nghĩa nữa.
Trên
đây là một sự thật của lịch sử tiến hóa chánh trị hay là một phương pháp làm
chánh trị.
Quần
chúng vì làm chánh trị để tranh đấu lợi quyền nên lập ra quân đội làm hậu thuẩn
cho chánh trị. Như vậy thì quân đội của quần chúng chớ không phải quần chúng
của quân đội hay nói với sự hiểu rộng thì triều đình lập ra quân đội vậy.
Chúng
ta ngày nay vì làm chánh trị nên phải có quân đội, ngày nào nếu chúng ta không
làm chánh trị nữa thì quân đội phải giải tán.
Song
thời cuộc bắt buộc chúng ta phải làm chánh trị, nên chúng ta đã bỏ thăm công
nhận thành lập Bộ Quốc Sự rồi để thay mặt quần chúng làm Quốc Sự, cứu vãn sanh
mạng và quyền lợi của họ vậy. Như thế chúng ta nên triệt để ủng hộ Bộ Quốc Sự
của Hội Thánh để chống lại cái nạn chánh trị khốc hại của chế độ bốc lột hay
nói là Ðế quốc chủ nghĩa.
Một
bằng cớ trươc mắt chúng ta là ông D'Argenlieu sang Ðông Dương để lại cái trách
vụ của Nội Các Pháp phú thác cho, hỏi vậy cái trách vụ ấy là những gì? Có phải
là những Huấn Lịnh, những nguyên tắc, những điều kiện về chánh trị buộc
D'Argenlieu phải tuân hành không?
Còn
ngày nay chúng ta xem sao, chúng ta thấy rằng nước Pháp muốn áp dụng xứ nầy một
chánh trị liên bang để thu hoạch cho được cái mục đích quyền lợi của họ, nên
Nội Các Pháp sai ông Bollaert là một nhà chánh trị có biệt tài sang Ðông Dương
mang theo những Huấn Lịnh, những điều kiện, những qui tắc chánh trị để tranh
thủ với cái mục đích chánh trị của dân chúng Ðông Dương mà nhứt là dân chúng
Việt Nam.
Bởi
thế nên quân đội Pháp ở Ðông Dương phải chịu dưới quyền điều khiển của ông
Bollaert, nghĩa là ông Bollaert có quyền định đoạt sự chiến hay hòa, hoặc kháng
chiến, hoặc đánh với đối phương nào và những chỗ nào quân đội không được đụng
chạm tới.
Như
thế thì chúng ta rõ rằng ông Bollaert qua đây làm chánh trị, làm quốc sự chớ
không phải qua đây chỉ có một lịnh chiếu.
Thử
hỏi, nếu ông Bollaert không làm chánh trị thì chiến đấu để làm gì? Cho mục đích
chánh trị nào? Bây giờ chúng ta lo làm quốc sự để đạt thành chủ nghĩa của chúng
ta nên mới có Bộ Quốc Sự chuyên lo vạch con đường chánh trị sáng suốt để bàn
định và giải quyết với cái chánh trị sáng suốt của ông Bollaert mang từ Pháp
sang đây, vì theo tin tiếp được thì ông Bollaert và Thủ Tướng Hoạch sẽ đến Tòa
Thánh nay mai.
Ngày
nay chúng ta trên con đường phụng sự quốc gia phải tranh đấu về chánh trị để
thâu hoạch lại những cái gì mà chúng ta có quyền hưởng một cách xứng đáng.
(*1)
Trước kia trong Ðạo có cơ quan Quốc Sự Vụ.
Q.1/17: Tam Bửu: Tinh, Khí,
Thần.
Ðêm rằm tháng 2 năm Ðinh Hợi
(1947) tại Ðền Thánh
Phàm
con người có ba báu: Tinh là xác thân của cha mẹ sanh ra, liên quan với xác
thân (corps astral) là hơi, nó tiếp xúc
liên quan bảo trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng
sanh quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có, liên quan với linh hồn ta là của Chí Tôn
ban cho mà có. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần.
Chí
Tôn lại chọn lựa vật quí báu là Bông (Tinh), Rượu (Khí), Trà (Thần) là ý nghĩa
Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến cho
Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.
Muốn
cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng
tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai giới,
chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên
thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh
quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại
thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệc ác
thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn
thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí
Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được
khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy.
Loài
người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó
mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi
lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết
người. Hiện tại nơi Mỹ Châu, Cổ Tàng Viện của họ có đến 200 triệu quyển sách.
Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết được.
Chí
Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác
thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí Tôn đến
khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho
con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thể
thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến ta
được.
Nếu
ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một cách tàn
nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có
vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục.
Mong
sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ
đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái
oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn,
để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn.
Cả
thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn
lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của
các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau,
thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.
Vậy
Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi
Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92
ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ
rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt đạt ngôi vị là phải trau
luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo
vậy.
Trong
giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm
dứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới.
Ấy
vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà thôi,
dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu
không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình,
thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.
Q.1/18: Tam Bửu: Tiên thiên
khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 2
nhuận năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu, Bần Ðạo lần lượt
giảng Tam Bửu trước là vì Ðức Chí Tôn lấy Bông, Rượu, Trà mà tượng hình ba thể chất, tạo nên vạn
loại.
Chơn linh mới thiệt là ta, còn
Chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn linh ta mượn cơ quan hữu hình
để thân mật cùng cả cơ quan tạo đoan võ trụ.
Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi? Nguyên do
nơi nào mà đến, rồi Bần Ðạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải Tu. Tu có ích gì,
do nguyên lý nào mà phải Tu.
Bần
Ðạo sẽ giảng nguyên do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu Thiên Khai
Hóa, Ðức Chí Tôn tạo Bát Quái Ðài là gì?
Bây
giờ Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người, Chơn linh
ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên thiên khí; Chơn thần do Hậu thiên
khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên.
Hỏi
vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống. Chơn
linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được. Cái
quyền năng của nó là của Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh không giới
hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình. Chơn
thần là Hậu thiên khí, nó bảo trọng vật chất khí.
Trong
ba khí chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, chơn linh là nhứt điểm linh quang do
Chí Tôn mà có để bảo trọng cái sinh mạng, cái sống của thi hài. Ðến ngày giờ
nào niên kỷ đã định hết khối sinh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác,
thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.
Ấy
vậy, ta kiếm thử coi Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí là gì? Chúng
ta sẽ thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có ba thể chất:
" Vật chất thì mắt ta thấy.
Mùi vị là Hậu thiên khí.
Năng lực là Tiên thiên khí."
Ba
khí chất nầy tượng ra hình hài của con người, vật chất mùi vị, năng lực thế nào
thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm, ăn vào để lấy
cái tinh ba của nó là Hậu thiên khí phục nguyên khối sanh quang của ta được tồn
tại.
Tinh
ba của vật chất nó vào mình làm cho xác hài có năng lực tráng kiện. Ta thấy khi
đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh khí đó vậy.
Chơn
thần là Hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột
cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy.
Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía
cả thảy đều có.
Người
hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh
năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm
cho họ sợ.
Một
khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gủi đặng họ sẽ thương
yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.
Kẻ
phàm mang xác hài hay có thất tình, lục dục, nên có sự phân cách về thể chất
hữu vi làm cho thiếu sự thương yêu vì ta sợ.
Ngày
nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Ðạo là có
phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giục thúc cho các đẳng linh
hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ
không ai đặng mưu hại giục hư.
Bần
Ðạo giảng cõi Hư linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các
bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng.
Cõi
Hư linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất một
điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những
dịp để an ủi tâm hồn chúng sanh, hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương.
Chúng
ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên Chí linh chí Thánh,
một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời.
Các
bạn biết Phật Thích Ca xưng là Bổn Sư, người tu gọi là Thầy, nếu các chơn linh
ấy gặp được, thấy được gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân
ái.
Ở thế
nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì
Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau,
họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường
đạt lên Phật vị.
Họ
không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả vạn
loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc hậu đó vậy.
Con
vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo vệ, ngày nay giết
nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở
lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi:
"Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần". Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn
thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay.
Chưa
có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết các
bạn lạc hậu ấy để ăn.
Ta
đến đây làm bạn cùng vạn vật chúng sanh, vạn vật giúp ta học cho thấu đáo huyền
vi cơ Ðạo, tạo chí linh nối nghiệp Ðức Chí Tôn.
Thầy
có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy
lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ bởi Ðại Từ Phụ mà không tin sao? Ông cha phàm kia còn
yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp
hương hỏa.
Một
điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương pháp nhỏ theo phàm. Còn ông Cha
Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm? Thầy nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp
ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần Ðạo tưởng, nhứt
là phái Nam, thanh niên vũ chức (*1) nếu mấy em biết cơ quan ấy thì không hạnh
phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí Tôn. Bần Ðạo dám chắc Thầy không hề chịu
thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy
không thường món nợ ấy thì Hộ Pháp hứa sẽ tái kiếp luân hồi bồi thường cho đủ.
Vì
những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một Quốc gia Thiên định
tại thế nầy, Bần Ðạo chắc Quốc gia ấy phải thành. Ðức Chí Tôn tạo cho con cái
của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng, những hạng con cái dám
chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến. Nếu chúng ta
có con mắt thiêng liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Ðấng dầu
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn linh cao trọng cũng phải cúi đầu.
Thầy
sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không
khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn
Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý.
(*1)
Thanh niên có chức phận trong Quân đội Cao Ðài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét