Q. 2/21: Giảng tiếp câu
Thánh ngôn:
QUỐC ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH
ĐẠI ĐẠO,
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng
5 tháng 5 Mậu Tý (dl. 11-06-1948 )
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp câu Thánh ngôn của Ðức Chí Tôn "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong".
Bữa trước Bần Ðạo đã giải rõ đại công của nền nhơn luân phong hóa của ta. Nay ta sưu tầm căn nguyên của Nam phong coi do đâu mà sản xuất. Bần Ðạo đã giảng là cốt yếu muốn thực hành phong hóa nhà Nam, phải do nơi Nho tông mà làm căn bản.
Bữa trước Bần Ðạo đã giải rõ đại công của nền nhơn luân phong hóa của ta. Nay ta sưu tầm căn nguyên của Nam phong coi do đâu mà sản xuất. Bần Ðạo đã giảng là cốt yếu muốn thực hành phong hóa nhà Nam, phải do nơi Nho tông mà làm căn bản.
Thời
kỳ nầy Chí Tôn đến, lấy Nho tông để chuyển thế và thi thố cho cả toàn cầu vạn
quốc một triết lý tối tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của
nhơn loại mà đem vào Thánh chất của con người. Ðức Chí Tôn đã tìm định đến đặng
sửa đương. Vậy ta nên tìm hiểu Nho tông là thể nào? Ðã cho ta vật gì? Có đủ phương
tiện mà chuyển thế đặng chăng? Trước hết ta phải biết trong tay ta có khí cụ gì
rồi mới có đủ can đảm xông pha ra chiến trường quyết thắng, tìm xem coi nhơn
loại đang thiếu thốn điều gì và xem coi nhơn loại đang tìm kiếm vật gì, mà vật
ấy chúng ta có hay không?
Nói
đến Nho tông, thì chẳng còn gì phải biện thuyết nữa, vì đã có chẳng biết bao
nhiêu là Hiền môn, Thánh tích để lại từ thử. Kể từ ngày Ðức Khổng Phu Tử giáng
thế đã hai ngàn năm trăm (2.500) năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa thì ta thấy
Ðạo Nho phát sanh từ vua Phục Hi là tối cổ hơn hết. Ta không thể tìm đâu xa hơn
nữa, duy biết rằng Ðức Khổng Phu Tử học Nho của ông Châu Công, đặng chỉnh đốn
lại Ðạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy vậy.
Ðạo
Nho đã làm được những gì? Ta thấy Ðạo Nho của chúng ta có Hội Thánh mà Hội
Thánh ấy bí ẩn khéo léo lạ lùng duy có một người có thể kiến thiết quốc phong
của một nước mà thôi, chớ không đủ năng lực chuyển cả tâm lý toàn cầu được. Vì
sự khuyết điểm ấy, Ðức Chí Tôn mới đến lập Hội Thánh, đền thờ của Ngài kêu là
Cao Ðài, danh từ đó chỉ rõ đền thờ cao trọng của Ngài tại thế nầy, tiếng Pháp
gọi là Haute Église (nghĩa là đức tin cao trọng).
Hỏi
Hội Thánh của Ðạo Khổng lập quốc thế nào? Ta thấy Hội Thánh của Ðạo Khổng trong
gia đình làm gia pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm đó vậy. Người chưởng
quản gia đình tức là giáo sư, Hội Thánh của Ðạo Khổng tức là ông cha, nên thiên
hạ thường kêu là chủ gia.
Trong
hương đảng có Hội Thánh của hương đảng, theo cổ tục thì ông Hương Chủ là chủ
của Hội Thánh hương đảng, còn chức Hương Cả và Ðại Hương Cả là người ta mới bày
ra sau đây mà thôi. Trong hương lân ngày xưa, chức Hương Chủ là lớn hơn hết
vậy. Khởi đầu trong gia đình, rồi mới tới hương lân, rồi mới ra đến quốc gia,
người chủ của quốc gia ấy là nhà Vua. Ông cha ta trong gia đình, ông Hương Chủ
trong hương thôn, ông Vua trong nước, cả ba người ấy giữ ba giềng mối đạo,
phụng thờ ba Tôn giáo. Tổng số ba Tôn giáo ấy lại là Nho tông.
Ông
cha trong nhà thì thờ Tiên Tằng Tổ Khảo của Tông Môn, ông là giáo sư, là thầy
cả trong gia đình. Ông Hương Chủ thì thờ Chư Thần tức là cả Công Thần vì nước
mà hy sanh tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm chủ hương lân, nên trong làng ta
chỉ thấy có đình thờ Thần thiên thu phụng tự mà thôi, nên ông Hương Chủ là thầy
Cả của làng. Nhà Vua thì thờ Ðức Chí Tôn tức là Ngọc Hoàng Thượng Ðế, ta thấy
sự tế tự Ðấng Chí Tôn ấy lưu truyền từ đời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế
Nam Giao, đó là tế Ðức Chí Tôn vậy.
Từ
đời lập quốc đến giờ, trong phong hóa nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự
phụng tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của tổ tiên ta biết phụng thờ Ðức Chí
Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền
bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ. Thế thì Ngài đến vì Tổ tiên ta đã gieo mối thâm tình
nồng hậu, chớ chẳng phải vì sự tình cờ mà Ngài đến nước Việt Nam nầy đâu. Trong
phong hóa của ta gồm có: Phong hóa của nhà, phong hóa của làng, phong hóa của
nước, tức là phong hóa chung của xã hội nhơn quần Việt Nam ta đó. Bây giờ chúng
ta khảo cứu coi Nho tông đối với xã hội là gì? Tức nhiên ta thấy là luật pháp,
tuy rằng 86 năm nay bị ảnh hưởng của văn minh Âu Châu, chúng ta lãng quên nền
phong hóa tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.
Chí
Tôn đã đến, Ðạo Nho có Thất thập nhị Hiền, và Tam thiên đồ đệ, Chí Tôn lập Hội
Thánh có Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, và Tam
thiên đồ đệ, rõ ràng là Hội Thánh của Ðạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp
dụng nền chánh trị của nhà Châu đặng lập chánh trị của Ðạo, làm cho cả cơ quan
yếu thiết của Ðạo Cao Ðài ra thiệt tướng, đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không
có gì mà nghi ngờ nữa cả.
Gia
nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có những gì? Căn bản gia
nghiêm hay gia pháp do nhơn luân chi Ðạo, nên lấy nhơn luân làm chuẩn đích, mà
nói về nhơn luân thì mỗi người đều biết. Khởi đoan là hôn phối, việc vợ chồng
đối với nhau để trọn quyền của ông chủ gia định liệu là người chồng, sau quyền
chủ gia ấy lại có quyền nội trợ để cho người vợ, hai quyền ấy vô đối. Ta thấy
lối 100 năm trước đây, quyền của cha bảo con chết cũng phải chết, không phải
bất hiếu như ngày hôm nay của những kẻ học đòi theo lượn sóng tự do văn minh
vật chất, rồi còn trở lại muốn làm chủ cha mẹ. Không, Nho pháp không cho có
quyền lực ấy bao giờ. Nho pháp không chịu cho cái giọt máu, cái giọt khí huyết,
do vật ấy tạo hình, lại muốn làm chủ vật ấy tạo đoan ra nó, như vậy là sái luật
thiên nhiên của Chí Tôn dĩ định. Hỏi vậy cái quyền nắm đạo nhơn luân trong tay
của ông cha ta quan sát theo con mắt của đời văn minh nầy thì nói là quyền áp
bức có phải? Hại thay! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong hóa của con người
đem vào khuôn khổ thuần phong mỹ tục thì cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ
chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tính chất
làm người đó. Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người
đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu; nên
ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại hoại thân hình,
tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.(*1)
Bần
Ðạo buổi ấu xuân bị ảnh hưởng của tự do, thấy sự kềm thúc của gia nghiêm lấy
làm khó chịu. Khi ấy Bần Ðạo đang học Pháp Văn. Lúc về thăm ông thầy Nho, khi
đến đó ông mới tường thuật tình cảnh bối rối gia đình của một vị quan viên bà
con xa với Bần Ðạo. Vì vợ làm khổ tâm cho chồng là vị quan viên ấy, đến nỗi gia
đình phải tan nát. Ông tường thuật câu chuyện nầy vừa xong thì lại than rằng: "Hại thay! Vì buổi trước không phải cha
mẹ định hôn, mà tự do kết hôn nên ngày hôm nay mới ra dường ấy". Thừa
dịp ấy Bần Ðạo mới vấn nạn ông, Bần Ðạo hỏi rằng: "Gia pháp của ta nghiêm khắc quá lẽ, đến sự chăn con như chúa ngục
chăn tù, nếu không có quyền tự do thì con sẽ tối tăm ngu dốt?". Ông
lại trả lời rằng: "Không, không phải
gia pháp áp bức làm cho con mất tự do đâu, mà trái lại người có quyền lắm chớ,
đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà "tại gia tùng phụ, xuất
giá tùng phu, phu tử tùng tử". Quyền
của con còn có thể thế cho quyền cha được rồi, thì có áp bức chỗ nào đâu? Chỉ
có kềm thúc tâm tình của con cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn phối
của nó, để cho nó đủ đầy tình ái mà thương người vợ tương lai của nó vậy thôi.
Muốn định hôn cho con thì trước hết cha mẹ đã lựa chọn tâm lý của vị hôn thê
coi có hòa hiệp với tâm tình của con mình không, chứ chẳng phải xem xét tánh
đức mà thôi, mà cha mẹ là người lịch lãm thế tình, nên thâm hiểu cả tâm tình
của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng
nhau, đồng tâm đồng chí thương yêu nhau đặng."
Ðạo
nhơn luân khởi thủy từ hôn nhơn, mà Nho phong đã định cho cha mẹ vi chủ, nếu để
cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi, mà gia đình hư tức nhiên sẽ có ảnh
hưởng tới xã hội vậy.
Ðây
là Bần Ðạo duy mới nói có gia nghiêm mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm
lý. Sự hám vọng tự do quá lẽ, mà đưa tâm lý con người đến mức khả ố, nguy hiểm
không thể tả được. Ta thấy nó gieo trên mặt địa cầu nầy một triết lý vô lối là
triết lý: Vô phụ, vô quân, không quê hương, không gia đình, bởi vậy ta mới thấy
thế tình con sanh ra ngỗ nghịch, không tuân phụ huấn. Thảng như ngoại nhơn có
hỏi đến tại sao đã lớn, đã khôn, mà không biết nghe lời phụ huấn cư xử với đời
vô để vô nhơn không còn tình thương nhơn phẩm, thì chư Ðạo Hữu biết kẻ bất hiếu
kia sẽ trả lời ra sao không? Nó trả lời rằng: Tôi không xin họ sanh tôi, tôi
không muốn họ sanh tôi, chẳng qua là họ vì lỡ mà sanh tôi nên họ phải nuôi tôi
đó thôi. Ôi! Ân đức thâm sanh thật không còn có nghĩa gì hết.
Những
tục lệ ấy nếu Ðạo Cao Ðài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại
trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.
Phụ
ghi:
(*1)
Nơi đoạn thứ 10: Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có
những gì? ... ... ... Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những
người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu;
nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại hoại thân
hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.
Nguyên
bản chánh in là: Gia nghiêm của ta lập thành do phong hóa của tổ phụ để lại có
những gì? ... ... ... Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những
người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu;
nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do, định phận ấy đã làm bại hoại thân
hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.
Chúng
tôi mạn phép trình bày như trên cho rõ nghĩa hơn.
Q. 2/22: BẢO THỦ THUẦN PHONG MỸ
TỤC.
Tại Ðền Thánh, 12 tháng 5 năm
Mậu Tý (dl. 18-06-1948)
Hôm
nay, Bần Ðạo tiếp tục khảo cứu phong hóa của dân tộc Việt Nam đối với phong hóa
các dân tộc khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương gì chỉnh đốn đạo nhơn luân
của họ đặng? Mấy kỳ trước Bần Ðạo đã giảng rằng: Ðạo nhơn luân khởi đoan do chồng
vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xã
hội.
Ðương
nhiên chúng ta thấy đạo nhơn luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã
nghiêng đổ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ
là thường, Bần Ðạo thấy rất nên bại hoại, từ thử đến giờ chưa nghe ai nói cha
lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường có xảy ra điều ấy. Hại thay! Trải
qua tám chục năm nay những tánh tình yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi
giống chúng ta, ngày nay vẫn còn thấy tấn tuồng đó nữa, yêu nghiệt đã biến
tướng biểu sao thiên hạ không loạn được. Ðạo nhơn luân đã vậy, tinh thần của
con người không còn biết phẩm vị, nhơn cách gì hết, nên hột giống ác nghiệt
biến sanh ra mãi thôi. Thành thử nhơn loại ngày nay quá bạo ngược, tương tàn
tương sát lẫn nhau, người đối với người còn dữ tợn hơn thú đối với thú nữa, vô
nhơn vô đạo, cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh,
em chẳng ra em, chồng không nên chồng, vợ không đáng vợ, nền luân lý của nhơn
loại trên mặt địa cầu nầy không còn có khuôn khổ gì hết. May thay! Ðạo nhơn
luân của tổ phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm
cho ô uế đôi chút, nhưng nhờ Ðức Chí Tôn đến phổ truyền nền Chơn giáo của Ngài
nơi đất Việt Nam nầy, có thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho
toàn cả các sắc dân nơi địa cầu nầy bắt chước theo nữa.
Ðạo
làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ, nhờ nơi Nho tông rất oai quyền,
nghiêm khắc, mặt luật của nó kềm chế tâm lý của con người. Ðạo nhơn luân của
nhà Nho ta có cái vẻ đẹp thiên nhiên, ai tiêm nhiễm đến cũng sanh mê mẩn, cảm
kích, vậy mới tạo tâm lý theo Nho tông làm hình trạng tinh thần Nho Ðạo, khuôn
tuồng đó duy ở Việt Nam mới có, còn các Tôn giáo khác hình tướng lại biến ra
làm khuôn mẫu riêng trên sân khấu đời, nên Ðạo Nho tông thâm nhập vào cốt thể
của cả thảy con người đặng. Bao nhiêu gương để chỉnh đốn đạo nhơn luân, cốt yếu
làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau lập mình lên
bực chí Thánh. Như thời xưa vợ ông Châu Công, Ngài là Tể Tướng đầu triều mà bà
vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ phu nhơn mà cư xử được
như vậy thật đáng quý. Kịp đến khi ông hồi hưu, buổi già cả vợ chồng đối với
nhau như chủ khách. Nước ta lại có bà vợ của ông Phan Thanh Giản. Ông xuất sĩ
rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi
vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét
ra thì gương ấy cả Âu Châu cũng chưa hề có vậy. Ngày giờ nào, gương mẫu tiết
liệt ấy trải ra cho toàn phụ nữ trên mặt địa cầu nầy đồ theo, thì ngày ấy danh
thể của phái nữ mới được trọng nể, nhứt là phụ nữ Cao Ðài cần phải làm cho
đặng, hầu sửa đương nền phong hóa của Việt Nam trước đã.
Còn
về sự tồi tệ thì chúng ta hằng thấy tích xưa điển cũ, như có câu: "Ðố phụ loạn gia". Lạ lùng
thay và khéo léo thay! Chẳng phải do ở bọn hàn mặc hoặc thượng lưu trí thức,
lại ở nơi một người đàn bà hạng thường, đủ khôn ngoan đạo đức có đủ hạnh kiểm
có thể sửa chồng nên phận được.
Xưa kia
có người lính cầm lọng cho Yến Tử là quan Tể Tướng. Ông nầy thì nhỏ người, còn
chú lính cầm lọng thì to lớn kịch cợm. Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều,
nhưng con người có tánh cách nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh, gương
mặt khiêm hòa, còn chú lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng tá nghinh
ngang, tưởng rằng không phải Yến Tử mà chính anh ta là Tể Tướng đầu triều mà
chớ! Lúc Tể Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính núp kẹt cửa thấy vậy, nên khi
về nhà mới đòi làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao? Người vợ nói rằng: "Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy chàng đi
ngang, Quan Tể Tướng, Ngài thì nhỏ người mà gương mặt nho nhã, tỏ vẻ hạ mình
còn chàng thân hình to lớn mà chàng hiên ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế,
thiếp lấy làm hổ ngươi không thể ở với chàng nữa". Nhờ vậy, chú lính
ấy biết cảm hóa, sau sửa mình lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực
Tướng. Ấy vậy, đạo nhơn luân nếu biết giữ chặt, thì vợ có thể làm nên cho
chồng, dạy chồng nên đạo được. Phụ nữ Cao Ðài cũng thế đã hai mươi ba năm nay
tiêm nhiễm đạo đức tinh thần, tạo đầu óc tâm não, vậy tìm phương dạy chồng thế
nào!
Có
nhiều hạng người được vinh vang thì lên mặt phách xấc, không nhớ đến căn bổn
hèn hạ của mình khi trước, phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được
là nhờ Chí Tôn tô mày vẽ mặt cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ý sửa
dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi chút.
Ðối
với cha con, Nho tông để lại nhiều vẻ đẹp của tổ phụ chúng ta lưu truyền đặng
làm chuẩn thằng mà sửa đương xã hội và lập quốc. Cha hiền mới sanh con thảo,
con thảo là hột giống để làm một nền móng tương lai, tương lai quý hóa không
thể tả, bởi Tiên Nho chúng ta đã nói: "Vua
Nghiêu tìm ông Thuấn đặng truyền ngôi, chẳng vì lẽ gì hơn là nghe danh ông
Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi thì không gì sánh bằng. Có hiếu
rồi mới có nghĩa, có trung, có cang, có trí, nghĩa là hễ có hiếu rồi thì có thể
có đủ hết tính đức khác".
Ngày
xưa người ta tầm hiếu, đến tại nơi thôn lân, huyện, phủ, tỉnh lỵ, để hỏi thăm
những gương hiếu thuận. Người ta tìm hiếu tức là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy
độ ra cái hiền của bậc danh thần triều chánh, mà muốn có hiếu thì cha phải có
từ vậy. Bần Ðạo thấy quốc dân Việt Nam bị ảnh hưởng của ngoại quốc, con không
cần cha, cha không biết đến con, tồi phong tệ tục ấy đã thấy rõ ràng trước mắt.
Bởi vậy, trong xã hội có ba người quan trọng: Cha, Chủ, Chúa. Cha là ông chủ
của một gia đình, Chủ là ông chủ của một hương đảng, Chúa là ông chủ của một
nước, cả ba vị ấy làm đầu từ gia đình lên xã hội. Nếu quyền cha nắm không kham là
do người cha bất lực. Truy căn nguyên là do tại tự do kết hôn, chồng không phải
chồng, vợ không phải vợ, cập xách với nhau rồi tự lập gia đình, đạo nhơn luân
không có chỗ nào ràng buộc, chẳng qua là chơi hoa giỡn nguyệt, không căn bản gì
hết, biểu sao khi sanh con ra mà chúng lại không trở nên kẻ vô bổn. Nhứt hạng
Việt Nam lai của ta là tối hại.
Bần
Ðạo đã nói để cha mẹ định hôn, như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả kiếp
sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ còn đủ, đến ông nội, ông cố cũng còn nữa, trộng một
chút là ta vẫn cũng còn thấy đông đảo, đó là khi chưa biết khôn, khi đã khởi
biết khôn ngoan thì ông nội đã đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già, mà mình cũng già
nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mất, mình cảm thấy cái quyền trong tâm lý của mình
cũng mất.
Cha
mẹ là bực cao kỳ trí thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho
chúng ta chưa có tình thương nồng nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào,
nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng đã khuất, thì vợ nhận thấy ở chồng là
hình ảnh người cha của mình, còn chồng nhận thấy ở vợ là hình ảnh mẹ của mình,
nên được khuây khỏa tấm lòng và khắn khít không lìa nhau là vì lẽ ấy. Nói gì
trên bộc trong dâu, một đời nếu không có xảy ra điều gì thì thôi, còn nếu có
xảy ra điều chi sanh phiền sanh giận, thì chừng ấy không phương thuốc gì trị
được cả, tâm lý phải chia lìa thì tình kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau thay
chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao
tương lai không hư hèn và tánh đức không lạc lầm phàm tâm lìa đạo đức. Làm cha
mẹ nếu chúng ta biết Tiên Nho đã đối với con người như thế nào, và toàn cả xã
hội Việt Nam, cả nòi giống cưng con như thế nào, đến nỗi trong một Tông đường
có đứa con nào ngỗ nghịch cha mẹ định từ bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ
chưa thấy ai từ con được bao giờ.
Nhớ
lại, khi Bần Ðạo đi ngoài Qui Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, vì ông
bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có
treo tranh biển gì hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có một vế thôi: "Nhược niệm Cửu Huyền chi bổn, khả năng
tu tỉnh ngộ thân", nghĩa là: "Nhớ
đến Cửu Huyền thì phải rán gìn giữ thân mình". Bần Ðạo thấy thờ có một
câu mà không có sơn thủy gì hết, lấy làm lạ thì ông nói: "Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu
chỉnh thì Cửu Huyền sẽ vinh diệu, biết giữ thân mình không bịnh nhược thì sanh
con sáng láng mạnh khỏe khôn ngoan". Ðời bây giờ thiên hạ mê đường hoa
nguyệt phong tình, sanh con lớn lên thành ho lao, ho tổn, hay tật nguyền, có
nhiều sắc dân sanh con thấy tàn tật ghê khiếp lắm, vì cớ mà mấy năm trước đây
Hitler thi hành chánh sách của Ðức Quốc Xã xử tử hay là thiến những kẻ tàn tật,
bịnh hoạn, lấy lý rằng kẻ ấy chẳng giúp ích gì cho nước, chẳng những thêm một
miếng ăn cho xã hội lại còn di hại cho nòi giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa
lại những dân đinh cường tráng, nhưng vì Ðức Quốc Xã đã làm quá lẽ thành ra tàn
ác nghịch đạo làm người.
Tổ
phụ chúng ta không thi thố chánh sách ấy, chỉ dùng tinh thần đặng giữ con cho
nó tránh khỏi sự bạc nhược đã nói, mà nòi giống Việt Nam nầy không bị tiêu diệt
là nhờ khéo giữ đạo nhơn luân từ trước đó vậy.
Q. 2/23: PHONG HÓA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN TỘC VẠN QUỐC.
Tại Ðền Thánh, đêm 19 tháng 5
năm Mậu Tý (dl. 25-06-1948)
Bần
Ðạo giảng tiếp về khảo cứu phong hóa nước ta đối với các dân tộc vạn quốc.
Bần
Ðạo đã giảng rằng trong quốc gia xã hội chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa.
Ba quyền ấy cầm cả chánh trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và
lớn, chớ chánh kiến vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền tảng cho phong hóa
chúng ta vậy.
Hôm
nay, Bần Ðạo tiếp giảng về quyền làm cha và triều chánh của ông cha, tức là gia
đình liên quan thế nào đối với triều chánh của làng và triều chánh của nước.
Chúng
ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền chúa là trên hết, sau biến tướng đến
quyền cha, quyền thầy. Ấy là đạo Tam Cang: Phụ tử, Sư đệ, Quân thần. Bần Ðạo sẽ
giảng rành mạch về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần Ðạo giải rõ quyền cha mà
thôi.
Vả
chăng chúng ta để ý cho tận tường xem coi xã hội chúng ta thấy có điều đặc sắc
riêng biệt không giống với các xã hội khác, là từ khi Ðức Khổng Phu Tử hiệp ba
quyền ấy làm Hội Thánh của Ngài. Ông cha tức là thầy của gia đình, ông chủ tức
là ông thầy cả của làng, ông vua chúa tức là ông thầy cả của nước. Vì cớ nên
hình trạng của ba quyền ấy Bần Ðạo nói rõ là lớn nhỏ khác nhau, mà chánh kiến
vẫn là một. Trong gia đình nếu ta không gọi là ông Cha thì gọi là ông Chúa của
gia đình, cầm đầu cái triều chánh của ông, bà vợ trong gia đình, người ta còn
gọi là Nội Tướng tức là Thủ Tướng của gia đình, cả con cái là Lục Bộ Ðài Quan,
tôi tớ hoặc những công nhân giúp việc trong gia đình tức nhiên là toàn dân vậy.
Ấy
vậy, gia đình theo phong hóa Việt Nam ta rất trọng hệ, ông Cha của gia đình
cũng như ông Chúa của nước vậy, nên xét ra đến cực điểm phong hóa của ta thì
thấy tốt đẹp lạ lùng, chỉ vì ta không quan tâm đến thôi, nếu để ý ta sẽ vui
hứng hạnh phúc đặc biệt, bởi không có dân tộc nào giống như chúng ta, kỳ dư
nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn minh như chúng ta mà cũng không đồng một
vẻ hay là giảm bớt thì có. Trọng hệ là gia đình, mà gia đình có được trọng hệ
thì ông Chúa của gia đình mới trọng. Vì cớ đạo làm Cha, phong hóa chúng ta kính
trọng một cách vô đối. Ðối với xã hội, tổ phụ chúng ta biết con cái lớn lên
phải lập gia thất, nên mới lưu truyền món hương hỏa ấy. Lấy gia pháp làm chủ
đích, gia pháp ấy biến ra gia nghiêm, mà gia nghiêm chặt chịa kềm thúc con cái
chẳng có ý chi khác hơn là dụng oai quyền đó mà tạo một vị Chúa tương lai cho
gia đình, nên tổ phụ chúng ta trông nom điều trọng hệ ấy mà hủy bỏ cả hành tàng
phụ thuộc ở ngoài là cả sự sanh hoạt của gia đình, chỉ lo bảo thủ lấy tinh thần
làm Cha tương lai cho đúng giá trị của nó.
Lạ
chi đối với nòi giống của chúng ta thường nghe mọi người nói: "Phụ có từ, tử mới hiếu" mà
Bần Ðạo đã nói rằng cả tánh đức của con người đứng đầu trên hết là hiếu, Bần
Ðạo cũng đã giảng, đời Thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi hiếu, nên Vua
Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là vì ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh đức
hiếu ấy là cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là tánh đức của đạo
đức tinh thần và nó đi gần tánh chất của loài người. Con người đã có hiếu thì
các tánh đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi vì khởi đoan của tâm hiếu,
không phải biến sanh một ngày, một bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm
căn bản môi giới cho các tánh đức khác nảy nở, mà ta đã thấy và định quyết rằng
người đã làm được con hiếu thì thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất
tối cần, tối trọng cho xã hội vậy.
Ấy
vậy, trong gia đình phải có phụ từ, mà tại sao cha phải từ? Phương ngôn nói: "Cha hiền sanh con thảo", lại
có câu: "Hiếu thuận huờn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch huờn sanh ngỗ
nghịch nhi", sách xưa truyện cũ ta thấy còn lưu lại nhiều thành tích rất
quí hóa. Ðứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó
chưa có hình trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô trược dính vào chung
quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước
mẹ, dòm anh em bắt chước anh em. Trong gia đình nếu có gương cha lành, thì sự
ấy huyền bí thay! Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh, đứa con chưa biết
nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần Ðạo
vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất, dầu đứa con có lơ
lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán
ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được, khi cha mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tiềm
tàng cái giáo hóa buổi sơ sanh ấy làm căn gốc trong bản tâm của nó.
Làm
người cha hiền không biết làm mất tự do của con, trái lại còn trọng nữa, trong
xã hội chúng ta như vậy đó. Ðừng thấy hình trạng giáo hóa bề ngoài lấy nghiêm
trị làm căn bản mà gọi rằng đối với nòi giống chúng ta cha mẹ áp chế con làm
mất tự do của nó. Không phải như vậy đâu! Có lẽ vì nhìn thấy Tông đường hư
hoại, nên cha mới nghiêm trị con, đặng bảo thủ tương lai của Tông đường, chớ
chẳng phải cố làm cho mất quyền tự do của con.
Bần
Ðạo giảng tích này cho cả thảy nghe mà suy gẫm, thì thấy nòi giống chúng ta vốn
trọng sự tự do của con cái mà trọng một cách khéo léo.
Ðời
Tiền Lê có ông Thừa Tướng đầu triều không có con. Hai ông bà thường đến chùa
này miễu kia cầu tự. "Nhơn hữu thiện
niệm, thiên tất tùng chi", nên bà vợ hạ sanh được một đứa con trai.
Quan Thừa Tướng đã niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai thì nỗi mừng vui
đó không thể luận được. Người Nam mình hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng cậu
công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đình đối với cậu thì ai cũng là
tôi đòi nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm
nhỏng nhẻo, rồi du côn, rồi hoang đàng chi địa vô giáo dục. Tấn tuồng xảy ra
như vậy mà quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, vì quá cưng thì
còn ai dám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất gì cũng được.
Ðến
tuổi đi học, cho vào trường thì không ai chịu nổi, con các quan bị cậu đánh
luôn, ngày nào cũng có mắng vốn. Thấy tình trạng như vậy, biết con mình bị cưng
quá không ai động tới được. Ðến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi thanh
lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc, không món nào mà cậu không có, ngoài ra còn du
côn, du đảng, ai thấy gia đình ấy mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả
nên nay phải thống khổ tinh thần như vậy. Nhưng ông bà cũng vẫn cưng không động
gì tới cậu công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là quan Hình Bộ Thượng
Thơ rằng: "Tôi có một đứa con mà con
cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ đổi", thì ông bạn nói: "Thưa quan
Thừa Tướng, nếu Ngài giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi
đặng tôi giáo hóa thử coi". Quan Thừa Tướng đã hết phương rồi, nên
giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn còn buông lung
điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho quan Thừa Tướng
hay: "Tôi phải dụng quyền đối với
lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài
vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng". Quan Thừa Tướng chịu: "Bạn làm sao giúp tôi được thì làm, vì
tôi cùng đường hết kế rồi". Quan Hình Bộ Thượng Thơ thả cho cậu công
tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ, rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội
nhơn khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về
nhà cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra chịu tội
trước triều đình, rồi Ngài và quan Hình Bộ Thượng Thơ đến người nầy người nọ
xin tha thứ, đi tới đâu dắt công tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên
lương tâm tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha dường ấy.
Về
nhà ông rước thầy cho đi học thêm nữa, vì cậu đã biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu
ở nhà không dám phóng túng chơi bời nữa. Nhưng, trong gia đình cũng không chiều
được cậu chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai cả, nổi giận là cậu
đánh đập liền. Ông mới tính một phương thế, lấy cớ là con nhà trâm anh, bắt cậu
để móng tay, từ đó cậu ít đi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa,
là vì cũng bị lật móng tay hai ba lần gì đó, nên hoảng mà thuần nết lại. Ðến
khi triều đình mở khoa mục, cậu nhờ trí thông minh sáng suốt lạ thường lại học
giỏi nên được chấm đậu Trạng Nguyên. Nhà vua và cả mọi người biết tánh đức của
cậu trước như vậy mà nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia đình còn mừng
hơn nữa. Thiết lễ Tân quan, khi vị Tân quan vào bái lễ Từ đường, rồi trở ra hội
yến với các quan, quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói: "Ngày nay con đã vinh hiển rồi sẽ ra làm quan thì móng tay con
không để làm chi nữa, con đưa đây cho cha", ông cắt tử tế, đem vào bàn
thờ Từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ "Trấn tâm chi bửu" nghĩa là
của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng: "Từ đây trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều,
vật trấn tâm chi bửu này cũng không nên rời con". Thì y như vậy, từ đó
về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu triều,
mà cái gói trấn tâm chi bửu tức là móng tay đó vẫn còn luôn.
Bần
Ðạo dám cả gan nói rằng: Nhờ cái phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt Nam ta
mới bền bĩ, và chắc chắn rằng người đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc
lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh thần đó mà chúng ta đạt được tinh thần độc
lập ngày nay.
Phụ
giáo rất cao kỳ quý hóa. Nếu xét tường tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm
chúa gia đình. Trước khi tạo gia đình, cần suy gẫm coi ta có xứng đáng làm chúa
làm nội tướng chăng rồi sẽ tạo, cả khuôn khổ tốt đẹp nòi giống chúng ta đã xao
lãng, nào giục tấn, nào cấp tiến, nào văn minh, nào duy tân đáo để thôi. Tấn
tuồng duy tân vật chất đưa đến tồi phong bại tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá
độc hại vậy.
Phong
hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà
đã biết như vậy thì nên bỏ hay là phải cố thủ? Phải bảo thủ cái thể chất toàn
hảo ấy là điều Chí Tôn mong muốn hơn hết. Ngài không nỡ nói ra, mà Ngài trông
cho chúng ta biết phục hồi cái phong hóa của Tổ phụ lưu lại, đặng tạo một văn hóa
tương lai cho toàn thể mặt địa cầu nầy vậy.
Nếu
Ngài nói ra thì nòi giống Việt Nam sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại
sự tự do của loài người và đời văn minh vật chất này không thể không chỉ trích
Chí Tôn với lời lẽ ấy, nên Ngài không nói đó vậy.
Q. 2/24: PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC. (t.t.)
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 5
năm Mậu Tý (1948)
Hôm
nay Bần Ðạo tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của chủng tộc Việt Nam đối với các
chủng tộc khác.
Bần
Ðạo đã giảng rõ về đạo làm cha trong xã hội của chúng ta đã tạo thành một nền
phong hóa đặc sắc của nòi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần Ðạo lần lượt giảng
tiếp về cái quyền của cha. Bần Ðạo giảng về đạo và quyền của cha trước rồi sẽ
giảng về đạo và quyền của chủ, sau chót mới đến đạo và quyền của nhà vua tức là
chúa.
Ai
cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của
các Tôn giáo, nên từ Thượng cổ Tổ phụ ta đã lưu lại cho nòi giống ta cái cảnh
tượng là biết tôn trọng Cửu Huyền Thất Tổ, dầu quá vãng hay hiện tiền cũng vậy,
sự sùng thượng ấy còn tồn tại trong tâm hồn mãi thôi, chẳng hề khi nào quên ông
bà của chúng ta được. Nên Tôn giáo chơn thật ấy nó buộc vạn quốc nhìn nhận là
một Tôn giáo đặc sắc của một sắc dân chơn thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn luân
của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của Cửu Huyền Thất Tổ đó vậy. Ta chẳng
còn luận chi sâu xa hơn nữa, chỉ nói cái nợ máu thịt mà nòi giống Việt Nam nầy
xem mắc hơn các nòi giống khác trên mặt địa cầu nầy. Vì bởi Tiên Nho chúng ta
đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cảm (cầm?) (*1) tâm lý của
nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu
tam vô hậu nhi kế đại". Trọng hệ hơn hết của nền quốc giáo Việt Nam
ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại,
nếu không đương nỗi thì phải chịu thất hiếu với cả Tông tộc, Cửu Huyền Thất Tổ.
Thất hiếu trọn vẹn, mà đã thất hiếu rồi thì buổi tương lai về cõi Hư Linh không
ngó mặt ông bà ta đặng. Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta có vẻ nghiêm khắc,
truyền lại làm căn bản Tôn giáo trong nước, dùng khuôn khổ trọng nghiêm ấy đặng
định luật, thì ta chẳng còn ngạc nhiên, hỏi bởi cớ sao luật nhơn luân lại gắt
gao như vậy?
Xưa
kia hễ định luật hôn phối với nhau thành chồng vợ rồi thì chủ hướng duy có một
điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục thường nói rằng: "Dài dòng cả họ", nên Tông tộc nào dài dòng cả họ thì
hạnh phúc đáo để, trước phong hóa mà được dài dòng cả họ thì được tôn trọng vô
đối, tức nhiên buộc đạo nhơn luân phải gắt gao; khi cưới vợ ba năm mà không
sanh con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép để bỏ và lập thứ. Tại sao? Nếu
người đàn ông cả gan vì thương vợ mà không chịu để bỏ thì mang tội bất hiếu với
Cửu Huyền Thất Tổ, với cha mẹ kia kìa.
Thấy
đạo nhơn luân của chúng ta trọng yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền
cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền cha trong phong hóa chúng ta, nếu con
bất hiếu có thể lên án tử hình được, lên án với luật pháp hữu định, bởi vậy nên
Tổ phụ ta nói: "Quân xử thần tử,
thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu", ấy là luật
nhơn luân của ta như vậy đó.
Ðối
với các quốc gia, các nòi giống khác, nếu có công kích thì họ nói đó là làm mất
quyền tự do, mất nhơn phẩm của con. Bần Ðạo dám chắc rằng họ thèm thuồng lắm mà
họ làm không được vì tình trạng phong hóa của ta, các nước Âu Châu không thế
đối đặng. Bần Ðạo giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần Ðạo trông thấy hiển
nhiên là khi Bần Ðạo mới ra trường đi làm việc, đổi xuống Cái Nhum, có ông Kế
Hiền ở làng Chánh An, tên là Kế Hiền Kỷ làm một vị Trưởng tộc trong Tông đường,
niên kỷ độ lối 55 tuổi.(*)
Khi
ấy trong nhà thờ Tông đường làm lễ cúng ông Cao Tằng gì đó, mà lệ trong dòng
họ, người nào đến giờ tế tự mà vắng mặt thì năm đó mất phần hương hỏa. Sự
nghiêm trị rất nhẹ nhàng nhưng mực thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt
cất đầu không nổi, rồi chỉ có khóc lóc lén lút vậy thôi nên cả thảy đều phải
đến. Bần Ðạo tọc mạch theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong Tông đường của
Bần Ðạo gia phong thì lại khác. Bởi biết ông Kế Hiền Kỷ còn theo Nho lắm, trong
lúc ấy Bần Ðạo ngạc nhiên thấy trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng, dầu
khinh, mỗi đứa đều đem tới một món, đi thôi rần rộ, độ 7 giờ cúng thì lối 5 giờ
đi rước ông Trưởng tộc, các con cháu xúm khiêng ông, ba bốn chục người giành mà
khiêng, còn bao nhiêu đi theo sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp, ôi
thôi! Bần Ðạo tưởng nhà Vua cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem
bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy.
Bần Ðạo tưởng tượng đó là ông Vua, ông Chúa của gia đình rõ ràng như vậy.
Còn
nếu biết ông trị nghiêm trong Tông đường thế nào thì lại càng cảm mến hơn nữa,
vì bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà nào đem nhau tới làng mà kiện thưa
một việc chi cả, gia luật thật đáo để đẹp đẽ và nghiêm khắc, như thế mà đã năm
sáu đời truyền kế. Tộc phái không kể Nội Ngoại gì cũng kế nghiệp được. Trong
Tộc phái ấy có một bộ Tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu
luôn. Ngày giờ nầy các nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta bảo thủ cổ tục ấy,
hỏi có ai làm đặng vậy chưa? Nếu có được thì một phần ít thôi, mà cũng không có
nữa. Tại sao? Tại tiêm nhiểm văn hóa Âu Châu rồi đem của quý liệng đi hốt của
bỏ đem vào, tinh thần đã thành ra bạc nhược, thô bỉ, chạy theo thuyết duy vật
của văn minh vật chất, quên hẳn khuôn khổ Tổ nghiệp ta để lại rất đẹp đẽ vô
cùng, thâu thập những vật không đáng giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận thiện
tận mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao
chăng? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu sao không trộm cướp loạn lạc, giặc giã
tứ tung cho được!
Nền
đạo nhơn luân có đủ năng lực bảo trọng tương lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy
cái hoàn thuốc độc của thiên hạ đưa cho, đã thiệt thòi mà cũng còn rán trướng
cổ lên mà nuốt, nuốt cho chết.
Quyền
hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo thủ cho toàn dân tộc được thì đừng mong gì
vĩnh cửu. Trái lại cần phải tô điểm Nam phong do tinh thần Tổ phụ ta để lại làm
căn bản mới đủ sức mạnh, đủ cường liệt đứng đợt với toàn cầu vạn quốc. Bằng
chẳng vậy thì đừng mong sớm hưởng, còn xa vời lắm.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 3: Ai cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt Nam
ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn giáo,... ... ... Vì bởi Tiên Nho chúng ta
đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên
nghiệp để cảm (cầm?) tâm lý của nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô
hậu nhi kế đại".
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ai cũng biết điều trọng
yếu trong xã hội Việt Nam ta là Tổ phụ là nguồn cội của các Tôn
giáo,... ... ... Vì bởi Tiên Nho chúng ta đã lưu
lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cầm tâm lý của
nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại".
Cuối những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng
tôi xin mạn phép phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có
phân đoạn tại những nơi ấy. Kính cáo.
Q. 2/25: PHONG HÓA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC. (t.t.)
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 1
tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 07-07-1948)
Chúng
ta hôm nay tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của nước nhà ta đối với các dân tộc
toàn thiên hạ.
Bần
Ðạo đã giảng về chủ quyền thứ ba của xã hội chúng ta, gọi là quyền giáo sư thứ
ba theo Ðạo Nho mà vị chủ quyền về đạo nhơn luân hay là chủ quyền về gia đình
ấy tức là ông cha. Bần Ðạo đã giảng về đạo và quyền của người rồi, bây giờ tiếp
giảng về ông chủ quyền thứ nhì của xã hội. (*)
Ông
chủ quyền thứ nhì mà cũng là giáo sư văn minh Nho Giáo là ông Chủ của Hương
đảng. Bần Ðạo đã nói chức Ðại Hương Cả hay Kế Hiền là mới bày đặt sau này, chớ
Nho Giáo chỉ định tới Hương Chủ là hết. Ta thấy rằng vị đó cầm quyền hương thôn,
mà thật ra người cũng là chủ quyền của xã hội. Ta để tâm nghiên cứu coi cái
phong hóa của đệ nhị chủ quyền nắm đó ra thế nào? Bần Ðạo xin nói trước rằng nó
tốt đẹp không gì bì đặng, hại thay! Ngày giờ này vì quốc dân xu hướng theo văn
minh tân thời mà muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do bởi cớ mà Ðức Thanh Sơn để câu
thi tự hào rằng:
"Văn hiến bốn ngàn năm có
sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng
công?"
Nền
văn hóa đạt được trải qua bốn ngàn (4.000) năm, không cần ai dâng công tạo văn
hiến khác.
Ðạo
của vị chủ Hương đảng là coi sóc sự sanh hoạt của dân chúng trong thôn hương,
chẳng những nắm chủ quyền sự sanh hoạt mà còn nắm chủ quyền sự chết sống, cầm
vận mạng cả thôn hương trong tay nữa. Ðạo của người là Ðạo thường, lo phụng thờ
tôn miếu của triều đình. Các đình làng đương nhiên là Công thần miếu, thờ những
vị Công thần bất kỳ nơi nào trong thôn quê đã xuất hiện những vị trung quân ái
quốc, vị quốc vong xu, tô điểm giang san, binh vực lợi quyền của xã hội; có
công vĩ đại với triều đình, đến khi qui liễu được nhà Vua ân tứ phong cho Thần
vị. Ðiều hay hơn hết là vị Công thần đạt vị đó, lại được trong bổn thôn sanh
quán của người thờ người. Sự khéo léo ta thấy hiển nhiên, vì cớ vị Hương Chủ
trong thôn hương cần nhứt tạo hiền tài; nào là lập trường học, bố thí kẻ côi
cúc không phương học vấn, nào là nâng đỡ các gia đình hữu học. Khi đạt đặng
khoa mục, khỏi làm xâu, bởi gọi hàng khóa sĩ. Bần Ðạo xin nói rằng chưa nước
nào đã làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị Tân khoa về quê gọi là bái tổ vinh
qui, lạy tạ mồ mã Tông đường; ngày đó chẳng cần tả, sự vinh hiển vô đối của họ,
nên phương pháp ấy giục tâm toàn quốc cố học, học đặng hành.(*)
Hại
thay! Trong thôn hương nhiều nhặt nhiệm nên cũng có sự hay mà cũng có sự dở, là
kẻ nào bất tài thiếu học, hay có tánh chất hèn kém, không đủ tinh thần tế thế
an bang; làm cục bướu của xã hội, nếu kẻ ấy không lập thân danh đặng thì duy có
trốn mà đi chớ không dám ở trong làng mình nữa. Vì cớ cả quốc dân nong nả học
hành, chẳng phải học để lập thân danh mà thôi chỉ thấy khuôn khổ nghiêm nghị,
dìu dắt chủ hướng người quân tử dù tánh đức tiểu nhơn mà ở trong làng cũng phải
sửa nết lại.
Vị
Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu thì trích đất quốc gia
làm công điền; hồi cựu trào số đất công điền trong các đất đai của làng rất
thặng, vì thuở ấy dân chưa có gia nghiệp tư bản. Những đất hoang vu, ông Hương
Chủ khai mở thành công điền, toàn thể dân đinh buộc họ duy có làm xâu mà thôi,
mà chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào có làm xâu thì số lúa tư sản của
mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa
tư bản (sản?)(*1) của mình đó. Số sản xuất những công điền ấy chia làm ba phần:
Hai phần ba (2/3) để vào công nho làng, một phần ba (1/3) nạp cho triều chánh
của nhà Vua, nên không có lấy thuế bằng tiền bạc. Nhà Vua buổi nọ muốn thưởng
công các quan duy có đong lương mà thôi, vị nào cao cấp mấy hộc, trung cấp mấy
hộc, hạ cấp mấy hộc; ngoài ra lương ấy nhà Vua có phương pháp kêu là ban thưởng
đặc biệt về công nghiệp vĩ đại, ân tứ cho ngựa bốn cặp, sáu cặp hay mười cặp,
hay xe đôi chục, năm chục mà thôi, sự khéo léo của quốc gia là giục tâm cho dân
cày cấy, ngoài ra sự chăn nuôi súc vật, rồi vì sau nầy việc canh điền nặng nề
thì lại bày ra việc thưởng trâu bò thay thế cho đầu ngựa. Ngày xưa làm quan
không ăn tiền chỉ lãnh lương nên tiếng tục gọi là "ăn lương" là vậy.
Một
phần ba số lương triều chánh thâu vào thì nhà Vua dùng phát lương cho các quan,
năm nào đặng mùa dư dã thì làm kho dự trữ, nơi các Hương đảng cũng đều phải
vậy. Thảng như rủi năm nào thất bác, dân đói khó, thì lập tức mở kho ấy phát
cho dân gọi là chẩn bần, mà đầu tiên đứng ra tế chẩn là ông Hương Chủ, khởi
phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới lấy thêm ở kho quốc gia.(*)
Sự
nong nả chẳng phải tìm phương cho dân cày cấy ruộng nương mà thôi, phải khuyến
khích chăn nuôi súc vật, khuếch trương các tiểu công nghệ trong làng, thúc giục
dân nuôi tầm dệt vải làm tơ lụa, các nghề thợ mộc, thợ rèn và các kỹ nghệ nào
hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền ấy là quyền của ông Chủ Hương đảng, còn
Ban Hội Tề, Hương Sư, Hương Hào, v.v... đều là phụ thuộc vào triều chánh của
ông Hương Chủ mà thôi.
Cái
Ðạo của vị Hương Chủ là thờ Công thần, mà là thờ mạng sống của toàn dân trong
hương nữa, nên cổ tục ấy lưu truyền đến ngày hôm nay, sống cũng phải lo cho
dân, mà chết cũng phải lo cho dân. Vì cớ đồ âm công phải có sẵn. Hồi cựu trào
bất kỳ hạng nào, dầu là một vị quan hồi hưu về ở trong làng cũng vậy, hễ khi có
một đám tử, người dân của làng đã được định làm nhưng quan, thì bắt khiêng đám
cũng phải đi, không ai khỏi đặng.
Lại
nữa, chẳng phải lo việc chết thôi, còn phải lập nhà thương, nhà nuôi trẻ em,
trường học, cả cái khuôn khổ văn minh hương đảng lưu lại ngày nay là do nơi chủ
quyền của Hương Chủ mà ra vậy.
Hồi
lúc Bần Ðạo còn nhỏ, nhớ nhứt là khi xay lương và giả lương, hễ lúa đem về kho
rồi thì dân làng nhứt là phụ nữ, xúm lại giả cho trắng đặng nạp về triều kêu là
nạp lương, tục ấy mới bỏ trong thời gần đây. Mà xay lương thôi thì đô hội, mệt
nhọc mà vui vẻ lạ lùng. Không thể nói hết đặng, câu hò, câu hát còn lưu lại
trong dân gian ngày hôm nay là do nguyên cội xay lương đó. Xay giả xong, 1/3
nộp cho triều đình, 2/3 để cho hương đảng.
Còn
một điều nữa là ở trong làng hễ có người nghèo khổ cơ hàn, thì Hương Chủ dạy
toàn dân làng phải bảo vệ, hễ cưới vợ không được thì xúm nhau chung tiền lại
giúp, cất nhà không nổi thì xúm nhau tạo nhà cho, khi có bịnh hoạn thì xúm nhau
đến thăm viếng và giúp đỡ, tình liên lạc mật thiết như cốt nhục, mà khuôn tuồng
đó ngày nay đã mất rồi, vì chưng tư lợi tư kỷ nhiều quá mà làm cho tiêu diệt
hết lòng tương ái tương thân trong hương đảng.
Ta
thử nghĩ lại, một ông chủ cầm quyền xã hội dường đó, chánh sách còn bằng mấy
Cộng sản, mà là Cộng sản tinh thần, nên Quốc gia chúng ta có Cộng sản thúc nhặt
tâm lý làm khuôn phong hóa chung sống cùng nhau, không cướp bóc, không tranh
quyền đoạt vị. Ở trong làng, quyền làm chủ hương thôn ấy chỉ có truyền biểu mà
thôi, dầu trong triều về đó ở mà dân không tín nhiệm thì cũng không có quyền gì
buộc dân đem mình lên đặng. Phần nhiều triều chánh sau nầy mới có tham quan ô
lại, chớ thời xưa một người làm quan rất sợ điều đó lắm, là vì hễ đã mang danh
tham quan rồi thì về làng không ở với ai được, cả làng mạt sát chịu không nổi,
cho nên cả cái bí pháp hằng tâm gìn giữ rất nhặt nhiệm, kẻo buổi về già không
chịu nổi sự trích điểm của thôn lân, được vinh quang chừng nào thì lại càng giữ
gìn tánh đức. Trong làng mà vị nào vì dân, lo cho dân, đủ tánh đức nuôi dạy
dân, thương dân như con đỏ thì dân sanh cử lên, chớ không phải bầu cử hốt mớ,
rồi đưa kẻ bất tài thất đức lên được, vì trong triều chánh của ông Hương Chủ, ở
dưới có Ban Hội Tề, đi từ mức đào luyện từ cấp, rồi mới lên đến Hương Chủ thì
đã sáng suốt mực thước lắm rồi.
Ngoài
ra nữa, còn một điều là trong hương đảng coi chủ quyền ấy như ông Tòa, đến bây
giờ còn chức tước mà quyền không phải vậy. Ông chủ của làng làm Tòa xử, hòa
giải dân tình, nên không có tụng cáo ra triều đình bao giờ, hay là trừ các án
tiết trọng hệ, như cường đồ, sát mạng, mới thấu đến luật hình triều chánh. Trong
làng có điều gì chinh tâm với nhau thì ông chủ của làng xử trước, nếu bất đồng
đem nội vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ thì nạp tiền câu tra, tội lớn thì căng nọc
đánh giữa dân làng, không đến nỗi chết mà hễ bị đánh rồi thì về nhà còn có nước
trốn đi nơi khác, hoặc đóng cửa đi đâu đi lén lút khổ não lắm vì bị gièm pha
nhạo báng xấu hổ chịu không nổi. Còn nói về phụ nữ nhứt là gia đình nào con hát
bè, hát bộ, thì có dọn mà đi luôn. Ðến nghiêm luật gái chửa hoang, đẻ lạnh thì
cha ông, con cháu, đều bị đòi ra giữa làng hết thảy. Thứ vợ hổn với chồng,
chồng hiếp vợ, con bất hiếu, em vô lễ với anh cũng vậy, đặng giữ nghiêm phong
hóa xã hội do khởi đoan từ hương đảng ra quốc gia xã hội.
Triều
đình cốt yếu làm đầu đặng nắm giềng mối, chớ thật ra cầm quyền xã hội là trong
hương đảng, mà quyền trong hương đảng là của Ðệ Nhị chủ quyền, tức là quyền ông
Hương Chủ đó vậy.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đoạn thứ 8: Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên theo đàng cựu thì
trích đất quốc gia làm công điền; ... ......, người nào có làm xâu thì số lúa
tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần
mười số lúa tư bản (sản?) của mình đó....
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Vị Hương Chủ có phận sự bảo vệ sinh mạng nên
theo đàng cựu thì trích đất quốc gia làm công điền; ... ... ... , người nào có
làm xâu thì số lúa tư sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ
bị trích mấy phần mười số lúa tư sản của mình đó....
Cuối
những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép
phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại
những nơi ấy. Kính cáo.
Q. 2/26: PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC
TRONG HƯƠNG THÔN VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 5
tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 11-07-1948)
Kỳ
trước, Bần Ðạo đã giảng về đạo của vị chủ quyền xã hội chúng ta là ông chủ, nay
tiếp thuyết về phương pháp tổ chức xã hội ta trong hương thôn là thế nào và ai
cầm quyền ấy.(*)
Ta đã
thấy Nho Ðạo ta lấy gia đình làm căn bản, bước từ tiểu gia đình là gia tộc lên
đại gia đình là quốc gia, lại thấy sự khéo léo trong gia đình là phương pháp
thực hành. Các phần tử trong gia tộc hiệp lại thành Tông đường, một gia tộc nào
đủ nhơn nghĩa đạo đức thì Tông đường đó, để mắt nong nả cho có đủ phương pháp
thi thố cả sở năng của mình, bởi chỉ trông cậy nơi mình làm cho gia đình đứng
đợt được với thiên hạ một cách vinh diệu, mà hễ Tông đường được vinh diệu, tức
nhiên người đại diện cho Tông đường ấy khi ra thay mặt cho Tông đường, đã đào
luyện trí thức tinh thần, sở năng, sở kiến, đặng thay thế Tông đường cho xứng
đáng trước luật quan phép nước. Trong hoàn cảnh kiến thiết xã hội là vậy. Làm
đầu Tông đường được, tức nhiên trong hương đảng đã để dành địa vị cho danh thể
cao trọng ấy rồi, thanh niên thì vào hàng thành đinh, niên kỷ cao trưởng thì vào
hàng kỳ lão, lãnh kiến thiết hương đảng, không bỏ một ai. Tuy vậy, Ban Hội Tề
có đông đảo mặc dầu, nhưng Bần Ðạo đã nói rằng Hội Tề bất quá là triều chính
của Ðệ Nhị chủ quyền là ông Hương Chủ trong hương đảng vậy thôi.
Ấy
vậy, trong hương thôn có mặt nào đứng đợt làm đầu hương thôn, mặt ấy không lẽ
triều chính không biết đặng, nên danh nghĩa trong hương đảng liên quan mật
thiết với triều đình, mà hễ có liên quan tức nhiên là địa vị triều đình sẽ dành
để cho người cầm quyền hương đảng đó vậy.
Tổ
chức xã hội chúng ta đi từ tiểu gia đình lên đại gia đình là quốc gia, vì cớ
nên Tiên Nho chúng ta, dầu cho Ðệ Tam quyền là ông Cha trong gia đình, mà có
tội đem ra giữa triều chánh buộc tội là trị đạo bất nghiêm, còn Ðệ Nhị chủ
quyền lại là trị dân không nghiêm cũng gọi là trị đạo bất nghiêm. Hình phạt
nặng nề sẽ định án cho hai chủ quyền Ðệ Nhị và Ðệ Tam đó không phương chối cãi.
Cái
đạo, nói tiếng đạo, mà người cầm quyền trị đạo phải thật hành được đạo, đã
không dễ, thì cầm quyền trị đạo lại càng không dễ nữa. Phải làm thế nào thi thố
cho dân sự trong bổn thôn thấy tâm Thánh của mình là thay thế Ðức Khổng Phu Tử
làm cha mẹ dân, mà chẳng vậy thôi, còn cầm quyền làm thầy trong bổn thôn nữa mà
chớ.
Tổ
chức xã hội quốc gia chúng ta không mắc mỏ mà thật sự thì khó đáo để. Thuở mà
nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là cái, kẻ nào đạt được vị Bố Cái hương
đảng, tức là cha mẹ của hương đảng, ấy là lời ban thưởng, tặng khen lớn lao lắm
vậy, tức nhiên Ðệ Nhị chủ quyền là quyền của vị Bố Cái hương đảng là vinh diệu
hơn hết.
Ấy
vậy, Ðệ Nhị chủ quyền làm cha, làm thầy hương thôn, ta suy xét tưởng tượng xem
phận sự ấy trọng yếu như thế nào? Coi dân như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay
thế cho triều đình, mà muốn nên phận cha mẹ dân thì vị chủ quyền đó không tư
tâm, tư kỷ, hễ tư tâm tư kỷ tức bốc lột dân, trộm cướp của dân, hiếp bức dân.
Ta thấy phương pháp đương nhiên, hiện giờ còn giữ khuôn khổ ấy, chỉ hại một
điều là hương đảng đương nhiên xu hướng tân thời đã hết làm cha mẹ dân, dở thói
tham quan ô lại, làm cục bướu làm mụt ghẻ tâm lý của dân. Vì cớ nên giá trị của
Ðệ Nhị chủ quyền không còn năng lực nữa, mà nếu không còn năng lực tức là hết
cầm quyền chuyển tâm lý được, biểu thế nào ngăn cản được dân xu hướng theo văn
minh mới, mà nhứt là nòi giống Việt Nam nầy hay nghinh tân yểm cựu lắm. Nếu
không đủ biệt tài cầm cái khối báu do Chí Tôn để lại mà trau giồi làm cho có
giá trị cứ do theo điều mới mẻ ấy thì chỉ có làm cha làm chủ bướng vậy thôi,
nên cần phải biết sửa đương lại thì xã hội này sẽ đứng đầu hơn hết. Tại mình làm
chủ mà không biết của báu, khinh miệt nên thiên hạ mới khinh miệt nó. Ấy vậy
đương thời bây giờ thiên hạ không còn làm cha mẹ, bố cái hương đảng nữa, nên
cái vinh diệu của Tiên Nho ta lưu lại đã bị bại hoại thành hình tướng dị hợm
lắm rồi.
Vị
chủ quyền hương đảng của nhà Nho ta, tuy là tư tưởng tinh thần rất đơn sơ,
nhưng nói ít mà làm nhiều, nên vị Hương Chủ hồi cựu trào lãnh làm chủ hương
đảng thì triều đình phái một vị quan đến phong quyền cho và thường nói: "Triều chánh cầu xin một điều là vị
Hương Chủ làm sao cho xứng đáng phận sự cha mẹ của dân".
Trước
ta đã thấy quyền làm cha mẹ trong gia đình khó khăn thế nào rồi, thì vị Hương
Chủ lên làm cha mẹ dân trong một làng, lời xưa thường gọi là bá tánh là vì bởi
nhiều Tông đường hiệp lại mới thành một làng. Nên việc làm cha mẹ dân trong một
làng không phải dễ, dân đói phải lo, dân rách phải lo, dân khổ phải lo, một tên
dân đau khổ thì ông chủ quyền phải ở bên mình như cha ở bên mình con vậy, cha
nâng đỡ danh thể làm cho con nên thế nào, thì ông chủ quyền của hương thôn cũng
phải làm nên cho dân thế ấy. Nghĩa là tâm lý của ông cha cầm quyền gia đình trị
con thế nào, thì ông chủ cầm quyền hương lân trị dân cũng như cha trị con vậy.
Nếu
từ trước đến giờ còn giữ được khuôn khổ tổ chức của tổ phụ để lại, thì Bần Ðạo
tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn lạc
chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong hóa quốc gia xã hội ta không còn nguyên
hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô tục gớm ghiếc quá chừng.
Ðức
Lý Giáo Tông lập Bàn Trị Sự, Ngài lập chức Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự, rồi Ngài
lại biểu Bần Ðạo lập chức Thông Sự. Ngài nói Phó Trị Sự là Giáo Tông em, mà nơi
làng có Giáo Tông em thì tức nhiên phải có Hộ Pháp em là Thông Sự nữa chớ. Nếu
sự tổ chức hương lân chưa phải cần yếu thì Ðức Lý đã không làm như vậy. Ngài
đặt chức Chánh Trị Sự tức là ông Chủ, Ðệ Nhị quyền trong thôn lân về phần Ðạo,
hỏi vậy mơ vọng của Ðức Lý để Chánh Trị Sự làm gì? Ðức Lý có ý đem qui cũ Ðạo
vào Ðệ Nhị chủ quyền, đặng phục hồi lại y như trước. Ngài quyết định hơn nữa là
để vị Chức Sắc ấy nắm quyền Hội Thánh tức là vào Thánh Thể của Ðức Chí Tôn,
nghĩa là dự định đặng lên Lễ Sanh, rồi lên Giáo Hữu, tức là vào hàng Thánh Thể
đó vậy. Muốn chỉnh đốn xã hội lại, nên luôn dịp để một khuôn khổ trị Ðạo cho
dân sanh tỉnh giác, biết vật báu ấy mà gìn giữ, tô điểm, làm cho xã hội thôn
lân thêm xinh lịch. Ý muốn là vậy, mà thử hỏi Bàn Trị Sự toàn thể quốc gia ta
ngày kia có đủ năng lực và đủ tinh thần đạo đức để chỉnh đốn xã hội ta trong
hương thôn, lần lần sửa lại theo tổ chức tối cổ của quốc gia xã hội ta trước
được không?
Bần
Ðạo dám chắc rằng Ðạo Cao Ðài làm đặng, và nhờ bàn tay của toàn thể quốc dân
Việt Nam ta đó. Việc làm bất luận lâu hay mau, miễn đạt được thì thôi, Bần Ðạo
sợ e một điều là đầu óc hình thể ta thấy trước mắt, thay vì chỉnh đốn đi ngược
trở lại khuôn cũ, rồi lại còn xu hướng theo tổ chức xã hội, làm diệt vong phong
hóa; thay vì cứu sống lại cái gia tài, lại làm tiêu cả sự tốt đẹp thọ hưởng đã
bốn ngàn (4.000) năm nay còn noi lại. Bần Ðạo mơ ước một điều là toàn con cái
của Ðức Chí Tôn trong hương thôn tức là Bàn Trị Sự, biết phận sự trọng yếu của
mình để đủ tinh thần làm vừa theo Thánh ý của Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Chí Tôn.
Bần Ðạo mong mỏi cả thảy đem cái quý của Tổ phụ chúng ta lưu lại chỉnh đốn cho
đẹp cho xinh đủ oai quyền năng lực, đặng ngày kia đem cho toàn các sắc dân khác
đồ theo. Ðương buổi này thiên hạ đương thống khổ tâm hồn, nếu họ thấy chánh
sách của ta đạt được, họ sẽ lấy và đồ theo mà lấy trong tay Cao Ðài họ không
thẹn mặt.
Cả
thảy nam nữ nhớ lời căn dặn, đặng khi thái bình trở lại, lo chỉnh đốn Bàn Trị
Sự trong hương thôn, để làm nền móng tổ chức quốc gia ta sống lại đẹp đẽ mỹ mãn
và cường liệt, mà quốc gia ta có đẹp đẽ mỹ mãn cường liệt thì nhờ nơi hương
đảng tạo ra; nếu mấy người tạo ra thô bỉ thì sự kiến thiết cũng thô bỉ, hễ mấy
người tạo ra đẹp đẽ thì sự kiến thiết đẹp đẽ, mạnh mẽ vì bởi khởi đầu đào tạo
bằng hột giống mạnh, thì cây lên mạnh, bằng hột giống yếu thì cây sẽ lên yếu.
Phụ ghi:
Cuối
những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép
phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại
những nơi ấy. Kính cáo.
Q. 2/27: ĐỆ NHỨT CHỦ QUYỀN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 9
tháng 6 năm Mậu Tý (dl. 15-07-1948)
Ðêm
nay Bần Ðạo giảng tiếp về đệ nhứt chủ quyền của xã hội chúng ta. Bần Ðạo đã
giảng kỳ rồi về đệ nhị chủ quyền tức là chủ quyền hương đảng, và đã giải rõ
ràng cái phương pháp kiến thiết từ thử là lấy gia đình làm căn bản. Tiểu gia
đình là trong một nhà liên quan với cả Tông đường gọi là họ, là tánh, trung gia
đình tức là tổ chức trong hương đảng của Ðệ Nhị chủ quyền, tới Ðệ Nhứt chủ
quyền làm đầu một Ðại gia đình là một nước.
Ta đã
tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra nòi giống chúng ta, và đã tạo cả tinh
thần của nòi giống chúng ta, không biết chừng dìu dắt tinh thần ấy để lập chánh
kiến quốc gia, là lấy gia đình làm căn bổn. Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả
nhơn loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy
vậy, nếu (nên?) (*1) Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh
thần đạo đức làm căn bổn cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại, lấy cả quyền
năng lập quốc cho nước Việt Nam, đặng làm khuôn mẫu chuẩn đích tương lai lập
chánh trị toàn cầu thiên hạ mà chớ. Nếu không tự tôn, ta cũng nhận thấy rằng
điều tưởng tượng ấy không lầm, bởi dầu muốn hay không, quyền năng vô hình cũng
xô đuổi dục tấn các dân tộc vạn quốc phải đi đến sự chung hiệp vào đại gia đình
của toàn nhơn loại mà thôi.
Ấy
vậy, Bần Ðạo thuyết Ðệ Nhứt chủ quyền do Tổ phụ chúng ta tổ chức và lưu lại
trong văn hiến tức là nhà vua. Ðệ Nhứt quyền là giáo sư, là ông cha của cả
nước. Không lạ gì, chúng ta cũng thấy như ông cha trong tiểu gia đình kia vậy.
Ðức Khổng Phu Tử nói: "Ðạo trị dân
không khác đạo trị gia đình" ấy đạo của Ngài vậy. Chúng ta thấy trước
khi lên cầm quyền vì một sơn hà xã tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đã
thoái vị cũng vậy, các vì Vương Ðế thường có nói nơi cửa miệng hoặc di chúc
lại, bao giờ cũng mơ ước cho có người kế vị xứng đáng làm cha mẹ của nhơn dân
bá tánh, văn hiến của ta tuy đơn sơ mà thâm thúy lắm là nói ít mà làm nhiều, và
sự khó khăn trọng yếu chẳng thể tưởng tượng được.
Bần
Ðạo nhắc lại một lần nữa là buổi nòi giống An Nam ta đây còn kêu cha là Bố, mẹ
là Cái, mà vị Ðế Vương nào lên cầm quyền được dân tặng là Bố Cái, như Bố Cái
Ðại Vương, thì sự vinh hiển của triều chánh đó không luận đặng, mà sự vinh hiển
của Ðế Vương đó cũng chẳng tả được đối với lòng dân. Nói ít làm nhiều. Văn hiến
của ta do văn hiến của Tàu châm chế sửa chữa lại, lấy của người làm của mình.
Lấy căn bản chánh gốc của người ta mà làm của cải riêng của mình với tư cách
đặc biệt, tưởng không nước nào khéo léo hơn nước Việt Nam ta vậy.
Ta
thấy lời một vị Ðế Vương để lại cho con lên truyền kế cho mình như Hớn Chiêu
Liệt để lại Hậu Chúa, có câu căn dặn rằng: Nếu nhà cầm quyền nào mực thước trị
dân, biết tùng theo thì thiên hạ thái bình, quốc thới dân an, Hớn Chiêu Liệt
sắc Hậu Chúa viết: "Vật dĩ thiện
tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi" (nghĩa là ông Hớn Chiêu
Liệt căn dặn con truyền kế rằng: Ðừng thấy lành nhỏ gọi nhỏ mà không làm, đừng
thấy ác nhỏ gọi nhỏ mà làm). Vì Ðế Vương biết rằng trong tay cầm sanh mạng quốc
gia, trị cả bá tánh để lại cho con một di ngôn bất hủ. Nếu cả các Ðế Vương trên
mặt địa cầu nầy, cầm sanh mạng quốc gia biết lấy câu ấy làm "trấn tâm chi bửu" cho mình,
Bần Ðạo tưởng chắc, nếu thi hành cho đúng thì cả quốc dân đó hạnh phúc vô
cùng.(*)
Tổ
phụ chúng ta muốn trong nước ta, dân ta, tình của Vua đối với dân thế nào cho
mực thước, chơn thật như cha đối với con, nếu Vua đối được với dân như cha đối
với con, tức nhiên lấy tình ái làm quyền hành, công chánh làm mực thước, tưởng
không quốc gia nào trên mặt địa cầu nầy hưởng được hạnh phúc hơn nữa. Ta thấy
tấn tuồng ly loạn do kẻ cầm quyền định vận mạng cho nước, cho dân chỉ biết
mình, không biết bá tánh. Thường nghe nói: "Thiên
hạ vi gia" hại một điều tuy vậy nhà Vua ở với bá tánh như cha ở với
con nên có câu "thiên hạ vi
gia" vậy nhà Vua lấy thiên hạ làm nhà, thương dân như con đỏ, trái lại
họ lấy thiên hạ làm tôi đòi của cải. Thay vì coi thiên hạ như nhà như con, họ
lại coi thiên hạ như nô lệ, tư nghiệp của mình, tức là hiểu lầm khuôn khổ của
Tiên Nho ta đã quyết định vậy.
Tổ
chức thật khéo léo làm sao, chính nhà Vua cũng không thoát cái khuôn viên gia
đình. Nếu ngôi Vua truyền hiền thì chẳng nói chi, từ khi các vị Ðế Vương truyền
tử đến giờ gia đình vẫn ở bên cạnh họ, họ phải bảo trọng gia đình trước nhứt,
bởi gia đình của họ là Ðệ Nhứt gia đình trong quốc gia. Ta thấy từ khi các quốc
gia nầy chẳng chịu ảnh hưởng của Nho Tông mà lập quốc, đã trở nên suy đồi bởi
nguyên căn nào, do trị gia bất nghiêm! Cho nên cổ truyền tai hại hơn hết là cái
loạn trong cung tần, trong vòng hoàng tộc mà sản xuất, đã hiển nhiên như vậy
không chối cãi được. Các vì Vua trị gia bất nghiêm, biểu không bại hoại sao
được, mà Ðệ Nhứt gia đình thất đạo có liên quan mật thiết đến cả toàn bá tánh
thất đạo.(*)
Nhà
Vua cốt yếu coi bá tánh như con đỏ, coi nước nhà như đại gia đình, giữ đạo nhơn
luân làm trọng hệ, đã có quyền sanh sát, mà nếu quyền ấy không chuẩn thằng,
biểu sao dân trong nước không thống khổ. Khi sự thống khổ ấy dân chịu đựng nổi
chẳng nói chi, thảng như quá sức không chịu nổi được nữa, sanh loạn lên thì
triều chánh và cả nước nhà phải nghiêng đổ.
Sự
kiến thiết quốc gia lấy gia đình làm gốc, ta không thể chối rằng không biết gia
đình ấy hay là từ bỏ đạo nhơn luân, duy có theo lối vô thần thì mới chối đạo
nhơn luân đặng, nếu không chối đạo nhơn luân, tức không chối đạo gia đình, mà
không chối gia đình thì cũng không hề chối tương lai vận mạng của tổ quốc mình
được. Ấy vậy căn bản của phong hóa Việt Nam ta do nơi đạo nhơn luân, nơi gia
đình, dầu ai thuyết minh phong hóa như thế nào đi nữa nguyên căn tinh túy cũng
vẫn do nơi gia đình mà thôi; cho nên gia đình, phân làm ba hạng: Hạ, trung và
thượng gia đình; thượng gia đình là Quốc gia, trung gia đình là Hương đảng, hạ
gia đình là Tông đường, không có chi là lạ, là khó, nhưng căn nguyên ấy ta
không sửa đổi đặng bởi ba bực hạ, trung, thượng của cơ tấn hóa thế nào thì gia
đình cũng thế ấy. Cả Càn Khôn có Thượng giái, Trung giái, Hạ giái, mặt luật
thiên nhiên của sự tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu hủy đặng.
Tổ
chức xã hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu, Bần Ðạo dám chắc rằng cao thượng
hơn hết. Hại thay! Quốc dân ôm của báu trong tay mà không biết quí trọng, liệng
rồi chạy theo ăn mót đồ bỏ của thiên hạ, lấy làm của. Ðức Chí Tôn đến đặng thức
tỉnh nhơn sanh, nên mới có câu Ngài nói với nhà Vua: "Nam phong thử nhựt
biến Nhơn phong" là thêm ý rằng: Tổ phụ chúng bây để lại cho bây một phong
hóa, nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại vậy.
Ngài
cho biết rằng chúng ta vốn có của báu, mà của báu ấy thiên hạ đang tìm kiếm
đặng sống.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đoạn thứ 2: Ta đã tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra nòi giống chúng
ta, ... ... .... Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại chung hiệp cùng
nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nếu (nên?) Ngài định
trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn cho cả
tinh thần đạo đức toàn nhơn loại,...
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Ta đã tự hiểu Thánh ý của Ðức Chí Tôn sanh ra
nòi giống chúng ta, ... ... .... Ta thấy rõ ràng Chí Tôn muốn cho cả nhơn loại
chung hiệp cùng nhau làm một đại gia đình toàn cầu thế giái sau nầy vậy, nên
Ngài định trước cho một quốc dân của Ngài đến lấy tinh thần đạo đức làm căn bổn
cho cả tinh thần đạo đức toàn nhơn loại,...
Cuối
những đoạn có dấu (*): Ðể cho người đọc được dể dàng, chúng tôi xin mạn phép
phân đoạn tại những nơi có dấu (*). Nguyên bản chánh không có phân đoạn tại
những nơi ấy. Kính cáo.
Q. 2/28: Ý NGHĨA VỀ "NHẠC
TẤU HUÂN THIÊN".
Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ rằm
tháng 4 năm Mậu Tý (dl. 23-05-1948)
Có
điều mầu nhiệm nên nay Bần Ðạo giảng về Lễ Nhạc để tránh sự thất lễ khi vô hành
lễ, vì không hiểu nghĩa lý, không biết thủ lễ theo phép cho y khuôn khổ khi "Nhạc tấu Huân Thiên".
Bên Á
Ðông, trong nền Ðạo Cao Ðài có trống, có chuông, còn bên Âu Châu có chuông mà
không có trống là tại sao? Tại sao Á Ðông dùng trống còn Âu Châu dùng chuông?
Trống là âm thinh của Ðạo.
Thuở
chưa có Càn Khôn Vũ Trụ, Ðạo giáo có dạy: Hai lằn ngươn khí đụng lại nổ ra khối
lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái Cực. Chủ ngôi Thái Cực là Ðức Chí Tôn. Khi nào
trời sét nổ, chúng ta nghe sao? An Nam mình kêu "ầm" còn theo Ðạo Pháp kêu "ùm", vì cớ phép Phật sửa lại là "úm": úm ma ni bát rị hồng. Câu ấy đọc có nghĩa là nắm cả
quyền năng vũ trụ quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao? Khi nổ rồi
còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân
là tiếng chuông. Ấy vậy, nguyên căn của Ðạo Giáo do bên Á Ðông nầy, có tiếng
trống ngân bay qua Âu Châu, nên các Ðạo Giáo Âu Châu đều là hưởng ứng theo Phật
Giáo mà Phật Giáo xuất hiện nơi Á Ðông. Vì vậy mà các nền Tôn giáo phụ thuộc đều
không đúng theo nguyên tắc căn bản.
Còn
tại sao khi vô làm lễ, lúc "Nhạc Tấu
Huân Thiên" tức là lễ hiến dâng sự sống cho Ðức Chí Tôn là Thầy của cả
càn khôn vạn vật, Bần Ðạo thường nhắc nhở tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm
chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang của càn khôn vạn vật đồng
thinh. Nơi Á Ðông có câu: "Biều thổ cách mộc thạch kim dử tư trước nãi bát
âm". Các vật vô năng mà nói đặng có trật tự niêm luật hòa nhau là đạt Ðạo,
hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật
đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc Hư Cung có đôi liễn: "Bát hồn tư mặc ca Hoàng
Lão, vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn".
Khi
nhạc trổi, cả thảy phải im lặng, hiến cả âm thinh sự bí mật ấy gọi là
Phi-tướng-lễ chủ ý là trình tấu với Ðức Chí Tôn rằng: Các con biết được sự mầu
nhiệm căn nguyên của Cha lành muốn cho các con nối nghiệp theo một khuôn phép
trường tồn. Lễ đó trọng hệ như dâng Tam Bửu vậy. Bần Ðạo dặn một lần nữa: Khi
nào xướng "Nhạc tấu Huân Thiên" thì phải đứng bình tịnh, người nào có
vô không kịp thì đứng ngoài mà thôi.
Q. 2/29: TÂN NỘI CÁC QUỐC GIA
VIỆT NAM.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 19
tháng 4 năm Mậu Tý (dl. 27-05-1948)
Ngày
hôm nay là ngày của Nội Các Tân Chánh Phủ toàn quốc đến tại Hương Cảng, trình
danh sách cả Nội Các cho Ðức Bảo Ðại phê chuẩn.
Toàn
Ðạo đều hiểu rõ tình trạng hai năm nay, nước nhà và dân tộc Việt Nam đã chịu
thống khổ dường nào. Họa nổi loạn khốc liệt thế nào, cả nòi giống đổ máu vô lối
dường bao, hỏi do tại đâu? Từ trước Tổ phụ chúng ta để lại một nền văn hóa,
phong tục tối cổ, hiệp chúng ta lại thành Quốc gia. Tiên Nho cho rằng hoặc nhà
vua, hoặc triều chánh, hoặc toàn dân của nước cầm quyền thống trị. Văn hóa tối
cổ chúng ta từ trước có một khuôn luật: Giữ Ðạo để trị nước. Hễ loạn lạc nước
không bình phục đặng là do toàn quốc dân thất Ðạo. Quốc gia Việt Nam thế nào
thì do nhơn loại trên mặt địa cầu nầy cũng thế đó.
Nạn
loạn lạc hoàn cầu, Bần Ðạo thuyết hôm qua chỉ rõ nguyên do nhơn loại thất đạo
mà nảy sanh. Muốn cứu vãn tình thế Tiên Nho buộc cả nhà vua và Triều chánh dĩ
chí toàn dân phải ăn chay, nguyện, tế, gọi là lễ Nam Giao.
May
thay Tân Chánh Phủ tức nhiên Tân Nội Các toàn quốc lại thấu đáo điều ấy, nên
khi Bần Ðạo ở Sài Thành, chính mình Thủ Tướng Xuân đến nhà Bảo Sanh Quân cầu
Bần Ðạo xin hành lễ khẩn nguyện Ðức Chí Tôn ban ân lành cho quốc dân Việt Nam.
Ðã biết hiểu cơ bí mật ấy tức nhiên chúng ta định họ học Ðạo đặng. Một xa thơ
đã bốn ngàn năm lịch sử đi đến giai đoạn khó khăn nguy hiểm, con đường qua rồi
xa thơ quay bánh lăn tới đâu, chúng ta dòm thấy toàn xương máu. Ngày nay đến
đường vinh quang trước mắt, cần yếu toàn dân biết Ðạo trọng hệ hơn là dường
nào. Nhưng cả tâm đức của toàn quốc cố gắng tranh đấu cho tương lai, hạnh phúc
của nước nhà là những tay nhứt định đẩy xa thơ ấy tiến mãi mà thôi, mà được
cùng chăng là do nơi tinh thần đạo đức của toàn quốc dân đó vậy.
Hôm
nay, chúng ta vì tương lai của tổ quốc đặt nén hương lên Thiên bàn thành khẩn
Ðức Chí Tôn ban ân cho Tân Chánh Phủ Việt Nam, ắt hẳn sẽ được thành công mỹ
mãn.
Q. 2/30: VẬN MẠNG QUỐC DÂN
VIỆT NAM .
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm
28 tháng 4 năm Mậu Tý (dl. 05-06-1948 )
Nội sáng mai nầy là ngày định vận mạng tương lai tiền đồ Tổ quốc cả nòi
giống Việt Nam
của chúng ta vậy. Vì cớ nên đêm nay mới có cuộc lễ nầy, đặng cầu nguyện Ðức Chí
Tôn cho được kết liễu mỹ mãn và đôi đàng lấy thật tâm hòa giải, hầu vãn hồi
trật tự, an ninh cho nước nhà ta.
Kỳ
trước, khi Bần Ðạo ở Hồng Kông về, Bần Ðạo có lên tòa giảng nầy nói rằng, cái
khó là chẳng phải do nơi Pháp nữa, mà lại do Việt Nam ta, bao giờ cũng vậy,
nhơn tâm vẫn thế. Trải tám mươi năm lệ thuộc, chúng ta chịu thống khổ tâm hồn
đã nhiều rồi, bây giờ chúng ta hẳn đòi lại, đòi cho kỳ được, và phải được mà
thôi, nhứt quyết như vậy. Cả đồng chủng của chúng ta ngày nay tinh thần đã đến
bực lão thành rồi, chẳng còn ưng chịu nhục nhã tâm hồn như xưa nữa. Ðòi, đòi
đặng dùng ai là người yêu nước, thật tâm ái quốc, không phải nói trong cửa Ðạo
mà thôi, nói tất cả mỗi cá nhân trong xã hội, nếu ai là người thật tâm ái quốc,
muốn lo lắng cho nền vận mạng nước nhà, thì cần phải suy đi xét lại và nhận
định sự tấn thối cho tường, mỗi mỗi việc gì cũng phải để trọn tâm nghiên cứu
cho thấu lý mới được. Ðịnh vận mạng cho một nước không phải là dễ, rất đổi việc
làm cá nhân là việc nhỏ mà còn phải suy gẫm định tâm rồi mới quyết đoán, để cả
tinh thần trí thức đặng giải quyết thay, huống chi cả vận mạng của một nòi
giống thì cần phải kỹ lưỡng hơn nữa kìa.
Hại
thay! Những kẻ lãnh đạo kháng chiến, trong buổi tinh thần của một nước đã chịu
tám mươi năm lệ thuộc đang bồng bột, mà những kẻ ấy ơ hờ chẳng để hết tâm hồn
nghiên cứu. Bần Ðạo nói thiệt, họ không ái quốc chi hết, bất quá là một trường
tranh đấu đặng đoạt lợi quyền mà thôi, nếu thật tâm ái quốc thì họ đã giải
quyết xong rồi. Cái quyền sở hữu của mình là thiên hạ thiếu nợ mình, thì mình
đòi cần gì phải đánh lộn với họ, cứ chiếu giấy tờ ra mà đòi, nếu không trả thì
kiện, chớ đánh kẻ thiếu nợ thì nó nổi khùng đánh lại, nó có chịu thua mình đâu,
rồi nó không chịu trả mới làm sao nó? Những kẻ lãnh đạo ấy đã vô ý thức chắc
hẳn vậy. Vì bởi cớ mà Bần Ðạo đến giải quyết vấn đề của nòi giống chúng ta là
duy có lấy cái quyền sở hữu ấy đặng đòi mà thôi.
Lập
lại một lần nữa, nếu Bần Ðạo không bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì không cần phải
đánh nhau. Bất chiến tự nhiên thành, nền chơn giáo sẽ đem nòi giống ra khỏi sự
thống khổ như thời dân Juifs, Ðức Chí Tôn đã sai Jésus Christ đến giải khổ vậy.
Nếu thiên cơ không định dường ấy thì Ðạo không có giá trị gì hết. Tại sao? Chí
Tôn đã đến cầm tinh thần của nòi giống Việt Nam 4.000 năm văn hiến, đặng làm
khí cụ quyết chiến với tinh thần, coi có giải thoát nòi giống Việt Nam đặng
chăng, coi có thắng được hay không cho toàn con cái của Người ngó thấy.
Không
thể dùng ngọn gươm, mũi súng mà quyết đoán thiên hạ đặng. Tài lực, cường liệt
của gươm súng không quyết định thắng thiên hạ đặng, quyết hẳn như vậy. Ta nên
lấy đó mà làm bài học và cho dân tộc Việt Nam thấy rằng, chúng ta có một mãnh
lực còn mạnh hơn nguyên tử lực nữa kìa, chẳng lực lượng nào tàn sát cùng động
đến được là tinh thần đó vậy. Bần Ðạo muốn cho nòi giống Việt Nam thấy lực
lượng tinh thần nhơn nghĩa, đạo đức, đã thâu đoạt thắng lợi một cách vinh diệu.
Ta hãy để mắt xem và để cả đầu óc suy nghiệm, coi hành tàng của kẻ vô đạo, con
loàn, tôi giặc kia, có thắng được tinh thần của Tổ tiên Việt Nam lưu lại đó hay
chăng cho biết.
Ta mở
mắt xem bên nào thắng, bên nào bại.
Q. 2/31: LỄ TIẾP RƯỚC ÔNG TỔNG
TRƯỞNG BỘ PHÁP QUỐC HÃI NGOẠI.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm
mồng 9 tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 15-06-1948)
Ngày
hôm nay, Bần Ðạo đình sự khảo cứu phong hóa của nhà Nam ta về đạo nhơn luân,
đối với đạo nhơn luân của cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, để nói về buổi lễ
hồi sáng nay tổ chức với ý nghĩa, chí hướng gì?
Vả
chăng Ông Chevance Bertin, là đại diện của Tổng Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại,
lãnh mạng lịnh của quan Tổng Trưởng sang Ðông Dương đặng quan sát tình hình
liên quan Việt Pháp, tức là tình hình đương nhiên của nước nhà ta đối với nước
Pháp. Ấy là một yếu nhơn có thể làm phát ngôn viên, đặng đem sự thật trình bày
cho dân tộc Pháp hiểu biết tình trạng hiện tại, nên Bần Ðạo đến tại Sài Thành,
để có lời ước vọng cùng Ông quan sáu De Latour là muốn gặp Ông Chevance Bertin.
Thời
buổi đương nhiên nầy, chúng ta đừng để cho thiên hạ có thể nói rằng, không hiểu
tâm lý của nòi giống Viêt Nam như thế nào, hễ gặp dịp là phô bày, nhứt là chúng
ta là người đạo đức, càng cần phải trải sự thật trắng ra trước mắt, cho người
ta quyết đoán.
Bần
Ðạo vừa nói: Ông Chevance Bertin là một yếu nhơn có thể làm phát ngôn viên cho
Việt Nam nơi nước Pháp. Ngài là một vị Trung Tướng hồi hưu, nay làm chủ nhiệm
tờ báo Climat, là tờ báo được quốc dân Pháp tín nhiệm. Bần Ðạo bày cuộc lễ hồi
sáng, đặng nhờ toàn con cái của Ðức Chí Tôn nhứt tâm, nhứt đức, tỏ rõ thiệt
tướng, đạo đức tinh thần của chúng ta ngày nay như thế nào, cho Ngài ngó thấy
mà thôi. Bần Ðạo dám chắc, không hề nói dối, đó là làm cho tinh thần của Ngài
để ý suy nghĩ lắm vậy. Lạ gì, thế thường thiên hạ hay nói (lời lặp lại của Ðức
Chúa Jésus Christ): Mắt với mắt, răng với răng (Oeil pour oeil dent pour dent)
kẻ vô nhơn tình mà mình lấy tánh cách vô nhơn tình ấy đối lại thì vẫn vô nhơn
tình mãi thôi, không hề khi nào thâu nhơn tình đặng, lấy oán hận mà trả lại sự
oán hận, thì nó vẫn còn mãi mãi. Trên mặt thế gian chưa ai biết được quyền năng
tinh thần đạo đức, quyền năng ấy vô đối, nếu ta biết nắm lấy nó trong tay, thì
nó là cây gươm, nền Ðạo gọi là Huệ kiếm. Ðem tình cảm đặng cảm giác thiên hạ,
tấn tuồng ấy Bần Ðạo đương làm đây với một chánh sách, từ khi biết Ðạo và ra
đảm nhiệm phận sự thiêng liêng của Chí Tôn phú thác. Bần Ðạo đã biết rõ sự bí
mật của cơ chuyển thế nầy và tánh chất của loài người, thấu đáo tận tường rằng
không bao giờ dùng cường lực đặng đè nén, ép buộc tinh thần loài người, đặng
đem vào Thánh chất cho được. Muốn chuyển theo chánh sách của Ðức Chí Tôn thì
duy có lấy nhơn đức đối với hung bạo, lấy hiền đối với dữ, lấy tâm quảng đại
bao la khoan dung tha thứ của Trời Ðất đối với tánh đức hẹp hòi của loài người,
lấy tâm bác ái trải ra toàn tâm lý loài người đặng trừ cái tánh gian xảo, hung
tàn, quỉ quyệt của họ. Nếu chúng ta đi theo được đúng như vậy, mới có thể xứng
đáng là kẻ thay mặt cho Ðức Chí Tôn cầm cơ chuyển thế tại thế gian nầy.
Bần
Ðạo đã làm đặng như vậy, và sẽ còn làm nữa. Tình trạng của chúng ta làm ngày
hôm nay để cho thiên hạ thấy tâm đức chơn thật của chúng ta đã trải trước mắt
họ, thì họ cũng phải đối lại với ta chơn thật như vậy.
Coi
vậy mà ngoài mặt ta tinh thần đương thanh tịnh sẽ có giờ xao xuyến, chớ thiên
lương tâm lý vô đối trong phút giây tỉnh giác và phút giây ấy có thể làm môi
giới cho ta tự tỉnh cả kiếp sống của mình.
Ta đã
tìm phương tỉnh giác thiên hạ, Phật Thích Ca có nói: "Tự giác nhi giác tha" có giác tha, mới hiểu cuộc lễ ngày
hôm nay không phải là bỏ, ngày mệt mỏi hôm nay không phải là một ngày vô ích và
sự kết quả tâm tình của ta đối với đại diện của nước Pháp đến viếng Tòa Thánh
vị ấy sẽ thấy và hiểu chúng ta, thì ảnh hưởng đó một ngày sau mà là ngày gần
đây thôi, sẽ đem đến cho Quốc dân Việt Nam những thắng lợi bất ngờ.
Q. 2/32: VÌ SAO ĐỨC HỘ PHÁP
CẦM QUYỀN NHỊ HỮU HÌNH ĐÀI.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 5
năm Mậu Tý (dl. 20-06-1948)
Bần
Ðạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Ðạo đến giờ Bần Ðạo chưa thấy kỳ đàn nào
đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền (huyền?) (*1) diệu pháp, điều mà
mấy người không thể tưởng tượng được, vì từ khi mở Ðạo mới có lần đầu. Hay là
tại chúng ta đồng thinh tụng kinh mà được như vậy chăng? Ấy vậy, từ đây về sau,
chúng ta vẫn làm y như kỳ nầy mãi mãi.
Hôm
nay, Bần Ðạo xin tạm đình khảo cứu nền phong hóa của Việt Nam đối với dân tộc
vạn quốc đặng thuyết một vấn đề trọng yếu từ thử đến giờ chưa ai thố lộ. Ngày
hôm kia, Bần Ðạo gặp Ðức Lý Giáo Tông vấn đáp cùng Ngài về một lý thuyết tối
trọng yếu trong nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn. Ấy vậy, xin cả thảy bình tâm
lắng nghe Bần Ðạo minh thuyết và rán nhớ, bởi vì bài giảng Ðạo hôm nay có điều
bí ẩn tiên tri, sự tiên tri ấy kết liễu cùng chăng không rõ, nhưng hiện giờ ta
có thể đoán xét được.
Ðức
Lý Giáo Tông có giáng cơ nói, giao quyền Cửu Trùng trong tay Bần Ðạo đặng thống
nhứt quyền hành Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Ðài, ấy là do Ngọc Hư Cung quyết định,
tức là Thiên điều quyết định vậy. Ðiều ấy Bần Ðạo lấy làm khó nghĩ, lấy trí mà
tưởng tượng. Ngoài ra người nào khác hơn là Bần Ðạo thì không để ý, nhứt là khi
chịu nhận đảm nhiệm ấy làm cho tinh thần Bần Ðạo kiếm hiểu vì cớ nào Ngài cho
Bần Ðạo quyền thống nhứt, mà tìm kiếm không ra.
May
thay! Ðức Lý Giáo Tông đến, Bần Ðạo thú thiệt xin Ngài nói rõ cho biết đôi việc
nhỏ đặng chỉnh đốn lại, và xin lỗi đặng vấn nạn Ngài vấn đề ấy. Bần Ðạo nói:
"Bạch Ngài, sự bí mật ấy
Ngài có thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an tâm, an trí được".
Ngài
cười nói: "Bần Ðạo vẫn biết trước
thế nào Hiền Hữu cũng vấn nạn. Nhưng Bần Ðạo đã cố tâm để đối đáp lại cùng Hiền
Hữu. Trước kia muốn biết sự bí mật ấy, chúng ta nên tìm hiểu Nhị Hữu Hình Ðài
là gì? Bần Ðạo xin giải nghĩa: Cửu Trùng Ðài là chơn tướng của Cửu Thiên Khai
Hóa tức là cơ hữu vi của Càn Khôn Võ Trụ, do Cửu Thiên Khai Hóa tạo
thành".
Hỏi:
Bởi quyền năng nào tạo thành?
Do
nơi quyền năng vô đối của Chí Tôn. Pháp là thành tướng ấy là do nơi Pháp từ
Thượng cổ đến giờ liên hiệp Vạn Linh và Chí Linh. Bởi vậy ta tìm Ðạo là cốt yếu
tìm hiểu cái bí pháp ấy như thế nào và có phương thế gì làm cho ta đoạt đặng
chăng? Ấy vậy, Cửu Trùng Ðài là Cửu Thiên Khai Hóa tạo đoan cả Vạn Linh trong
Càn Khôn Võ Trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời, mắt ta thấy hằng hà sa số là địa
giới, ta gọi là sao, mỗi vì tinh tú ấy là một quả địa cầu có người ta ở, cho
nên Ðức Chí Tôn mới nói rằng: Càn Khôn Võ Trụ nầy chứa đầy Vạn Linh. Nói rõ hơn
Cửu Trùng Ðài là Ðời.
Còn
Hiệp Thiên Ðài là Pháp giới tạo ra Vạn Linh, nó là Ðạo, rõ rệt như vậy.
Bây
giờ Bần Ðạo hỏi tại cớ nào Ngài đến đây, cầm quyền trị thế. Ta tìm hiểu cao sâu
hơn nữa sự bí mật ấy. Hiện thời chúng ta thấy gì? Ta thấy đời đương phấn khởi
bồng bột, tự năng, tự tạo, tự đoán, tự chủ, không còn đạo đức gì hết. Ðương
nhiên có hai hình tướng:
Cộng
Sản tinh thần thể chất.
Các
Ban máy móc, cách vật, hóa học tức thuộc hình tượng thể chất.
Hai
hình trạng ngày nay đối chọi nhau. Thảng ngày kia nó hiệp đồng lại, thì thể
chất ấy có hình lại có hồn phách thì ta thử tưởng tượng trên mặt địa cầu nầy sẽ
thể nào. Thể chất thì lúc nào cũng xu hướng theo thể tánh duy vật mà thôi.
Thảng các Tôn Giáo đương cầm tương lai linh hồn của loài người, trên mặt địa
cầu nầy không đủ năng lực thì cả tài năng thể chất sẽ xô đuổi cả xác thịt lẫn
linh hồn của con người đến chỗ tự diệt. Ấy vậy, tinh thần tức là đạo đức, phải
như thế nào đặng đối phó cho vừa sức lại thể chất ấy. Ðời bây giờ quá tấn triển
về hình thể, phải có cơ Ðạo đủ năng lực tỉnh thức tâm hồn của loài người và giữ
gìn dìu dắt cho mới tồn tại. Mà ta thấy các Tôn giáo hiện hữu tại địa cầu nầy
đã mất quyền. Ðiều đó quyết hẳn vậy! Thiên hạ tinh thần đã loạn mà không ai cầm
quyền điều khiển nên tự do sát hại lẫn nhau.
Chí
Tôn đến, đến đặng cứu con cái của Người.
Người
đã làm thế nào? Chẳng có chi lạ. Người chỉ tăng cường đạo đức làm giềng mối cho
tâm lý loài người đặng bảo tồn sanh mạng cho cả nhơn loại với phép duy tâm thì
Ðời mới tồn tại.
Ngài
luận tới đó, Bần Ðạo nói: "Than ôi! Ðạo Cao Ðài đã hai mươi ba năm mà còn
lẩn quẩn trong nội địa Việt Nam, có đâu đủ đảm lực ra toàn cầu đặng độ rỗi nhơn
sanh, e đặc phận ấy quyết định con đường của Ðạo còn dài, còn sơ cấp tương lai
vận mạng loài người đương cấp bách, làm thế nào chuyển thế cho kịp đặng hoàn
tất cả đảm nhiệm thiêng liêng của mình".
Ngài
trả lời một câu rất hữu duyên, chúng ta không thể tưởng tượng được. Ngài nói
rằng: "Cái nhà máy xay, vốn nó không
cấy, không gặt mà nó vẫn có gạo cho ra toàn nhơn sanh ăn; Ðạo Cao Ðài không ra
khỏi nước mà có thể làm phận sự trọn vẹn đặng".
Bần
Ðạo hỏi câu ấy có ý nghĩa thế nào?
Ngài
đáp: "Mối chơn truyền của Ðức Chí
Tôn đem Ðạo đến tại thế là mối dây liên lạc tương quan cùng các Tôn giáo trên
Thế giới, đương nhiên cầm quyền nhơn loại bởi không có giềng mối kết liên với
nhau thành ra chia rẽ, phân biệt trắng đen, hơn thiệt. Trận giặc Tôn giáo trên
địa cầu hiện giờ ta thấy tại Ấn Ðộ và Palestine có thể nào làm cho các Tôn giáo
hiệp đồng tâm đức đặng chăng. Duy có năng lực của Chí Tôn tạo thành mối dây
liên hệ các Tôn giáo cùng nhau đó thôi".
Bần
Ðạo vấn nữa: "Thảng các Tôn Giáo ấy
Chí Tôn đem dung hòa đặng họ tương hội cùng nhau, mà họ không nghe, thì ta mới
làm sao?"
Ngài
nói: "Dầu đương nhiên họ không nghe,
nhơn sanh sẽ biết điều trọng yếu ấy mà đòi hỏi thì họ phải chịu, chừng ấy nhơn
sanh buộc hiệp, phải hiệp, bằng chẳng vậy họ sẽ tự diệt lấy họ".
Ấy
vậy, Ðức Chí Tôn định cho Hộ Pháp cầm quyền hai Ðài, tức Thiên điều quyết định
Ðạo phải làm chủ của Ðời, oai quyền ấy sẽ cứu Ðời khỏi tận diệt.
Vì cớ
Ngài nói Thiên điều trong tay Bần Ðạo là vậy đó.
Phụ ghi:
(*1) Nơi
đoạn thứ 1: Bần Ðạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi
khai Ðạo đến giờ Bần Ðạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn
nầy. Nếu tất cả thấy được quyền (huyền?) diệu pháp,...
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Bần Ðạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai Ðạo
đến giờ Bần Ðạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được
huyền diệu pháp,...
Q. 2/33: QUẢ KIẾP CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
Tại Báo Ân Từ, thời Ngọ ngày
rằm tháng 3 năm Mậu Tý (dl. 23-04-1948)
Cùng
mấy chị mấy em, từ thử tới giờ chúng ta vẫn sống với đời, chúng ta thường thấy
điều gì trái với nguyên do, tức nhiên phải tìm cho thấu đáo hoặc đoán cho được.
Tỉ như đường may mà mũi kim không ăn vải, máy sẽ ắt có sứt mẻ chi đó, còn như
xay bột thấy nghẹn không xuống thì biết thiếu nước. Cái gì cũng có nguyên do
của nó, phải tìm cho biết hoặc đoán cho ra lẽ.
Hiện
giờ có một việc dị hợm là nước Pháp chịu trả tự do độc lập thống nhứt, trả trọn
vẹn mà từ thử đến giờ Pháp đã nói nếu chúng ta tự trị được, tự bảo vệ được, nên
biết chúng ta có thể đem hạnh phúc lại cho nòi giống được thì người ta sẵn lòng
hứa trả, sợ e cho mình không hưởng được hạnh phúc mà còn nguy khổ nữa, nên buộc
người ta phải gánh cả trách nhiệm đã tám chục năm qua còn lưu lại mối thâm tình
của hai nòi giống. Hai nữa là quyền lợi đã tự tạo trên tám chục năm còn lưu lại
để mưu cầu sự sống chung với nhau cùng tạo hạnh phúc chung cho hai dân tộc. Nếu
người ta sẵn lòng trả cho mình vi chủ lấy thì có nhiều người lấy làm lạ, nhứt
là hạng thượng lưu trí thức của Pháp, họ rất ngạc nhiên rằng nước Pháp không hề
cản đảng, không hề từ chối cho dân tộc Việt Nam thống nhứt và độc lập mà tại
sao dân Việt Nam lại còn đánh Pháp, họ hỏi như vậy đó? Hồi nước Pháp muốn trả
những điều đó cho tay khác, nghĩa là muốn đưa bướng cho rồi, nhưng sực nhớ lại
là không phải chủ nên đòi, mà đòi mãi không lấy lại được, rồi vì sự lỗi lầm đó
sanh rối lạ thường lắm vậy! Bởi cái rối đó mà tôi bắt tội họ, họ không thể chối
được. Họ lại nói thảng như lời của Pháp không cho mình thống nhứt, không chịu
trả nước cho mình thì mình phải giết họ chớ, bởi họ là kẻ thù. Tại sao trở lại
giết nòi giống của mình, gây nạn tương tàn tương sát lẫn nhau? Nên họ cho đó là
đảng cướp, đảng cướp ấy lợi dụng danh từ ái quốc để giết người lấy của mà thôi.
Lạ
lùng thay! Ðêm hồi hôm tôi thuyết rõ tại quả kiếp của nòi giống mà chúng ta
ngày nay phải chịu hình khổ. Ðời trước vay, đời sau phải trả, tấn tuồng đau
thảm cốt nhục tương tàn nầy còn nhiều nữa, vì buổi trước đã tạo nên nay lưu lại
mãi thôi, làm sao đoạn được, có phương gì đoạn được chăng? Có chứ.
Ðiều
chướng ngại hiện giờ là tôi tưởng phải khó khăn về phái người Pháp, trái lại
Ðức Bảo Ðại làm khó người ta, làm cho đình đãi cuộc thương thuyết, mà một ngày
chưa thương thuyết, là một ngày nhơn sanh chết chẳng biết bao nhiêu. Tại sao
vậy? Tại quả kiếp chưa thường đủ, nhơn sanh phải chết phải trả món nợ còn đang
đòi, trả bằng máu, bằng con số sanh mạng. Vì cớ mới có sự chướng ngại lạ lùng
vừa nói. Mà nợ ấy đòi bằng sanh mạng, bằng máu tức là đòi cốt nhục của mấy bà
đó chớ, không con cũng cháu hoặc bà con thân quyến. Ðâu xúm lại cầu nguyện Ðức
Phật Mẫu can thiệp giùm cho, sau thờ ơ quá vậy! Còn bên phái nam cũng vậy,
không biết chừng, giọt máu chưa trả nợ đó còn ở trong mấy người, phải xúm nhau
cầu nguyện.
Q. 2/34: ĐỨC CHÍ TÔN HÀNH PHÁP
TẠI KIÊM BIÊN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm 24
tháng 5 năm Mậu Tý (dl. 30-06-1948)
Bần
Ðạo nhớ khi lên mở Hội Thánh Ngoại Giáo trên Kiêm Biên năm 1927, đặng truyền
giáo, Ðức Chí Tôn cho vị Phối Sư Hương Lự của chúng ta đây được thông công cùng
Ngài, nhờ nghe, nhờ thấy, truyền pháp cho Bần Ðạo.
Khi
nọ, Chí Tôn biểu Bần Ðạo lại kệ "bàn viết" có sắp một dãy nhựt trình
đặng rút ra hai tờ. Ngài lại dạy chị chúng ta là bà Phối Sư Bảy đứng bắt ấn, kế
Bần Ðạo trải hai tờ nhựt trình sau lưng mà bà chị vẫn không biết. Tới lúc bắt
ấn rồi, Bần Ðạo thưa: "Ðã trải rồi". Tức thì bà chị nhảy ngược lại,
đạp hai tờ nhựt trình. Bần Ðạo không hiểu nghĩa gì. Ðức Chí Tôn biểu coi hai
chơn có đạp cái gì. Bần Ðạo coi chơn trước giở lên là hình Tưởng Giới Thạch,
đạp ngay trên đầu, còn chơn sau Bần Ðạo biểu giở nhón lên, coi thấy hình
Roosevelt, quan Tổng Thống của nước Mỹ đạp ngay ngực và miệng. Ðức Chí Tôn nói
với Bần Ðạo rằng: "Một ngày kia Trung Hoa sẽ thờ phụng Ðạo đáo để, còn
nước Mỹ sẽ lãnh trách nhậm đi truyền giáo toàn cầu". Ngày nay, chúng ta đã
thấy tưởng chừng như Chí Tôn đã khiến mấy vị phóng viên bên Mỹ đến lấy hình
trọn vẹn của Ðạo, đủ cả chi tiết, kinh luật đem về xứ để truyền bá, thì mấy vị
nầy chẳng khác như Ðức Tam Tạng ngày xưa đến Ấn Ðộ thỉnh kinh. Bần Ðạo dám chắc
sự bí mật mà Bần Ðạo thấy Chí Tôn hành pháp buổi nọ, đã kết liễu ngày hôm nay.
Ấy
vậy, chúng ta phải chịu nhọc một chút đặng nghinh tiếp họ, trong buổi lễ nầy.
(A)
Bần Ðạo tưởng khi những người có mặt ngồi tại đây hầu lễ nầy, biết chừng đâu,
cũng sẽ được hạnh phúc như đi truyền giáo bên Mỹ sau này mà chớ.
Bần
Ðạo để lời cám ơn toàn cả nam nữ và các bí pháp ấy chúng ta sẽ thấy Chí Tôn làm
thành tướng trong thời gian ngắn ngủi sau đây.
Q. 2/35: CỦA CẢI SỐ 1 CỦA
CHÚNG TA TẠI THẾ NẦY.
Tại Ðền Thánh, đêm 14 tháng 6
năm Mậu Tý (1948)
Ðêm
nay, Bần Ðạo giảng tiếp của cải số 1 của chúng ta ở tại thế nầy, hôm nọ Bần Ðạo
đã tả ba hình trạng của cải của chúng ta thế nào rồi.
Ðức
Chí Tôn Ngài dìu đường cho cả con cái của Ngài để đoạt đặng của cải ấy, và
chúng ta đi từ từ mà đến con đường đoạt cho đặng 3 thứ của. Chúng ta có thể làm
đại nghiệp cho chúng ta về hữu hình và về Thiêng Liêng.
Bây
giờ Bần Ðạo chỉ nói về của cải số 1, tức nhiên là của cải hữu vi của chúng ta,
hôm nay Bần Ðạo đã tả cái sở dụng của cải hữu vi của chúng ta. Số người nào
biết tìm vạch gia nghiệp ruộng đất cho họ, có các vật chi đã hưởng được, đặng
giúp ta sống về phần xác thịt, thì trước khi chúng ta phải hiểu cái căn nguyên
của nó trước đã, nó đã giúp cho ta những gì? Nó giúp cho ăn mặc, nó giúp cho ta
tất cả phương pháp sống về xác thịt chúng ta, chỉ có bao nhiêu làm căn bản. Nếu
nói lý luận theo căn bản thì chúng ta là con vật mà thôi. Hình thể của chúng ta
có ngũ tạng lục phủ để sống, một con vật nó cũng có ngũ tạng lục phủ nữa, như
mình, đây thì con vật ăn cái gì thì mình ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp dưỡng,
1 là cái ăn gián tiếp, 2 là cái ăn trực tiếp, cái ăn gián tiếp, là thứ như con
trùn nó ăn đất mà sống, mà hại thay cái tiếp dưỡng trực tiếp thì mạng sanh con
người không được bền bỉ vĩnh viễn, còn cái ăn tiếp dưỡng gián tiếp là chúng ta
ăn cỏ, cây, trái mà để dưỡng xác ta, nó đem lại cho ta cái tinh ba dưỡng khí vô
cùng, còn cái tiếp dưỡng trực tiếp là sát sanh mạng của vật loại để thực nhục
thì cái mạng sanh của con người có định giới hạn tu khó mà trường cửu được.
Như
thảo mộc phải thí thân đặng nuôi dưỡng cho các loài vật mà thôi, thì ta phải ăn
thảo mộc mà chớ, còn một điều cao hơn nữa, nếu là thú vật thí thân để nuôi
người thì phải thí thân đền trả cho Ðấng Tạo Ðoan thử hỏi Ðấng ấy có phải bắt
chúng ta thí thân đền trả không? Chắc chắn không. Thì loài vật thí thân để nuôi
cái mạng sanh con người không có căn lý nào hết.
Con
vật nó có hưởng được cái đặc ân thảo mộc để tiếp dưỡng đủ nuôi sanh mạng của nó
thì mình đâu có quyền đoạt mạng sống của loài vật mà để nuôi mạng sanh của
mình.
Chúng
ta đã ngó thấy hiển nhiên thời đại nầy họ chỉ sống cái phương sống của người mà
họ sát hại sanh vật, làm phương sống của người, thì biểu sao hằng ngày không có
cảnh tương tàn tương sát với nhau. Cũng vì cái sống bạo ngược mà chúng ta thâu
đoạt của cải đặng để vào cái thân danh của chúng ta, có đất mà không biết trồng
tỉa thảo mộc để nuôi mạng sống của loài người, nên Ðức Chí Tôn đã sắp sẵn nơi
mặt địa cầu nầy, những căn bản do nơi đất mà ra, để cho loài người nhờ đất mà
sống. Cái lý thuyết nầy chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, không có một mảy
may gì mà lại chúng ta không sống nơi đất, Ðức Chí Tôn đã tạo cho chúng ta sống
mà lại ban cho chúng ta có một quyền năng để đổi cái sống của chúng ta nơi mặt
đất nầy. Hại thay! Chúng ta đổi đất có thể nuôi thiên hạ được, cái của cải nơi
mặt đất nầy có thể nuôi thiên hạ đặng, không tranh giành với nhau mà sống, cái
sống của chúng ta rất dễ dàng, mà tại sao chúng ta tạo cái sống khó khăn khổ
não mà thôi. Ðức Chí Tôn đã để bài học cho chúng ta thấy là Ngài không cho
chúng ta cực nhọc. Ngài biểu chúng ta trai giới là cốt yếu Ngài biểu chúng ta
đổi đất mà sống, hễ đào đất mà sống thì sống một cách đơn sơ lắm. Ðào đất để
sống, xin ai thì khó mà xin đất vẫn dễ mà!... Nếu chúng ta hiểu biết vì đất mà
sống thì loài người vẫn nhìn nhau mà lo sống với nhau một cách hòa giải vậy.
Nên
thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách
giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng thì không bao giờ đói, cái đó
(đói?)(*1) là do nơi làm biếng mà thôi. Trái lại họ không đào đất để mà sống,
họ chỉ âm mưu sang đoạt của người, hễ thấy người ta có cái gì thì muốn lấy,
muốn giựt của người, nên nay mới có những sự tranh đua như thế.
Cái
sống hữu hình, Bần Ðạo để cho thấy đó mà kiếm sống. Còn cái của cải thiêng
liêng ấy tức nhiên là thân tộc của chúng ta. Ngài đã ban cho cha mẹ, vợ, con,
anh, em chúng ta cái của cải ấy mà chúng ta không thể nào kiếm đặng. Tấn tuồng
đói khổ là tại chúng ta không biết tìm đất mà sống, lại giết hại sanh mạng con
vật mà sống, rồi tranh danh đoạt lợi mà giết hại lẫn nhau cái sự khổ não đó nó
đã lan tràn trong xã hội, những kẻ có cái bản năng tranh giành xô xát với nhơn
loại thì nó sống một cách cô độc khổ não lắm, té bên mặt không ai đở, ngã bên
trái không ai nâng. Ðức Chí Tôn đã sắp đặt cho loài người để sống mà không biết
nương dựa theo đó để sống, lại tìm phương thế khác để sống cho đủ đầy vật chất,
nên nay mới có thời kỳ loạn lạc nầy mà tại chúng ta không biết tìm định cái
nguồn cội mà Ðức Chí Tôn đã dành sẵn cho loài người nơi mặt thế gian nầy.
Hiện
giờ cái hình trạng căn bản thiêng liêng ấy mà chúng ta có thể nào đoạt đặng
chăng? Ðức Chí Tôn Ngài nói được lắm chớ, các người muốn đoạt được thì phải hợp
thành một gia tộc thì mới đoạt đặng của cải quí báu thiêng liêng ấy, cái của
cải thiêng liêng nó đã dành sẵn trong tay mọi người, mà ít có ai để ý đến,
chúng ta chịu nghèo là do nơi mù quáng không ngó thấy mà thôi. Ấy là cái khổ
tâm của bạn hữu hình. Nếu cái khổ của bạn hữu hình chúng ta được chấm dứt thì
chúng ta đã đoạt được tại mặt thế nầy đó vậy.
Còn
cái điều thứ ba khi hôm Bần Ðạo đã tả hình trạng của cải mà từ trước Tiên Nho
để lại câu:
-
Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ,
-
Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc,
- Bất
như tích âm đức ư minh minh chi trung dĩ trường cửu chi kế.
Nghĩa
là: Chứa vàng để lại cho con, biết con có bảo thủ được không? Còn chứa sách để
lại cho con, biết con có học hay không? Chỉ chứa đức là con nó hưởng được mà
thôi. Nếu không ở vào cửa Ðạo thì không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Ðức
Chí Tôn đến lập Ðạo để cho các người lập đức nơi cửa Ðạo Cao Ðài nầy đó vậy.
Chỉ có
Ðạo Cao Ðài để tạo đức cho các triệu người đặng hưởng, mà đức ấy của Ðạo Cao
Ðài làm thì không bao giờ mất. Tôi xin bảo đảm không bao giờ mất.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đoạn thứ 7: Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó
mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng thì không bao giờ
đói, cái đó (đói?) là do nơi làm biếng mà thôi....
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Nên thiên hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng
ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản dị đàng hoàng sống một cách siêng năng
thì không bao giờ đói,
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét