ĐỨC HỘ
PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 14-11 Giáp Ngọ.
Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng
Phái. Có lẽ giảng hơi dài, đừng vì lẽ mệt ngồi ngủ gục hãy cố lắng tai nghe.
Bần Đạo giảng phải lập thân danh thể nào,
và căn bản
nào? Vả chăng sanh nơi thế kỷ 20 này, Bần Đạo thường nói: Cái phương sống của
con người là tranh đấu cố gắng đem cả trí não khôn ngoan đặng bảo vệ sống còn của
mình.
Có lạ chi, dầu muốn, dầu không, dầu thuận tùng hay là
nghịch. Hỏi kiếp sanh của mình đã rủi sanh làm người rồi, thân của chúng ta ở
giữa vạn vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn vật kia vậy. Có thân, có phận thì
con người của ta phải lập thân phận thế nào? Bởi thế bậc hiền triết thường nói:
"Đã
sanh ra đứng trong Trời Đất,
Phải
có danh gì với núi sông".
Nếu con người không nên danh phận chi hết, dường như
tinh thần của họ thiếu phận làm người. Cái sống buộc ta phải sống chung cùng vạn
vật, ta phải khôn ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng chi? Đặng làm gì?
Ta đã đồng sinh cùng vạn vật, tức nhiên giữa khối sinh
lực của ta đã xuất hiện ra, tức ta là một phần tử trong khối sinh lực của toàn
thể chúng sinh. Ta có phận sự phải bảo vệ cái sống ấy. Không có quyền diệt cái
sống, hay là nghịch với cái sống. Tỷ như mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ta múc nước
trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ vơi một phần.
Ấy vậy, ta sống, ta chịu nợ của cái sống. Sống chung
cùng cả bạn đồng sanh, chúng ta phải làm thế nào cho sống ấy tồn tại hiển hách
mãi thôi. Ta không có quyền phép nào, quyền hành nào làm mất sống ấy, tức nhiên
không quyền diệt sự sống.
Hại thay! Chúng ta phải hiểu rõ rằng: Sống đây không
phải thú vị, vui hứng gì mà sống đây buộc chúng ta phải tìm phương giải thoát
khỏi sống ấy. Đương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không thể chối cãi là ta đã
chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập thân danh đặng bảo vệ sống
ấy.
Vì muốn bảo vệ sống ấy mà Tiên Nho của chúng ta để lại
thuyết: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc,
Bình thiên hạ".
Tu thân là gì? Là trau giồi mình, biết mình, biết người
biết vạn vật đặng định phận của mình. Ta không thế ngu muội, ta phải làm sao
cho khôn ngoan ấy nhờ tu thân. Tu thân ấy căn bản là gì?
Dầu cho thiên kinh vạn điển đi nữa, cốt yếu một điều
là tạo tâm đức của ta và dùng cái tình ái của ta cho có khuôn khổ, có niêm luật,
qui định một căn bản chắc chắn là tu thân đó vậy.
Ấy vậy, nó chỉ có bấy nhiêu, chúng ta tầm hiểu rằng:
Muốn định phận của mình, muốn tạo công danh của mình phải do căn bản tình đức.
Nếu trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo, hay là xảo trá, gian lận những
điều ấy đều giả dối hết.
Quan tiền vũ hậu, ta thử xem xét coi cái sống đương
nhiên của bạn đồng sinh, họ đã hành vi và thi thố điều gì? Dầu cho tên Đạo
Chích kia nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo, mà nó chưa hề dám từ bỏ Tam Cang Ngũ Thường
của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình trong khuôn khổ tình đức chừng
ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường gạt thiên hạ mới đặng. Nếu đi ngược
chiều tình đức thì chẳng hề làm lớn với ai được.
Kẻ cướp, kẻ hung bạo, tàn ác, nó muốn làm anh chị
thiên hạ nó muốn mượn màu tình đức ấy, nhơn nghĩa ấy cho tới tận cùng, gạt
thiên hạ, thiên hạ theo mới đặng.
Trái ngược lại, đối với người đã đoạt được khuôn viên
tinh thần tình đức ấy, do nhiên tự nhiên nó có, chẳng cần kiếm nó có sẵn hiển
nhiên.
Từ cổ chí kim, chúng ta giở lịch sử của nhơn loại,
chúng ta ngó thấy rõ ràng điều ấy: Bất cứ thời buổi nào vị anh hùng nào quán thế,
ở thế gian này muốn lập thân danh phải mượn màu tình đức ấy. Bần Đạo chỉ cho
ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm chúa thiên hạ, thâu thiên hạ trong tay,
phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả xương máu của họ đặng tô điểm
địa vị của nó.
Trái lại nương nơi hung bạo lập nghiệp như Sở Bá
Vương, như Tần Thủy Hoàng kia thì nó phải tiêu hủy cả cơ nghiệp.
Bần Đạo đã ngó thấy một điều, nếu để tâm quan sát kỹ
hơn nữa, hễ có tình đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm công danh cũng tự nhiên đến,
dầu đến với phương diện nào nó cũng tìm đến.
Tích xưa, một bậc Hiền Triết là: Nguyễn Hiến là học
trò yêu của Đức Khổng Tử lại là anh ruột của Đạo Chích. Thầy Nguyễn Hiến, Bần Đạo
thuật ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn thấy người như thế không có người thứ hai
nữa.
Buổi nọ Thầy Tử Cống đi xe bốn ngựa mặc áo lông cừu đi
ngang qua nhà Thầy Nguyễn Hiến, Thầy Nguyễn Hiến nghèo đến nổi nhà lợp bằng cỏ
tang, vách làm bằng cỏ du. Nghe Thầy Tử Cống đi ngang qua lật đật ra chào đón,
lấy áo mặc vô, vải áo rách, xỏ chân vô tới giày, giày thủng gót, đội mão buộc
không nhíp, ra đứng giữa đường đợi Thầy Tử Cống. Thầy Tử Cống đi xe ngang thấy
Ngài đứng bên đường, Thầy để lời than: "Ôi!
Ngài không nghỉ đến công danh ư?" Thầy Nguyễn Hiến trả lời - Thầy xưa
có nói: "Kẻ biết Đạo dù nghèo cũng
không nghèo tức nhiên không làm quan, ấy là kẻ không mồ. Biết Đạo không giữ Đạo
là kẻ bịnh. Tôi chỉ là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ bịnh".
Thử coi Thầy Nguyễn Hiến nói ai bịnh, phải chăng Thầy
Tử Cống bịnh. Công danh mà chi tới hôm nay nhắc đến công danh, Thầy Nguyễn Hiến
là người hi hữu danh cần gì cao trọng như hàng phẩm của vị thủ tướng trong triều
đình hay là vua, chúa mới lưu lại danh phận mình. Ông Vua Nghiêu không muốn
truyền ngôi cho con mới tìm hiền, lúc chưa gặp Ông Thuấn, nghe Hứa Do là người
có tài đức mới cho người dời Hứa Do đến triều. Vua Nghiêu nói: "Trẩm nghe người tài đức lớn, vậy Trẩm
muốn nhường ngôi cho người thay Trẩm làm Chúa thiên hạ".
Hứa Do trả lời: "Tiêu
liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc". Con
chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một nhánh cây, con yến thử xuống giòng
sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ hạ thần đã quen thú an nhàn cách sống
riêng biệt. Bệ hạ muốn nhường ngôi cho kẻ hạ thần cũng vô ích. Nói xong bỏ ra về.
Khi đi ngang qua nguồn nước mới lum khum xuống rửa tai cho hết vấn vít vì nghe
thiên hạ nói muốn làm vua kỳ quá.
Ông Sào Phủ là người giữ trâu thôi, dắt trâu xuống giòng
nước cho uống, thấy Hứa Do lum khum rửa tai, Sào Phủ hỏi: Anh làm chi rửa tai vậy?
Hứa Do mới thuật lại: Vì vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua, tôi không muốn
vấn vít trong lổ tai nữa. Sào Phủ nói: Anh làm gì cho thiên hạ biết anh là hiền
đức muốn truyền ngôi cho anh, nếu người ta biết anh là hiền đức, tức nhiên anh
đã muốn làm cho người biết; chắc chắn hơn nữa là tại anh tỏ cho thiên hạ biết
anh là hiền đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức, thì ai biết anh
đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai. Sào Phủ nói xong liền dắt trâu đi lên
trên dòng nước cho uống. Hứa Do lấy làm lạ hỏi: Bến ở đây sao dắt trâu lên trên
kia cho uống? Sào Phủ trả lời: Vì sợ anh rửa tai trôi ra trâu tôi uống nhầm. Đó
là công danh của kẻ triết hiền.
Ta thử ngó lại nước Việt Nam ta từ cổ chí kim, kẻ lập
thân danh biết bao người mưu kế quỷ quyệt như Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã lập ra
một cơ quan vĩ đại là khối Tây Sơn. Trịnh kia gian xảo thế nào thì Tây Sơn gian
xảo cũng thế. Trịnh phò Lê diệt Nguyễn tức nhiên phò Lê đặng mượn danh nhà Lê đặng
diệt Nguyễn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng thế mượn màu phò Lê đặng diệt Trịnh.
Chúng ta thấy gian xảo bao giờ cũng nương theo tình đức,
lợi dụng tình đức đặng lập thân danh. Những mưu kế xảo quyệt chẳng hề khi nào bền
bỉ lâu dài đặng. Thân danh dầu lập bao nhiêu cũng không thế tồn tại. Lịch sử của
nước Việt Nam để trước mắt cho chúng ta ngó thấy.
Bây giờ nói chuyện nước Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được
800 năm là họ Lưu. Lưu Bang bất quá là một anh Đình Trưởng, tức nhiên là anh
đưa đò vậy thôi, mà thâu phục được lòng dân, ưu ái dân, binh vực kẻ yếu, đương
đầu với kẻ mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà dám đương đầu cùng Sở Bá Vương cứu
trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức làm căn bản lập Hớn thất giang san
của Ngài được 800 năm. Còn như Sở Bá Vương dùng bạo tàn dựng nên cơ nghiệp chỉ
một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một Đế Vương nào để di tích cho bằng Tần Thủy
Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ ba đời thôi.
Napoléon 1er vẫn là một người thường dân trong hàng lê
thứ, đi từ tên lính lên tới Đế vị rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp
thọ hưởng. Hại thay! Tới chừng lên Đế vị rồi, phong hầu, phong bá (Công, Hầu,
Vương, Bá) cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng
trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng sĩ đã lập
nên Đế vị cho Ngài sau khi chỉ còn Ông Nai còn biết tình của Ngài còn bao nhiêu
đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy nó chỉ là bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu
đào tạo mạnh mẽ liệt cường cao trọng cũng như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng hề
khi nào bền vững được.
Cả con cái Đức Chí Tôn, mấy em đã có sẵn tình đức của
Đức Chí Tôn đã đến trong ba chục năm nay thôi, chỉ trọng ba chục năm hưởng được
đặc ân của Đại Từ Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức trong Đạo ấy, mấy
em tu thân dễ quá chừng quá đổi. Tu thân mấy em là làm nền móng vững chắc đặng
lập công danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật
đâu mấy em. Đứng trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả
con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản tình đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu
Qua không nói mấy em ngồi trên đầu thiên hạ.
Q. 6/2-21:
Lễ Ban Quyền Nữ Đoàn Trưởng Phụ Tá Quân Đội Cao Đài.
ĐỨC HỘ
PHÁP Thuyết Đạo Lễ Ban Quyền Nữ Đoàn Trưởng Phụ Tá Quân Đội Cao Đài, ngày 15-11
Giáp Ngọ (09-12-1954)
Thầy thành thật khen ngợi sự sáng suốt của Bộ Tư Lệnh
thành lập Đoàn Phụ Tá Quân Sự để định phận cho Phụ Nữ Cao Đài.
Từ xưa đến nay, có biết bao ngọn lửa thiêng của phụ nữ
đã làm cho sáng tỏ được quốc hồn: Nước Pháp nhờ Jeanne D'are, nước Việt Nam nhờ
Trưng Triệu đã đưa quốc gia, nòi giống mình, thoát khỏi ách ngoại xâm, để tiến
đến bờ bến vinh quang. Ngày nay, Bần Đạo ước mong sao các con sẽ tìm lại được
ngọn lửa thiêng ấy, ngọn lửa thiêng ái quốc ở nơi lòng các con và khơi tỏ nó
lên, để cứu nguy cho quốc vận, giải thoát cho giống nòi.
Nước Pháp chỉ có một Jeanne D'are, nước Việt ta lại có
đến Nhị Trưng và Triệu Ẩu, thế là nước Pháp có một mà nước Việt ta lại đến ba.
Ta nên lấy đó mà hãnh diện, mà cố gắng hơn lên để khỏi thẹn mang danh là gái Lạc
Hồng.
Q. 6/2-22:
Lễ Khánh Thành Tân Dân Thị "Qui Thiện".
ĐỨC HỘ
PHÁP Phủ dụ trong dịp Lễ Khánh Thành Tân Dân Thị (Qui Thiện) ngày 29-11 năm Giáp
Ngọ.
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong, Chư Viên Quan quyền
Đạo và Đời, các em Nam, Nữ.
Mấy em đã đặng ân Thiêng Liêng ban thưởng do lòng đạo
đức của mấy em, nên mấy được hưởng sự vinh dự hôm nay là lập một sự nghiệp hữu
hình cho thiên hạ.
Qua nhớ lại khi Đức Chí Tôn vừa đến tức nhiên năm 1925
khi đó trong các Môn Đệ của Ngài, Qua chẳng biết mỗi người đã lãnh sứ mạng đặc
biệt riêng nhau làm sao. Đức Chí Tôn đến với họ một cách riêng biệt thế nào Qua
không hiểu. Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại Từ Phụ giao phó với một lời yếu
thiết như thế này: Tắc, Đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại
khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao
cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể
xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải
hiểu: Có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác. Thầy nói rõ Thầy
giao cho một gánh Đạo và Đời. Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng
hề khi nào làm cho Bần Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng
nề hơn hết.
Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi; một lời tiên tri trước kia nó
hiện tượng hôm nay ra thể nào, mấy em biết cái quyền linh vô biên của Đấng cầm
quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào? Bởi cớ cho nên khi Đạo
mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược,
ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền
hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ đặng Đạo. Hồ đồ mưu chia rẽ làm cho trong
Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền
Đạo chinh nghiêng đảo ngược. Gánh một chức vụ Hộ Pháp cầm cả Luật Pháp của Đạo,
không lẻ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn. Qua phải tìm phương giải
quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặng làm căn bản. Bởi cớ cho nên mới
sản xuất ra Phạm Môn và Qui Thiện.
Thiên hạ nói Qua lấy Tộc Qua là Phạm, tức nhiên lập
cái đảng phái cho họ Phạm. Qua hỏi: Thiên hạ đã tuyên truyền dối trá ấy đặng
đánh đổ cả uy tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai hết, dầu cho
quyền hành buổi nọ rất mạnh mẽ đòi phen đem đến Luật hình, mà chính mình Qua
cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm Môn là gì?
Hôm nay mấy em biết chưa? Có lẽ phần nhiều mấy em đã
biết, Phạm ấy là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của
Đạo, cửa Bảo Thủ Chơn Pháp của Chí Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra
cho thiệt tướng.
Thiên hạ đều hung bạo, vì lẽ hung bạo làm cho anh nghịch
em, em hận anh, trong cửa Đạo không có một vẻ chi là Đạo hết. Lập trường Qui
Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng
nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo. Buổi đầu tiên nó sản xuất tại nơi
Mỹ Tho, Qua lập "Khổ Hiền
Trang" mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định Qua thế nào không? Trong bảy
mươi hai anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu trường Qui Thiện ấy là Đinh Công
Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối
trọng của Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ
hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh Công Trứ là vậy.
Tưởng cũng như Qua đã bị các nạn nhân của các lực lượng
quyền Đạo luôn quyền Đời.
Buổi nọ thiên hạ tuyên truyền dối trá thì Đinh Công Trứ
cũng bị nạn ấy. Qua đã bị thiên hạ chê là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh Công Trứ
cũng vậy, thiên hạ nói nó cũng như Qua lo Đời hơn lo Đạo.
Mấy em ôi! Trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở
trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bát Nhã chưa tạo thành đặng độ rổi họ, ít
nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bấy
nhiêu hay bấy nhiêu.
Thiên hạ thấy mấy em khổ não, cái khổ ấy nó đã làm cho
Qua đổ biết bao nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo.
Tân Dân Thị chính của mấy em tìm phương chui đụt, tìm
phương giải khổ cho mấy em. Mấy em được hạnh phúc hay chăng là do lòng đạo đức
của mấy em. Qua còn sống đây thì Qua cũng lo tạo dựng mảy may hạnh phúc cho mấy
em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là Qua làm sao cho mấy em giải
khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là vậy.
Trong Bí Pháp Qua viết chữ Hòa, nơi Tân Dân Thị nhờ chữ
Hòa mà thêm lòng yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa Ái nơi lòng của mấy em đó vậy. Qua
cầu xin mấy em có một điều là chung sức cùng nhau đặng tạo hạnh phúc cho nhau.
Q.
6/2-23: Lễ Chúa Giáng Sinh.
ĐỨC
HỘ PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 1-12 năm Giáp Ngọ
Đêm nay là đêm Lễ Chúa Giáng
Sinh. Mỗi năm Bần Đạo đã giảng về Đạo của Chúa Jésus Christ nhiều rồi. Nhưng
hôm nay Bần Đạo vẫn nhắc lại Đạo của Đấng Cứu Thế. Trong Sấm Truyền của Thiên
Chúa Giáo có nói rằng: Tổ Tông của loài người là Bà Eve và Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo
ra, lại còn ban thưởng một đặc ân cho ở nơi Địa Đàng. Nơi ấy Tiên Gia của
chúng ta gọi là Tiên Cảnh.
Nhờ Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh quang nên con
người khôn hơn loài vật hữu sinh đồng chung sống với nhau, không biết chết là gì.
Nhưng khi Đức Chí Tôn cho ra ở nơi Địa Đàng, không giữ lời dặn của Đức Ngài, ăn
trái Cấm nên bị Đức Chí Tôn phạt đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì lẽ mất nghĩa với Đức
Chí Tôn nên phải chịu khổ não. Xét ra cho kỹ giờ phút này nhơn loại khổ não là
bị điều phạt của Đức Chí Tôn đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì cớ nên Ông cha ta trở
nên phàm tục không còn vẻ Tiên phong Đạo cốt nữa nên phải chịu Luật Luân Hồi là
vậy.
Nhưng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết lòng từ bi
bác ái của Ngài thế nào chăng? Phạt chẳng lẻ phạt mãi, nên Ngài mới liệu phương
cứu rỗi. Vì cớ nên Ngài giao cho Chúa Jésus Christ hay Jésus Nazareth lãnh phần
cứu thế đặng chuộc tội cho Tổ Tông của loài người đã bất nghĩa đối cùng Đức Chí
Tôn.
Vì cớ cho nên Ngài hy sinh tánh mạng chịu chết trên
cây Thánh Giá bởi sự hung bạo của dân Do Thái.
Hôm nay cả toàn thể người Công Giáo đều làm Lễ kỷ niệm
ngày Chúa Jésus Christ đến cứu thế. Bần Đạo xin nhắc lại gương hy sinh vô đối của
Ngài dám chịu chết vì loài người, dám chịu chết đặng chuộc tội lỗi cho loài người,
dám chịu chết vì hung bạo của loài người. Bần Đạo ước mong toàn thể nhơn loại
trên mặt địa cầu này noi gương của Ngài, là bởi Ngài chịu khổ hình một cách đau
đớn khổ não cũng vì loài người.
Nền chơn giáo của Ngài, Ngài chỉ định có một khuôn luật
là Thập điều, nên khi ấy các Môn Đệ của Ngài hỏi Ngài trong 10 điều răn ấy phải
giữ điều nào hơn hết. Đức Chúa Jésus nói: Ta phải thương yêu Chí Tôn trên hết mọi
sự và thương yêu bạn đồng sanh mình cũng như mình.
Ôi! Nếu nhơn loại biết yêu thương bạn đồng sanh của họ
như Thánh Giáo đã dạy từ 2.000 năm nay, thì tưởng lại giờ phút này sẽ tránh khỏi
nạn tương tàn tương sát, nó làm cho thế giới chẳng hề buổi nào hưởng đặng hòa
bình, chỉ cứ ly loạn mãi thôi.
Chúng ta thử giở lịch sử loài người ra xem, thì không
có một thế kỷ nào mà không có giặc giã tàn sát lẫn nhau giờ này chúng ta cũng
thế. Các bạn đồng đạo Tôn giáo cũng thế. Hôm nay xúm xích nơi Đền Thánh chung
vào lòng từ bi bác ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn để cầu nguyện một điều là
Đức Chúa Jésus Christ sống lại là mơ ước thế nào nhơn loại hưởng đặng đặc ân ấy,
để chia khổ não đừng tàn sát lẫn nhau đem trở lại sự yêu ái lẫn nhau. Nhìn nhau
là bạn đồng sanh, lời cầu nguyện quí báu hơn hết, với Đức Chí Tôn là cầu nguyện
như thế. Bần Đạo nói Đức Chúa Jésus Christ đối với triết lý của Đức Chúa Trời
như thế nào thì hôm nay đường lối của Đức Chí Tôn đến dạy chúng ta như thế ấy.
Chúng ta chỉ mong mỏi có một điều là nhơn loại đặng hòa bình mà thôi.
Q.
6/2-24: So sánh nghiệp Đạo và nghiệp Đời.
ĐỨC
HỘ PHÁP Giảng Đạo tại Đền Thánh, đêm 15 tháng 12 Giáp Ngọ
Hôm nay Bần Đạo giảng cho các
Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái, vì trong mấy tháng nay các em làm
ngày làm đêm cực nhọc quá. Mấy con mấy đứa nhỏ nhứt là sự làm việc rất siêng
năng. Nên hôm nay Bần Đạo giảng thử so sánh nghiệp Đời với nghiệp Đạo. Nhứt là
trong khi làm rồi mệt mỏi, mấy em mấy con có thể hiệp lại với nhau suy nghĩ
tính toán, có lẽ đứa này hỏi đứa kia. Tại cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái là đàn
anh của mấy em và mấy con chịu cực nhọc khổ não theo Đạo trọn một đời hy sinh cả kiếp sống của mình
để chơn theo dõi bước Thiêng
Liêng của Đức Chí Tôn, chắc có lẽ mấy em mấy con có khi nói: Kìa nơi ngoài đời thiên hạ họ lên xe xuống ngựa, sống vinh
hiển, giàu sang phú quí đủ hết ăn mặc sung sướng, không hiểu vì cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong ăn uống khổ hạnh, nhưng cứ
mài miệt mãi theo Đạo.
Không có một món chi để an ủi sự khổ não của tâm hồn và hình thể.
Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy. Hột giống
tối cổ của Tổ Phụ, của nền văn hiến ông cha ta để lại. Hôm nay nó đã thành ra một
cội Đạo. Cội Đạo ấy có thể che chở cho loài người đặng nương cái bóng trong buổi
đau khổ tâm hồn lẫn vật chất mà cả chư vị Chức Sắc Thiên Phong Thánh Thể Đức
Chí Tôn đã cố gắng biết bao nhiêu. Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm
tội (tôi??) (*1) cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em.
Chúng Qua đã từng chịu nhục nhã truân chuyên khổ não, mà hễ còn sống sót bao
nhiêu đều cố tâm làm, làm chỉ tìm một con đường một sở vọng làm thế nào cho đám
hậu tấn mấy em mấy con khỏi khổ não như chúng Qua đã khổ não vậy.
Thử nghĩ, nếu đem so sánh nghiệp Đạo của chúng Qua với
nghiệp Đời của thiên hạ, tưởng khi nghiệp Đạo của chúng Qua không thua mấy đâu.
Trái ngược lại chúng Qua sung sướng và hạnh phúc trong cái kiếp sống của chúng
Qua đã may duyên làm nên đặng một lẽ đáng sống. Tức nhiên là theo con đường
Thiêng Liêng của Đấng yêu ái và công bình. Chúng Qua chỉ rèn tập sao cho đặng
như tánh đức của Đấng ấy. Yêu ái và công bình như thế nào? Yêu ái đặng chi? Yêu
ái đặng có phương an ủi mấy em mấy con. Công bình đặng chi? Công bình đặng có
phương dìu dắt mỗi đứa đi trên con đường Đạo có niêm luật, có chuẩn thằng.
Bần Đạo nghĩ lại, Bần Đạo ngó thấy dầu cho ngôi báu của
đế vương kia, qua một kiếp sanh của họ chưa có đặng an ủi tâm hồn như chúng
Qua. Mấy em chịu cực buổi này rồi, mấy em mấy con suy nghĩ lại đàn anh của mấy
em buổi nọ. Lúc Đạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ, thiên hạ đã khinh rẽ thế
nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ, họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ,
kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ. Trước kia chơn tướng của Đạo cũng bị
như thế.
Hồi buổi Đạo mới phôi thai còn nghèo nàn thiên hạ có kể
nó đâu, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy. Nếu đem nó so sánh với các nền Tôn Giáo có căn bản
có oai quyền, sang trọng giàu có, thì xem nó như một trời một vực. Cái phận của
Đạo buổi nọ chẳng khác chi người nghèo hèn khốn khổ kia bị thiên hạ mạt sát
khinh rẽ. Chỉ thương có một điều là trong nền Đạo gần ba triệu con cái Đức Chí
Tôn nương nơi bóng Đạo cũng bị chung hoàn cảnh ấy.
Thiên hạ đã mạt sát chúng Qua, nhưng mạt sát cá nhân
chúng Qua không nghĩa lý gì hết. Chúng Qua coi nó không có giá trị chi cả.
Tội nghiệp cho cái hèn hạ ấy, thiên hạ đã khi rẽ đã mạt
sát con cái Đức Chí Tôn gần ba triệu Tín Đồ thờ phượng Ngài không phân biệt đảng
phái. Cái hèn của mình không có hại gì hết. Chúng Qua chỉ sợ một điều là cái
hèn của mấy em đem ra đương đầu với thiên hạ.
Kẻ bần cùng nghèo khổ nói ai thèm nghe, như vậy rồi dạy
Đời sao đặng. Nhưng sứ mạng Thiêng Liêng đã giao phó biểu phải dạy Đời, tức
nhiên chúng Qua phải làm thế nào cho có định luật. Muốn cho Đạo của mấy em có
hiệu lực ấy thì hôm nay mấy em phải chịu cực khổ đó vậy.
Những đế nghiệp của các nền Tôn Giáo đã hiện tượng nơi
thế này mười phần thì Đạo của mấy em chưa được một, mấy em để ý xem xét suy gẫm
coi đặng mảy may gì chăng? Hồi còn chòi tranh vách lá thiên hạ không có bước
chân tới, họ có kể mình xứng đáng gì mà họ ngó đến, lời tục có nói: "Có thể mới dễ làm ăn". Đời
cũng thế mà Đạo cũng thế. Thể Đạo của mấy em hôm nay không đáng giá bao nhiêu,
nhưng có thể đối lập với thiên hạ đặng.
Nghiệp Đạo buổi này mấy em nên suy nghĩ, bước ra một tấc
đường thì phải mặc áo mới đẹp thì mới có phương diện đối với người ta. Còn Đạo
của mấy em cái đẹp của nó là theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, nên sự cực của mấy
em cũng như chúng Qua, cái khổ của mấy em cũng như chúng Qua đã khổ.
Mấy em muốn nên hay chăng đều do cả đầu óc tay chân của
mấy em tạo mới nên nghiệp Đạo ấy. Mấy em muốn vinh hiển hay chăng cũng do cả đầu
óc tay chân của mấy em tạo nên.
Qua xin nhắn nhủ mấy em mấy con một lời: Thân già nầy,
cả Chức Sắc Thiên Phong Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy đều già yếu thành ra người bạc
nhược, làm công chuyện như mấy em mấy con không nổi, không lẽ mấy em mấy con
sanh nạnh chúng Qua rồi không tạo nghiệp cho mấy em.
Luân lý: Nếu trong tủ tiền của Đạo có đủ đi nữa cũng
do nơi túi của mấy em. Mấy em không biết lo chung Qua phải mượn thì mấy em thấy
rõ rằng: Tiền trong túi của mấy em nó chạy qua túi khác. Không có tiền lấy công
làm lần, lẽ tự nhiên vẫn vậy. Đạo của mấy em còn nghèo thì mấy em phải chịu cực,
chịu nhọc, đừng để con mắt các nhà đạo đức thấy mấy em khó nhọc rồi họ nói
chúng Qua không yêu ái mấy em. Qua xin nhắn gởi với mấy em nói lại cho thiên hạ
biết điều ấy.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn
thứ 2: Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy... ... .... Dầu cho
còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tội (tôi??)(1*) cho mấy em, để làm nên
nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em... ... ...
Nguyên bản chánh in là: Mấy em ơi! Cái hột Thánh Cốc của
Đức Chí Tôn là đấy... ... .... Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tội
cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em... ... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Mấy em ơi! Cái
hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy... ... .... Dầu cho còn sống sót bao nhiêu
cũng chịu làm tôi cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em...
... ...
LỜI
THUYẾT ÐẠO CỦA ÐỨC HỘ PHÁP
Năm
Quý Tỵ - Giáp Ngọ - Ất Mùi
(1953 - 1954 - 1955)
Phần 3: Năm Ất Mùi (1955)
Q. 6/3-01:
Đức Hộ Pháp "Ban Phép Lành"
- Thơ Xuân đầu năm Ất Mùi.
ĐỨC HỘ
PHÁP Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 1 tháng 1 năm Ất Mùi (24-01-1955)
Đêm nay, đêm giao thừa năm Ất Mùi. Cũng như các năm
trước, Bần Đạo đã nhớ dường như Đức Chí Tôn khi mở Đạo ngày 15-10 năm Bính Dần
tại Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén). Qua đầu năm Đinh Mão cũng giờ này, cũng đêm nay,
khi Hầu Đàn rồi phò loan Đức Chí Tôn Ngài biểu cả thảy con cái của Ngài hiện diện
nơi đó ra: "Thầy đưa Cơ lên các con chung ngang qua Cơ Thầy ban Phép Lành
cho các con". Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo bị Đức Chí Tôn xách đứng lên
ra ngay giữa Đại Điện đưa cần Cơ lên cho cả thảy con cái của Ngài Nam Nữ chung
ngang qua.
Bần Đạo vâng mạng lịnh của Đức Chí Tôn, đêm nay Bần Đạo
Ban Phép Lành cho toàn cả con cái của Ngài Nam, Nữ. Cả thảy cầu nguyện Đức Chí
Tôn chan rưới "Hồng Ân" Thiêng Liêng, Hồng Ân của Ngài rải khắp cho
con cái Nam, Nữ.
ĐỨC HỘ
PHÁP BAN "PHÉP LÀNH"
Đêm nay Bần Đạo không giảng Đạo chỉ đọc bức thơ của Bần
Đạo gởi cho toàn cả Quốc Dân Việt Nam. Tiếp theo bức thơ Bần Đạo có làm một bảng
"Tuyên Ngôn" gởi các "Quốc Trưởng" và các nhà cầm vận
mạng của các dân tộc trên thế giới. Lát nữa Bần Đạo sẽ giải nghĩa bức thơ này
sơ lược cho nghe.
Bây giờ Bần Đạo đọc bức thơ Bần Đạo gởi cho toàn Quốc
Dân Việt Nam.
BỨC
THƠ XUÂN GỞI CHO TOÀN THỂ ĐỒNG BÀO VIỆT NAM ĐẦU NĂM ẤT MÙI CỦA ĐỨC HỘ PHÁP GIÁO
CHỦ ĐẠO CAO ĐÀI
Cùng toàn cả Quốc Dân đồng bào Việt Nam,
Nhơn dịp ngày xuân năm Ất Mùi, Bần Đạo thành tâm cầu
nguyện Đức Chí Tôn chan rưới hồng ân cho toàn dân nước Việt đặng mau thoát khỏi
ly loạn tương tàn.
Sau nữa Bần Đạo có mấy lời thống thiết ngỏ cùng toàn
thể quốc dân.
Trót mười năm quật cường giải ách lệ thuộc, thâu hoạch
độc lập cho tổ quốc giống nòi thì toàn thể đồng bào đã góp vào biết bao nhiêu xương
máu và đau khổ. Lập trường tranh đấu thâu hoạch cho kỳ đặng hạnh phúc tự do cơm
áo của nòi giống sau 80 năm đô hộ, đã khiến cho lòng ái quốc nồng nàn của mỗi
công dân Việt Nam để tâm vào một chí hướng là Độc Lập và Thống Nhứt nong sông.
Hại thay, cơ cấu tranh đấu cho kỳ đặng ấy nó đã chia rẽ
dân tộc ra nhiều phương pháp và nhiều chí hướng: Việt Minh là gì và Quốc Gia là
gì?
Thì cũng là đồng bào Việt Nam tìm phương tranh đấu.
Nhưng các danh từ và nhãn hiệu ấy chẳng lẽ có năng lực đặng chia rẽ con cái của
một nước, một chủng tộc và xem lẫn nhau là kẻ tử thù?
Đau đớn thay nạn tương tàn tương sát đã xảy ra cũng do
nơi định nghĩa bất đồng của các phương pháp và danh từ tranh đấu.
Từ ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945 dương lịch, cuộc giải
phóng dân tộc đã khởi đầu. Các biện pháp đem thắng lợi cho nước nhà hôm nay
cũng chưa thâu hoạch đặng trọn vẹn, lại còn gây thêm nạn qua phân lãnh thổ: Từ
vĩ tuyến 17 đổ vô là của khối Quốc Gia, còn vĩ tuyến 17 đổ ra là của Việt Minh
làm chủ. Nạn nhị Chúa phân tranh Nguyễn Trịnh ngày xưa đã biểu diễn lại.
Bần Đạo thử hỏi cuộc tranh đấu giải ách lệ thuộc đặng
đem hạnh phúc đó lại cho ai?
Phải chăng cho Tổ Quốc và cho toàn thể đồng bào thì lý
ra chẳng lẽ có một nguyên cớ nào làm cho nòi giống Việt nầy chia phân cho đặng.
Chủng tộc duy có một thì Hoàng Đồ chỉ có một. Rồi ta lại thử hỏi: Ai đã gây nên
nội loạn ly tán giống nòi? Phải chăng vì năng lực ngoại bang đã gây nạn phân
chia tộc chủng.
Hai chí hướng đương nhiên của quốc tế và lý thuyết dân
chủ xã hội và cộng sản xã hội. Hai lý thuyết ấy đều hứa hẹn rằng nhân loại phải
duy tân và cải tổ xã hội, vì tổ chức xã hội đương nhiên đã gây thất vọng cho
nhân loại quá nhiều nên đem lại cho họ nhiều đau thảm hơn là hạnh phúc. Đôi bên
đều hứa hẹn tìm một phương pháp sửa chữa đặng tìm cái hay trừ cái dở, lời hứa hẹn
ấy đã thấm nhuần trong trí não đau khổ của nhân loại nhất là hạng bần dân và
các quốc gia lạc hậu đều mong ước chóng được thực hiện điều ấy.
Hai triết lý xã hội mới mẻ kia đương tranh đấu đặng
thâu hoạch tín nhiệm của toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này. Cuộc tranh đấu
của họ đã hiển nhiên kịch liệt và hỗn độn nhưng họ cũng đã đủ năng lực phân
chia nhân loại làm đôi chí hướng.
Hại nỗi, hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ gây cho nhân loại
một tấm thảm kịch tương sát, tương tàn. Ta nên để đức tin cho thời gian và
không gian định nên hư của họ, nhưng hiển nhiên hôm nay ta chịu biết bao nhiêu
đau khổ. Ta muốn cho vay đặng hưởng lợi, mà lợi đâu chẳng thấy vì hứa hẹn ấy chỉ
với lỗ miệng, không bảo kê, không chứng chắc mà giờ phút nầy ta bị lỗ vốn một
cách đau đớn và oan uổng.
Cuộc chạy theo bóng bỏ hình của nòi giống Việt Nam từ
xưa đã vậy; nó đã làm nên bịnh chủng tộc. Đồng bào sẽ hỏi Bần Đạo dùng phương
pháp nào để trừ hại thì Bần Đạo chỉ trả lời một cách đơn giản như thế này.
- Ngày nào cả chủng tộc Việt Nam đặng định tỉnh trong
Quốc hồn của họ thì họ mới có thể cố thủ và bảo vệ sanh tồn của họ.
- Ngày nào lòng ái quốc nồng nàn của nước Việt Nam
thoát khỏi lợi dụng đặng biến thành một ngọn lửa thiêng dâng lên bàn thờ Tổ Quốc
của họ thì họ mới bảo thủ được trọn vẹn Hoàng Đồ cùng tộc chủng.
- Ngày nào đầu óc của cả khối Quốc Dân biết trọng dĩ
vãng lịch sử của mình rồi định phận cho mình xứng đáng làm một nước đủ liệt cường,
đủ uy tín hầu đối diện cùng Quốc Tế rồi chủ định số phận của mình do năng lực của
mình, không ỷ lại nơi một ngoại bang nào thì ngày ấy mới giải ách lệ thuộc về
tinh thần lẫn vật chất của mình mới đặng.
Tình thế đương nhiên là Bắc Việt đã bị lệ thuộc của
Trung Cộng, còn Nam thì bị sống gởi nơi tay người, thì kiếp số tương lai của ta
chưa biết nương nơi đâu mà an đặng. Nếu tình thế này mà kéo dài tới mãi thì hòa
bình của họ đã hứa hẹn cùng ta thì là mộng ảo.
Bần Đạo ước mong và cầu xin cho toàn thể đồng bào sáng
suốt hơn đặng tự định số mạng và tương lai của mình.
Bần Đạo để lời chào mừng toàn thể đồng bào và cầu chúc
cho các gia đình đều hạnh phúc.
Bức thơ Bần Đạo có gởi cho đài phát thanh Sài Gòn, đêm
nay có lẽ giờ này đã đọc rồi.
Cái nạn qua phân lãnh thổ, Bần Đạo nói sẽ làm cho nhơn
loại đau khổ và nguy hiểm không thể tưởng tượng vì năng lực tàn phá của võ khí
tối tân nhứt là bom nguyên tử. Nếu nhơn loại không rán sức đem hòa bình hạnh
phúc do con đường thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã đến thì nhơn loại sẽ bị tiêu
diệt. Nhơn loại mắc nạn tiêu diệt ấy là do tội tình của họ. Một điều Bần Đạo
nói cho nước Pháp biết rằng: "Sắc dân này không quen chịu lệ thuộc, cả sự
tranh đấu đặng giải ách lệ thuộc của họ đối với nòi giống Trung Quốc buổi nọ
không ai cản họ được. Hốt Tất Liệt thâu cả Hoàng đồ bên Âu Châu, đặt gót tới Việt
Nam bị thảm bại".
Bần Đạo xin hai chánh phủ phải hiệp với nhau làm một
và toàn thể quốc dân Việt Nam không phân biệt đảng phái, Tôn Giáo phải hiệp
nhau làm một đừng chia đôi ra.
Bần Đạo cầu xin họ sáng suốt đặng định tương lai mình,
do mình vi chủ không muốn cầu ai. Nhứt là nước Việt Nam nhờ Pháp nói với Mỹ -
nước Việt Nam đã đánh đổ quyền hành của Pháp, không muốn quyền hành nào thay thế
là vậy.
Q. 6/3-02:
Phủ dụ của Đức Hộ Pháp đầu năm Ất Mùi.
Lời
phủ dụ của ĐỨC HỘ PHÁP.
Trong
dịp các Cơ quan chúc xuân Đức Ngài.
Ngày
1 tháng Giêng Ất Mùi.
Thưa cùng Thánh Thể Đức Chí Tôn, các Chức sắc Thiên
Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, con cái yêu dấu của Đại Từ Phụ, hôm nay Bần Đạo lấy
làm hân hạnh nhờ hồng ân của Đức Chí Tôn ban bố một kiếp sống hữu hạnh, hữu phước
được ngộ Đạo, và Qua có một điều cần nói cho toàn con cái Đức Chí Tôn hiểu rõ.
Trước khi mở Đạo Đức Chí Tôn có nói: Nếu ngày nào có mở
một nền Tôn Giáo nào mà cái hạnh phúc ấy ta hưởng đặng bao nhiêu đi nữa cũng
chưa có thú vị, vì cớ cho nên Đức Chí Tôn mới lấy Đạo nhà của chúng ta, Đạo Tổ
Phụ của chúng ta, đặng lập nên nền Tôn Giáo Quốc Tế, cái vui sướng của Bần Đạo
hơn hết là chỗ đó, dầu cho làm một vị Giáo chủ cho nền Đạo Quốc Tế đi nữa thì xương
thịt máu mủ tâm hồn, khí phách, chí hướng của Bần Đạo đều là diệt hết hỏi chẳng
nhờ cả ân đức của Tổ Tiên ta để lại thì làm sao hôm nay cả toàn một sắc dân nhỏ
yếu nơi cõi Đông Á nầy hưởng được một đặc ân vô đối? Nội bao nhiêu đó cũng thấy
cả nòi giống ta phải can đảm hy sinh trọn kiếp sanh của mình đặng đền ơn tri ngộ
của Đấng tối cao tối trọng ấy.
Các bạn Hiệp Thiên Đài, các bạn đã có từ buổi ban sơ đến
giờ, Đạo vừa mở là có các bạn, các bạn đã chia sớt mọi điều từ trong cảnh khổ
cho đến cảnh vinh quang. Hôm nay không ai biết định hướng của Đạo hơn các bạn,
khi nảy Tiếp Đạo có nhắc lại Bần Đạo đã hai phen xuất dương sang Âu và Á làm
cho uy tín của Đạo càng thêm cao trọng.
Các bạn ôi! Chúng ta chỉ có hy sinh một kiếp sống đặng
làm con hạc vô tội, con hạc hòa bình, biết đâu Đức Chí Tôn cũng đem con hạc của
Ngài để thế cho con bồ câu trắng mà thiên hạ gọi là con bồ câu hòa bình, nhưng
không hòa bình gì hết, thân làm con hạc thiêng liêng ấy buộc ta phải chở Đạo đi
toàn khắp mặt địa cầu. Nếu một chủng tộc nào, một sắc dân nào ở nơi mặt địa cầu
nầy chưa biết Đạo là cái lỗi do nơi ta đó vậy.
Ấy vậy cái phận sự của ta tuy đã khổ não cực nhọc mà Bần
Đạo vẫn chưa thỏa nguyện về tinh thần, sự cứu khổ an ủi thiên hạ đương nhiên
bây giờ các bạn đã thấy nhơn loại đau khổ một cách quá quắt không thể tỏa đặng.
Đau khổ về xác thân, đau khổ về tinh thần, các bạn đã nhờ Đức Chí Tôn giao cơ Cứu
khổ ấy thì cần phải tìm phương giải khổ cho nhơn loại, thoản như buổi ban sơ Bần
Đạo không có lãnh trách vụ đặc biệt của Đạo thì các bạn chắc cũng không để tâm
cho lắm.
Đến hôm nay dầu cho thân già nầy không còn năng lực hoạt
động chịu cả khổ cực như trước nhưng vẫn cố gắng, thì Bần Đạo thấy hiển nhiên rằng:
trong Cửu nhị ức Nguyên nhân họ không phải ở trong nước Việt Nam mà thôi, ở khắp
nơi trong các chủng tộc đều có họ.
Tội nghiệp thay bóng Đạo vừa đi tới đâu, mặc dầu Thánh
Thể Đức Chí Tôn chưa có làm phận sự mà cả tinh thần lẫn hình thể của họ đều
sáng suốt chói lọi vậy.
Họ trông đợi bóng cơ cứu khổ của các bạn lắm. Cố gắng
thêm các bạn, vì trong đạo binh thiêng liêng theo hộ giá Đức Chí Tôn từ khai
Thiên lập Địa tới giờ, do theo Thánh Giáo Đức Chí Tôn có nói: Bần Đạo là Ngự Mã
Thiên Quân, phẩm tước quyền hành cao trọng ấy phải làm thế nào để dấu hỏi?
Ta có đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn đặng
làm phận sự của Ngài hay không? Hay một ngày kia trở về Thiêng Liêng phải thẹn
khi ngó mặt Ngài. Bần Đạo nhứt định một hơi thở cuối cùng dầu cho thế nào Bần Đạo
cũng quyết tùng mạng lịnh của Đại Từ Phụ làm cho con cái của Ngài đặng giảm bớt
khổ não. Tưởng khi các bạn cũng đồng chí hướng với Bần Đạo đó vậy.
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái đang
làm việc thay thế hình ảnh của Đức Chí Tôn, Bần Đạo xin cả Thánh Thể hãy ngó đến
con cái của Ngài đang đau khổ, dốt nát về tinh thần đạo đức, họ thiếu cả tinh
thần định phận cho họ, không phải định phận mà thôi, lại thiếu cả tinh thần bảo
vệ cái sống của họ nữa, chúng ta ngó thấy cần phải dạy dỗ dìu dắt và an ủi họ.
Ấy vậy cả thảy Thánh Thể Đức Chí Tôn thay thế hình ảnh
của Ngài đang lo lập vị cho con cái của Ngài, hình ảnh bóng dáng của Chức Sắc
Thiên Phong thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn không có nghĩa lý gì hết. Trọng hệ
hay chăng là cái giá trị đối phẩm Thiêng Liêng cùng Chư, Thần, Thánh, Tiên, Phật
mà thôi, Bần Đạo ước mong một đứa em của chúng ta lập nên phẩm vị cho thoát khỏi
cái kiếp luân hồi, nếu được như vậy thì công nghiệp của chúng ta rất vĩ đại đó
vậy. Huống chi giờ phút nầy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đem đường cho nó, nâng đỡ nó
đưa vào phẩm vị Thiêng Liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật thì Bần Đạo tưởng không có
danh dự nào bằng, không có phận sự cao trọng nào hơn.
Giờ phút nầy nó đã chịu khổ não nhiều rồi, đau khổ Đời,
lại kế tiếp đau khổ Đạo, hôm nay Thánh Thể của Đức Chí Tôn yêu ái và gởi gấm
cho ta lãnh sứ mạng dìu dắt đoàn em đó vậy. Có một phương thế hay ho hơn hết mới
có thể bảo vệ ta khỏi lạc lầm, phận sự ta đối đãi cùng đoàn em có một phương
pháp duy nhứt là chỉ thương yêu mà thôi. Dầu cho sự thương yêu ấy có ra vẻ dại
dột, ngu khờ nhục nhã thế nào đi nữa chúng ta cũng chỉ biết thương yêu mà thôi,
sự thương yêu đủ với chúng ta làm, mỗi đều không cần tìm phương pháp nào khác,
các con Phước Thiện, Hội Thánh Phước Thiện của mấy con tức nhiên Hội Thánh Hiệp
Thiên Đài. Chúng Qua có mười mấy người, Chúng Qua không có thế gì an ủi sự thống
khổ của toàn thể con cái Đức Chí Tôn cho đặng.
Chúng Qua có mười mấy người, biến thân ra mấy con, mấy
con là hiện thân của chúng Qua thay thế cho chúng Qua đặng tìm phương giải khổ
cho thiên hạ làm cho ngọn Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn giao cho chúng Qua đặng
thiệt hiện ra mãi mãi.
Năm nay là năm bí yếu hơn hết mà gọi là năm hòa bình,
mấy em thôi cũng tin bướng như vậy, tin hòa bình đi, hòa bình với đầu óc của mấy
em, hòa bình là buổi nào mấy em an ủi cả thiên hạ đau khổ đương nhiên bây giờ
đó là hòa bình của mấy em.
Thay thế hình ảnh của chúng Qua giải khổ cho thiên hạ,
mấy em ngó lụng lại qua khỏi cơn thử thách của nước nhà chủng tộc rồi trước
chúng em sẽ thấy một trường thảm khổ không thể tỏa đặng. Nào là tật nguyền và bịnh
hoạn, nào khổ não, nào truân chuyên đủ mọi điều.
Tình thế đương nhiên bây giờ, mấy em thấy trước mắt là
đồng bào Bắc Việt, tội nghiệp thay! Họ bỏ cả gia nghiệp vào Nam, Qua chỉ sợ một
điều trong cơn buồn tủi của họ, rồi họ sanh ra chán nản, mấy em thấy vì thiên hạ
nâng đỡ binh vực giúp sức cho sự sống còn của họ, Qua sợ không biết thương rồi
bạc đãi khi thị, thì nòi giống ta tủi nhục biết bao nhiêu, Qua gởi cho mấy em
cái phận sự biến thân ra chúng Qua đi an ủi họ từ nhà, từ người trong cơn khổ não.
Mấy con trong Phục Quốc Hội, những điều Thầy làm không
được. Mấy con thay Thầy làm, Quân Đội cũng vậy, Phục Quốc Hội mấy con, không lẽ
giờ phút nầy mấy em biểu Thầy đi ra cởi ngựa cầm cương đặng làm thế các con, phận
sự tối yếu, tối trọng cứu dân, cứu nước, mười mấy năm các con đã hy sinh biết
bao xương máu cho Tổ quốc giống nòi. Hôm nay có thể mong ước như Thầy đã mong ước
từ vĩ tuyến 17 đổ vô hay đổ ra đối với tinh thần của ai đã chia rẽ chớ tinh thần
của mấy con không chia rẽ buổi nào hết, bởi ngọn cờ Cứu khổ của mấy con, ngọn cờ
Bảo Sanh Nhơn Nghĩa của mấy con đã đến nơi nào thì nơi đó gia nghiệp Thiêng
Liêng của mấy con. Thầy chỉ sợ mấy con không đến nơi nào thì nơi ấy còn khổ
não, thầy chỉ sợ bao nhiêu đó mà thôi, còn sự thắng lợi của cơ quan Phục Quốc Hội
không lẽ Thầy đi ra làm chánh trị đương đầu với thiên hạ. Thầy là nòi giống Việt
Nam, tranh đấu đặng đem tương lai cho đất Việt, có nhiều điều các con làm đặng
mà Thầy không làm đặng, các con có nhiều phương làm mà Thầy không có phương
làm, thành thử thật ra từ trước đến giờ sự thâu hoạch thắng lợi đều do công
nghiệp của các con chớ chẳng phải của Thầy.
Thầy bất quá chỉ có lời nói mà thôi. Đường lối của các
con đi được như hôm nay là dài lắm rồi, đã được hai phần đường. Các con cố gắng
thêm và sáng suốt làm thế nào cho phận sự Thiêng Liêng của các con tượng trưng
hình ảnh nòi giống của các con. Các con đã tránh đặng một điều là thiên hạ cám
dỗ mua chuộc các con, nên Thầy đã yên tâm, thấy Phục Quốc Hội không có cái năng
lực nào mua chuộc được, nên Thầy gởi gấm cơ quan chuyển thế một phần cho tay mấy
con, Thầy để lời ban khen đã mấy năm qua mọi sự đã đem thắng lợi rất nhiều, nhứt
là có một điều làm cho Thầy vui hứng là cơ quan dân vụ của các con nó phù hạp
thích ứng với Thầy hơn hết, các con cố gắng với đường lối dân vụ.
Đồng bào Bắc Việt, Bần Đạo đã thường nói: Mảnh đất gấm
vóc của Tổ Tiên ta để lại từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau Tổ Phụ ta mua chuộc biết
bao nhiêu xương máu, dành để cho nòi giống. Không có mảnh đất nào là không phải
của chúng ta, nên nhớ điều đó, đừng vì di cư ngoài Bắc vô rồi buồn rầu, không
lo rồi sống đặng lo làm nghề nghiệp, phải cố gắng thêm nhiều hơn nữa, từ trước
đến giờ lịch sử đã để lại để chúng ta đã ngó thấy bằng cớ hiển nhiên, hễ mỗi
khi có quốc nạn là mỗi khi chúng ta hiệp chủng đó vậy, để người Bắc kẻ trong
Nam không biết nhau là gì, nghe giọng khác nhau, những người dốt nát tưởng đâu
là người ngoại quốc, cái đó lấy làm nguy hiểm hơn hết.
Hôm nay tình cờ chúng ta được một phương pháp hiệp chủng,
cả thảy đồng bào Nam cũng thế, Bắc cũng thế cố tâm một điều cần yếu hơn hết là
gây tình thân ái vô biên của nòi giống Tổ Phụ để lại trong đầu óc ta hôm nay có
phương thế hiệp chủng cho mạnh mẽ khắn khích, dầu cho có cực nhọc cũng cố làm,
sự làm kia nó sẽ lập lại như hồi nhị Chúa Tây Sơn buổi nọ, nó đi theo tấn tuồng
thống nhứt Hoàng Đồ của Chúa Nguyễn khi xưa muốn thiệt hiện thống nhứt Hoàng Đồ
thì nòi giống chúng ta phải hiệp chủng thống nhứt năng lực lại.
Hại thay! Có một điều khổ não hơn hết là từ ngày nền văn
minh của Tổ Phụ ta, của Quốc Đạo ta bị thiên hạ chi phối muốn có sự phân tâm của
nước, của chủng tộc, vì lẽ phân tâm ấy hôm nay mới có tình trạng nầy. Nếu không
có Việt Minh thì vinh diệu cho quốc sử của chúng ta biết bao nhiêu.
Đồng bào Bắc Việt hãy nhớ nơi đây là đất địa của mấy
người không phải mấy người ăn tạm ở nhờ, mà là ở trong gia đình Tổ Quốc. Vậy mấy
người đừng buồn thảm, cố gắng hiệp chủng với nhau thì mới mong thống nhứt Hoàng
Đồ trở lại.
Bần Đạo xin để lời cầu chúc toàn thể các con của Đức Chí
Tôn đó vậy.
Q. 6/3-03:
Dân chủ Xã Hội và Cộng sản Xã Hội.
THUYẾT
ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP.
Ngày
8 tháng 1 Ất Mùi.
Buổi mai Bần Đạo đã lên Thiên Hỉ
Đài giảng lý do của Đức Chí Tôn đã đợi đến 30 năm khai mở Đền Thờ của Ngài, tưởng phần nhiều cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng
Phái đều biết rõ.
Ấy vậy hôm nay là ngày Lễ Kỷ Niệm
của Đạo Cao Đài đã ra mặt Quốc Tế. Nếu luận rằng: Nó đã ra mặt Quốc Tế rồi thì
ta cũng nên luận về tình hình đương nhiên của toàn cả các liệt cường của các quốc gia trên mặt địa cầu. Nhứt là tình
trạng hiện tại của nhơn loại thế nào cả con cái Đức Chí Tôn đều rõ về hai lý
thuyết đương đầu với nhau, đương đua tranh cùng nhau đặng đọat tinh nhuệ của
toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.
Bần Đạo không cần luận e mích lòng thiên hạ, chỉ nói rằng:
Không phải họ đang mong mỏi điều ấy. Với một tâm tình không vụ tất danh lợi, Bần
Đạo nói quả quyết rằng: Hai kẻ muốn thâu hoạch cả tinh nhuệ của nhơn loại đặng
làm bá chủ toàn cầu nầy là hai lý thuyết Dân Chủ Xã Hội và thuyết Cộng Sản Xã Hội.
Chúng ta đã ngó thấy lập trường tranh đấu, hôm nay đã
kịch liệt, bởi sự hơn thua của hai khối ấy. Tương lai họ sẽ đương đầu cùng nhau
thế nào rồi Bần Đạo không đoán được. Chỉ có một điều nên để ý hơn hết là giờ
phút nào mà người ta đã lấy lý trí xử với nhau không đặng, phải mượn cường lực
của võ khí đặng làm sức mạnh của mình thì ngày giờ ấy tưởng cả sự tranh đấu của
họ chưa có một phương pháp nào giải quyết đặng.
Một đàng thì chỉ có hổn ẩu, gian xảo, dối trá nhứt là
côn đồ theo tánh chất hổn ẩu quyết hơn thiên hạ bất cứ một hành vi nào, không kể
gì tâm tình quân tử ấy là khối Cộng Sản ỷ năng lực mình vô đối tự kiêu, tự đại.
Lấy việc nhỏ luận việc lớn khi ta ở cùng chung trong một
xã hội nếu cả thảy con cái Đức Chí Tôn để ý điều ấy là ngó thấy, nếu rủi như ta
gần gủi đừng nói rằng mình kết bạn hay chung sống gần gủi với những kẻ côn đồ
thì chỉ biết "rìu búa" là mạnh, lấy hổn ẩu gian xảo của họ, họ làm
khí cụ.
Lời tục có nói: Một kẻ nói ngang ba làng nói không lại,
mà hễ ai nói ngược lại thì rút rìu búa ra dọa nạt thiên hạ. Đó là một điều người
quân tử gớm ghiết hơn hết. Cho nên không có phương pháp chi mà trị đặng họ, trị
đặng định phương pháp nghĩa là làm thế nào trị kẻ võ phu đó với phương pháp đặc
sắc hơn định luật của nó, và nó lấy sức mạnh của thuyết Cộng Sản Xã Hội, quyết
thắng không kể gì là nhân từ, không kể gì là đạo đức chỉ biết thắng thôi. Tranh
sống đặng tạo hạnh phúc dầu cho có hèn hạ, nhỏ mọn tới mức nào thì họ chỉ biết
có hưởng hạnh phúc mà thôi.
Còn bên Dân Chủ Xã Hội là thực dân ăn cả của cải đồng
bào, thâu lấy cả của cải phú hữu của thiên hạ làm năng lực mạnh mẽ của mình.
Hai cái đó Bần Đạo tưởng đem để lên mặt cân Công Lý
thì ta thấy "lịch cũng như lương, mà
lương cũng như lịch" có chi lạ. Ngày giờ nào toàn cả nhơn loại tỉnh mộng
lại, thấy mình làm khí cụ cho thiên hạ tranh đấu với một tấn tuồng làm cho mình
đau khổ, thiên hạ sẽ tỉnh mộng lại không cho họ lợi dụng, cả tín ngưỡng đó, tấn
tuồng hèn hạ đó dầu cho các nhà Đạo cũng như hạng côn đồ cướp đảng kia đều cũng
vậy. Nếu cả thảy thiên hạ không ngó tới mặt nó, đừng gần gủi nó, thì nó hết sống
cùng ta chớ gì. Nó cho nó là mạnh, thiên hạ sợ nó, nó còn nhuệ khí, nó còn nắm
cả uy tín của nó. Ngày giờ nào cả thiên hạ đều gớm ghiết không còn ngó tới nó nữa
thì nó phải tiêu hủy chớ có gì đâu.
Giờ phút nào cả quốc gia nhược tiểu không để cho họ lợi
dụng mình nữa bất kỳ trong hai khối đó. Tự chủ lấy mình, tự quyền lấy mình, một
người làm không được, năm bảy người làm, một nước yếu hèn, năm bảy nước hiệp lại
đương đầu với họ, vạt bỏ hai khối đó ra, thiên hạ mới hòa bình, duy có lẽ đó
thiên hạ mới hòa bình mà thôi.
Q.
6/3-04: Lễ Xuất Quân - Vai trò và nhiệm vụ Quân Đội Cao Đài.
Đức
Hộ Pháp để lời cám ơn các quan khách và để lời phủ dụ chiến sĩ Cao Đài trong dịp
Lễ Xuất Quân của Quân Đội Cao Đài ngày 9 tháng Giêng năm Ất Mùi.
Thưa cùng Chư Viên Quan Chức Sắc Đời và Đạo. Trước khi Bần
Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cám ơn toàn cả thảy đồng bào đôi bên niệm
tình của Quân Đội và của Đạo đến dự lễ đông đảo và long trọng làm cho rỡ ràng
thêm vẻ Đạo, Bần Đạo xin cúi mình cám ơn toàn thể.
Thưa cùng toàn thể đồng bào Bần Đạo xin để lời cùng
các Ngài trước vận mạng đương nhiên của Tổ Quốc nòi giống tới một giai đoạn yếu
trọng, nếu không nói đã đến một giai đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai
của nó, nhứt là Bần Đạo xin để lời riêng biệt cùng các nhà văn sĩ cùng các sử
gia, trên chín năm tranh đấu hôm nay cái phận sự ấy yếu trọng cho các Ngài hơn
hết, bởi nó đến giai đoạn chúng ta phải tranh đấu về trí thức tinh thần, nếu
không nói ra rằng: Ta vẫn tiếp tục đương tranh đấu về tâm lý. Tưởng khi trên
chín năm quốc cường thâu hồi độc lập cho Tổ quốc giang san các Ngài có sẵn
trong tay một sử liệu có thế một ngày kia ngòi bút quí báu của các Ngài lưu lại
cho hậu tấn một kiểu vở, một khuôn mẫu y theo tinh thần cố hữu của Tổ Phụ đã để
lại, cái chí quật cường 80 năm đô hộ khiến cho đồng bào chúng ta muốn giải
thoát thâu hồi độc lập và Hoàng đồ của Tổ Phụ lại; một giang san gấm vóc như thế,
nên buộc chúng ta hy sinh xương máu, từ cổ kim vẫn vậy, luật Thiên Điều dưới thế
nầy chẳng đều chi mà ta xin đặng, ta chỉ phải mua phải chuộc với một giá cho đồng
giá trị với vật mà ta muốn thâu hoạch. Nhưng ôi thôi! Vật của toàn quốc dân đồng
bào muốn thâu hoạch ấy, vật đó quí giá không tưởng tượng cho nên phải trả một
giá rất mắc là cái giá xương máu trên chín năm tranh đấu.
Thưa cùng đồng bào, các nhà văn sĩ, các vị cầm bút
đang dìu dẫn cả tinh thần trí não của chủng tộc ta buổi hôm nay. Có lẽ khi
trong lúc rời rảnh các Ngài có thể để một dấu hỏi? Cái đường lối của Đạo đã tự
xưng là Quốc Đạo hỏi lấy cả tánh chất của nó đã hiển nhiên trở nên một nền Đạo
cho Quốc tế mà cái nạn nước của họ như thế này thì phương pháp giải quyết của họ
như thế nào mà chớ?
Có lẽ trong khi rảnh ấy các Ngài cũng để dấu hỏi ấy
(?) Trường hợp đó thử nghĩ những kẻ trí thức tinh thần phải đi đường lối nào?
Phải dùng giải pháp nào? Nhứt là của Bần Đạo sau 5 năm đồ lưu trở về nước năm
1946 cả cái tình trạng của nước nhà các Ngài cũng hiểu thấu. Bần Đạo xin thành
thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối không ngõ thoát, một đàng thì Việt Minh lợi dụng
tinh thần ái quốc của toàn thể quốc dân đồng bào chỉ hướng vô một điều là lập
trường cứu quốc, nhờ cái năng lực mạnh mẽ và quyền năng ấy họ đã nắm trọn sứ mạng
của nòi giống và Tổ quốc trong tay từ Nam chí Bắc, nếu như cơ cấu tranh đấu của
họ quả là một cơ cấu quốc gia chơn chánh, thì sự thâu hoạch và thống nhứt Hoàng
đồ đã làm rồi, đã thành tựu rồi.
Hại nổi! Họ phải xu hướng theo hai chí hướng của hai
khối nhứt là họ vẫn thấy khối Cộng Sản lầm lạc, là nương nơi khối ấy mà họ định
mạng tương lai nước nhà chủng tộc là cái lầm nhứt hết.
Nếu quả nhiên cái định hướng của họ đem lại thắng lợi
cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy đồng bào
đều biết, cũng như những kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chớ không chi khác. Ngó ngọn
cờ độc lập mà vẫn lệ thuộc như xưa, thì làm thế nào tạo hạnh phúc giống nòi đặng!
Hại nổi! Khi về nước bên nầy gành giựt cả quần chúng, thì bên kia cũng giành giựt
cả quần chúng, bên nầy Việt Minh, bên kia Pháp, khối Quốc Gia hai tình thế rất
nguy hiểm với hai lằng tên mũi đạn.
Thưa cùng cả thảy đồng bào, thử như thế đồng bào mới
chỉ con đường nào cho Bần Đạo đi mà chớ, có một con đường duy nhứt là con đường
có của chúng ta mà Tổ phụ chúng ta để lại. Con đường đã có trên 4.000 năm lập
quốc và 4.000 năm văn hiến. Là con đường duy nhất là Bần Đạo phải đi, mà đi con
đường ấy, ôi! không biết bao nhiêu đau khổ, đã hy sinh cái khối xương máu của
chiến sĩ Cao Đài làm thành, làm lũy đặng bảo vệ sự sống của nòi giống dưới ngọn
cờ "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng"
nếu toàn thể đồng bào hiểu cái tâm lý của nó sẽ ứa lụy cùng Bần Đạo mà chớ!...
Có một phen Bần Đạo tuyên bố Quân Đội Cao Đài xuất hiện
ra đặng làm tấm bình phong chịu chết cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ sống còn
cho nòi giống bảo thủ cái nhơn nghĩa của Tổ phụ để lại. Có nhiều khi Bần Đạo
cũng lấy làm đau đớn lắm vậy.
Nhưng nghĩ đến cái sứ mạng Thiêng Liêng cao cả ấy có
chút an ủi mảy may trong tâm não.
Các con Chiến Sĩ Cao Đài từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến
Binh sĩ, một phen nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu nòi giống và Tổ Quốc các
con. Tương lai vận mạng như vầy các con tiếp tục tranh đấu cho kỳ được đặng
thâu độc lập cho giống nòi cho Tổ Quốc các con.
Q.
6/3-05: Lịch sử thành lập Hội Thánh Phước Thiện Hiệp Thiên Đài.
ĐỨC HỘ
PHÁP THUYẾT ĐẠO.
Ngày
12 tháng 1 năm Ất Mùi tại Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện kỳ lễ Khánh Thành
Dinh Thự.
Ngày nay là ngày Lễ Khánh Thành các Dinh Thự cùng
trong cuộc Lễ Khánh Thành Đền Thánh.
Khởi đầu Bần Đạo đi viếng các Dinh Thự nơi Hiệp Thiên
Đài và Cửu Trùng Đài, Bần Đạo chỉ đến viếng chớ không thuyết Đạo, đến đây là
Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện, Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền Hành
Chánh Đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất, bởi
trong Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu
Trùng Đài mà trước khi Chí Tôn đến giao truyền mối Đạo là Thiên Điều đã định mở
cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng đem cờ cứu khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn
cả Cửu nhị ức nguyên nhân con cái của Ngài. Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài
mà trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 Ngài Thập Nhị Thời Quân với Thượng
Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo; trong 15 thì có 4 - 5 ngoe lãnh lịnh mà thôi. Đức
Chí Tôn kêu anh Cao Thượng Phẩm lãnh trách nhậm lo cứu thế kế anh qui thiên để
lại cái gánh nặng nề cho Bần Đạo, Bần Đạo đã thường nói hôm ngày chúc xuân và
nơi Đại Đồng Xã, Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh Phước Thiện của
Hộ Pháp tức là Hiệp Thiên Đài đó vậy. Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp
Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ
có lãnh lịnh 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái Bí Pháp, chi Pháp
Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không có định, Bần Đạo
chỉ lấy bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho cả chơn hồn đã
siêu lạc nơi nào sau nầy cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.
Bài thi văn như vầy:
Tỉnh
ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến
tu hậu nhựt độ sanh hồn,
Vô
lao bất phục hồi Chơn mạng,
Tỉnh
thế kỳ thân đắc Chánh tôn.
Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập
ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng (*1)
thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được, bởi chữ Phạm Môn là Phật,
Phạm Môn là cửa Phật chớ không phải Phạm là họ Phạm; buổi đó cũng có nhiều tiếng
phân vân nói Bần Đạo lập Phạm Môn tức là lập theo họ Phạm của Bần Đạo, Bần Đạo
cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu. Sao Bần Đạo không đầu kiếp các nơi
họ Nguyễn, họ Trần mà đến ngay nhà họ Phạm mà để khiến cho Bần Đạo phải chịu
oan ức. Những tiếng phân vân ấy, Bần Đạo cũng chẳng màng, cứ lo cho kỳ được, bởi
vì sự công chánh Bần Đạo đứng giữa đây Bần Đạo phải nói Bần Đạo nói thiệt cả sự
nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do nơi tay của Phạm Môn nếu không có Phạm Môn
thì Bần Đạo không đứng vững, Đức Chí Tôn đã định cho Bần Đạo thâu 72 vị Môn Đệ
mà chia ra hành sự 36 - 37 vì, buổi đó Thầy trò chịu cực khổ tầm phương để tạo
nghiệp mà bị chúng sanh đánh đổ đến đổi vận lương thực lục tỉnh đem về Tòa
Thánh mà cũng bị ngăn cản quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay họ không thối
chí ngã lòng, cứ cương quyết theo Bần Đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh Phước
Thiện. Thật nổi khổ tâm của anh em Phạm Môn chỉ lấy hai bàn tay trắng mà tạo
nên sự nghiệp cho Đạo, họ chỉ bắt gió nắn hình, lấy không làm có ngày nay Cơ
Quan Cứu Khổ đã thành tướng nơi Hội Thánh Phước Thiện các trách nhậm trọng yếu
phải lo hiện trước mặt gần đây là Bảo Cô Nhi bên kia là Khách Đình về mặt Tang
Tế đều phải lo mọi hình thức nên Bần Đạo nói mấy người mà về ở nơi Tòa Thánh liệu
lo bề uống thuốc mạnh thì thôi, coi bộ nhắm bề không mạnh liệu bề không kham họ
sẽ đem bỏ đại tại Khách Đình cho Hội Thánh chôn cất làm sao thì làm, đã vậy mà
còn phải lo tạo hình tướng vĩ đại Bần Đạo nói cái vĩ đại của nó chớ không có
nói cái nhỏ với kia là Trí Huệ Cung cũng bảo giá phụ giành cho người giá phụ
cũng là Nữ Phái chơn tu tức là nhà Tu của Nữ Phái.
Trên một hình tướng đang khởi tạo là Vạn Pháp Cung
trên núi nhà Dưỡng Lão tức là nhà Tu của Nam Phái. Cả hình tướng ngày nay đã biểu
lộ trước mặt toàn cả nhơn sanh ai ai họ cũng đều cảm khích hồi trước kia có tướng
mà không có hình, ngày nay hình tướng nên được thì sự tiến hóa của Hội Thánh Phước
Thiện từ đây sẽ vững chắc không còn lại một trở lực nào mà làm cho cơ cứu khổ của
Chí Tôn phải ngưng bước và Bần Đạo sẽ cho Hội Thánh Phước Thiện hay rằng: Từ
đây Hội Thánh Phước Thiện sẽ được bảo đảm.
Phụ
ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 5: Vì bài Thi văn của Đức Chí Tôn dạy
đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng
Cấp Thiêng Liêng thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được,... ...
...
Chúng tôi nghĩ đoạn trên có thể là: Vì bài Thi văn của
Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn có Phạm Môn rồi mới có sản xuất
Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Nếu không có Phạm Môn thì không thế nào lập
thành Hội Thánh Phước Thiện được,... ... ...
Q. 6/3-06:
Công trạng các Thánh Tông Đồ Đạo Cao Đài.
ĐỨC HỘ
PHÁP THUYẾT MINH CÔNG TRẠNG CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ trong khi làm lễ thiêu xác ngày
15 tháng 1 Ất Mùi.
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ Lưỡng Phái,
các em toàn cả con cái Đức Chí Tôn Nam Nữ, thanh niên của Đạo.
Chắc có lẽ cả thảy con cái của Đức Chí Tôn đều để dấu
hỏi? Cái nghĩa lý của cuộc Lễ Khánh Thánh Tòa Thánh và Lễ Thiêu Xác của các
Thánh Tông Đồ.
Có lạ chi, không cần kiếm đâu sâu xa hơn nữa ở nơi mặt
thế nầy dầu cho Đạo nào họ cũng thường để một cái mơ vọng là kiếp sanh của mình
làm thế nào cho ngộ Đạo.
Một cái câu Sấm Truyền từ xưa để lại có nói rằng:
"Hữu
duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn
đời còn tử phủ nêu danh"
Ngộ nghỉnh cho chúng ta nên để ý là cái khéo lựa chọn
và biết tìm đường và ngộ Đạo ấy.
Cả toàn thể quốc dân của chúng ta hạng Đại Đức cũng
nhiều, hạng học thức cũng nhiều, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành
chỗ của ông Lê Văn Trung, ông Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Hương Thanh, ông Lê Bá
Trang, không lẽ trong thế gian nầy có người đó, mà còn nữa.
Ôi! Tưởng cả công nghiệp của cả kiếp sanh dành để như
họ, nếu có kẻ thiệt biết tìm cái đại nghiệp Thiêng Liêng của mình, biết bao
nhiêu sự thèm thuồng của thiên hạ, danh giá họ đặng như thế, Đạo của ta và phận
sự của ta dầu chi ta cũng là hiện thân của họ, phải chăng chúng ta đã làm giá
trị Thiêng Liêng của họ thêm quí báu thêm tối trọng, thêm cao thượng hơn nữa.
Cả con cái của Đức Chí Tôn đều hiểu nơi Bát Quái Đài
là hồn của Đạo tức nhiên là Tòa Ngự của Đại Từ Phụ và là nơi Đức Chí Tôn và các
Đấng Thiêng Liêng ngự. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật họ đã tìm họ đã đoạt đặng một
chỗ nơi đó đặng họ ngự. Không phải dễ gì trong kiếp sanh hữu duyên đặng đọat được
như thế.
Đám thanh niên Nam Nữ lưỡng phái suy nghĩ coi, tìm một
công nghiệp tương lai, cái trọng, cái khinh, cái bền, cái bở, cái giá trị, cái
vô giá, tưởng khi cả tinh thần toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều đã quyết định rồi
mà chớ.
Ngọn lửa sẽ thiêu các các Thánh ấy, nó sẽ biến thành
ngọn lửa thiêng nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng kêu gọi cả tinh thần nhơn
loại tìm một con đường giải thoát của họ, con đường cứu khổ của họ mà nó cũng sẽ
là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn luôn cả Thánh
Thể của Ngài nữa.
Cái danh giá của họ Bần Đạo không luận tới công nghiệp
của họ cũng thế, Bần Đạo cũng không muốn nói tới. Chỉ thấy một điều là tiếng gọi
thiêng liêng của Đại Từ Phụ buổi ban xưa trong thời nòi giống Việt Nam ta còn
đương bị trong ách lệ thuộc. Danh giá của họ, sự nghiệp của họ, có thể bị quyền
lực áp bức làm cho nó tiêu hủy họ có thể khổ não cả sanh mạng của họ khổ não
luôn về tương lai danh phận của họ mà họ vẫn coi cái đó là thường. Duy có tiếng
gọi thiêng liêng của Đức Chí Tôn là trọng hệ. Nhứt là phế Đời hành Đạo. Cả con
cái Đức Chí Tôn sẽ để dấu hỏi. Ông nầy thế nầy, ông kia thế khác và sẽ để dấu hỏi
(? ) Ủa ... làm sao Hộ Pháp để trọn vẹn công nghiệp có hơn tất có định hạng sao
Hộ Pháp để cho họ đồng phẩm với nhau như thế?
Bần Đạo chỉ nói dứt một điều là về Pháp Luật, Bần Đạo
làm Hộ Pháp dầu cho buổi nọ họ loạn bao nhiêu chỉ dùng cả quyền lực đặng bảo thủ
nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra họ là bạn, họ là đoàn anh, tình
đó cao trọng hơn hết. Thứ nhì nữa là cả tội tình cái kẻ nghịch Đạo trước mắt Bần
Đạo vô giá trị. Giá trị thiệt hay không là ngọn lửa thiêng ấy làm cho bùng dậy
Quốc hồn nước Việt Nam, tinh thần tối cổ và văn minh tối cổ của nòi giống, cái
đó là trọng hệ hơn hết.
Cả con cái của Đức Chí Tôn nên nhớ điều đó.
Q. 6/3-07:
Đại Hội Long Hoa.
BÀI
THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP tại Đền Thánh đêm 30 tháng 2 năm Ất Mùi
Mấy em Nam Nữ lưỡng phái, đêm nay Qua không giảng Đạo
mà chỉ nói cùng mấy em, xin kiếu lỗi cùng chư Chức sắc Thiên Phong Thánh Thể của
Đức Chí Tôn.
Hôm trước qua có mời Khâm Thành, các Đầu Phận Đạo vào
Hộ Pháp Đường, Qua có thuyết minh cho họ nghe, vì Đại Hội Long Hoa nó sẽ có tại
Tòa Thánh nầy đầu năm Tý. Mấy em cũng chán biết cái đại nghiệp của Đạo đều do tay
của mấy em tạo dựng Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy. Đức Chí Tôn đã đến 30 mươi năm
nay, Ngài đến Ngài nói thật thà chơn chất rằng: Đại Từ Phụ là ông già nghèo, ổng
nói trong hai câu thi:
"Tròi
trọi mình không mới thiệt bần,
Một
nhành sen trắng náu nương chân".
Ổng đã nói ổng là ông già nghèo, ổng đến ổng dùng có một
cái Cơ đặng lập Thánh Thể của ổng mà ổng giao phó cho một trách nhiệm tối ư quá
quan trọng là phải lập nghiệp cho cả toàn con cái đau khổ của ổng. Mấy em mới
nghĩ lại đó coi, chúng Qua không phải là làm chúa ở toàn cầu nầy, hay làm chúa
một nước, cũng hai tay trắng mà thôi, hiển nhiên hôm nay chúng Qua đi được một
đổi đường nhờ Đại Từ Phụ dìu dắt và nhờ tay của mấy em đã hy sinh từ giọt mồ
hôi, giọt nước mắt mới tạo dựng nên nghiệp Đạo như thế nầy. Nếu chúng Qua nhìn
rằng sự thật thì ta nói nó không phải đủ sang giàu mà ngày hôm nay có thể làm một
bóng mát, một cái Nhà Thờ chung cho con cái khổ não của Ngài, để nương bóng Từ
bi của Ngài đặng.
Mấy em cũng đủ biết giá trị hy sinh của cả mỗi người mấy
em như thế nào, Qua chẳng cần phải dài luận cho lắm, thì đáng lẽ ra thời buổi
ly loạn nầy, nhứt là Qua và Thánh Thể Đức Chí Tôn đã biết cái thân phải truân
chuyên của mấy em là thế nào, cái phương sanh sống của mấy em đã bị phá hoại là
thế nào, cái khó khăn của mấy em phải bảo vệ cả sắp nhỏ tức nhiên tương lai
hương hỏa của Đạo là thế nào. Lý ra chúng Qua không làm mấy em khổ trí nhọc tâm
nữa để từ từ bước đến nhờ ân Đức Chí Tôn dìu dẫn đi, xin miễn đi từ từ nhi tấn
mà thôi, đừng đứng chựng lại đó.
Trót 30 năm Qua sống chung với mấy em cũng như Thánh
Thể của Ngài, mấy em dòm lại coi, đoàn anh của mấy em già nua, chính mình Qua
đây đã 66 tuổi rồi, chẳng lẽ tuổi Qua lột da sống đời đặng vùa giúp tay chơn đầu
óc với mấy em mãi mãi. Cái đại nghiệp nầy lưu lại cho mấy em hay chăng là do nơi
kế chí của mấy em, mấy em cố gắng đặng lưu lại cho máu mủ không biết chừng nào
đường lối Tổ Tiên mấy em đã trở bước lại đây họ được hưởng một cái hạnh phúc,
công nghiệp của mấy em chút nào hay chút nấy, ngặt một nỗi là cả cái phận sự
thiêng liêng của Đức Chí Tôn giao phó trong đấy có nhiều điều buộc ta phải cố gắng
làm cấp cấp ngày giờ Đức Chí Tôn đã định mới đặng. Mấy em cũng đã biết trong
Kinh Đại Tường Đức Chí Tôn đã nói rõ:
"Hổn
Nguơn Thiên dưới quyền Giáo Chủ,
Di Lạc
Vương thâu thủ phổ duyên.
Tái
sanh sửa đổi chơn truyền,
Khai
cơ tận độ cửu tuyền diệt vong".
Mấy câu trên Qua không cần giải nghĩa, duy có câu: "Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt
vong" mấy em biết là thế nào? Đối với nhơn loại kể từ ngày hôm nay tức
nhiên từ ngày mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho mãi mãi tới tận thế cái địa ngục dưới
kia đã bị tiêu diệt rồi, Thập Điện Diêm Cung đến rước mấy em nó đã vong phế rồi,
mấy em không còn sa xuống cửa Địa ngục, mấy em không còn chịu dưới quyền của Thập
Điện Diêm Cung, cái đó là hệ trọng hơn hết.
"Hội
Long Hoa tuyển phong Phật vị"
Mở Hội Long Hoa để tuyển phong một vị Phật hay nhiều vị
Phật.
"Cõi
Tây Phương khử quỉ trừ ma"
Nơi Tây phương Cực Lạc cũng vậy, tảo thanh không còn
ma hồn quỷ xác đến đây nữa.
"Giáng
Linh Hộ Pháp Di Đà,
Chuyển
cây Ma Xử đuổi tà trục tinh"
Câu nầy rất rẻ mấy em điều biết.
"Thâu
các Đạo hữu hình làm một,
Trường
thi Tiên Phật dượt kiếp khiên"
Cái trường thi Tiên của bậc Tiên đoạt vị Phật.
"Tạo đời cải
dữ ra hiền"
Câu đó Qua không cần giải nghĩa.
"Bảo
sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn".
Tới năm Tý sẽ mở Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị tại
Tòa Thánh nầy. Mấy em làm cho kịp, Qua nói quả quyết mấy em làm không kịp, mà
Qua có qui liễu trước đi nữa thì cái tội ấy về mấy em chớ không phải về Qua, nhớ
điều đó, Qua cố gắng, Qua tận trung cùng Đạo, tận hiếu cùng Đức Chí Tôn và Đức
Phật Mẫu, Qua chỉ ước cho giòng máu Thiêng Liêng của mấy em đây nó hưởng một điều
trọng yếu không biết bao giờ, ngày giờ Qua không có thể định trước, không có
quyền gì định trước. Qua hứa hẹn điều đó đặng; Qua ước làm thế nào cho giòng
máu Thiêng Liêng của mấy em đây nó gặp mặt Đức Chí Tôn đến tại thế nầy, lấy một
quyền năng Thiêng Liêng của ổng như ổng đã đến Đền thờ Tây Tạng kia vậy. Hễ nói
đến Đền thờ Tây Tạng Đức Chí Tôn đã đến Qua cũng nên tường thuật điều đó cho cả
thảy con cái Đức Chí Tôn đều nghe hiểu.
Năm 1917 khi Cộng sản đã đánh đổ Đế quyền của Nga, các
bậc công hầu đời phong kiến của Tô Nga buổi nọ đều phải đào tẩu, nhứt là Bạch
Nga, Xích Nga không nói gì, còn Bạch Nga thì phải trốn không thôi bị chúng tàn
sát. Trong đó có một vị Bá tước cũng chạy giặc qua Tây Tạng, khi qua đây với một
số người bạn, cũng được hai mươi mấy người nương thân nơi Tây Tạng. Dalai Lama ổng
nghe cả cái khổ não của họ, cả cái hoạn nạn của họ, ổng thương quá chừng quá đổi,
ổng bảo vệ, ổng nuôi nấng.
Ông Dalai Lama là Phật vương của xứ Tây tạng, mấy em dễ
biết chẳng phải ổng ở xứ Tây Tạng đặng ẩn thân mà thôi, mà ổng còn bảo vệ nuôi
dưỡng nữa. Ngày nọ vị Bá Tước buồn rầu nhớ quê hương, nhớ vợ con, nhứt là đi một
thân mình, còn cả thảy các tướng quan phần nhiều là võ theo cùng Ngài cũng có vợ
con để lại bên Tô Nga hết, chạy giặc qua bên Tây Tạng nương náu đó vậy thôi? Đức
Dalai Lama ổng hiểu thâm tình của vị BáTước đó, ổng hiểu sao không biết, ổng dạy
Đạo cho ông kia nghe, một khi đó thì ổng sửa soạn, ổng đi vô Đền Thờ, ổng ăn mặc
sắc diện khác hơn buổi trước làm cho nhiều hàng các quan theo Bá Tước hỏi,
không lẽ giấu họ. ổng mới nói thiệt rằng: Đêm nay là đêm Đức Chí Tôn ngự tại Đền
Thờ, mấy vị trong buổi khổ não nghe tới danh Đức Chí Tôn đến, mừng quá hỏi, vậy
chớ chúng tôi có thể vô chầu trong đó được không? Thì Ông Dalai Dama nói: Mấy
người cứ đi theo tôi, ông dắt vô trong Đền Thờ họ theo họ tọc mạch hỏi, làm sao
mà biết Đức Chí Tôn đến, mà Chí Tôn đến thế nào? Tôi dặn mấy Ngài nghe các cái
chuông chung quanh Đền Thờ reo một lượt và ở ngoài nghe tiếng ngựa chạy rần rần
đó là Ngài đến, là Đức Chí Tôn đến, vô đó rồi ông Dalai Lama ổng dắt vô trong một
cái phòng thắp đèn lờ mờ vậy thôi. Ổng đem vị Bá Tước với mấy người bạn khi vô
trong đó ổng để ngồi, ổng biểu cầu nguyện , ông Bá Tước ổng đương rầu khổ não
tâm hồn quá lẽ đi, ổng cầu nguyện hay không biết phép của ông Dalai Lama hay
phép Thiêng Liêng của Đại Từ Phụ làm nên không hiểu, thì trong phòng đó ở đằng
sau có một tấm như nỉ đen hay là vải mà trải nguyên cả một phòng to lớn vậy.
Ông Dalai Dama biểu ông Bá Tước chú ý dòm vô đó, cả thảy
cầu nguyện rồi dòm vô, ban đầu thấy như một ngọn khói, mà ở ngoài bay vô trong
phòng đó ngay chỗ ông vẽ rồi nó tràn vô cả cái khói đằng sau đen rồi cái khói
trắng nó hiện hình ra một cái phòng nhà của ông Bá Tước ở trong đó, bà Bá Tước
với đứa con đương nhớ chồng ôm mặt sầu thảm một cách. Ông nọ thấy rầu, ông cúi
mặt xuống, ông khóc lớn lên, mấy người kia cũng đổ lụy hết thảy, rồi cái khói
đó tan đi, khói đó tan miếng màn đen như củ. Thấy cái đó rồi ông Dalai Dama ổng
mới dắt mấy người đó vô Đền Thờ thì ngay đúng giờ Tý cũng như giờ mình cúng
đây. Quả nhiên nghe các chuông treo chung quanh Đền Thờ đều reo lên một lượt và
ở ngoài nghe tiếng ngựa thì hết thảy các vị Đại đức đều cúi mọp đầu xuống, tới
chừng đó có một mình ông Bá Tước với mấy người Nga tọc mạch họ ngước lên dòm
thì vừa ở trong Đền u u ám ám vậy thôi, chớ không có sáng sủa như đèn điện mình
đây, thì đó nó làm sáng rỡ chiếu diệu như ban ngày, ánh hào quang chiếu toàn
trong Đền Thờ đều sáng hết, ở ngoài dường như một bóng sáng đi tuốt vô trong,
chừng đó họ sợ, họ cúi đầu xuống, tới chừng Đại Từ Phụ phát thinh lên giảng đạo
rồi họ ngó lên họ tỏa cái thể Đức Chí Tôn không rõ ràng lắm, họ thấy cái trạng
đẹp đẻ hào quang chiếu diệu sáng ngời đẹp lắm, họ chỉ nói có bao nhiêu đó mà
thôi.
Khi giảng đạo rồi Đức Chí Tôn nói: " Trong 40 năm kể từ 40 năm thì nhơn loại
đau khổ luôn luôn, Mỗi lần Đại Từ Phụ đến 50 năm, Ngài trở đến tại Đền thờ Tây
Tạng, thành thử mình tính lụng lại năm 1917, năm nay là năm 1955 nó là 38 năm hả
? 38 năm rồi còn hai năm nữa thiên hạ mới yên, mới thái bình, thành thử Qua ngó
thấy dường như trúng quá chừng quá đổi, để mà coi số nó có quả quyết vậy không
đó, tại Đền thờ Tây Tạng Qua thấy họ hưởng được hồng ân của Đức Chí Tôn vô đối
là Đức Chí Tôn đến với họ không biết đạo đức uyên thâm của xứ Tây Tạng, Đạo của
họ sản xuất ra ngày nào mà họ được hưởng hồng ân vĩ đại như thế."
Đền thờ Jérusalem ở Palestine bên Cận Đông thì Đại Từ
Phụ có đến một lần, đến một cách oai nghiêm quá chừng, quá đổi, thiên hạ nhắc lụng
lại giờ làm cho Qua sợ sệt lắm. Trong Đền Thờ Jérusalem như các thầy Sải ở nơi
đó phụng sự hương khói cũng như làm Từ nơi đó là giòng dõi Lévi, Lévi là con út
ông Abraham.
Có lẽ Đền Thánh nầy Qua dám chắc thế nào Đức Chí Tôn
cũng đến tại chưa đến là vì lẽ gì? Lý do gì chưa có trọn vẹn đây.
Mấy em cố gắng đi, từ đây tới sau cho tới ngày Long
Hoa Đại hội nên hư, đặng thất, điều gì Qua lập Đại hội Long Hoa được hay chăng
Qua phú thác nơi tay mấy em đó vậy.
Q.
6/3-08: Vì sao Đức Chí Tôn đến và Ngài đến đặng làm gì?
LỜI
THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP.
Đêm
15 tháng 3 nh- Ất Mùi.
Đêm nay có lẻ giảng Đạo hơi dài một
chút, Đại Đàn giờ không đủ đặng giảng, chớ Tiểu Đàn có thể ít mệt hơn, dầu có nghe nhiều một chút cũng không đến nước.
Đêm nay Bần Đạo giảng vì lẽ gì Đức Chí Tôn đến và đến
đặng làm gì? Và cái nền Chơn Giáo của Ngài là sao? Bần Đạo đã đặng nhiều lời của
mấy em nhứt là trong Bàn Trị Sự tức nhiên là hàng Em của Hội Thánh hay Thánh Thể
út của Đức Chí Tôn, nghĩa là con cái yêu dấu của Ngài hơn hết đã phàn nàn thấu
tới tai Bần Đạo.
Thời cuộc biến thiên thể nào không biết mà cả toàn thể
con cái Đức Chí Tôn dầu Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy đã bị thiên hạ lợi dụng quá lẽ,
lợi dụng về xương máu, lợi dụng về tài sản cho tới nước, lợi dụng tâm đức hiền
lương của họ rồi lại còn kêu vói lên chẳng biết Thánh Thể của Đức Chí Tôn kia họ
có mở con mắt Thánh đặng họ thấy hay chăng hay họ đã mù quáng.
Vì lẽ cho nên đêm nay Bần Đạo mới giảng ba đề thiết yếu
ấy mà cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều hiểu, chẳng phải ngoài Đời kia mà thôi, tới
trong cửa Thiêng Liêng của Đạo, các em Nam, Nữ đều ngó thấy tinh thần của toàn
thể nhơn loại đã bị khảo đảo một cách quá lẽ, từ cổ chí kim tới giờ chưa có cái
khủng hoảng tinh thần của nhơn loại trên mặt địa cầu. Hôm nay nó làm cho toàn
thể hễ nước nào mạnh giàu liệt cường chừng nào thì cái khủng hoảng tinh thần của
họ lại càng quá lẽ vô độ không thế gì luận được, không thế tỏa được, họ sống lợi
với cái tinh thần hồi hộp sợ hải, cái quái dị hơn hết là họ càng mạnh thì Đức
Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ lại cho họ thấy cái mạnh của họ là cái chết của họ,
ngộ nghỉnh là có bấy nhiêu đó. Ai đời móc cả cái óc não, cả cái khôn ngoan, cái
hay biết ra đặng tìm cái năng lực vô đối tức là nguyên tử lực, rồi còn tò mò kiếm
một cái mạnh hơn nguyên tử lực ấy nữa, mấy thứ bom đương nhiên bây giờ nó giết
hại nhơn mạng coi như con muỗi, con kiến.
Cái mạnh của họ nó trở lại dọa nạt họ phải sợ nó, ngay
đến đổi như ông Thủ Tướng của nước Anh là ông Churchill ông là người hai lần
hai cái đại chiến, ông cố chịu hết, ông là một đại tướng phi thường của nước
Anh, nếu ta có thể nói sự công bằng thì từ thử tới giờ nước Anh chưa có vị Thủ
Tướng nào phi phàm như thế đó, khi nọ ông than, ông nói kể từ ngày đã xuất hiện
bom nguyên tử, tôi thú thật với các Ngài, tôi ngủ không yên giấc. Ông thường có
nói rằng: Ông ăn không ngon, nằm không ngủ, như nước Nam ta mà ổng nói ổng ngủ
không yên giấc, chẳng phải một mình ông Churchill mà thôi, tôi tưởng các nhà
bác học, các nhà chánh trị gia đại tài, cả toàn nhơn loại, toàn vạn quốc, giờ
phút nầy sống với sự hồi hộp sợ hãi mãi, thiên hạ họ nói một cách kiêu ngạo, mà
kiêu ngạo một cách khôi hài nghe ngộ nghỉnh làm sao, họ nói cả liệt cường mà sợ
bom nguyên tử bây giờ chẳng khác nào thầy pháp sợ Cô Hồn với ông Tướng, họ đã sản
xuất nó ra, họ tạo dựng ra oai quyền của nó họ đối thủ, họ địch thủ, họ sợ nó một
cách đáo để, sợ thiệt tình chớ không phải sợ dối trá, hay làm bộ, sợ ngay vậy.
Cái khủng hoảng tinh thần ấy nếu như ta đã theo chơn Đại
Từ Phụ từ 30 năm nay chúng ta biết tánh đức của Ngài, của ông Cha lành vô đối
chưa có ông Cha phàm nào của ta mà có tâm đức như ổng, thương yêu con cái của ổng
một cách phi thường, một cách lạ lùng, mà cái khủng hoảng tinh thần nhơn loại
đương nhiên bây giờ tôi dám chắc nếu ổng không muốn đến là cái lẽ gì mà chớ. Chỉ
còn cái đau khổ tâm hồn nhơn loại như thế đó buộc ổng phải đến mà thôi.
Vì cớ cho nên ổng đến, ổng đến đặng chi, cũng như câu
hỏi thứ nhì, ổng đến đặng chia khổ cho con cái của ổng, nên ban sơ ổng đã nói một
cách chơn thật và đơn giản, ổng nói: "Thầy đến Thầy hiệp lương sanh đặng
Thầy làm cơ thể để cứu vớt chúng sanh" tuy nhiên ổng đến ổng lựa chọn các
con hiền lương đạo đức, ổng đem vô cửa Thiêng Liêng của ổng tức nhiên cửa Đạo đặng
ổng làm cái thi hài hữu hình của ổng, xác thịt hữu tướng của ổng tại thế gian nầy
gọi là Thánh Thể hay là Hội Thánh, ổng lập Hội Thánh ra đặng làm Thánh Thể đặng
ổng làm gì? Không có gì khác hơn đặng ổng làm hình ảnh của ổng, đặng ổng chia
khổ não của con cái của ổng mà đầu tiên hết, nếu ổng không có phương kế chia khổ
não ấy ổng đến đặng mà ổng an ủi, ổng dỗ lấy cái đau thảm của con ổng đã chịu.
Ấy vậy cái Chơn Giáo của ổng, ổng đem Thánh Thể ra cốt
yếu đặng ổng làm xác thịt của ổng đặng ổng sang sớt con cái của ổng tức nhiên
sang sớt cả cái đau khổ của nhơn loại Bần Đạo nhắc lụng lại một lần nữa, chẳng
phải như các Giáo phái kia gọi mình là chúa của thiên hạ, hay mình là thầy của
thiên hạ, mà Hội Thánh của Đại Từ Phụ lập đây cốt yếu để làm hình thể của Ngài
đặng làm tôi cho con cái của Ngài, làm đầy tớ cho con cái của Ngài, nhớ điều đó
là trọng hệ hơn hết.
Thì đó chúng ta ngó thấy sự thảm khổ ấy, lượn sóng đời
nó không phải lan tràn ngoài đời kia mà thôi, Qua có dịp giảng Qua nói: Cái lượng
thủy triều của đời nó dâng lên như thể lụt bão kia, nó tràn ngập hết, chính
mình trong cửa Đại Từ Bi của Đức Chí Tôn, Chí Tôn đây nó cũng không từ, nó tràn
vô tới cửa Đại Từ Bi đặng nó lôi cuốn cả con cái của Ngài trôi theo nó, chìm đắm
theo nó ra cho tới khổ hải. Mấy em đã ngó thấy dầu cho cả Thánh Thể hay chúng
Qua bất lực không đở vớt khổ não của mấy em toàn hết, nhưng mấy em đã thấy thừa
rằng: Chính mình cái khổ não của mấy em bị lượn sóng đời lôi cuốn, mấy em chìm
đắm trong đó mà cả chúng Qua tức nhiên Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải nhào theo
lưng mấy em đặng lặn hụp trong đó đặng cứu vớt mấy em, những kẻ đã lợi dụng mấy
em đó, làm cho mấy em làm hình ảnh của lượn sóng đời đó vậy, mấy em muốn tránh
chăng chúng Qua cũng muốn tránh lắm vậy, mà tránh đặng thì có chi may mắn hạnh
phúc hơn, cái nầy tránh không đặng, ta phải chịu vậy, nếu tránh đặng thì mấy em
đã tránh, chúng Qua khỏi lặn hụp trong đó, cái nầy mấy em tránh không đặng,
chính mình mấy em bị lôi cuốn toàn thể hết, rồi biểu Thánh Thể của Ngài tức
nhiên là Hội Thánh không bị khổ não với mấy em sao đặng. Cả cái khổ não trong
đó nó có trách nhiệm của mấy em tự đào tạo, mấy em cố gắng gượng đi, đừng cho
ngọn thủy triều lôi cuốn mấy em thì chính mình chúng Qua cũng có thể tránh khỏi,
vì bởi thấy mấy em chìm đắm trong đó chúng Qua mới lội lặn theo, nếu mấy em
không chìm đắm ai biểu mấy Qua lội lặn theo mấy em cho được, quyền nào mà biểu
đặng.
Ngày hôm nay mấy em than thở với Hội Thánh không ngó
thấy, thấy lắm chớ, thấy rõ ràng hơn mấy em lắm, thấy mà không biết làm sao cứu
được mà chớ.
Ấy vậy, ta có một tinh thần, một phương pháp duy nhất
của Đức Chí Tôn đã để trong mình ta, nó là bộ Thiết giáp đang bao phủ lấy ta,
ta mang bộ Thiết giáp ấy vô, mấy em cố gắng mỗi em đều sắm bộ Thiết giáp ấy tức
nhiên là đạo đức của mấy em đó vậy.
Nếu đạo đức của mấy em, Đức tin của mấy em đã mạnh, đạo
đức của mấy em được kiên cố. Qua dám chắc mấy em sẽ thắng mà mấy em giúp chúng
Qua thắng luôn đó, mấy em chiến đấu đi, lấy Đạo Đức đặng chiến đấu cả mưu chước
quỉ quyền đó đi thì chúng ra sẽ tạo hạnh phúc chung cho nhau. Qua thấy có một
điều lượn sóng đời lôi cuốn mấy em, mấy em không cần ngó lụng lại đặng mấy em tự
nhủ lấy mình, yêu ái nhau kia, mấy em cứ giựt giành từ món ăn chỗ ở, mấy em giựt
giành từ mảnh quyền, mảnh thế, cái hổ nhục trong cửa Đạo nầy không có chi khác
hơn là làm cho Qua hổ nhục hơn cái đó. Mấy em chưa biết nhượng với nhau món ăn
chỗ ở, mấy em còn giành giựt với nhau phương thế sống, chưa biết nhịn nhau đặng
bảo vệ cho nhau, thì cái tình trạng đó nó trả với cái giá đó cũng vừa.
Q.
6/3-09: So sánh quyền Đời và quyền Đạo.
BÀI
THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP.
Đêm
30-3 nh. Ất Mùi.
Đêm nay Bần Đạo giảng cái đề so
sánh quyền Đời và quyền Đạo, cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, nhứt là
đám Thanh Niên Nam, Nữ, phải rán để ý cho lắm để tâm nghe sẽ phân biệt cảnh Đạo
với đường Đời xa cách với nhau một trời một vực, chỉ có ngộ nghỉnh một điều:
Tuy vẫn phân biệt nhau như thế mà
nó lại có cái liên hệ mật thiết với nhau mới là lạ lùng cho. Trước khi giảng quyền Đời và quyền Đạo, Bần Đạo phải tỏa
cái hình trạng của Đạo thế nào,
hình trạng của Đời thế nào rồi mới tỏa cái quyền của nó ra sao; quyền Đạo cả thảy
con cái Đức Chí Tôn đều thường nghe giảng và đều hiểu mà chớ, vì Đức Chí Tôn
không có tái kiếp làm người,
Ngài đến cả con cái của Ngài với một huyền diệu lạ thường là huyền diệu Cơ Bút,
thành thử Ngài không nói mà chúng ta nghe, Ngài không hình mà chúng ta thấy, Bần Đạo đã giải rõ thường tình
tại sao Ngài đến? Đại Từ Phụ đến, Ngài đã nói quả quyết Ngài đến để Ngài chia
khổ cùng con cái của Ngài, vậy nếu Ngài không có hình trạng thế nào Ngài chia
khổ ấy được; tức nhiên Ngài phải làm thế nào Ngài có hình mà chớ, muốn cho ra
cái Thánh hình của Ngài không phương
chi hay hơn là Ngài tụ họp con cái hiền lương của Ngài đặng lập thành Thánh Thể
tức nhiên cái hình Thánh
của Ngài, chúng ta thường gọi là
Hội Thánh. Ấy vậy Ngài đến Ngài chia khổ, Ngài lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập
hình ảnh của Ngài. Hình ảnh của Ngài nó có đẳng cấp trật tự cả Thiên Phong Chức
Sắc của Hội Thánh từ Giáo Hữu đổ lên là Thánh Hình của Ngài; chẳng khác nào như
cái đầu, còn cả toàn thể con cái của Ngài từ bực Lễ Sanh đổ xuống, tỷ như tay
chân thân thể của Ngài, Ngài lấy cái đại thể Chơn Giáo của Ngài đã lập giáo thành
tướng của nó tức là cái gia đình Đạo giáo.
Ấy vậy Chơn Truyền của Ngài đã đặt trên thế gian này
là gia đình Đạo giáo của Ngài tức nhiên gia đình tinh thần. Bây giờ ta lại luận
hình thể của đời, bất kỳ xã hội nhơn quần nào. Bần Đạo đã có dịp thuyết minh rằng,
con người bao giờ cũng phải sống tập đoàn đặng bảo vệ cái sống cho nhau mới gầy
nên quốc gia xã hội, cái đại thể đó nó thành ra toàn thể nhơn loại, Bần Đạo nói
giờ phút nầy cả toàn thể nhơn loại lại còn mong rằng họ sống tập đoàn với nhau
trong đại thể của nhơn loại mà chớ.
Ấy vậy, mỗi xã hội có Vua, có Chúa, không thì có vị Quốc
Trưởng, dưới quyền của vị Quốc Trưởng ấy, hoặc có Triều đình hoặc có Chánh phủ,
cả nhơn viên Chánh phủ hiệp lụng lại với Quốc Trưởng là cái đầu, còn dưới là
dân chúng tức nhiên là các năng lực của toàn thể Quốc dân; Sĩ, Nông, Công,
Thương, tứ dân, tứ thứ là tay chân, và thân thể. Rồi trong xã hội ấy định
phương pháp đặng lập cái Đại thể gia đình của toàn một sắc dân Đại gia đình của
một sắc dân gọi là gia đình xã hội, tướng diện của hai bên đó vậy.
Bây giờ Bần Đạo luận về cái quyền, cái quyền đôi bên
bao giờ cũng phải quyết định với một cái pháp luật của Hội Thánh. Luật của Hội
Thánh để định quyền cho Đạo cho Đại gia đình của tinh thần nhơn loại, ngó thấy
Tân Luật, Pháp Chánh Truyền là một chơn tướng lập Thánh Thể của Ngài không cần
luận đến, chỉ luận về Tân Luật mà Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông đã dạy Hội
Thánh khi mới khai Đạo, lập trong ba tháng phải thành tựu, trong Tân Luật con
cái của Đức Chí Tôn đều ngó thấy, Bần Đạo không cần lập đi lập lại vô ích chỉ lấy
cái tinh túy của nó là trong Tân Luật ấy Đức Chí Tôn định cho Ngũ Giới Cấm và Tứ
Đại Điều Qui và trong ấy cốt yếu bảo vệ Tam Cang Ngũ Thường của toàn thể con
cái của Ngài, thật ra cái Thiên Luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con
cái của Ngài. Luật chỉ có một là Thương Yêu, Quyền chỉ có một là Công Chánh.
Thiên hạ đã lập luật nhiều quá, mà cái luật của thiên
hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều ngó thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận thế
họ chưa có phương nào làm cho nó phù hạp với cả nhơn tâm bao giờ. Còn Đức Chí
Tôn đến lập Luật có một điều mà thôi là Thương Yêu, cả thảy điều hiểu cái Luật ấy,
nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào không có dính trong cái Luật
Thương Yêu ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ, nhứt là sống chung của đồng loại,
hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn loại hay là cả nhơn loại buộc phải đào thải họ
nếu họ không tuân cái luật ấy, còn cái quyền công chánh công bình chánh trực dầu
một kẻ không học kia dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tánh quí báu ấy,
tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng kính nhường và nhứt là họ thương
yêu, Thiên Luật của Đức Chí Tôn là vậy, Tân Luật Đức Chí Tôn cốt yếu muốn cho
ta làm đặng, ta bảo vệ cái Tam Cang Ngũ Thường của nhơn loại. Nói về phương
Đông nầy dầu cho luận tới các Quốc gia xã hội đến đâu đi nữa họ tự trọng họ văn
minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm luật ấy bao giờ, nếu họ ra khỏi
là muốn tự bỏ cả xã hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chớ không thành xã hội.
Giờ đây luận tới Luật Hội Thánh. Luật của Hội Thánh chỉ
lập ra trong buổi con cái Đức Chí Tôn bị cái óc ngoại hình ngoài đời kia xâm phạm
tinh thần và hình chất của nó, Hội Thánh buộc phải lập Luật chẳng khác nào như
thể một phương che chở như ta đã ngó thấy một người kia đi tới miệng giếng họ
muốn sa vào đó ta kêu trở lộn lại. Luật của Hội Thánh phải chuyển luân theo thời
thế của xã hội, nhứt là trong con cái của Ngài chớ thật ra không có giá trị gì
hết. Bởi hình không có. Bây giờ nói tới hình của Luật Đạo. Cái quyền của Đạo,
quì hương, tụng Kinh Sám Hối, đáo để trục xuất Nội Thành nơi Thánh Địa, rồi còn
dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo chớ chưa có giết ai, chưa có tù tội ngục hình,
cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo. Vậy cốt yếu
cái khuôn khổ Đại gia đình tinh thần nầy để tạo con cái của Đức Chí Tôn thành
Thánh, nong nã dạy dỗ dìu dắt thế nào cho họ thành Thánh đặng họ mới cầm cái Cờ
Cứu Khổ của Đức Chí Tôn vững vàng và mạnh mẽ, họ mới thay thế hình ảnh của Đức
Chí Tôn đặng.
Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền lực của Đạo cốt yếu để
tạo Thánh, bây giờ ta mới luận về quyền Đời, cả quyền Đời thật quyền của họ thiệt
lực của họ là Nhơn Đạo. Muốn thành tựu Nhơn Đạo ấy họ phải thông minh trí thức
lịch duyệt thế tình, thông minh trí thức phải học, lịch duyệt thế tình họ phải
chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy, vì cớ cho nên một ông quan mới đầu
tiên thủng thỉnh bực nhỏ lên cao, học đặng chuyên chú nghệ nghiệp của họ, cốt yếu
họ cầm quyền trị dân ấy đặng chi, họ mong mỏi gì, họ mong mỏi cho cả toàn dân
được hạnh phúc cả cái sống còn của dân được bảo thủ, cái sanh họat của dân được
hòa ái tương thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn khổ Tam Cang Ngũ Thường của
văn minh ta lưu lại từ thử đến giờ. Muốn bảo vệ cho họ đặng hòa bình thân ái với
nhau phải dĩ Đạo vi trị, họ phải mượn văn minh Đạo giáo của Tổ Phụ ta để Tam
Cang Ngũ Thường làm căn bản, trong gia đình xã hội phải nương theo bóng của Đạo
bên kia họ mới có căn bản, có căn bản ấy thì mới ích nước lợi dân trừ gian diệt
nịnh.
Hại có một nỗi là họ tạo luật ra quá quắt có nhiều điều
họ lập ra khuôn luật mình thấy thất đức bất nhơn tàn ác, họ dùng cả cái cường lực
trị dân, vì cớ cho nên các xã hội nhơn quần hiện tại bây giờ đây loạn là vì họ
không lấy đạo đức nhi trị, họ không tùng theo tâm lý mà họ chỉ tùng theo quyền
lực mà thôi, nào là khám lớn, nào súng, nào gươm máy, hễ tuân theo khuôn luật của
ho trị thì họ để còn sống, nếu không tuân theo khuôn luật thì họ giết, mà kỳ
trung thật ra Bần Đạo tổng luận gia đình tinh thần tức nhiên Đạo là tu thân,
còn gia đình xã hội là trị quốc, còn thiếu tề gia, tề gia không phải là tề gia
đình, tối thiểu của mọi gia đình mà tề gia đình thiêng liêng gia đình tinh thần
về xã hội, duy có tề gia ấy nếu mà đôi bên, bên Đạo và bên Đời hiệp phương chước
lại với nhau dùng cái phương tề gia ấy mà tương liên mật thiết với nhau nó phù
hạp lấy nhau đời mới hưởng được hạnh phúc thái bình, ngoài ra nữa dầu phương
chước nào hay hơn bao nhiêu mà không có đặng cái tề ấy, chữ tề ấy không quyết định
đặng thì nước vẫn loạn mãi thôi, nhơn sanh phải thống khổ mãi thôi, vì cớ cho
nên Bần Đạo mới nói: "Đạo không Đời
không sức, Đời không Đạo không quyền"; hễ họ tương liên với nhau không
được tề gia nhứt thống về gia đình tinh thần và gia đình xã hội của họ thì bao
giờ họ cũng bất lực hết thảy.
Q.
6/3-10: Vía Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
LỜI
THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP.
Đêm
8 tháng 4 Ất Mùi.
Đêm nay là ngày vía Đức Phật
Thích Ca luôn ngày vía Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, có phải chăng là một việc
tình cờ hay là quyền Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, chị Nữ Đầu Sư vẫn
thương yêu Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân Đức Chí Tôn đến kêu người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của chị từ
bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi là
lạ.
Nguơn linh của Long Nữ đã theo hầu Đức Quan Âm Bồ Tát mấy kiếp đã đến trần thì
căn Phật của Người vẫn thế, Bần Đạo xin thuyết Triết Lý Đạo Phật của Đức Phật
Thích Ca, Ngài đã đoạt Đạo đặng rồi tức nhiên chị hiểu cái huyền vi bí mật của
kiếp sanh con người, Ngài tầm
ra căn nguyên bí yếu hơn hết là Luật Nhơn Quả pháp định (Loi Karmique) cái Luật
Nhơn Quả của Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường,
thử ta chối con người không có quả kiếp chi hết cũng như thuyết duy vật đã nói, con người đã
sinh ra ở mặt thế nầy là tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả nhiên là chơn
lý thì ta thử hỏi vậy chớ
duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng mẹ đã nằm trên đống vàng hay là ngự trên
ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù, ngu dại, nếu không có
định luật thiên nhiên công bình vô đối của Đại Từ Phụ tức nhiên của Đức Chí Tôn
thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà chớ? Cái triết lý bí
yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức là nhơn quả của ta. "Nhơn" nghĩa là ta đã có làm điều chi thì "quả" của nó trả lụng lại.
Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta. Có
nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi điều gì muốn thi thố
ra đều thất bại, mà cái thất bại ấy chẳng phải dỡ, cái miệng thường những kẻ ấy
trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho tôi như
thế đó, là kẻ bên Đạo Phật. Các Tôn giáo khác không cần luận, ta thấy họ đã quyết
định cái quả kiếp là gì, Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số
phận của ta đương kiếp sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước,
bây giờ cái triết lý ấy biểu ta muốn cho nên kiếp tới kiếp nầy ta chẳng nên gây
nhơn quả nhiều hay nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những người tín
ngưỡng theo triết lý của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ
không may, hoặc về tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo
giàu, bất kỳ quả kiếp của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái
khổ của con người đã sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ
nữa.
Bây giờ quá sức chịu của trí não con người phải làm
sao hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì tìm phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên
nhà Phật là nhà hay an ủi tâm hồn của những kẻ đau khổ hơn hết đặng tự giác lấy
mình, hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào tạo, vì tại mình vi chủ tạo thành nó ra,
bây giờ tìm phương giải nó đi, tức nhiên tránh kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy
không may ta để trả nó mà thôi, ta đừng gây thêm quả kiếp nữa.
Bởi cớ cho nên Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, cạo đầu phế
cả cái sống của mình gọi là qui y thọ phái vô chùa gởi thân trong cửa Phạm cửa
Đức Phật Thích Ca đặng tìm phương an ủi hay là hay hơn nữa đủ trí thức, đủ tự
giác để đào tạo cái quả kiếp tương lai của mình, thật ra chơn lý ấy của nhà Phật
an ủi một cách mạnh mẽ các tâm hồn bị đau khổ. Chính Phật cũng phải nhờ triết
lý ấy mà nhiều phen đã tự an ủi mình làm một Phật vị, bởi chính mình Ngài muốn
tạo một lớp Liên Hoa của Ngài, Ngài phải đầu kiếp làm Thảo Mộc lên Thú Cầm tới
Nhơn Loại rồi đến Phật vị, thì tức nhiên trọn cái vòng siêu thoát của Ngài,
Ngài đã biết nhơn loại biết kiếp sống của con người đau khổ như thế nào, thật
có sống với đời mới biết cái khổ của đời, những tay thầy thuốc giỏi hay biết được
bịnh con người một cách đúng đắn mực thước thì chính mình ông phải có bịnh đó, ổng
tự thí nghiệm bào chữa chứng bịnh của ổng rồi ổng mới đoạt được lịch thi của ổng
không thế tưởng tượng.
Đức Phật Thích Ca cũng thế, Ngài cũng sống Ngài đã chịu
trong cái Luật quả kiếp ấy luân chuyển từ vật hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái
quả kiếp của Ngài nó phải chơn thật không thể tưởng tượng được, thể bỏ nó ra
không có cái triết lý nào giải nghĩa kiếp sanh con người cho nó mực thước hết.
Bây giờ xin luận về duy vật nó nói loài người là một
giống khỉ tiến hóa lên chớ không phải Trời sanh ra, Bần Đạo dòm lụng lại sắc
dân của Ấn Độ chính mình Phật Thích Ca là dân của Ấn Độ, dân da đen gọi Hắc Chủng,
Ngài sanh ra ở đó, da thay vì đen nó hơi hồng hồng, rồi người Đời tặng Ngài màu
hồng, họ gọi Ngài là Kim Thân, vì cớ cho nên các tượng hình của Ngài đều phết
vàng, bởi tại hai chữ Kim Thân ấy, chính Ngài là sắc dân da đen mà sắc dân da
đen là một Chủng tộc đến mặt địa cầu nầy sớm hơn hết.
Chúng ta thử xét đoán nếu quả nhiên là loài khỉ tấn
hóa lên cho tới sắc dân hắc chủng ấy có đâu đầu óc của họ đâu có quá chừng quá
đổi, tâm thần quán thế như thế đó, nhứt là đặc biệt hơn hết các triết lý cao
siêu về mặt vô hình dân Ấn Độ đứng đầu hơn hết các chủng tộc. Nó trái ngược lụng
lại những tộc chủng đã noi theo luật tiến hóa, nhứt là chót hết bây giờ là Bạch
chủng tôi thấy họ đã tiến hóa nhiều từ Hắc chủng lên Thanh chủng tới Xích chủng
đến Huỳnh chủng rồi tới Bạch chủng đường tiến hóa của nhơn loại nhiều quá, sâu
xa lắm, tời chừng dòm lụng lại sắc dân Bạch chủng kia cũng không phải hơn gì sắc
dân Hắc chủng, vì Hắc chủng người đã đến mặt địa cầu nầy hồi ban sơ hết, hay
nói là Mẹ của các giống người hết thảy nơi thế gian nầy mà người ta cao siêu
như thế đó thì chính mình Bần Đạo không tin loài khỉ tiến hóa lên được, cái lý
thuyết ấy vô lối, nếu không nói là quái dị, hay đặt cho nó cái tiếng là quái gỡ.
Cái triết lý của nhà Phật từ thử tới giờ chưa có một vị Giáo chủ nào đã đọat
Pháp mà biết cái bí ẩn Thiêng Liêng của luật Thiên nhiên kia một cách chánh
đáng như thế, chơn thật như thế, có một điều chính mình trong sự luân hồi quả
kiếp ấy, Đại Từ Phụ đã làm chứng trong Bài Thơ của Ngài:
Đài
Vân Quan Võ để Phong Thần,
Còn của
Thầy đây để nhắc cân.
Muôn
phước ngàn lần không sót một,
Bao
nhiêu công quả bấy nhiêu phần.
Nói như thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng: Quả
kiếp nhơn quả của con người luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó vậy.
Q. 6/3-11:
Chữ Hiếu trong Nho Giáo.
LỜI
THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP.
Đêm
15-4 Ất Mùi.
Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám thanh niên Nam Nữ để ý
nghe cho lắm. Đêm nay Bần Đạo giảng chữ Hiếu, đương nửa thế kỷ 20 nầy, đạo đức
suy vi, nhơn luân điên đảo, phong hóa cổ truyền do nơi tinh thần chơn chất hiền
lương của cổ nhân đã để lại bị văn minh khoa học nó làm cho cả tinh thần đạo đức
đều mất quyền nghĩ cả khoa học từ thế kỷ 20 nầy, nó đã đem lụng lại cho nhơn loại
những gì? Thật ra cái sanh sống của nhơn loại nó có thay đổi, nó có hướng về
duy vật nhiều hơn là tinh thần khoa học, nếu để tâm suy gẫm thì ta ngó thấy, nó
có thể tạo hạnh phúc cho xác thịt nhơn loại mà nó làm cho tiêu hủy cả tinh thần
loài người cũng có.
Những nhà triết học Âu Châu nhứt là Pháp, đã nói một
câu rất chánh đáng, chánh đáng mà có khuyết điểm khoa học lắm lắm đó vậy. Họ
nói rằng: "La science sans
conscience est le plus grave danger de l'existence humaine" khoa học
không có thiên lương là một đều nguy hiểm cho sự sanh tồn của nhơn loại, thật
quả vậy, nếu như nhơn luân của cả toàn nhơn loại mà không có phương pháp cố thủ
nó lụng lại đặng, nó đã điên đảo rồi, cái nhơn luân ấy làm sao nó làm căn bản
cho nhơn loại.
Nay vì thiếu nhơn đạo, nhơn loại không biết yêu ái với
nhau, chỉ tranh sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá chủ của toàn cầu, gây biết
bao chiến tranh khổ não; chẳng phải hao về sanh mạng mà thôi, mà hao cả phú hữu
nơi mặt đất nầy mà chớ, biểu làm sao nhơn loại không thống khổ cho đặng. Ai đời
họ đã làm một điều trái hẳn luật Thiên nhiên của Tạo Đoan mà chính mình Đức
Thánh Nava ở tại Đền Thánh La Mã đã buộc phải lên tiếng, sanh dục không cần
nam, nghĩa là người đàn bà không cần có chồng mà muốn có con khoa học có thể
cho có con đặng, nếu như cái tình trạng ấy quả nhiên xô đẩy nhơn loại đi tới một
cái địa điểm chúng ta sẽ ngó thấy gì? Chúng ta ngó thấy Đạo luân thường của
nhơn loại sẽ bị hủy đi mà chớ. Đi tới mục đích đó biểu sao cả tinh thần con người
không hướng về vật hình rồi cái Đạo nhơn luân không đếm xỉa đến, thử hỏi nếu một
trẻ thơ kia sanh ra không có cha, cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi, thử
cái Đạo nhơn luân của nhơn loại đã ra sao mà chớ.
Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra cái thuyết duy vật của
Cộng sản đáng lý lắm vậy. Trót đã xô đẩy tới cảnh tượng đó, không cần biết Tổ
phụ Tông đường cha mẹ là chi nữa hết? Ông nội cũng đồng chí, bà nội cũng đồng
chí, ông ngoại cũng đồng chí, bà ngoại cũng đồng chí, đồng chí cha, đồng chí mẹ,
đồng chí anh, đồng chí em, cả thảy đều là đồng chí. Cái thuyết duy vật ấy do
nơi thất Đạo nhơn luân mà sanh ra đó vậy.
Bây giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, văn minh
Nho Tông của chúng ta là gì? Tưởng cũng không cần gì nói cho mấy người lớn
nghe, Bần Đạo chỉ giảng cho đám thanh niên Nam, Nữ mà thôi.
Mấy đứa nhỏ có biết cha mẹ đã sanh ra nuôi nấng được
cho nên hình, nên vóc, cái cam khổ của cha mẹ như thế nào mà chớ.
Hễ có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén
lút ra ngoài nói: Ổng vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa xả, có nhiều khi ra
sau lén lén ngồi rủa đủ thứ. Tới chừng biết khôn ngoan đến tuổi già, cả tâm não
và lương tâm của mình sẽ cắn rứt và sẽ hình phạt một cách chừng đó mới khôn
ngoan.
Hại thay! Ôm một đứa con đỏ từ vú sữa mớm cơm, nuôi
cho nên hình, nên vóc, thật ra không biết bao nhiêu khổ não truân chuyên của
cha mẹ, có nhiều khi phải hy sinh cả hạnh phúc của mình, để cả trí não, cả tâm
hồn, cả giọt mồ hôi nước mắt để nuôi con, biết bao nhiêu gia đình không phải dở,
mà nghèo vì con nên khổ, mấy đứa nhỏ có biết điều đó đâu. À mà có biết chăng là
khi nào mấy đứa bây có chồng có vợ, tới chừng bây có con đó mới biết cam khổ
nuôi con bây như thế nào, bây mới biết ơn cha mẹ là nặng. Tiên Nho có nói: "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân"
có nuôi con là thế nào mới biết ân trọng của cha mẹ, những nhà Đạo đức xưa kia
trong cửa Đạo Nho Tổ Phụ ta hay để lời than, hễ đọc đến làm cho ta khổ não cả
tâm hồn: "Ai ai phụ mẫu sanh ngã cù
lao, dục báo thâm ân hiệu thiên võng cực", không có thế gì mà tưởng tượng
được, tỏa ra cả, tâm hồn chí hiếu gặp một cái nước cũng như nước Việt Nam cả thảy
đều có hạnh phúc là ăn no mặc ấm, dầu cho miệng lưỡi đã nói một tiếng khổ chớ một
sắc dân hạnh phúc hơn các sắc dân toàn cầu đa số vậy.
Bần Đạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra
sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái tình trạng rất khổ
não lương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo
kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bữa, mà thứ con nít nhịn đói thử như thế
đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm nên cha mẹ chịu không nỗi, bây
giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra, rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong bếp lấy
trấu bỏ trong nồi cơm vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm
rồi lén ra sau hè thắt cổ tự vận. Mấy em có biết điều đó đâu, cái hiếu nếu mấy
em không trả cả một đời mấy em chưa hề khi nào nên người bao giờ "Nhơn sanh hiếu nghĩa vi tiên"
không hiếu nghĩa không làm gì nên người được.
Bần Đạo thuật một cái bài học hồi còn học trong trường
Nho, Thầy của Bần Đạo dạy: "Tâm đạo
cảm Thiên, Hiếu đạo cảm Thiên", ở trong cổ nhơn vị sư ổng dạy một tích
làm từ đó cho tới lớn không buổi nào quên hết.
Nhà Đại Minh Hùng Võ có một người học trò khó mẹ góa
con côi học giỏi lắm, duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào lo làm mướn nuôi mẹ
với nuôi thân. Khi nọ người mẹ đau bịnh quá vãng. Cái tục lệ nhà Minh buổi nọ, ở
ngoại thành không được phép vô nội thành, chỉ cách có một dãy trường thành mà
thôi. Hễ ai vô nội thành mà rách rưới xin ăn đều bị đuổi tống ra, ai mặc đồ
tang phục mà vô nội thành cũng bị đuổi ra. Người học trò khó ấy tính vô nội
thành đặng hành khất về chôn mẹ, mà hễ bận đồ tang phục vô thì bị đuổi. Bây giờ
anh ta mới gọi là "Tâm tang"
anh ta xé một miếng khăn tang bằng ngón tay, rồi mới xẻ cái vú ra một đường
nhét vô trổng, ngoài mặc áo học trò như thường để vô nội thành, gọi là Tâm
tang, đi vô nội thành đặng đi xin về chôn mẹ.
Nhơn khi đó nhóm ngoại ô ngay chỗ đó lửa phát cháy,
cháy một cách dữ dội lắm, làm cho ông Đại Minh Hùng Võ lên Hoàng cung hoảng hốt.
Thấy dân chúng khổ não ổng cầu nguyện với Trời đặng cho ngọn lửa tiêu xuống đi,
ổng vừa ngó trên ngọn lửa ổng thấy Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình và Châu Xương
hiện hình đứng trên ngọn lửa đặng làm cho ngọn lửa ấy tắt, thì khi đó đã cháy hết
xung quanh rồi, chỉ còn có một nhà mà thôi, cái nhà ông học trò khó có thây chết
của mẹ. Ông Đại Minh Hùng Võ đứng trên cái Dịch đài Hoàng cung dòm thấy Quan
Thánh, Quan Bình và Châu Xương đứng trên ngọn lửa, ổng bái, ổng lạy đặng cám
ơn, nhưng mà ổng vừa lạy ổng vừa ngoắc thì Đấng ấy đến ngay trước mặt của ông
Hùng Võ, rồi Quan Thánh bái ông Hùng Võ nói: Em chào Đại Ca, rồi ông Đại Minh
Hùng Võ liền biết mình là Lưu Bị tái kiếp, mới hỏi lụng lại Quan Thánh: Tam Đệ
hà tại? Hỏi vậy Tam Đệ là Trương Phi bây giờ ở đâu? Trấn Bắc Tướng Quân tên ...
gì đó (lâu quá Bần Đạo quên) nói rồi ba hình liền biến mất. Ông Đại Minh Hùng
Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc Tướng Quân về, rồi
bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây, đòi về đêm ngày sợ gian thần
sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong
cái hòm rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống
lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.
Vì cớ cho nên hòm hồi xưa họ có soi lỗ dưới đáy đặng
cho có lỗ hơi, cái tục lệ đó như vậy? Khi ông nọ về triều đình ông Đại Minh
Hùng Võ mừng rồi ổng khóc lóc là nghe tin bạn chết, mừng là thấy Trấn Bắc Tướng
Quân đã về tới, dầu chết đi nữa còn thấy thi hài của em, tưởng đâu là mưu như vậy
ai ngờ khi vở nấp hòm thì đi dọc đường để lên để xuống bị nghẹt hồi nào ông kia
chết thiệt. Một mặt ổng đòi ông nọ, một mặt ổng sai đi ra đặng tra gạn coi tại
sao hết thảy nhà cháy mà nhà đó còn. Tới chừng tra ra thì lòi ra người học trò
khó vì hiếu. Ông vội đòi rồi tức thì phong quan hàng Văn Minh Điện Đại Học Sĩ,
sau lên tới Giáng Nghị Đại Phu, vậy thấy cái hiếu, cái hiếu động Trời, động đất
như thế đó mấy em bất hiếu, cả thảy bất hiếu Trời đất xử định mấy em ra sao?
Từ đây tới sau dặn đừng có kỳ kèo đối với cha mẹ. Hễ
còn thanh xuân chưa lịch lãm thế tình, hãy nương nơi cái hay cái biết của cha mẹ.
Cường ngạnh tới chừng sau rồi có một trăm tuổi già ngồi khóc lên khóc xuống
cũng không ích, ăn năn tự hối như Bần Đạo đây có nhiều khi ngồi nơi nào nhớ,
moi óc nhớ coi cha nói gì, mẹ nói gì, tìm gần trối chết, tìm đặng nhớ.
Còn bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la thì kỳ
cào, quạo quọ, ở trong cửa Đạo nầy Bần Đạo xin đứt cả thảy mấy em thanh niên
rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu.
Q. 6/3-12:
Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng - Trách nhiệm của Hành Thiện.
LỜI
PHỦ GIÁO CỦA ĐỨC SƯ PHỤ TẠI BÁO ÂN TỪ.
Lúc 4
giờ chiều ngày 17-4 Ất Mùi (1955).
Sau khi kiểm soát phận sự của Hành Thiện lãnh ủng hộ đồng
bào Bắc Việt và Hành Thiện lãnh Thập Nhị Gia Liên Bảo.
Mấy em ngồi im lặng để Qua nhắc thêm trách nhậm của mấy
em, mấy em đã biết rằng, Hội Thánh Phước Thiện tức nhiên là Hội Thánh của Hiệp
Thiên Đài. Trước chưa xuất hiện Hội Thánh Phước Thiện mà Hiệp Thiên Đài vẫn có
ít người làm, sau lập thành Hội Thánh được Chí Tôn định đâu sẵn rồi nên giao
phó trách nhậm ấy cho Qua, tức là chính mình Hộ Pháp là người làm đầu trong Hiệp
Thiên Đài, trách nhậm đó nặng nề làm sao đâu. Khi ấy chỉ có ba người Hiệp Thiên
Đài lãnh phận sự, Thầy, Chí Tôn nói: "Thầy
muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi đó hết khổ" và Chí Tôn
cho biết rằng: "Cái khổ ách của nhơn
loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải
làm thế nào nêu ngọn cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn sanh cùng khắp mặt địa cầu
nầy".
Qua không hiểu Qua là thế nào mà khi Thầy biểu Qua phải
lãnh làm rồi Thầy sẽ dạy Pháp biến thân con ra vạn ức ... Buổi nọ Chí Tôn dạy
phải vưng, chớ chưa hiểu Pháp biến thân của Chí Tôn đã ban cho ra thể nào. Khi
chưa có Hội Thánh Phước Thiện Qua rất ngại, đến chừng Chí Tôn dạy muốn lập Hội
Thánh phải lập Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng trước, thật là quyền năng Chí Tôn
vô đối, khi ban cho Qua không bao lâu mà lập thành được Hội Thánh Phước Thiện,
tức nhiên là Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, thì bây giờ đây đã có mấy em sẽ nối gót
phụng sự Hội Thánh Phước Thiện chung lo gánh vác cơ cứu khổ để thay thế cho Qua
gần gủi chúng sanh để phụng sự, gánh sự khổ não của con người thì thấy rằng:
Chí Tôn đã giúp cho Qua thêm được nhiều tay chơn để lo cứu khổ cho mau ra chơn
tướng.
Ở bên kia Hội Thánh Cửu Trùng Đài đi từ phẩm Lễ Sanh đến
Giáo Tông, bên nây Hội Thánh Phước Thiện đi từ Minh Đức đến Phật Tử mà mấy em cố
gắng với trách nhậm của Qua đã định cho mấy em, mấy em rán làm xong thì là ông
Tiên tại thế, không riêng cho mấy em, dầu cho các sắc dân trên địa cầu nầy mà
biết chen vai gánh vác sự khổ của đời thì họ cũng đọat Tiên Tử được. Vậy mấy em
thật hành được thì cơ quan cứu khổ sẽ thành lập đó vậy. Cái trách nhậm rất nặng
nề mà mấy em rất hữu phước nên Chí Tôn ban cho mấy em được đứng vào trong Thập
Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Qua muốn sau khi Qua về Thiêng Liêng mà được thấy mấy
em nối nghiệp cho Qua thì Qua rất vui mừng lắm vậy, huyền bí Thiêng Liêng đã định,
chỉ có một mình vị Phật Tử, nên sự vui hứng của Qua là muốn thấy có một đứa em
làm xong phận sự đoạt vị Tiên Tử sống tại thế gian nầy.
Mấy em rán nhớ đừng bắt chước làm quyền theo quan lại,
mấy em phải yểm tình dục quyền tước lại, cũng như Qua yểm trên Thất Đầu Xà, chỉ
mình tập tánh thương yêu mà thôi, đừng hờn giận ai, cứ bình tĩnh chịu những sự
khó của ai đã làm mà mấy em phải gánh.
Trước kia Qua ôm lấy trách vụ Đức Lý Giáo Tông cho Qua
phải làm mà Qua chưa hề đem ra thi hành, Qua muốn mỗi việc khó của mấy em đều
có Qua ngồi chung với mấy em, nếu có thể ngồi dưới đất cùng mấy em, ăn muối
cũng vui với mấy em được vậy, ngày nay mấy em đã đem trọn thân thay thế cho Qua
lo cơ cứu khổ, đã hạ mình nơi chỗ thấp mà mấy em chung lại ngồi bốc cơm nguội
ăn cũng cứ vui, nên nhớ đã nghe những cái cực khổ gánh vác nặng nề nầy là chúng
tôi chung sức gánh cho Thầy tôi, dầu cảnh khổ nào mấy em cứ đổ trút cho Qua đi
cho nhẹ bớt, ấy là quyền Thiêng Liêng định vậy, hiểu chưa? Nếu mấy em tính có
các Đấng Vô Hình ám trợ dầu gặp việc khổ cũng bớt khổ.
Mấy em hỏi lại mấy anh của mấy em coi sự khổ của mấy
anh rất đáo để từ hồi tạo Đạo đến giờ, hỏi Hiền Nhơn Cương coi tụi nó chỉ bắt
gió nắn nên hình, nhớ chưa? Phận sự của mấy em đang lo cơ cứu khổ cho Hội Thánh
Phước Thiện thì mấy em phải làm, Hội Thánh Phước Thiện cũng nên giúp đỡ, mấy em
nghĩ coi, từ thử đến giờ mấy em có vợ chồng lo cặm cụi sự làm lụng, cực nhọc lo
một gia đình mà không rồi, nay lãnh thêm 12 gia đình nầy sao đặng.
Qua thấy mấy em vượt qua Giáo Thiện không nổi thì Qua
tạo 12 gia nghiệp cho mấy em, tức là tạo thuyền từ cho mấy em nương qua, bên
nây bực Hành Thiện muốn thăng Giáo Thiện cũng như bên Cửu Trùng Đài phẩm Lễ
Sanh lên Giáo Hữu rất khó. Vậy nên Qua không tạo thuyền từ cho mấy em làm sao
qua ải được.
Hội Thánh Phước Thiện không có định số, hễ phẩm Giáo
Thiện, thì cứ đi mãi cho đến Phật Tử, bên Hội Thánh Cửu Trùng Đài đã có số định,
hễ nhập môn rồi đoạt đến Lễ Sanh thì ở đó cứ ngồi đó mãi, vì đã đủ 3.000 Giáo Hữu
chờ có khuyết mới qua được, Giáo Sư 72 vị, Phối Sư 36 vị, Đầu Sư 3 vị, Chưởng
Pháp 3 vị mà ngôi Giáo Tông chỉ có một vị mà thôi.
Phận sự mấy em không lạ, mấy em chỉ có bổn phận làm
cha tạo nghiệp cho 12 gia đình, bảo thủ tài sản, chỉ dẫn công ăn việc làm cũng
như lo cho gia đình mình đó vậy, dầu việc chưa từng làm rán cố gắng thì nên việc.
Qua căn dặn một điều nên nhớ, thoản như có một trong 12 gia đình mà thưa gởi mấy
em là thiếu phận, thiếu tình thương đạo đức, thì mấy em phải lỗi ước với Qua.
Trong gia đình gặp cơn hoạn nạn, đau khổ, mấy em không ngó đến, rồi đây họ kiện
mấy em đến Pháp Chánh thì mấy em thất phận, mấy em nhớ bổn phận làm cha, nên vẹn
giữ cho trọn phận, chớ đừng biếng nhác thì phải mang tiếng "Tử bất giáo, Phụ chi quá" cứ biết với bổn phận mình là
người lớn, phải lo cũng như lo nuôi dưỡng con cháu của nhà mình, đã chịu cực khổ
đủ điều với gia đình mình rồi.
Thôi mấy em nên thành tâm cầu nguyện rồi bãi Hội.
Q.
6/3-13: Huấn dụ Ban Giáo Chức Đạo Đức Học Đường.
ĐỨC
HỘ PHÁP ĐỂ LỜI HUẤN DỤ BAN GIÁO CHỨC ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG, ngày 3-5 Ất Mùi.
Thưa cùng Viên Quan Chức Sắc quyền Đời, nhứt là Bần Đạo
để lời cám ơn Tỉnh Trưởng đã
đến dự cuộc Lễ Phát Phần Thưởng các học sinh.
Thưa cùng Hội Thánh Nam Nữ Lưỡng Phái, Hiệp Thiên và Cửu Trùng, Bần Đạo xin kiếu lỗi
cùng các Ngài, Bần Đạo để lời cùng Ty Giáo Huấn và học sinh Nam Nữ.
Hôm nay các em, các con trong Ty Giáo Huấn hơn ai hết,
Thầy đã biết rõ cái chí hy sinh của mấy con Nam, Nữ, các giáo viên, Thầy hiểu
rõ hơn ai hết, các con đã t thiếu thốn mọi điều đối cùng sự cực nhọc của các
con thì không giá nào mà so sánh đặng. Trọng yếu của tương lai Đạo là tức nhiên
tạo tâm hồn của sắp nhỏ mà chính mình các con là tay thợ đào tạo tương lai của
chúng đó vậy.
Các con học sinh Nam Nữ, các con sẽ lớn, đời tương lai
nòi giống và vận mạng Tổ Quốc của mấy con hàng niên kỷ như Thầy, như Hội Thánh
đều để cả sở vọng của mình trong trí não tâm hồn các con đó vậy. Lẽ dĩ nhiên bất
kỳ một xã hội nhơn quần chủng tộc nào cũng thế, mỗi sắc dân đều có văn hóa
phong tục khác nhau cả thảy. Ta có thể so sánh một phong hóa của một nước nào
nó có thể cao thượng hơn của ta mà ta không có thể gì nhìn nó rằng giống hệt của
ta. Bởi mỗi tinh thần của một chủng tộc nào, sắc dân nào, nó cũng có cái đặc điểm
của nó hết, nhứt là chủng tộc Việt Nam đã thọ ảnh hưởng tối cổ của Nho Tông
chúng ta, cả thuần phong mỹ tục làm cái ảnh tượng tâm hồn nòi giống Việt Nam, đều
là khuôn khổ của nền văn minh tối cổ Nho Tông của ta đó vậy.
Lẽ dĩ nhiên là mỗi Tôn giáo đều đào tạo một nền văn
minh khác nhau, ta có thể so sánh cả phong hóa văn hiến của mỗi chủng tộc, hay
mỗi nền văn minh ta có thể chia ra hai đặc điểm, có nền văn minh xuất hiện ra một
Tôn giáo, có nền văn minh xu hướng theo xã hội, hơn là xu hướng theo đạo đức
tinh thần. Nòi giống và xã hội của cả mấy con có phải lạc hậu chăng? Chưa chắc,
nếu quan sát cho tận tường thì ta ngó thấy cái khuôn khổ xã hội của Nho Tông
chúng ta, nó có thể nó làm một nền tảng cho tương lai cả xã hội nhơn quần kia nữa
mà chớ. Chỉ ta có chịu thiệt thòi một điều là nền văn minh cao thượng ấy, ta
chưa biết đem nó ra đặng cho cả thiên hạ điều biết cái giá trị của nó, chỗ khuyết
điểm là do nơi đó mà thôi? Đương nhiên hôm nay ở trước mắt các con đã ngó thấy
trong nước các con. Nếu Thầy nói nó ở trong tâm hồn các con giờ nầy có hai cái ảnh
hưởng Thiêng Liêng về hai nền văn minh Âu Á, Âu là nền văn minh của Công giáo.
Á là nền văn minh sở hữu của mấy con là Nho.
Buổi giao thời cả phương pháp giáo huấn nó chưa thiệt
hiện tướng diện nó ra cho thiệt chắc đặng làm con đường, con đường tinh thần
thiên nhiên phù hạp với cả trí não tâm hồn của nòi giống chủng tộc các con, Bần
Đạo ngó thấy rằng, cái pha lộn của phương pháp giáo huấn, Pháp còn tồn tại, Bần
Đạo cũng nhìn nó đã ăn sâu vào tâm hồn của nòi giống ta. Sau 80 năm đã chung sống
cùng Pháp, nhưng nó chưa hề chắc rằng, nó làm cho tâm hồn của ta phải xu hướng
trọn vẹn theo nó, bởi vì cả phong hóa văn hiến đều khác hẳn với ngôn ngữ với
trí thức của chúng ta.
Ấy vậy phương pháp hay ho hơn hết, là nơi các con làm
thế nào dung hòa hai nền văn minh ấy tức nhiên hai cái phương học thức ấy.
Bần Đạo đã quan sát ở Đài Loan, ở Nhựt, ở Triều Tiên rồi
mới cân coi phương pháp họ đã cải tổ cả nền văn minh của họ thế nào, và họ đã
dìu đường cho hạng thanh niên của họ về phương học thức thế nào. Bần Đạo ngó thấy
một cái hay của họ hơn hết là những điều chi ngoài họ chỉ để ngoài, lại với cái
hàng rào kín đáo, cái chi ở trong họ giữ một cách đáo để kỷ lưỡng ở trong.
Cả cái duy tân của họ bề ngoài nếu bất kỳ nước nào, để
bước chân tới xứ sở của họ, thì ngó thấy hoàn toàn là duy tân, từ cách ăn mặc,
tánh tình cho tới cử chỉ đều là duy tân hết. Duy có một điều quí hóa hơn hết thảy
mà Bần Đạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong hóa văn hiến cổ truyền của
họ, họ vẫn giữ, họ bảo thủ nó còn tồn tại hiển nhiên, không cho cái ngoài kia
xâm phạm.
Ấy vậy cái học thức của nòi giống các con đã 2.500 năm
văn hiến, phong tục cổ truyền Nho Tông, cái đẹp đẽ của nó, nếu các con khéo giữ
cũng như các nước đã chịu ảnh hưởng của văn minh Nho Tông của chúng ta, cái chi
mà nó ngoài kia thì để nó ngoài, cái chi mà của ở trong của mình mà nó quí hóa
đó của sỡ hữu mấy con thì mấy con giữ.
Cái học thức của Tổ Phụ các con để lại, nhứt là do nới
Tiên Nho, họ chỉ mong có một điều, các con học đặng hành, chớ không phải học rồi
làm ông Thầy Nho đó vậy, hay học đặng làm các nhà triết học vậy thôi. Tổ Phụ
các con buộc các con học đặng phải hành, học lấy cái thuyết ấy, đặng cho các
con thực hiện.
Bởi cớ cho nên, những phương pháp giáo huấn của Tổ Phụ
các con để lại, họ chỉ mơ ước có một điều là các con học đặng hành, mà các con
thiệt hiện được cái hành đó, hay, hay dở là do sự phục vụ Tổ quốc nòi giống các
con đó. Nếu nói rằng: Phục vụ cả thiên hạ là quá đáng, phục vụ nội gia đình và
chủng tộc của mấy con là khuôn khổ học thức cổ truyền Tổ Phụ của các con để lại
đó vậy.
Thầy rút ra trong Tam Tự Kinh, Thầy chỉ rõ rằng: Không
phải học thức để đặng làm nhà triết học, mà cốt yếu học thức đặng phục vụ cho Tổ
quốc và giống nòi "Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật, nhơn bất
học bất như vật".
Lấy theo một khuôn khổ mà nói, con chó giữ nhà, con gà
nó canh giờ, con tằm nó kéo tơ, con ong nó mửa mật, rồi còn kết luận, nhơn bất
học bất như vật, nghĩa là người không học không bằng vật, nếu đem ra 4 cái thí
dụ ấy, là chỉ nghĩa 4 thí dụ là phục vụ mà thôi, dĩ cái sở hành di thượng, lấy
cái sở hành ấy làm đầu hết, các con đã hấp thụ được cái sự giáo hóa của các Thầy,
Cô các con về đạo đức tinh thần, Bần Đạo chỉ mong các con học, học đặng lấy cái
thuyết, rồi cố gắng thật hành cái lý thuyết ấy ra mới đáng cái học của mình.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét