Lời Thuyết Ðạo Của Ðức Hộ Pháp - Toàn Tập 1


HIỆP THIÊN ĐÀI
V/P: THƯỢNG SANH
Số : 121 / TS

THƯỢNG SANH
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI

Kính Gởi: Hiền Huynh HIẾN PHÁP CHƯỞNG QUẢN BỘ PHÁP CHÁNH
Tham chiếu : Quý Thánh Thơ số 15/ DS ngày 12-6-1970
Kính Hiền Huynh,
Theo đề nghị của Hiền Huynh tôi chấp nhận cho Ban Đạo Sử xuất bản để phổ biến những bài Thuyết Đạo tại Tòa Thánh của ĐỨC HỘ PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.
Những bài giảng được chọn để ấn hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách.
Nay Kính
Tòa Thánh, ngày 14 tháng 5 Canh Tuất
( dl 17-6-1970 )
THƯỢNG SANH
( ấn ký )
                          Phụ bản.
THÁNH THƠ CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG SANH


LỜI TỰA

Những bài Thuyết–Đạo trong quyển sách này là lời vàng ngọc của Đức HỘ-PHÁP, một vị Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ  Phổ-Độ, một bậc Vĩ-Nhân của thế hệ; nên một Ủy-Ban sưu tầm và biên tập thành lập có Đức THƯỢNG-SANH chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn hành các bài Thuyết-Đạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn hành cho toàn đạo được lãnh hội lời vàng ngọc nói trên.

Trong Ban Đạo-Sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một thư viện tàng trữ  các loại kinh sách cổ kim đông tây cho các nhà khảo cứu và toàn Đạo có thêm tài liệu, những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu trữ  vào Thư-Viện nầy để chư độc giả đến xem.

Đức HỘ-PHÁP là một trong các vị tiền bối khai sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam-Lập: “Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn”.

Về lập đức: thì Đức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng mà khai sáng mối Đạo cho toàn sanh chúng được chung hưởng hồng ân của ĐỨC-CHÍ-TÔN (NGỌC- HOÀNG - THƯỢNG- ĐẾ ).

Về lập công: thì Đức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một Đại-Đức thì làmsao thành công được ?!

Về lập ngôn: thì Đức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng thức và còn nhiều lời giáo huấn cao siêu khác nữa mà chư quý độc giả và toàn Đạo nên lưu ý.

Nhơn danh Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng Ban Đạo Sử, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả bốn phương quyển sách quý giá này đáng được lưu niệm mãi mãi.
Trân trọng kính chào.
Hiến-Pháp TRƯƠNG HỮU ĐỨC.

LỜI TRẦN THUYẾT

Mỗi lần ly loạn là mỗi lần thư tịch bị làm mồi cho binh lửa. Nhìn vào lịch sử : những vụ “Phần-Thư”, những vụ chiếm đọat thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình trạng này đã kéo dài qua các thời đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhắm vào mục đích thực hiện chính sách ngu dân và đồng hóa triệt để.

Những kinh nghiệm đau thương ấy là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố gắng thực hiện công việc sưu tập những tài liệu này.

Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh sách chỉ được tập trung tàng trữ vào một chỗ, tránh sao cho khỏi bị hủy diệt khi kẻ cường quyền đến cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quay ra nhiều  bản để gởi đến, và ký thác vào những tâm hồn trung kiên với Đạo, những người dám chết để bảo tồn những tiếng nói của Đấng thay Trời dạy Đạo.

Nếu một may thay thời cuộc lại biến  thiên, có thể các cuộc phần thư  lại tái diễn, thì thiết tưởng trong số tài  liệu này vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm gìn giữ được vẹn toàn

Đây không phải là việc làm của một  cá nhân hay một đoàn thể, nhưng là sự đóng góp chung của những người vô danh nguyện đem hết năng lực của mình để phụng sự cho lý tưởng bảo tồn truyền thống giáo lý của Đạo. Trong khi quyển tài liệu này đến tay Qúi vị thì cũng đã có người vì qúa hăng say trong công việc thực hiện lý tưởng mà đã phải ngã gục vì kiệt sức.

Việc làm của chúng tôi không phải là một ý nghĩ nông nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hòai bảo trong suốt thời gian ly loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU ban bố phước lành sớm gặp dịp may để thực hiện hoài bảo ấy.

Ngày nay chân trời  đã rạng tỏ, ý nguyện đã đắc thành. Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội Thánh tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục đích bảo tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức HỘ PHÁP.

Từ đây bản quyền sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào Hội Thánh. Kính xin hội Thánh cho kiểm duyệt và ấn hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu  ái của Đức HỘ PHÁP đã dành cho chúng ta  trong thời gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa Thánh, ngày 28 tháng 8 năm Bính-Ngọ (dl 12-1-1966)
BAN TỐC KÝ

Thời thanh niên của Đức Hộ Pháp  Phạm Công Tắc
Q. 1/01: Lời Tiên tri của Ðức Lý Giáo Tông.

Thuyết đạo tại Báo Ân Từ, đêm rằm tháng 9 năm Bính Tuất (1946)

Trong năm Bính Dần (1926) Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo phổ hóa chúng sanh làm lành, lánh dữ, tức là Cơ Quan Cứu Thế. Khi mà Ðạo đã truyền bá khắp các Tỉnh rồi, qua đến ngày Rằm tháng 6 năm Ðinh Mão (1927) Ðức Lý Giáo Tông cấm cơ bút, thì chư vị Chức Sắc Ðại Thiên Phong không rõ tại sao, nhứt là Ðức Quyền Giáo Tông có lòng sở mộ về cơ bút đã trải qua một thời gian lắng nghe lời Thánh Giáo, nên Ðức Quyền Giáo Tông định cầu Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương đặng học hỏi về Ðạo đức.

Ðến ngày 14 tháng 11 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông mới giáng cơ thì xem hình như Ngài có đại nộ, mà chẳng hiểu Ngài giận việc chi, Ngài mới cho một bài Thánh Giáo như vầy:

"Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư chúng sanh, hảo hội hiệp. Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn loại! Ðời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhơn sanh hội 10 ngày nơi Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhơn loại, nhưng luật Thiên Ðình chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, đến buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng rán chịu, lạy lục khẩn cầu; chư Ðạo Hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như trẻ không hồn, thấy càng thảm thiết.

Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhen đã đặng danh Thánh Ðịa là Nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho Thành Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Ðịnh, Huế, Hải Phòng, Hà Nội... Thảm! Thảm! Thảm!"

Ðây là lời tiên tri đã trải qua 20 năm trường đến ngày nay kết quả vẹn toàn trước mắt nhơn sanh đều thấy rõ.

Ðức Lý Giáo Tông, Ngài định phạt Ðức Quyền Giáo Tông 10 hương, Hộ Pháp 5 hương, ông Phối Sư Bính 5 hương, xét kỹ ra là Ðức Ngài giận ai chớ chẳng phải giận anh em tôi đâu. Tiếc thay cho nhơn sanh, chớ chi trong thời kỳ Ðại Ðạo hoằng khai, mà để tâm tín ngưỡng chung thờ một Tôn Giáo, tròn giữ theo Luật Pháp của Ðạo, lo trau giồi đức hạnh, làm phải làm lành, liên lạc thương yêu, thuận hòa cùng chung, thì nay đâu có lâm nạn đao binh như thế.

Trái lại, Chức Sắc Thiên Phong là người cầm phướn chiêu hồn dìu dắt chúng sanh thoát khổ, mà đi đến đâu đều bị họ chê bai, biếm nhẻ, kích bác, hân hủi đủ thứ, Chức Sắc Hội Thánh đem hồng ân của Ðức Chí Tôn rải khắp các nơi cho nhơn sanh chung hưởng, mà họ coi như vật thường, không có giá trị gì, họ đã mài miệt chạy theo khoa học, chú trọng về văn minh vật chất, chớ không hấp thụ được đạo đức tinh thần, họ đeo đuổi theo nguồn tranh đấu là cơ tự diệt, chớ nào rõ biết cơ bảo tồn qui cổ là gì, mãi đến ngày nay mà họ cũng chưa tỉnh.

Còn nói về phần chư Môn Ðệ của Ðức Chí Tôn, từ buổi đem thân vào cửa Ðạo trong lúc nhập môn đã quì trước Bửu Ðiện có bàn Ngũ Lôi, mà lập minh thệ rằng: "Từ đây tôi biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Ðệ, gìn Luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì thiên tru địa lục". Than ôi! Cho những người thề như vậy, mà cũng không để trọn đức tin nơi Chí Tôn lại thối bước ngã lòng, cổi áo Ðạo, dẹp khăn tu, mong mãi xu hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây tạo ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.

Vậy, ai là người thất thệ với Chí Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn năn sám hối, cầu xin Ðại Từ Phụ cùng các Ðấng Thiêng Liêng, từ bi ân xá tội lỗi tiền khiên, họa may đặng chung hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn ban cho sau nầy.

Ngày nào toàn thể nhơn sanh đều biết hồi đầu hướng thiện, nhìn Ðạo Trời là một Cơ Quan Cứu Thế, thật hành chủ nghĩa thương yêu cho ra thiệt tướng thì ngày ấy mới đặng hưởng hòa bình đại đồng thế giới.
Q. 1/02: Vấn đề Nho Giáo.

Báo Ân Từ, đêm 30 tháng 9 năm Bính Tuất (1946) hồi 12 giờ khuya

Nhắc lại Thầy Mạnh Tử khi qua yết kiến Vua nước Lương, ông Huệ Vương hỏi Ðức Mạnh Tử: Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước Quả nhân có chỉ giáo điều chi hữu lợi chăng? Thầy Mạnh Tử đáp rằng: Tôi chỉ biết nói đến nhơn nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi, nếu trong nước mà dục vọng về sở lợi, thì đình thần có trăm hộc lại muốn có thêm ngàn hộc, thượng hạ đại phu có ngàn hộc lại muốn có muôn hộc, còn vì Thiên Tử đã có dư muôn hộc, lại muốn có thêm triệu hộc.

Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chịu lao lung, muôn dân đồ thán, trong nước thế nào bình trị được? Còn như trong nước biết chú trọng đạo nhơn nghĩa, thì toàn thể quốc dân đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, lạc nghiệp âu ca.

Thầy Mạnh Tử thuyết minh đủ mọi điều lợi, hại rồi thì Vua Huệ Vương chịu nạp dụng. Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, con người trên mặt thế đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa đạo đức, tinh thần, nên mới có nạn chiến tranh tương tàn, đồng chủng giết hại lẫn nhau, hằng ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt lụy thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.

Chức Sắc trong Ðạo đem hột giống nhơn nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng lực của họ mạnh mẽ thế nào, không cần để ý đến, chớ chi họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời gian coi có hiệu quả gì chăng? Nhắc lại lời Thánh Giáo của Ðức Chí Tôn có dạy về chữ Nhơn...
" Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan."

Ngày nào toàn thể quốc dân mà biết thực hành hai chữ nhơn nghĩa cho ra chơn tướng, thì chẳng luận là xã hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh phúc, đời chiến tranh sẽ trở nên thái bình an cư lạc nghiệp.

Q.1/03: Vấn đề Bác Ái Từ Bi.

Báo Ân Từ, ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất (1946)

Từ xưa đến nay các nhà Tôn Giáo đem chữ từ bi bác ái phổ hóa nhơn sanh, cốt yếu là để bảo tồn sanh mạng của quần chúng, gầy lại sự hạnh phúc cho đời chung hưởng. Chữ từ bi bác ái chẳng lạ gì.

Bần Ðạo nói ra thì chư Chức Sắc nam, nữ Chức Việc Ðạo Hữu cũng đều hiểu rõ.

Cái nghĩa lý của bốn chữ từ bi bác ái cũng không phải là sâu xa mắc mỏ gì, từ lớn chí nhỏ làm được tất cả mà tiếc thay cho nhơn sanh không chịu thực hành.

Từ bi là gì? Bác ái là gì? Bần Ðạo xin được giải chữ Từ bi ai ai cũng đều có sẵn trong tâm, trẻ con nên năm bảy tuổi thì nó đã biết sự thương yêu cha mẹ, thương yêu anh em là người thân tộc gần gũi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu bạn thì nó lại thương yêu rộng ra hơn nữa, một khi đã thấy sự đau khổ hoạn nạn, tai ương của quần chúng thì nó cảm hóa xúc động đến tâm thương yêu lan tràn ra, không biết đâu là giới hạn, ấy là tánh từ bi đó.

Còn Bác ái là thể theo lòng Trời Phật thương yêu toàn cả chúng sanh không biết đâu là bờ bến, thấy chúng sanh làm được việc gì có đạo đức nhơn nghĩa, thì Trời Phật vui mừng thương yêu chẳng xiết, ấy là Bác ái.

Hiện nay nhơn loại thiếu sự từ bi bác ái cho nên tạo ra trường tranh đấu, quyết chiến với nhau, sát hại đồng bào tương tàn cốt nhục, Ðức Chí Tôn giáng trần hoằng khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là cốt yếu đem chủ nghĩa từ bi bác ái làm tôn chỉ, để cho nhơn sanh theo đó mà làm một cơ quan bảo tồn tánh mạng và bảo an quốc thể được hòa bình.

Ngày nào toàn cả quần chúng, đồng bào biết giác ngộ, tu tỉnh hiệp nhứt tâm thực hành chủ nghĩa từ bi bác ái cho ra chơn tướng, thì nhơn sanh sẽ đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, chẳng luận quốc dân nào, xã hội nào mà toàn cầu thế giới cũng được thọ hưởng cái hạnh phúc ấy.
Q.1/04: Tự Tín, Tha Tín, Thiên Tín.

Báo Ân Từ, đêm 10 tháng 11 năm Bính Tuất (1 giờ 46)

Ðức tín chia ra làm ba phương diện:
   - Tự tín
   - Tha tín
   - Thiên tín

1 /. TỰ TÍN là gì?
Là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình. Con người từ buổi ấu thơ đã biết ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ anh em. Ðến lúc trưởng thành cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn quần, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẽ phân minh cũng như có một quyển sách lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy các tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dữ, hư nên ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh Ðài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành vi của ta và ta đủ đức tin nơi đó, là cơ bảo tồn lấy thân ấy gọi là tự túc nơi đó tự tín nghĩa là tu thân.

2/. Còn THA TÍN nghĩa là gì?
Là ta biết quan tiền vũ hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học các bài vở để lập thân cho nên người cao quí, lại có nhiều người trong xã hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mặt ta, đó là một bài học, nên chú ý, rồi ta mới gồm tất cả mọi sự hành vi của người đời, ta sẽ lập lại làm quyển sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để lên Linh Ðài (tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường tồn tánh mạng của ta ấy là Tha tín.

3/. Tự tín và Tha tín chưa đủ hoàn toàn phải có THIÊN TÍN là trọn đức tin nơi Chí Tôn có đủ quyền bảo hộ sanh mạng của ta và toàn thể chúng sanh nơi mặt thế. Nếu để trọn đức tin nơi Chí Tôn và tuân theo bài học của Ðức Chí Tôn dạy từ bi bác ái, nhơn nghĩa thuận hòa, và tất cả đem vào hai quyển sách nói trên hiệp lại thành một khối đức tin đặc sắc, ta mới dựng lên để tên Cao Ðài rồi ta do đó mà thi hành cho chu đáo, ấy là cơ bảo tồn trường cửu của ta và tất cả nhơn loại.

Nếu có cái Tự tín và Tha tín là cái năng lực hữu hình, mà không có Thiên tín là Huyền pháp vô vi, thì cái năng lực ấy nó sẽ cuốn lôi theo cơ tự diệt, vì vậy nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí Tôn, phải trọng mạng sống của con người, bởi Ðức Chí Tôn hóa sanh một người là một vật báu của Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy thì phạm Thiên điều tức là đại tội. Ngày nào toàn thể nhơn loại trên mặt thế giới nầy, mà có đủ đức tin nơi Chí Tôn và thật hành y theo chủ nghĩa "Từ Bi, Bác Ái, Nhơn Nghĩa" cho được hoàn toàn thì mới mong chung hưởng đời thái bình hạnh phúc, ấy là gầy lại đời Minh Ðức, Tân Dân tái lập Tân Thế Giới.

Q.1/05: Ðãi tiệc công thợ, giải nghĩa về con đường thứ ba Ðại Ðạo.

Khách Thiện Từ trước bữa đãi tiệc công thợ.
Ngày rằm tháng 11 năm Bính Tuất (1946)

Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa, hành tàng của Chí Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí Tôn và Phật Mẫu. Cái yêu ái và hiếu hạnh ấy phải là phi thường do tâm linh điều khiển, phải thương yêu nhơn sanh và vật loại hơn mình và coi đồng thể, đồng sanh với mình. Phải tạo dựng cố thủ Thánh tâm cho nên Chí Thánh, và đạt cho đủ ba ngàn công quả thì sẽ đi đến, lướt đặng và vững vàng thắng muôn điều trở ngại.
Q.1/06: Phát thưởng cho học sinh.

Huấn từ nhân lễ bãi trường và phát thưởng cho học sinh trường Lê Văn Trung (1946)

Về nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự, một điều quan trọng mà tất cả các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là quốc thể của một nước, tức là sự tập hợp của một khối cá thể của những cá nhân nước ấy. Vậy thì, mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã. Cá thể của một người tức là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại cho hai chữ vô cùng quí báu ấy là Tu Thân vậy.

Q.1/07: Khai Hội Nhơn Sanh.
Ngày 1 tháng chạp năm Bính Tuất (1946)

Thưa cùng chư Nghị Viên và Hội Viên Lưỡng Phái,

Ðã trót 5 năm dư, Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì đã từng chịu biết bao nhiêu là sự đau khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai của Ðạo, nỗi sợ cho vận nước tránh không khỏi nạn chiến tranh loạn ly, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con cái của Chí Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn giữ.

Bần Ðạo chẳng cần minh tả thì chư Hiền Hữu, Hiền Muội cũng rõ từ trước ta đã chán thấy nhãn tiền rằng: Chỉ có thương một người mà năng lực tình ái ấy cũng đủ làm cho phải hủy mình mà tùng mạng lịnh của nó. Ôi! Cái mãnh lực tuy vô hình mà nó oai quyền rất dữ, Bần Ðạo nếu chẳng đủ tinh thần cường liệt nương lấy đức tin thì e nó đã giết hẳn mạng sanh của Bần Ðạo một triệu lần mới phải.

Hễ cùng chia đau thảm nghèo khổ, hèn tiện có bao nhiêu thì cường lực tình ái càng tăng nhiệt độ thêm cao hơn nữa. Bần Ðạo đã quyết thắng, thắng đặng sống, sống vì Thầy vì Ðạo vì yêu con cái của Người. Bần Ðạo thiệt là người đã phục sanh với một quyền Chí Thánh đó vậy.

Về tổ quốc sau khi đã chịu đủ vị thảm sầu, tưởng đã đủ cớ phô bày cho cả chúng sanh thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Ðạo, đã nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của mình đặng vẽ vời giọt huyết lệ, hai chữ nhơn nghĩa cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm, nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ. Một trường sát khí bao trùm toàn quốc, gươm tử thần vùn vụt khắp nơi, làm cho con cái không cha, tớ không thầy, vợ không chồng, cốt nhục tương tàn, nhân dân đồ thán.

Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng cuối một tiếng nỉ non giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi!  Dưới bức thê lương nầy ai là tri kỷ, tri âm cùng Bần Ðạo, ngoài ra chư Hiền Hữu, Hiền Muội thì Bần Ðạo đã kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con hạc bịnh nầy, mà để tai lóng tiếng. Ôi! Cái khối sanh của Chí Tôn đã xiêu lạc nơi nào mà để hai sắc con yêu ái của Người phải chịu nạn tương tàn như thế!...

Bần Ðạo ngày nay hiển nhiên đứng trước mắt các bạn mà còn ngỡ là giấc chiêm bao. Vậy Bần Ðạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên yếu thiết là: Hòa giọng đau thương cùng con hạc lạc nầy đặng giục lòng bác ái một cảnh an nhàn thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Bần Ðạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái của Chí Tôn trong buổi phiêu lưu nơi hải ngoại, e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử Thánh Thể của Thầy, nên vừa để gót về đất Tổ Ðình thì đã quên hẳn mảnh thân tiều tụy hao mòn, vội cầm quyền của Ðạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn truyền, rồi lại tìm phương hiểu tận những điều khuyết điểm, hư hại hầu giồi mài thêm nữa, nên tức cấp mở Hội Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước.
Bần Ðạo để trọn tín nhiệm nơi các bạn, Bần Ðạo xin mở Hội.
Q.1/08: Khai mạc Ðại Hội Phước Thiện.

Ngày rằm tháng chạp năm Bính Tuất (1947)

Ngày nay, nhóm Ðại Hội Phước Thiện cũng là một Hội trong quyền Vạn Linh, Bần Ðạo cần giải rõ cái nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước Thiện cho Chức Sắc, chư Phái Viên và Nghị Viên được hiểu.

Từ thử Thiên Phong nam, nữ Phước Thiện chỉ hiểu mảy may cái trách nhiệm tối cao tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột. Bởi cớ cho nên nhiều người không hiểu phận sự, hành Ðạo không đúng theo chơn truyền, sái hẳn giá trị của Cơ Quan Phước Thiện, việc làm của chư vị không ra gì hết, thành thử Cơ Quan Phước Thiện chưa có kết quả chi, lại còn theo lối giành giựt nhau.

Hội Thánh có hai Cơ Quan: Hành Chánh và Phước Thiện thường tương khắc nhau, song chưa tìm chơn lý để hòa nhau, ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt tướng được.

Mấy em cũng dư biết Ðạo Cao Ðài sản xuất có một Chơn Lý tối cao, tối trọng nên đời buổi nầy khao khát đợi chờ như hạn trông mưa, những kẻ tội tình trong bể khổ khát khao đợi giọt Cam Lồ của Ðức Chí Tôn chan rưới cho bớt sự đau thảm. Ðức Chí Tôn đến tạo Ðạo giải khổ tâm hồn cả con cái của Ngài, Ðức Chí Tôn lại tạo ra hình ảnh Thánh Thể của Ngài, mượn tay các em và các bạn làm hình thể của Ngài, giải khổ cho đời về phần xác.

Phước Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của Ðức Chí Tôn: Giải khổ vừa xác vừa hồn, Ngài mượn mấy em nuôi nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo nàn cô độc. Chừng nào cả Cơ Quan khóc hại của loài người mình gánh vác hết thì mới đúng cái nhiệm vụ của Chí Tôn phú thác, mấy em thử tự hỏi: Hồi nào đến giờ làm nên những gì chưa? Chỉ lo bảo bọc anh em trong Ðạo mà thôi, có đâu ngó đến ngoài Ðời. Các vật loại đều là con cái Chí Tôn, chớ không phải nội trong cửa Ðạo mà thôi, như thế có đủ đâu? Cơ Quan giải khổ của Chí Tôn cậy nhờ mấy em lo, nuôi mấy em còn chưa rồi. Từ ban sơ Qua chịu nhọc nhằn hẩm hút, ăn từ miếng tương rau hiệp cùng nhau gầy dựng lập Phạm Môn, Qua chịu khó nhọc như mấy em cho đến ngày Cơ Quan Phước Thiện ra thiệt tướng, đã tạo đủ lực lượng cho mấy em thi hành nhiệm vụ.

Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm, Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác, đoàn em Qua gởi gấm đã xiêu lạc, thủ phận Ðạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo Ðời, vì nếu ở thủ phận theo Ðạo thì cũng chẳng ai nuôi.

Ngoài nữa, Qua còn nghe, trong lúc Qua đi đứa nào có thế thì tự vi chủ, giành lấy cam một mình để toại hưởng vậy thôi. Hỏi vậy mấy em có nghĩa hay không? Nếu Qua cho Tòa Ðạo minh tra thì không có một người nào có thể đứng trước mặt Qua mà xưng là đại công được, cái đói khó cùng khổ của các em nó tố cáo mấy em không còn chối cải được.

Qua nói thật, thể Ðạo chưa rồi thì có mong gì tạo thành chơn tướng của Ðạo. Phải chi mấy em biết nghe lời, Qua mở cửa Bát Quái Ðài cho mấy em làm bạn với các Ðấng Thiêng Liêng thì không đến nổi nầy.

Ngày nay cửa Ðạo được mở rộng đây cũng nhờ các Thánh Tử Ðạo, nếu không thì vẫn còn đóng cửa. Nếu mấy em xem đáng, thì Qua mở cửa cho các Ðấng Thiêng Liêng dìu đỡ mấy em.

Qua nói cho mấy em hay, Qua đang ngồi đây các Ðấng ở Bát Quái Ðài còn đợi mấy em và chính Qua sẽ dìu dắt, kêu cửa Bát Quái Ðài cho mấy em về làm bạn thân yêu của các Ðấng Thiêng Liêng. Nếu mấy em làm phận sự không tròn và còn một mảy phàm tâm, thì cõi Hư Linh không đem mấy em vào bảng công nghiệp vĩ đại bao giờ. Các em có làm trọng trách đối với con cái Chí Tôn, thì Bát Quái Ðài mới hiệp một cùng mấy em vậy.

Mấy em chưa nắm được hoàn ngọc thì chưa đủ bảo toàn Vạn Linh con cái của Chí Tôn.

Qua nói Qua sẽ mở cửa Bát Quái Ðài dìu dắt mấy em mà mấy em có đến được cùng chăng là do tâm lý của mấy em đó.

Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh thần vi chủ nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ đoạt mục đích tối cao, tối trọng được, phải có khối óc thiêng liêng mới mong thay hình Thánh Thể Chí Tôn đối với con cái Ngài là quần linh.

Ðến đây Qua xin mở Hội, để trọn quyền Hội Thánh Phước Thiện đủ sáng suốt làm việc và Bần Ðạo để trọn tín nhiệm về việc cầu phong, thăng thưởng một cách chánh đáng và công bằng.
Q.1/09: Sự cầu nguyện.

Báo Ân Từ, đêm 24 tháng chạp năm Bính Tuất (1947)

Sự cầu nguyện có cảm ứng với Chánh Trị Thiêng Liêng tức là các Ðấng Vô Hình đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi thế, triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác..v.v... đó là về phần tinh khí hình thức của con người, còn về phần linh tánh thì do nơi Ðức Chí Tôn ban cho nhứt điểm lương tâm, nó có cảm giác cùng Chí Linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành tâm cầu nguyện.

Nền Ðạo là một điều cảm ứng rất mầu nhiệm vô cùng, có câu: "Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên địa tất giai tri". Từ đây chư Chức Sắc và Chức Việc cùng Ðạo Hữu nam, nữ gắng thành tâm cầu nguyện cho nền Ðạo và cơ Ðời được an ninh trật tự, kể từ ngày nay cho đến Tân Xuân đầu năm Ðinh Hợi thì sẽ thấy sự tiến hóa phi thường và huyền linh mầu nhiệm, nếu toàn cả quốc dân mà đủ lòng tín nhiệm với quyền hành Chánh Trị Thiêng Liêng, hiệp nhứt tâm cầu nguyện, thì cơ loạn lạc sẽ trở nên an ninh trật tự, Ðời sẽ được cộng hòa chung hưởng mọi điều hạnh phúc...

Q.1/10: Lễ thượng cờ tại sân vận động & Ý nghĩa lá cờ Quân Ðội Cao Ðài.
Ngày 8 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)

Ngày hôm nay lá cờ của Chi Thế ra mặt với đời cùng cây Thư Hùng Kiếm của nó, y theo lời hứa của Ðức Chí Tôn lập cho nước Việt Nam một nền Quốc Ðạo, cơ quan cứu sanh cho vạn loại.

Vì do sở định thiêng liêng và huyền diệu của Ngài nên người đời dễ chi biết được. Quân Ðội Cao Ðài là một đội binh thiêng liêng của Chí Tôn lập ra để bảo vệ cơ quan của Ngài.

Tuy với mắt thường thấy cơ quan binh bị như thế nầy, chớ trong đó có đủ thiên binh, thần tướng vì mục đích bảo tồn thiên hạ mà biến ra vậy. Cái sở vọng của Bần Ðạo là Quân Ðội Cao Ðài có một tinh thần kiểu mẫu của những đội binh trên thế giới, có mục đích bảo toàn cho nhơn loại dựng lại hòa bình. Quân Ðội Cao Ðài không phải vì quyền lợi riêng mà tàn sát làm tiêu diệt thiên hạ.

Bần Ðạo có lời yếu thiết căn dặn toàn Quân Ðội nên nhớ rằng: Lực lượng chúng ta dầu mạnh đến đâu cũng không thể chống lại lực lượng tàn sát phá hoại của bom nguyên tử được.

Quân Ðội Cao Ðài phải hiểu cái mạnh của mình, mạnh vì lòng nhơn nghĩa và tánh nghĩa hiệp cứu đời.

Vậy muốn dẹp được cái mạnh của bom nguyên tử thì chúng ta chỉ dùng cái mạnh của nhơn nghĩa và tính nghĩa hiệp mà thôi. Quân Ðội Cao Ðài ra thật tướng ấy là ý Thầy muốn cho Quân Ðội Cao Ðài làm kiểu mẫu những Quân Ðội Quốc Tế mà thành hay không do quyền năng của Chí Tôn.

Vậy Quân Ðội Cao Ðài phải giữ gìn thanh gươm nghĩa hiệp, lá cờ nhơn nghĩa cho vững vàng. Ðược như thế thì quyền năng của Chí Tôn lúc nào cũng có trong Quân Ðội Cao Ðài vậy.

Giảng tiếp ý nghĩa tượng trưng của lá cờ Quân Ðội.

Nền vàng cốt yếu thuộc về Quốc Gia huỳnh chủng, gốc xanh da trời là lòng bao la quảng đại, trong có bánh xe lửa chín chia gọi là pháp luân thường chuyển, lại có ý nghĩa là Cửu Thiên Khai Hóa. Trong lá cờ có ba màu: vàng, xanh, đỏ ấy là Tam Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt, gọi là Bảo Sanh Kỳ (Lá cờ Bảo Sanh).

Quân Ðội Cao Ðài có trách nhiệm thiêng liêng, làm cho đời được an ninh trật tự, đào tạo hạnh phúc cho nhơn sanh chung hưởng cốt yếu làm khuôn mẫu cho sự hòa bình, làm gương cả lân bang ngoại quốc. Hiện thời các nước liệt cường dùng khí cụ tối tân, cho đến bom nguyên tử, chỉ có tàn sát với nhau mà thôi, còn Quân Ðội Cao Ðài tức là một "Ðạo Thiên Binh" được toàn thắng, chỉ lưỡi gươm kiếm hiệp khử tà tôn chánh, diệt giả phò chơn, nương theo lá cờ bảo sanh mà thật hành nhơn nghĩa, thủ thắng về mặt đạo đức tinh thần, chẳng làm gì trái với lương tâm. Tóm lại, Quân Ðội Cao Ðài tức là một Cơ Quan Hòa Bình Thế Giái.
Q.1/11: Lễ rước quả Càn Khôn.

Ðền Thánh, ngày 8 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)

Ngày nay đã dời quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí Tôn đã ngự nơi Ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Ðền Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên.

Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn con cái của Ðức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy.

Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn 10 năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài.

Ðền Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái năng lực nhơn nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy.

Chúng ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ khối đức tin của chúng ta mà hưởng ân huệ của Ðấng Chí Tôn.

Bần Ðạo nhắc lại, Ðức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài cho chúng ta y theo lời hứa, Bần Ðạo đứng tại tòa giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng. Vì quốc dân Việt Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài, nên cơ quan cứu khổ để giải thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến ngày nay, mà trước mắt chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất đau đớn thương tâm, phải chi quốc dân ta tin thử và cầu nguyện thử đi, rồi coi Ðức Chí Tôn sẽ cho chúng ta y như lời hứa không.
Q.1/12: Ðại Lễ Ðức Chí Tôn.

Ðêm mồng 9 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)

Quốc dân Việt Nam có một phần người thiếu đức tin về Ðạo Cao Ðài, họ chẳng tin rằng Trời khai Ðạo để tạo Ðời, lập Minh Ðức Tân Dân, tức là một Cơ Quan Cứu Thế, làm cho vạn loại hòa bình càn khôn an tịnh, tránh khỏi sự cạnh tranh giết hại lẫn nhau. Hiện giờ cái họa chiến tranh, khói lửa lan tràn khắp nơi, nhơn sanh thống khổ, cốt nhục tương tàn là vì có một phần người không tin có Trời, chẳng noi theo luật công bình của Tạo Hóa, cho nên mới gây ra một trường náo nhiệt như thế. Ngày nào nhơn sanh biết nhận định Ðạo Trời là phương châm giải khổ lập thành Quốc Ðạo trong nước Việt Nam, đem lại sự an ninh trật tự cho nhơn loại cộng hưởng hòa bình, thì ngày ấy là ngày của Ðức Chí Tôn rưới giọt hồng ân cho nhơn loại gội nhuần hạnh phúc.

Q.1/13: Tam Bửu.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)

Lễ Thượng Ngươn giảng về vấn đề Tam Bửu.

Hiến lễ Ðức Chí Tôn là: Bông, Rượu, Trà, thể theo Tam Bửu của con người là: Tinh, Khí, Thần, ấy là vật báu nhứt của thế gian, khi chúng ta hiến lễ cho Ðức Chí Tôn thì phải trau giồi tô điểm ba vật báu ấy cho tinh khiết, chẳng nên để nó nhiểm lấy bụi trần ô uế, thì vật báu ấy trở nên vô giá trị.

Vậy Chức Sắc, Chức Việc nam, nữ cần phải trau tria thân thể và trí não tinh thần cho được trong sạch.

Mỗi khi hiến lễ ta cần dâng các bửu vật ấy cho Thầy để làm hột giống tốt đặng gieo trồng cho nhơn sanh nhuần gội chung hưởng ân huệ của Thầy ban.

Vậy điều cần yếu là Chức Sắc vào hàng Thánh Thể, phải trọng tu dưỡng ba vật báu của mình cho thanh bạch, hầu hiến lễ Ðức Chí Tôn.
Q.1/14: Hội Yến Diêu Trì.
Ngày 30 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)

Hội Yến Diêu Trì là cơ quan đắc Ðạo tại thế. Ðức Kim Mẫu cùng Cửu Vị Nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức Sắc, xướng họa thi phú và dạy Ðạo. Ấy là Hội Chư Tiên tại thế.

Ðức Chí Tôn thuộc về Phật, Ðức Diêu Trì Kim Mẫu thuộc về Pháp, nếu có Ðức Chí Tôn mà không có Ðức Diêu Trì Kim Mẫu thì trong vũ trụ nầy không có chi về mặt hữu vi,  còn nhơn loại là Tăng.

Ta nhìn có Ðức Chí Tôn khai hóa, nhưng có sanh hóa càn khôn cũng như cơ sản xuất nhơn loại tại thế cũng do nơi âm dương tương hiệp mới phát khởi vạn vật, cho nên con người gọi cha mẹ là Tiểu Thiên Ðịa, còn nhiều ý nghĩa rất sâu xa nói chẳng tột.

Q.1/15: Thờ Ðức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.

Báo Ân Từ, ngày mồng 1 tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947)

Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Buổi mới mở Ðạo Bần Ðạo biết công nghiệp của Phật Mẫu thế nào, Ngài và Cửu Vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Ðức Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy.

Ngày mở Ðạo, vì cái tình cảm ấy, các vị Ðại Thiên Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Ðền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng: Quyền Chí Tôn là Chúa còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy không gì lường được.

Cả cơ quan tạo đoan hữu tướng, thảy đều do Phật Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi trần mang mảnh thi hài, cái chơn linh khi đến, khi về cũng do nơi tay Phật Mẫu mà sản xuất. Phật Mẫu là mẹ của linh hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì ta càng cảm mến cái công đức hóa dục sản xuất của Ngài vô cùng.

Chúng ta ngày nay trên đường tu tiến, đắc Ðạo hay không cũng do bà Mẹ Thiêng Liêng ấy nâng đỡ ấp yêu, vì không có ai cưng con hơn là Phật Mẫu. Nếu chúng ta biết đặng cơ quan Tạo Hóa Càn Khôn sản xuất hữu hình của Phật Mẫu, thì chúng ta sẽ có tình cảm kính trọng yêu thương Phật Mẫu đến ngần nào. Con cái của Ngài xin đem vào thờ ở Ðền Thánh, thì Ngài lại từ chối mới biết cái cung kính của Phật Mẫu đối với Ðức Chí Tôn ở thế gian nầy được đáo để đến dường ấy.

Còn Nữ phái nên coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ, chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng nàn của Mẹ vậy.

Bây giờ nói về tại sao có Phật Mẫu trước khi có Ðức Chí Tôn là đấng không mà có,(*1) nếu nói có tất cả là không, ấy là đấng vô hình, vô ảnh ở trong cảnh vô tướng, Ðức Chí Tôn vì mộng tưởng chẳng khác kẻ phàm, sanh ra lớn lên lại muốn tạo nghiệp, muốn tưởng Ðức Chí Tôn là nguồn cội cả Bí Pháp nên gọi là Phật. Trong Bí Pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật Mẫu sản xuất cả cơ hữu vi của vũ trụ. Bởi thế nên quyền năng của Phật Mẫu là Mẹ khí thể của ta, nên ta có ba hình thể là Tam Bửu đó vậy.

Tam Bửu là ba khí chất tạo nên hình hài xác thịt, cái xác là con kỵ vật, thiên hạ lầm tưởng hễ xác chết là mất, vậy thì thử hỏi Trời Ðất vạn vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hóa nữa hay sao?

Bởi mang xác thịt mắt phàm không thể thấy, chớ nếu có huệ nhãn thì thấy trong cái xác của người có ba thể: Thể thứ nhứt là xác hài, thuộc vật chất khí biến sanh; thể thứ nhì là chơn thần do tinh ba của vật chất khí mà sản xuất, từ phẩm Ðịa Thần đến Thiên Thần; thể thứ ba là ngươn khí do chơn linh mà có, từ bực Thánh đổ lên.

Chúng ta đạt pháp do chúng ta có ba thể tương liên đừng tưởng chúng ta không đạt được. Chúng ta hễ đi được thì đi hoài, đâu cũng có đường hết thảy. Song muốn đạt được pháp thì phải luyện. Ban sơ mới khai Ðạo chúng ta phải thi hành thể pháp nếu sau nầy không đạt được chơn pháp thì cũng như con người có quần mà không có áo vậy.

Từ khi cơ quan hữu tướng của Mẹ đã tạo thành, thì Ðức Chí Tôn không cho Mẹ thấy nữa. Phật Mẫu thì biết tôn sùng và sợ sệt chớ không thấy Ðức Chí Tôn được, nên bây giờ Mẹ thì vui cùng con cái, an ủi nhờ con cái. Lạ gì tình thương của đàn bà, có mặt chồng thì ít thương con, ít ấp yêu, còn đến khi vắng mặt chồng thì mới biết thương yêu con cái vậy.

Phật Mẫu khi thấy con cái đến ngày qui liễu, bỏ cái áo xác thịt nầy về với Ngài, Ngài rất vui lòng tiếp rước con cái, như người đàn bà gặp được đứa con yêu dấu cách biệt từ lâu.

Ðền thờ nầy là nơi lễ bái Ðức Phật Mẫu trong buổi nhơn đạo mãn sang hồi cựu vị.

(*1) Nơi đọan thứ 6: Bây giờ nói về tại sao có Phật Mẫu trước khi có Ðức Chí Tôn là đấng không mà có, nếu nói có tất cả là không,...
Q.1/16: Quốc Sự Vụ.
Phiên nhóm Bộ Quốc Sự Vụ ngày mồng 9 tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947) (*1)

Hôm nay chúng ta bàn giải về Quốc sự, vậy trước khi bàn đến vấn đề Quốc sự, tôi có mấy điều đưa ra trước để chúng ta vạch một con đường mà chúng ta sẽ đi hay nói là sẽ làm, vì chúng ta phải có mục đích rõ ràng.

Chúng ta cũng dư hiểu, hiện giờ các liệt cường như các nước Pháp, Anh, Mỹ, Nga mỗi nước đều có một chế độ chánh trị riêng. Nói đến chánh trị, chúng ta nên hiểu rằng, chế độ chánh trị là do một mục đích, một chủ nghĩa, một tinh thần của quần chúng tạo ra.

Như xưa kia, nước Pháp còn dưới chế độ Quân chủ độc tài làm cho dân Pháp chịu không nỗi sự bất công tàn bạo của nhà vua, nên trong quần chúng có nhiều nhà triết lý cao thâm như: Jean Jacques Rousseau, Montesquieu, họ muốn đem lại công lý dân quyền, nên ngồi bóp trán suy nghĩ tạo nên một tinh thần chánh trị dân chủ, mà một khi đã phát sanh một tinh thần dân chủ rồi thì mới lập thành một chế độ chánh trị dân quyền.

Chế độ nầy phát sinh ra rồi thì quần chúng Pháp nhìn nhận nó là một chủ nghĩa dân quyền, phải tìm phương thi hành cho kỳ được, để đả đảo chế độ quân chủ độc tài. Nước Nga cũng thế, trước kia dân Nga bị oằn oại bóp chẹt dưới chế độ quân chủ độc tài nên Lénine cũng ngồi suy nghĩ tìm tòi phát sanh ra một tinh thần dân chủ và do tinh thần dân chủ đó nên lập thành một chế độ dân quyền Cộng Sản.

Tóm lại, quần chúng của mỗi nước vì cái nạn độc tài của quân chủ hay của một ông Thủ Lĩnh mà phát sanh ra một tinh thần cách mạng, rồi thì quần chúng lại tạo ra chế độ dân quyền.

Nếu đã có tinh thần chế độ chánh trị dân quyền rồi, thì quần chúng coi đó là một chủ nghĩa phải theo đuổi để bài trừ một chế độ không hợp lòng dân.

Ðến đây tôi xin để một câu hỏi? Vậy chớ quần chúng phải làm thế nào để bài trừ cái chế độ chánh trị tàn bạo kia hầu áp dụng chế độ dân quyền.

Theo tôi thấy thì quần chúng dùng hai phương pháp sau nầy:

Phương pháp thứ nhất: - Tranh đấu về tinh thần như biểu tình phản động, hoặc ngoại giao tranh đấu, hoặc bất hợp tác hay dùng kinh tế mà tranh đấu để bóp chẹt, đánh đổ một chế độ mà quần chúng cho là bất hợp thời.

Phương pháp thứ nhì: - Vì tranh đấu theo phương pháp trên, quần chúng bị binh vực đàn áp, thế nên quần chúng hiệp lại thành khối, tạo nên một lực lượng binh bị tương đương làm hậu thuẩn đối phó lại để ủng hộ cái chủ nghĩa của mình.

Nói đến đây chư vị cũng dư hiểu rồi, vì ủng hộ cho một chủ nghĩa nên quần chúng tạo thành quân đội, để ủng hộ cái chủ nghĩa hay mục đích của mình vậy.

Nếu đã biết rằng vì ủng hộ một chủ nghĩa, nên chủ nghĩa đó tạo ra quân đội để làm hậu thuẩn, thì chúng ta phải nhận định rằng chánh trị tạo ra quân đội chớ quân đội không khi nào tạo ra chánh trị.

Cũng như chúng ta ngày nay, hỏi vậy chúng ta theo đuổi chủ nghĩa nào?

Có phải chúng ta theo đuổi chủ nghĩa Cao Ðài không? Nếu đúng như thế thì chủ nghĩa Cao Ðài vì muốn tồn tại nên phải lập ra quân đội. Như vậy quân đội là của chánh trị lập thành, nên quân đội phải tuân theo nguyên tắc chánh trị. Như thế quân đội phải do chánh trị điều khiển vì chúng ta làm chánh trị.

Làm chánh trị là làm Quốc sự, nên nước nào cũng có Bộ Quốc Sự . Bộ Quốc Sự muốn đạt thành con đường chánh trị của mình thì quân đội là cơ quan tạo nên để ủng hộ chánh trị đó vậy.

Xin chư vị thử nghĩ coi có phải thế không? Nếu phải thì chúng ta nên nhìn nhận rằng: Quân đội phải chịu quyền điều khiển của chánh trị để chúng ta làm quốc sự. Chúng ta có Bộ Quốc Sự để làm chánh trị thì quân đội phải tuân hành theo những qui tắc chánh trị, còn về việc điều khiển quân đội khi hành binh thì do Bộ Tham Mưu quân đội được trọn quyền và được quyền đòi hỏi những vật liệu chiến tranh nơi Bộ Quốc Sự.

Tóm lại, chúng ta đã xác định rằng: Bộ Quốc Sự phải ban hành những qui tắc chánh trị để điều khiển quân đội hầu Bộ Quốc Sự đủ lực lượng và đủ điều kiện làm chánh trị.

Cũng như cổ kim lập triều đình, định chánh thể rồi, muốn ra nguyên tắc lập quân đội, quân đội không tuân hành đi nghịch lại mạng lịnh của triều đình thì triều đình bất lực nảy sanh loạn lạc. Bất cứ một ai trong nước mạnh đặng yếu thua, giựt giành thì không còn gì chánh trị nhân nghĩa nữa.

Trên đây là một sự thật của lịch sử tiến hóa chánh trị hay là một phương pháp làm chánh trị.

Quần chúng vì làm chánh trị để tranh đấu lợi quyền nên lập ra quân đội làm hậu thuẩn cho chánh trị. Như vậy thì quân đội của quần chúng chớ không phải quần chúng của quân đội hay nói với sự hiểu rộng thì triều đình lập ra quân đội vậy.

Chúng ta ngày nay vì làm chánh trị nên phải có quân đội, ngày nào nếu chúng ta không làm chánh trị nữa thì quân đội phải giải tán.

Song thời cuộc bắt buộc chúng ta phải làm chánh trị, nên chúng ta đã bỏ thăm công nhận thành lập Bộ Quốc Sự rồi để thay mặt quần chúng làm Quốc Sự, cứu vãn sanh mạng và quyền lợi của họ vậy. Như thế chúng ta nên triệt để ủng hộ Bộ Quốc Sự của Hội Thánh để chống lại cái nạn chánh trị khốc hại của chế độ bốc lột hay nói là Ðế quốc chủ nghĩa.

Một bằng cớ trươc mắt chúng ta là ông D'Argenlieu sang Ðông Dương để lại cái trách vụ của Nội Các Pháp phú thác cho, hỏi vậy cái trách vụ ấy là những gì? Có phải là những Huấn Lịnh, những nguyên tắc, những điều kiện về chánh trị buộc D'Argenlieu phải tuân hành không?

Còn ngày nay chúng ta xem sao, chúng ta thấy rằng nước Pháp muốn áp dụng xứ nầy một chánh trị liên bang để thu hoạch cho được cái mục đích quyền lợi của họ, nên Nội Các Pháp sai ông Bollaert là một nhà chánh trị có biệt tài sang Ðông Dương mang theo những Huấn Lịnh, những điều kiện, những qui tắc chánh trị để tranh thủ với cái mục đích chánh trị của dân chúng Ðông Dương mà nhứt là dân chúng Việt Nam.

Bởi thế nên quân đội Pháp ở Ðông Dương phải chịu dưới quyền điều khiển của ông Bollaert, nghĩa là ông Bollaert có quyền định đoạt sự chiến hay hòa, hoặc kháng chiến, hoặc đánh với đối phương nào và những chỗ nào quân đội không được đụng chạm tới.

Như thế thì chúng ta rõ rằng ông Bollaert qua đây làm chánh trị, làm quốc sự chớ không phải qua đây chỉ có một lịnh chiếu.

Thử hỏi, nếu ông Bollaert không làm chánh trị thì chiến đấu để làm gì? Cho mục đích chánh trị nào? Bây giờ chúng ta lo làm quốc sự để đạt thành chủ nghĩa của chúng ta nên mới có Bộ Quốc Sự chuyên lo vạch con đường chánh trị sáng suốt để bàn định và giải quyết với cái chánh trị sáng suốt của ông Bollaert mang từ Pháp sang đây, vì theo tin tiếp được thì ông Bollaert và Thủ Tướng Hoạch sẽ đến Tòa Thánh nay mai.

Ngày nay chúng ta trên con đường phụng sự quốc gia phải tranh đấu về chánh trị để thâu hoạch lại những cái gì mà chúng ta có quyền hưởng một cách xứng đáng.
(*1) Trước kia trong Ðạo có cơ quan Quốc Sự Vụ.
Q.1/17: Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần.
Ðêm rằm tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947) tại Ðền Thánh

Phàm con người có ba báu: Tinh là xác thân của cha mẹ sanh ra, liên quan với xác thân (corps  astral) là hơi, nó tiếp xúc liên quan bảo trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có, liên quan với linh hồn ta là của Chí Tôn ban cho mà có. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam Bửu: Tinh, Khí, Thần.

Chí Tôn lại chọn lựa vật quí báu là Bông (Tinh), Rượu (Khí), Trà (Thần) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.

Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai giới, chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệc ác thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy.

Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ Châu, Cổ Tàng Viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết được.

Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thể thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến ta được.

Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục.

Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn.

Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.

Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt đạt ngôi vị là phải trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy.

Trong giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới.

Ấy vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà thôi, dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình, thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.
Q.1/18: Tam Bửu: Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 2 nhuận năm Ðinh Hợi (1947)

Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu, Bần Ðạo lần lượt giảng Tam Bửu trước là vì Ðức Chí Tôn lấy Bông, Rượu, Trà mà tượng hình ba thể chất, tạo nên vạn loại.

Chơn linh mới thiệt là ta, còn Chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn linh ta mượn cơ quan hữu hình để thân mật cùng cả cơ quan tạo đoan võ trụ.

Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi? Nguyên do nơi nào mà đến, rồi Bần Ðạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải Tu. Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà phải Tu.

Bần Ðạo sẽ giảng nguyên do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu Thiên Khai Hóa, Ðức Chí Tôn tạo Bát Quái Ðài là gì?

Bây giờ Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người, Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên thiên khí; Chơn thần do Hậu thiên khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên.

Hỏi vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống. Chơn linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là của Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình. Chơn thần là Hậu thiên khí, nó bảo trọng vật chất khí.

Trong ba khí chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, chơn linh là nhứt điểm linh quang do Chí Tôn mà có để bảo trọng cái sinh mạng, cái sống của thi hài. Ðến ngày giờ nào niên kỷ đã định hết khối sinh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác, thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.

Ấy vậy, ta kiếm thử coi Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí là gì? Chúng ta sẽ thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có ba thể chất:
" Vật chất thì mắt ta thấy.
Mùi vị là Hậu thiên khí.
Năng lực là Tiên thiên khí."

Ba khí chất nầy tượng ra hình hài của con người, vật chất mùi vị, năng lực thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm, ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu thiên khí phục nguyên khối sanh quang của ta được tồn tại.

Tinh ba của vật chất nó vào mình làm cho xác hài có năng lực tráng kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh khí đó vậy.

Chơn thần là Hậu thiên khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.

Người hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm cho họ sợ.

Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gủi đặng họ sẽ thương yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.

Kẻ phàm mang xác hài hay có thất tình, lục dục, nên có sự phân cách về thể chất hữu vi làm cho thiếu sự thương yêu vì ta sợ.

Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Ðạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giục thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ không ai đặng mưu hại giục hư.

Bần Ðạo giảng cõi Hư linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng.

Cõi Hư linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm hồn chúng sanh, hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương.

Chúng ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên Chí linh chí Thánh, một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời.

Các bạn biết Phật Thích Ca xưng là Bổn Sư, người tu gọi là Thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái.

Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị.

Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc hậu đó vậy.

Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo vệ, ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi: "Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần". Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay.

Chưa có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc hậu ấy để ăn.

Ta đến đây làm bạn cùng vạn vật chúng sanh, vạn vật giúp ta học cho thấu đáo huyền vi cơ Ðạo, tạo chí linh nối nghiệp Ðức Chí Tôn.

Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ bởi Ðại Từ Phụ mà không tin sao? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương hỏa.

Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương pháp nhỏ theo phàm. Còn ông Cha Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm? Thầy nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần Ðạo tưởng, nhứt là phái Nam, thanh niên vũ chức (*1) nếu mấy em biết cơ quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí Tôn. Bần Ðạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ Pháp hứa sẽ tái kiếp luân hồi bồi thường cho đủ.

Vì những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một Quốc gia Thiên định tại thế nầy, Bần Ðạo chắc Quốc gia ấy phải thành. Ðức Chí Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng, những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến. Nếu chúng ta có con mắt thiêng liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Ðấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn linh cao trọng cũng phải cúi đầu.

Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý.
(*1) Thanh niên có chức phận trong Quân đội Cao Ðài.
      Home             [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  [ 8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  [ 17 ]  [ 18 ]  [ 19 ]  [ 20 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét