Lời Thuyết Ðạo Của Ðức Hộ Pháp - Toàn Tập 8


Q. 2/55: LỄ HẠ NGƯƠN NĂM MẬU TÝ.
Tại Ðền Thánh, đêm rằm tháng 10 năm Mậu Tý (1948)

Kỳ lễ Hạ Ngươn nầy nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn đã đặng 24 tuổi. Trong thời gian 24 năm, nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn đã trải qua biết bao nhiêu nỗi khó khăn thiên chuyển, buồn có, khóc có, vui có, nhục có, vinh có, hận có, trong 24 năm
cả thảy Thánh Thể của Ngài và toàn con cái của Ngài nam, nữ đã chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, đã chịu biết bao nhiêu nỗi thê lương, buồn thảm; chúng ta dòm lại ngày nay, cái nền Chánh Giáo Ðức Chí Tôn cho nòi giống chúng ta, đã thành tựu rồi đó. Chúng ta suy đoán coi nó có đặng giá trị mà chúng ta đã mua chuộc trong 24 năm trường chăng?

Hồi tưởng, nếu chúng ta công tâm, nhất là cho cái lương tri, nghĩa là lấy trí não xét đoán, thì chúng ta biết nhìn nhận rằng: Với cái đại nghiệp Thiêng Liêng dường ấy, một cái cơ quan trọng yếu đã độ được toàn thể quốc dân, về phần xác và phần hồn, mà đổi chuộc cái khổ hạnh của chúng ta thì không có nghĩa lý gì hết. Chúng ta xem lại, lấy công tâm suy đoán, những khổ hạnh của các vị Giáo Chủ từ trước, vâng mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, đến tạo Ðạo cứu Ðời chẳng phải chịu khổ não về phần hồn mà thôi, về phần xác của họ cũng bị đọa đày thảm thiết.
Còn nói về nhục thì thôi? Không vị nào không khổ nhục chơn linh, đó chúng ta nhìn thấy Chí Tôn không có thiếu nợ chúng ta bao giờ. Bởi vì Ngài không khi nào thiếu nợ con cái của Ngài, dầu tình cũng vậy, Ngài chỉ biết cho mà không biết hưởng, từ thử đến giờ chưa có kẻ phàm nào đã đem tinh thần, trí não, tâm hồn dùng làm tôi tớ cho Ngài mà bị lỗ lã bao giờ chỉ đặng lời mà thôi, thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết. Chúng ta thử suy đoán, với một kẻ mà đã đem trọn kiếp sanh mình làm con tế vật cứu thế như Ðức Chúa Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do Thái đóng đinh trên cây Thánh Giá như kẻ thường tình kia. Một Ðấng Quân Vương, một Ðấng chủ trương, bất kỳ là xã hội nào hay là một cơ đồ nào, đối với một tội dường ấy có thể nói đến Ðấng Jésus Christ hồi còn sanh tiền đi truyền giáo cho dân lại bị khổ nhục, nhứt là bị bắt buộc mãi trong vòng tù tội, nỗi khổ hạnh cái nào mà Ngài không có, cho đến Ngài chịu chết trên cây Thánh Giá, Ngài chưa biết buổi nào là hạnh phúc trong kiếp sanh của Ngài hết. Ngài chết trên cây Thánh Giá với mảnh thân tù và tội tử hình.

Chỉ có Ðức Jésus Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi, mà Ðấng ấy là Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ là Thầy của chúng ta ngày nay đó vậy. Có một Ðấng đó thiếu nợ tiền khiên, mà đã hai ngàn năm Ðạo Thánh Gia Tô làm chủ tâm lý cả toàn thiên hạ trên khắp mặt địa cầu nầy, còn cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối, (*1) buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu. Chúng ta thấy lời than của Ngài thì biết đời chẳng ai nghèo nàn hơn Ðức Chúa Jésus Christ. Ngày nay hiển nhiên trước mắt chúng ta thấy vinh quang vô đối của Ngài, về mặt xác thịt và linh hồn làm Chúa cả gần toàn mặt địa cầu nầy. Hỏi nợ ấy ai trả đặng, chỉ có người đó cho, là người đó trả, với một kiếp sanh vinh diệu, sang trọng oai quyền.

Từ thử đến giờ dưới thế gian Ðức Chí Tôn chưa cho người nào khác nữa. Ấy vậy một Ðấng không từ chối cái nợ của mình, với kẻ chết mà đã 2.000 năm vẫn tiếp tục đền bồi cái nợ ấy; Ðấng ấy chẳng khi nào phụ rãy cái Thánh Thể của Ngài, và con cái của Ngài. Bần Ðạo biết hẳn vậy, hằng khuyên chúng ta giữ đạo đức tinh thần đặng làm tôi tớ của Ngài, làm môn đệ của Ngài, hay là đặng làm con của Ngài, vì có bao nhiêu đó mà thôi, Ðấng ấy không hề chịu nợ tình với chúng ta. Trong 24 năm tạo nên hình tướng nền Ðạo, tạo dựng Ðền Thờ tối cao tối trọng nơi thế gian nầy, thì Ngài không hề phụ rãy bao giờ.

Bần Ðạo nói không nợ tình nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại, trong 24 năm chúng ta làm tôi làm môn đệ cho Ngài, chúng ta chỉ có một điều duy nhứt là hiến dâng cả thi hài ta làm con tế vật cho Ngài, đặng Ngài dùng từ tâm ân xá cho toàn nhân loại đã gây tội tình với Ngài từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai (ba?) (*2), trên mặt địa cầu nầy vậy.

Nếu kỳ ân xá ấy đạt được, thì nạn tương tàn, tương sát với nhau mới tránh khỏi. Nếu kỳ ân xá ấy đạt không được thì có một trường quyết chiến thảm khổ, sẽ trải qua trước mắt chúng ta mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa hề có.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 4: Chỉ có Ðức Jésus Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi,... ... ..., còn cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối, buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chỉ có Ðức Jésus Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi,... ... ..., còn cái vinh diệu của Ngài ôi! Vô đối. Buổi nọ Ngài nói "Con chim có tổ, con chồn có hang" mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu...
(*2) Nơi đoạn thứ 6: Bần Ðạo nói không nợ tình nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền bù lại,... ... ... từ buổi tạo thiên lập địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ hai (ba?), trên mặt địa cầu nầy vậy.
Chúng tôi nghĩ là lần thứ "ba", không rõ có phải sơ sót kỹ thuật chăng?
Q. 2/56: ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT TRONG DỊP LỄ THIÊU XÁC CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ.
ÐỨC HỘ PHÁP thuyết.

Kẻ nào hiếp các con tức là hiếp Thầy, mà hiếp được Thầy là một việc không dễ dàng gì vậy.

Ngày kia, khi Ðạo Cao Ðài đã mạnh mẽ tràn lan khắp năm châu. Lúc ấy thế giới sẽ đua nhau về đây thỉnh Ngọc Xá Lợi của Liệt Thánh về chiêm ngưỡng cũng sẽ không kém gì cuộc cung nghinh xá lợi Phật của thế giới ngày nay vậy.
Ngày rằm tháng giêng năm Ất Mùi (dl. 07-02-1955)

Q. 2/57: MÓN ĂN CỦA LINH HỒN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 01-12-1948)

Kỳ nầy Bần Ðạo đình thuyết về sự dục tấn của các Linh Hồn chúng ta trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, đặng thuyết về một vấn đề cần yếu nhứt có ảnh hưởng yếu trọng đến phần hồn chúng ta.

Thời gian Bần Ðạo để chơn trở về Ðền Thánh, Bần Ðạo chú trọng một điều, chẳng những chú trọng mà thôi mà còn buộc cả Chức Sắc phải đi cúng tại Ðền Thánh. Lý do ấy như thế nào Bần Ðạo xin thuyết minh cho toàn cả hiểu biết, rồi mới rõ cái huyền vi bí mật phương tu của mình hầu gắng công lo tu thêm nữa.

Ai cũng thường nói mình tìm Ðạo, Ðạo đã để trước mắt mình, nói quả quyết hơn Ðạo để nơi mình, của mình. Ấy vậy là vật Chí Tôn đem đến để trong tay của kẻ làm chủ quyền sở hữu nó.

Bần Ðạo nhớ khi nền Ðạo mới phôi thai, buổi ban sơ xuống tại Thủ Ðức ở trót 7 tháng trường, nhờ ơn đức của Giáo Tông dìu dắt, giáng bút giáo hóa, buổi chưa rõ thông chơn lý của Ðạo, còn mập mờ, tìm hiểu, nhiều khi vì sự ham muốn biết, đã vấn nạn Ngài nhiều điều quá đáng, như ngày hôm nay và tương lai nếu ai xúi hỏi nữa, chắc Bần Ðạo không dám. Có một phen Ngài đến dạy Bần Ðạo, Ngài than: Cái tâm lý nhơn loại đương nhiên đã khiếm khuyết đạo đức tinh thần, vì cớ trường đời hỗn loạn, hàng trí thức hoặc tu niệm tiềm tàng thấu đáo, muốn tìm phương hay sửa chữa, cứu vãn tình thế của đời. Hại thay, buổi ấy Ðạo Giáo lu mờ, thiên lương hết tồn tại, làm thế nào mà nhơn loại biết chủ định quyền hành mình đặng tự lập, tự trị lấy mình. Cả thảy chỉ biết tự lập tự trị mình thì mới mong hiểu được huyền vi bí mật. Tự sửa mình mỗi cá nhân, đến xã hội, đến cả nhơn loại biết tự trọng mình được thì cứu vãn tình thế nguy ngập tàn diệt nầy được.

Hại thay! Tấn tuồng ta thấy trước mắt, thiên hạ bị nạn chiến tranh tàn diệt do nguyên lý của nó là tinh thần nhơn loại thiếu đạo đức, vì thiếu đạo đức nên vật dục mới xô đẩy họ tìm phương sống, tìm hạnh phúc trong phương sống ấy. Hạnh phúc không có hình dáng, tạo hạnh phúc chỉ tưởng đâu diệt nhau đặng bảo thủ phương sống của mình, chẳng khác nào như con vật chỉ biết giành sống với nhau, ngoài ra tranh giành đặng bảo thủ mạng sống không còn biết đạo đức nhơn nghĩa gì hết. Giờ phút nầy đương nhiên tấn tuồng nguy khốn cả toàn nhơn loại, do nguyên lý tinh thần đạo đức, không tồn tại, chẳng phải không tồn tại mà thôi, họ lại còn từ chối cái tinh thần đạo đức nên không còn có giá trị đối với họ. Vì cớ Chí Tôn đến tạo Ðạo.

Bần Ðạo nhận thấy cả sự bạc nhược tinh thần, đương thế kỷ hai mươi nầy, văn minh khoa học giục thúc nhơn loại mở cả tinh thần trí não đến cực điểm, họ tưởng có thể vi chủ cả sanh mạng họ mà chớ. Cũng có kẻ dầu có học thức như Phan Thanh Giản hồi đi sứ sang Pháp Triều thấy cả nền văn minh phát khởi đến huyền vi tư tưởng. Ngài là người văn học trí sĩ của nước Nam ta, đến cũng phải sợ sệt, nhận rằng nền văn minh đã đến mức cao cực độ. Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một câu nói dường nầy quá lẽ:
"Dĩ nghệ tề thiên địa,
Chỉ nhượng tử sanh tạo hóa quyền".

Ngài nói rằng: Cái quyền hành vi chủ, duy vật chẳng nhượng quyền tạo hóa, chỉ có chết sống mới nhượng cho quyền tạo hóa mà thôi. Thành thử mình thấy văn chương khoa học đương nhiên làm chủ tư tưởng của con người.

Hại thay! Nếu khoa học mà dìu dắt tâm lý nhân sanh đến đạo đức tinh thần thì may biết bao, trái ngược lại văn minh ấy chỉ giục thúc phương sống vật chất, họ tìm hạnh phúc trong cái sống vật hình, vì cớ Ðạo Giáo mất quyền. Bần Ðạo tưởng người khác hơn Bần Ðạo cũng lưu ý đến điều ấy, nên đã vấn nạn Ðức Lý Giáo Tông. Hỏi rằng: "Ðương thế kỷ hai mươi nầy văn minh cực điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo đức tinh thần làm thuyết cứu thế, sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn loại còn bảo thủ được khối thiên lương biết xu hướng đạo đức, tinh thần đạo đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới mọc đặng, còn thế kỷ hai mươi nầy là thời kỳ văn minh vật chất, nếu đem đạo đức ra làm môi giới, cứu vãn tình thế cho đời, e vô hiệu quả.".

Ngài than! Nói quyết đoán rằng: "Theo lẽ Hiền Hữu nói nhơn loại ngày giờ nầy không cần đạo đức có phải?".

Bần Ðạo trả lời: "Thật vậy, nhơn loại buổi nầy không cần đạo đức, chỉ tìm hạnh phúc nơi văn minh khoa học, cũng có thể được chớ?".
Ngài cười: "Văn minh khoa học chỉ nuôi phần xác thịt họ mà thôi, còn phần linh hồn dám chắc họ sẽ đói".
Bần Ðạo vấn nạn: "Tại sao Ngài nói linh hồn đói, linh hồn có ăn sao mà đói?".
- Phải, phải có vật thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều tụy rồi chết mà chớ.

Luôn đó Ngài lấy triết lý cao siêu mà dạy Bần Ðạo trong một con người có ba xác thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất phách liên hệ mật thiết cùng nhau. Ðương nhiên trong thân thể của mỗi người có 3 xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn tại được. Vì cớ Ðức Chí Tôn cho biết, trí thức và linh hồn trọng yếu do căn nguyên của sự sanh hoạt của nó định cái ngã tướng cho ta. Ba xác thân ấy phải nuôi sống, mới tồn tại như xác thịt thể hình ta vậy. Ðạo Giáo là tinh, phải ẩm thực, tinh mới sống, xác thịt giữa là xác thân trí thức tinh thần, ta thấy con người chẳng phải tìm món ngon vật lạ đặng bảo thủ xác thân, còn coi hát, nhảy đầm, vui chơi, cờ bạc, hút sách tưởng là tìm món ăn cho trí thức đặng bảo dưỡng, mà không biết rằng đó là hại cho trí thức.

Bây giờ tới linh hồn cũng phải có vật thực cho nó chớ. Vật thực là cả triết lý cao siêu tồn tại đấy. Ðệ nhị xác thân gọi là khí, Chí Tôn gọi là chơn thần, nó làm trung gian cho xác và hồn, hễ lương năng thì nó bảo thủ xác thịt thể hình, còn lương tri nó tìm vật thực nuôi linh hồn. Ta nuôi linh hồn bằng gì? Vật thực nuôi sống bằng xác thịt, còn linh hồn sống đặng là nhờ đạo đức tinh thần đó vậy. Ta tu tức là ta tìm phương bảo trọng cho tồn tại đạo đức tinh thần đặng nuôi linh hồn hầu đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực lượng quyền năng giong ruổi trên con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.

Ðạo đức tìm nơi đâu mà có đặng? Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng Liêng tức là cửa Ðạo, buổi ăn của linh hồn là buổi ta vô Ðền Thờ cúng đấy. Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Ðền Thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh hồn ăn vậy. Bần Ðạo tưởng thấy trong trí cần phải buộc cả thảy đi cúng, vì trong thâm tâm Bần Ðạo định cho mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh nói thứ ăn chẳng đặng, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo, cả quần mà mua ăn.

Giờ phút nầy phái Nữ chưa biết mùi ngon của món ăn cho linh hồn. Ngày giờ nào cả thảy biết mùi của nó, ngày giờ ấy có đến ít nữa với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn kia mới biết ăn ngon. Phàm đói cho lung ăn mới ngon. Nhưng coi chừng Bần Ðạo khuyên một điều, đừng để quá đói mà chết đa. Hại thay vật ăn của linh hồn có quyền năng thiêng liêng vô tận, giúp ta giải bày cái ác như là cổi áo, chớ không phải mặc chật như dính vào da, rồi ngày giờ thoát xác, tinh thần thế quyền Thiêng Liêng lột từ miếng đau đớn linh hồn chẳng biết bao nhiêu, chừng đó có ăn năn rồi mới biết sợ.

Không có một điều gì mà Chí Tôn định trong Chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp, dầu Thể pháp mà vô ích đâu. Ðấng ấy là Ðấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày Khai Ðạo, Kinh kệ, Lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo đức cũng chính Chí Tôn tạo thành, không phải do các Ðấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới buộc. Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần Ðạo bó buộc nghiêm khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn nàn lén lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần Ðạo nơi Thiêng Liêng, Bần Ðạo sẽ hỏi các bạn coi khi còn ở thế Bần Ðạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công. Công hay tội ngày giờ ấy Bần Ðạo hỏi rồi chúng ta sẽ có một tấn tuồng tâm lý ngộ nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên hư.

Ngày nay, giờ phút nầy, Bần Ðạo đứng tại giảng đài nầy để lời khuyên nhủ: Còn biếng nhác quá! Xác thịt đã hư rồi đến linh hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá muộn.
Q. 2/58: NĂNG LỰC TINH THẦN ĐẠO ĐỨC.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm mùng 9 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 09-12-1948)

Hôm nay Bần Ðạo định thuyết con đường dục tấn của chúng ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Có một vấn đề trọng yếu do một trường ngôn luận tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, cho nên ngày nay Bần Ðạo thuyết về "Năng lực của tinh thần đạo đức". Cái sở năng của mình cũng như cái huyền bí vô cùng tận của Càn Khôn Vũ Trụ, bởi vì nó sản xuất do tánh đức di truyền của ngươn linh mỗi người chúng ta, cho nên con đường dục tấn trí thức của toàn nhơn loại trong Càn Khôn Vũ Trụ với cơ quan hữu hình tức là xác thịt họ đối lại phần vô vi, tức là ngươn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ chưa có mức hữu định, còn dục tấn mãi. Sự dục tấn ấy Thiêng Liêng đã định phân ghi một cái mức cho bước đi mỗi người, mức dục tấn ấy là mức Thần, Thánh, Tiên, Phật rồi đến Trời là cuối cùng. Các năng lực đó đã để một trường ngôn luận kịch liệt tại Cung Hiệp Thiên Hành Hóa. Sở năng của mỗi người không đồng nhau địa điểm các chơn linh không đồng phẩm, mà không đồng phẩm tức không đồng vị, mà không đồng vị nhau tức là khác tánh chất. Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn linh có địa vị riêng tư của mình, địa vị ấy tạo thành do phương tu của mỗi người đạt đặng. Bởi không giống nhau như thế mới nảy sanh một trường hổn loạn.

Nếu cả nhơn loại trên địa cầu nầy biết được đặc điểm của địa vị mình, Bần Ðạo dám chắc mỗi người sẽ tự hiểu, tự trọng, tự an theo địa vị của mình, thì không hề có trường tranh đấu vĩ đại như ta đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa điểm của mình thì không cần chiến đấu với Marshall với Truman cầm chắc, nếu Hitler biết đặc điểm của mình, địa vị chơn linh của mình thật đứng nơi nào chưa hề nghịch với Churchill, Reynaud đến nỗi có trận giặc thế giới chiến tranh thứ nhì.

Hay biết chẳng chi hơn bực tự giác kia, biết mình biết người, tự giác mình đặng, tức hiểu địa vị của mình đến đặc điểm nào, mới an phận thủ thường, mới xử vẹn đời sống của mình đặng. Người đủ biết đặc điểm địa vị chơn linh của mình đứng vào phẩm vị nào thì thủ thường tự an, tự lạc, dầu cuộc sống có đảo lộn thế nào đi nữa, đủ chủ định tinh thần mình, không ai làm cho ngã nổi, ấy là các chơn linh biết tự chủ một cách đặc sắc vậy. Nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa có nhiều chơn linh ấy về đặng. Thật không có chơn linh nào dưới thế gian nầy không muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng nương, đổ thừa thôi đủ thứ, cả đến chức tước quyền hành. Muốn tu ngặt không có bề thế tu đặng. Sự thật cũng có nhiều chơn linh muốn tu; thật tâm muốn mà không làm được. Cũng có kẻ không thế rời cái nhà mình, thậm chí đến không rời cái bà vợ của mình ra được, rồi ngày về Cung Hiệp Thiên Hành Hóa khóc lóc thảm thiết, bào chữa lấy mình, nói: "Tôi muốn tu lắm song tình đời còn dính dấp" hỏi các Ðấng Trọn Lành nơi Cung ấy có cảm xúc chăng? Họ cười! Do ai đã đào tạo cho bạn, ai đã buộc ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do tiền căn báo hậu, bạn đã làm, bạn phải gánh lấy. Không lẽ, như bạn mượn lúa của người ta ăn mùa trước, rồi mùa sau không trả, nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không tu được tại kiếp sanh nầy, xác thịt bị lên án tử hình hữu định, tu không được nguyên do tại bạn đã làm, bạn phải chịu, không còn cượng lý gì nữa, ấy là cái nợ của buổi sanh tiền.

Nếu mình nói "Tôi không biết nguyên căn mối nợ mà tôi mắc, vì không biết nên trong kiếp sanh tôi không nhìn nó" thì các Ðấng ấy không ngần ngại gì dở Thiên Thơ cho mình được thấy quả kiếp đó mình đào tạo.

Lại chối nữa: "Con vợ tôi tại sao nó khó lòng quá, bước ra một bước đường là nó ghen, không cho tôi tu hành gì hết" tới chừng dở Thiên Thơ ra thì đây: Kiếp trước chú mầy làm vợ cũng vậy, kiếp trước chú mầy làm vợ, còn vợ chú mầy làm chồng, tấn tuồng vay trả mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mầy tu, tại nghiệp chướng của chú mầy, tu rồi ai trả quả cho chú mầy đã tạo đã tạo trước đây. Trong Thiên Thơ nợ cựu, nợ tân lút đầu, mà cửa Hư linh tức cửa Hiệp Thiên Hành Hóa. Các Ðấng Trọn Lành chưa hề mở miệng chối tội là nhờ ở năng lực tinh thần của họ, nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có, thì Chí Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy, đặng tuyển chọn cả lương sanh tức là các chơn linh hữu căn hữu kiếp, đặng tạo hình thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng lực tinh thần không có thì Ðạo Cao Ðài ngày nay không nên lập ra.

Ta thấy có một hạng Ðại Giác, mà giống bên lành hay bên dữ, bên thiên lương hay bên quỉ quyền cũng vậy, đều có một năng lực tinh thần đặc sắc của họ. Bằng cớ hiển nhiên trước mắt, làm đảo lộn toàn cầu khiến cho nhơn loại phải điên đảo tận diệt, do đầu óc của một người là Hitler, rồi chúng ta còn thấy một bằng cớ nữa quá sức tưởng tượng là lực lượng Cộng Sản đương tàn hại cả mặt đời buổi nầy, làm đảo lộn cả tinh thần của con người. Hitler đảo lộn toàn nhơn loại nhờ nương mãnh lực của ngọn gươm mũi súng, Cộng Sản đảo lộn tinh thần nhơn loại với lý thuyết Cộng Sản của nó, người đào tạo ra thuyết ấy là Karl Marx. Chỉ có một người mà thôi. Cái năng lực tinh thần của một người còn có thể làm cho nhơn loại an toàn hạnh phúc hay tự diệt lấy mình đặng, huống hồ chi Thánh Thể của Ðức Chí Tôn do tự Ngài đến chọn, Bần Ðạo dám chắc nếu ngày nào các bạn về đến Cung Hiệp Thiên Hành Hóa, các Ðấng Trọn Lành hỏi các bạn đủ năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn không bao giờ dám nói không. Vì nếu không thì ra sự lựa chọn của Chí Tôn lầm lạc sao? Quả quyết Chí Tôn không hề lầm bao giờ.

Bần Ðạo nói: Năng lực của một chơn linh Ðại giác còn có thể làm cho toàn cầu đảo ngược, thì năng lực tinh thần của Thánh Thể Ðức Chí Tôn, nếu nói năng lực đó là của toàn con cái của Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền năng mãnh liệt huyền diệu ấy, thì lo gì Thánh Thể của Ngài không tận độ thiên hạ đặng. Không có gì nghi kỵ nữa, Bần Ðạo quyết đoán phải đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc kíp, Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh sẽ làm chủ tinh thần thiên hạ.
Q. 2/59: VÍA ĐỨC CHÚA JÉSUS CHRIST.
Tại Ðền Thánh, đêm 24 tháng 11 năm Mậu Tý (dl. 24-12-1948)

1948 năm trước, lúc nầy có một vị Chí Tôn giáng trần giáo Ðạo tại Tây Phương, vị Chí Tôn an bang tế thế mang xác phàm lập giáo để một cái nền văn minh vĩ đại cho nhơn loại, tính ra được 1948 năm.

Trước buổi Ðức Thích Ca gần qui liễu, ANANÐA và A-Nan-Ca-Diếp đến bên Ngài khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy qui vị rồi ai dạy chúng con, Ðức Thích Ca nói: Có một Ðấng đến sau ta, oai quyền hơn ta nữa. Ðức Phật Thích Ca đã nói một vị Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ đó vậy. Ấy là một đàn anh đã thông tri cho nhơn loại biết người em kế vị của mình sắp đến, Ngài có nói trước còn oai quyền hơn ta nữa, thì thật quả vậy.

Khi Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh ở Tây Phương gần thọ hình, các vị Thánh Tông Ðồ tức nhiên là Môn đệ của Ngài than rằng: Nếu Thầy thọ hình ai dạy chúng con? Ngài nói: Cần yếu ta phải đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ có một người đến cùng các ngươi đặng an ủi dạy dỗ các ngươi nhiều điều huyền vi bí mật.

Ðức Phật Thích Ca nói sau nầy Ðấng ấy còn oai quyền hơn ta nữa, Ðấng ấy tức nhiên là Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ và Chúa đã cho nhơn loại hay: Sau Ðạo Thánh Gia Tô có Ðạo Cao Ðài xuất hiện đó vậy.

Có một Ðấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó. Nhứt Thế BRAHMA Phật, tức nhiên là Tạo Hóa, Nhị Thế CIVA Phật tức nhiên Tấn Hóa, Tam Thế CHRISTNA Phật tức nhiên Bảo Tồn, Ðấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh vậy.

Vì cớ cho nên Ðức Chúa Jésus Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy, Ngài đã ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Ðộ nhơn loại ký hòa ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên Ðiều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết, do nhơn quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh Giáo gọi "tội tổ tông" chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký đệ nhị hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị hòa ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.

Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị hòa ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào? Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng, năm 1948 nhơn loại không tầm Giáo lý của Ngài nữa, chắc chắn như vậy. Bần Ðạo nói quả quyết rằng, nhơn loại đã quên hẳn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả toàn nhơn loại trên địa cầu nầy, không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát lẫn nhau sắp diễn ra gần đây, nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết tôn sùng nhau, vì tình cốt nhục, thì cái nạn tương tàn tương sát trên mặt địa cầu nầy sẽ không có nữa. Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế có thể đưa nhơn loại đến chỗ tiêu diệt mà chớ, vì nhơn loại không biết nghe, Ðấng ấy đã lấy máu thịt của mình làm con tế vật dâng hiến cho Ðức Chí Tôn, để cầu xin tha tội cho nhơn loại. Nhơn loại sẽ mất đức vì không nghe theo Ðấng Cứu Thế, Ðấng ấy đã bảo anh em phải yêu ái lẫn nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau cho trọn vẹn kiếp sanh. Trái ngược lại đệ nhị hòa ước kia đã ký kết với Ðức Chí Tôn bị nhơn loại bội ước nữa, vì bội ước mà bảo sao nhơn loại không bị tội tình mắc mỏ sao được?

Ðêm nay là nhờ hiển Thánh anh linh của Ðấng Cứu Thế, Ðấng đã để lòng ưu ái vô tận mong cứu vãn tình thế nguy ngập, lấy cả tình ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn loại.

Chúng ta để tâm cầu nguyện cùng Ngài, để Ngài mở con mắt Thiêng Liêng cho chúng sanh đặng nhìn thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê muội đừng ngu dốt, lấy tinh thần sáng suốt bỏ cái lục dục thất tình đầy tội ác nầy.

Muốn tránh cái nạn tương tàn tương sát kia, muốn cứu rỗi lấy họ, hầu làm cái nạn tiêu diệt kia được thoát khỏi ấy là lời cầu nguyện của chúng ta đêm nay đó.

Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy.
Q. 2/60: BÁC ÁI CÔNG BÌNH.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng 11 năm Mậu Tý (1948)

Ngày nay chúng ta đình bộ nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa đặng quan sát cuộc thiệt chiến, chẳng khác nào như Gia Cát qua Ngô, quan sát quân Ngô vậy.

Từ hôm trước tới nay, Bần Ðạo thuyết minh những điều vấn nạn của các chơn linh siêu thoát nhưng thiếu đạo đức tinh thần, kiếm tìm cho đủ triết lý đặng học, đặng để phổ độ họ. Chúng ta ngó thấy các Ðấng Trọn Lành nơi Cung Hiệp Thiên Hành Hóa chưa dễ thắng họ đặng. Cho nên đêm nay tưởng lại kỳ nầy là kỳ chót, kỳ nầy trọng yếu hơn hết, bởi họ vấn nạn về quyền năng của tín ngưỡng và luật điều của các vị Giáo Chủ để tại thế gian nầy. Vấn nạn kịch liệt. Chúng ta nên để ý, nhứt là Chư Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ càng phải để ý cho lắm.

Kỳ trước Bần Ðạo đã giảng, tại chỗ nhiều Tôn Giáo làm cho nhơn tâm bất nhứt, hôm nay họ công kích về luật điều. Họ hỏi: Nếu Tôn Giáo có khuôn hữu định, chiếu theo khuôn khổ thiên định, trái lại các vị Giáo Chủ lập giáo bất đồng tánh cách nhau, vị nầy nói vầy vị kia nói khác, phản khắc nhau biểu sao tâm lý nhơn sanh không chia rẽ? Bởi không thống nhứt mà ra. Ta thử quan sát lại coi đạo pháp, đạo luật mấy vị Giáo Chủ ấy vẫn có một phương pháp kích bác nhau, phản đối nhau, không đồng tâm đồng đức nhau, không đồng tánh, không đồng tư tưởng đạo đức tinh thần, biểu sao nhơn loại không chia rẽ, mà chia rẽ tức nhiên giục loạn, làm cho mặt đời loạn lạc, sự loạn lạc ngày nay cũng vì lẽ ấy.

Các Ðấng ở Cung Hiệp Thiên Hành Hóa cười nói: Các Ngài nghĩ thử coi tánh đức của các chủng tộc trên mặt địa cầu nầy không giống tâm lý tinh thần. Ðừng nói chi Vạn quốc, trong một quốc gia, một nòi giống, tánh đức nhơn sanh còn không đồng thay. Không gì khác lạ, các Ngài buộc Phật Thích Ca Mâu Ni người Ấn Ðộ lập Giáo tại xứ sở Ấn Ðộ của Ngài, thì Ngài có đồng tánh đồng tâm với sắc dân nào khác với Ngài được, nhưng Ðạo Phật vẫn truyền bá làm chủ tinh thần khắp Á Ðông, hỏi do đâu? Do nơi bác ái và công bình. Những phương pháp của các vị Giáo Chủ lập pháp luật trong các Tôn Giáo, cốt yếu mở đường chỉ nẻo cho nhơn loại đi lên hiệp cùng chơn tướng và chơn pháp của Ðạo Giáo tức nhiên là tín ngưỡng, thờ Người và thờ Trời, luật pháp duy có bác ái công bình mà thôi. Ðức Phật Thích Ca nếu nói Ngài không bác ái công bình thì Ðạo Giáo không công bình sao? Nếu giờ nầy chúng ta không thành Phật thì Ðạo Phật không thành sao? Hỏi Ðấng ấy lập Giáo trên nền tảng nào? Có phải nền tảng bác ái chăng? Nếu không bác ái công bình, Phật chưa hề đem triết lý cao siêu làm chủ tinh thần nhơn loại đặng. Chúng ta đây ai lo phận sự nấy, lại còn giành hơn thua nữa có đâu ép mình như Phật. Nếu không vì chúng sanh, nếu không công bình tâm lý, nếu không lòng thương yêu đầy dẫy Phật chưa hề hạ mình nâng đỡ tinh thần nhơn loại dường ấy.

Ðức Lão Tử thấy loài người không biết địa điểm tinh thần mình, không biết chơn tướng tinh thần mình để nơi nào định vị cho có giá trị. Ngài sanh tại Trung Hoa tâm lý nhơn sanh không biết phẩm giá tinh thần của con người là gì, đến đổi tâm lý loài người buổi ấy sa đọa không biết phẩm vị mình nơi nào, không biết tôn trọng phẩm vị đó nên đọa xuống thú chất vật loại, nếu không vì bác ái, từ bi thức tỉnh nhơn loại cho biết phẩm vị tối cao của họ, đừng làm con vật nữa. Nếu không phải vì tâm bác ái công bình thì không hề Ngài lập giáo dường ấy. Ngày nay không phải nơi dân Á Ðông nầy thôi, mà cả Âu Châu cũng vậy, biết rõ đạo đức cao siêu của Ngài, người ta theo chẳng biết bao nhiêu.

Các Ngài xét định về mặt tinh thần, lấy cả tinh thần siêu thoát của các Ngài ngó lại coi có phải tinh thần luật pháp của Tiên Giáo chỉ do bác ái công bình mà lập đặng chăng? Phương pháp tạo ra có hình tướng ấy cốt yếu nâng đỡ tinh thần nhơn loại đến mục đích cao thượng là bác ái công bình vậy.

Ðạo Nho do Ðức Khổng Tử lập tại Trung Hoa. Tại sao có Ðạo Nho? Tại Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo cũng như Ðức Lão Tử thấy nhơn phẩm suy đồi, không còn giá trị. Tâm lý nhơn sanh buổi ấy mất hẳn cái giá trị nhơn loại, nên tự mình xuống làm vật loại đem Nho Giáo định luật pháp xã hội trị đạo nhơn luân làm căn bản. Hễ mình biết mình tức nhiên biết Thiên Ðạo, biết Thiên Ðạo mới tùng Thiên lý, tức nhiên tùng thiêng liêng vô hình. Ngài không nói danh Chí Tôn là ngôi Chủ Tể, là phẩm tối cao tối trọng của Ðạo, chỉ lấy mặt luật bác ái và pháp công bình đặng định sống cho nhơn loại, định sống cho cả nhơn quần xã hội, định sống cho cả các chủng tộc nơi mặt địa cầu nầy dầu luật pháp của Ngài trái hẳn phong hóa nhơn loại một đôi nơi trên mặt địa cầu, nhưng nhờ tinh thần đạo đức làm môi giới, từ giờ nầy toàn vạn quốc lưu ý lấy đó đặng chỉnh đốn quốc thể mình. Vì cớ cho nên lập Ðạo Cao Ðài, Chí Tôn tiên tri rằng: Ðạo Cao Ðài là cơ báo hiệu cho Vạn quốc hay trước rằng thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến.

Nói tới Ðạo Thánh của Ðấng Christ tức Công Giáo, nếu người không bác ái từ bi, không hề đem xác thịt mình làm con tế vật dâng hiến cho Chí Tôn đặng cầu siêu rỗi, xin tha thứ tội tình cho loài người, đó là người đến đem lòng thương yêu của mình ra làm tiêu chuẩn cho đời bắt chước. Vì cớ nên Công Giáo làm chủ tinh thần một phần lớn nhơn loại là đáng lắm vậy. Nếu như các Ngài còn chối cãi, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẽo mà các Ngài chối không tùng con đường của nhơn loại đi, là con đường tín ngưỡng Trời và Người đặng dìu dắt nhơn loại trong luật thương yêu và pháp công chánh, đến trước mặt Tòa Tam Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng lý bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển nhiên là Ðạo Cao Ðài đã xuất hiện, Ðức Chí Tôn đã đến, chính mình Ngài đến mở Ðạo 24 năm trường nay. Ngài đã ký kết với nhơn loại bản hòa ước thứ ba. Hai hòa ước kỳ trước nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất Ðạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong tương tranh, tương sát nhau. Vì lòng bác ái từ bi Chí Tôn đến ký hòa ước thứ ba nữa để trong luật điều. Chúng ta thấy các Ðấng Thiêng Liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín ngưỡng; Thiên thượng, Thiên hạ (Dieu et Humanité) về luật có bác ái, pháp có công bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội Thánh Ðạo Cao Ðài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là luật bác ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là pháp công bình.

Luật pháp của Ðạo Cao Ðài, ngoài ra luật bác ái và pháp công bình, tất cả luật điều khác, đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi.
Kỳ tới Bần Ðạo sẽ giảng về quyền năng hiệu nghiệm của luật bác ái và pháp công bình.

Q. 2/61: ĐẠI HÙNG, ĐẠI LỰC, ĐẠI TỪ BI.
Tại Ðền Thánh, đêm 30 tháng 11 năm Mậu Tý (1948) ( *1 )

Ðêm nay Bần Ðạo giảng câu triết lý Ðại từ, Ðại bi. Câu triết lý ấy nguyên bổn của nó do nơi Minh Ðường, Minh Sư đã thuyết giáo, chúng ta chẳng biết Minh Ðường Minh Sư họ có phương pháp chi mà luyện hay lắm, sự triết lý đã để truyền giáo một cách vững chắc, chúng ta cũng nhìn nhận có nhiều chơn lý đặc sắc, tưởng tượng ra câu thường ngữ khi thuyết pháp họ thuyết pháp nơi câu đại hùng, đại lực, đại từ bi. Thật vậy các người tu, nếu không có đức tin dường đó thì không có thể gì thành Ðạo đặng. Triết lý nhà Phật từ tạo thiên lập địa đến giờ đã tạo ra biết bao nhiêu Ðấng đã thừa hành mạng lịnh Phật Giáo, đang hành hóa chúng sanh nơi mặt thế gian nầy, nếu không có tánh đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng. Ðại lực, câu ấy có lẽ để một phương ngôn luận, công lý của một mối đạo mình tu phải có một đức tin hùng dũng mới đặng. Bần Ðạo nói, nếu không có tánh đức hùng dũng chẳng hề khi nào thắng khảo đảo đặng. Cả thảy con cái của Ðức Chí Tôn đều biết từ ngày mở Ðạo đến giờ, một trường khảo đảo kịch liệt, từ ngày Ðạo mới phôi thai đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí Tôn cương quyết lập Ðạo cho thành, "cương quyết phải thắng" vì tổng số cả tinh thần hùng dũng của con cái Ðức Chí Tôn, nên ngày nay nền Ðạo mới ra thiệt tướng như vậy.

Bần Ðạo ngồi quan sát lại, quan sát từ buổi thô sơ triết lý do những điều Ðức Chí Tôn tìm chánh lý, Ngài đến cầm cây viết thiêng liêng lựa chọn đem vô Thánh Thể của Ngài, những kẻ ấy thất Ðạo, vì nguyên do buổi trước, Bần Ðạo thấy quả quyết và dám chắc như thế, nếu Bần Ðạo vạch ra thì toàn cả con cái của Ðức Chí Tôn cũng ngó thấy Bần Ðạo, mà những kẻ thất Ðạo, không theo dõi bước thiêng liêng của Ðức Chí Tôn là do nhút nhát sợ sệt, bạc nhược, sợ cường quyền, sợ luật đối phương mãnh liệt, họ chưa có chí hùng dũng quyết tranh đấu quyết thắng nên họ thất đạo, cái thất đạo của họ là thiếu chí hùng dũng, là tại nơi họ nhút nhát, bạc nhược. Tinh thần hùng dũng chẳng phải nơi cửa Ðạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy, bực vĩ nhân đã tạo thời cải thế từ thượng cổ đến giờ, nếu không có tinh thần hùng dũng thì phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề bèo trôi giữa dòng sông kia vậy. Ðức Chí Tôn có một quyền năng đặc sắc để nơi địa vị của mình, nhưng họ thiếu chí hùng dũng và cương quyết. Bần Ðạo chỉ bằng cớ hiển nhiên là khi Ðức Phật Thích Ca còn Thái Tử có kẻ nghe Ngài có bổn tánh là một vị Thánh, nên đến xin con mắt của Ngài, Ngài dám móc con mắt cho kẻ ấy, nếu không có chí hùng dũng cương quyết, tưởng chưa có người nào nơi mặt thế gian nầy làm đặng như Ngài, khi Ngài đạt đến địa vị Thiên Phẩm, tức nhiên Ngài ngồi luyện đạo, đương tịnh luyện dưới gốc Bồ Ðề, có một vị Vương Hầu đi săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ Ngài ngồi, nó tách qua nơi khác, vị Vương Hầu ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy Ngài ngồi dưới gốc Bồ Ðề mà thôi. Vị Vương Hầu ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài suy nghĩ nếu ta chỉ chỗ thì vị hung thần nầy giết nó, thì ta có liên quan tới sát sanh, nếu ta nói không thấy thì ta nói dối tốt hơn là ta làm thinh, Ngài nhứt định làm thinh.

Vị hung thần ấy nổi giận nhiếc mắng Ngài, dầu cho ông thầy tu đi nữa, nhưng ông là một người dân của tôi, ở trong nước của tôi, tức nhiên ông là tôi tớ của tôi. Nếu tôi hỏi tiếng nữa mà ông không trả lời, tôi sẽ chặt cánh tay mặt của ông. Tôi hỏi ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài quyết định không trả lời. Ngài làm thinh không trả lời. Vị hung thần ấy liền chặt rớt cánh tay mặt của Ngài, xong rồi nói: Tôi hỏi tiếng nữa mà ông làm thinh thì tôi chặt cánh tay trái của ông. Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không? Ngài làm thinh, vị hung thần ấy liền chặt cánh tay trái của Ngài, vị hung thần ấy nói: Nếu tôi hỏi lần nữa mà ông không nói, tôi sẽ chặt đầu ông. Ngài vẫn suy nghĩ ta đã chịu chặt hai tay rồi, có lẽ đâu ta sợ chết mà phải nói, nên Ngài cương quyết làm thinh luôn. Vị hung thần ấy liền chặt đầu Ngài, Ngài xuất chơn hồn của Ngài ra ngoài thể phách, kế có một bánh xe lửa, chụp lên đầu Ngài đốt Ngài, vì quyền Ngọc Hư Cung định án Ngài tự sát. Ðã bị chặt hai cánh tay rồi, còn đầu mà không nói thấy, tức nhiên mình tự vận, và bánh xe lửa ấy nóng nảy làm sao, không thể nói được khổ não của Ngài! Cái khổ não ấy, Ngài mới suy nghĩ: Nếu bánh xe lửa nầy rớt trên đầu ai cũng chịu không nổi. Ngài suy nghĩ, ta đã chịu chặt tay, chặt đầu, bị đốt mà chịu nổi, nên Ngài cầu nguyện để cho Ngài chịu tất cả hình phạt ấy. Ngài vừa cầu nguyện, vừa tưởng tượng thì bánh xe lửa nầy bay đi, nếu Ngài không có tinh thần hùng dũng thì không thể gì làm được.

Ðức Thích Ca đã làm được, khi Ngài đạt vị tại thành "Kabikanla" tức là xứ sở quê hương của Ngài.

Quốc Vương trị an thiên hạ nơi ấy là cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất hiếu, nếu làm con như kẻ thường tình trở về nói đi tìm Ðạo chắc Ngài không nỡ bắt tội, mà ông cha cốt yếu, muốn thấy Phật nên mới làm như vậy mà thôi.

Ngài truyền cho thiên hạ biết, nếu gặp Ðức Phật Thích Ca thì bắt đem về cho Ngài lên án tử hình.

Chừng Ngài nghe nói lên án tử hình ấy, Ðức Thích Ca liền ra chịu án tử hình. Ngài nói án tử hình ấy để một mình con xin chịu mà thôi. Còn tín đồ của con xin cha tha thứ để cho nó tu. Nếu không có tinh thần hùng dũng chưa ai làm được như Phật Thích Ca vậy.

Noi một chí khí hùng dũng về tinh thần của Ðức Lão Tử. Từ hồi ở nơi Thơ Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Côn Lôn Sơn, đi thì có một manh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà Châu. Nếu không có chí hùng dũng chưa dễ gì đương làm một vị Ðại Quan triều nhà Châu, từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một manh áo với một con trâu mà về Côn Lôn Sơn đặng.

Ðức Khổng Phu Tử đã châu lưu lục quốc bất kỳ nơi nào cũng bị thiên hạ biếm nhẻ, chê bai, bắt dọa cho đến khúc trở về nước Lỗ, khi về Ngài còn cần cù dạy học trò. Ngài làm quan đến bực Tể Tướng và làm quan đến Gián Nghị Ðại Phu mà vẫn còn cần cù dạy học. Nếu Ngài không có chí hùng dũng thì không thể gì làm như vậy đặng.

Như Ðức Chúa Jésus Christ khi Ngài đã chết trên cây Thánh Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh Giá mà quân vô đạo đứng dưới cây Thánh Giá kêu Ngài nhiếc mắng Ngài, nói Ngài là con Ðức Chúa Trời quyền năng vô biên cứu cả thiên hạ đặng, đâu Người cứu thử Người trước coi, Người làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay hai chân của Người đó coi. Ngài chỉ ngó lên Trời cầu nguyện: Thưa Cha, xin Cha tha tội tình cho chúng nó, vì chúng nó chưa biết lỗi lầm của chúng nó. Nếu Chúa không có chí hùng dũng thì chưa có tinh thần ấy.
Mohamed lập ra Ðạo Hồi Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi, mà không buổi nào thất chí.

Noi một Ðấng mà chúng ta thường biết là Huệ Năng, khi thầy đi tu, đi dọc đường thấy một người đàn bà lõa thể nằm chết ở lề đường.

Kẻ tầm thường có lẽ nhắm mắt đi ngang qua chỗ đó, vì theo Ðạo Giáo nên Ngài lật một chiếc giày ra đậy chỗ lõa thể rồi Ngài mới đi. Nếu Ngài không có can đảm và hùng dũng chưa chắc Ngài đã làm đặng.

Giờ phút nầy chúng ta chỉ một người làm cho thiên hạ đảo lộn biến thành một trường ngôn luận cả toàn thể hoàn cầu là Galania Davis dám đến giữa Hội Vạn Quốc hỏi rằng: Hòa bình thế giới, các Ngài dám bảo đảm không? Tôi cốt yếu là một công dân đệ nhứt của quốc tế đến hỏi các Ngài dám bảo đảm hòa bình thế giới không? Nếu không có chí hùng dũng thì anh Galania Davis chưa hề làm được.

Còn nhiều phương nữa nếu không có chí hùng dũng, có đại lực thì chưa làm được. Hùng dũng được, tức nhiên theo lẽ phải, có hùng có lực phải từ bi. Nếu muốn vào hàng Thánh đức phải đi ngang qua cửa từ bi. Hễ Ðạo có hành tàng thì lấy từ bi làm căn bản, còn hung tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.

Ðức Chúa Jésus Christ cứu đời có nhiều đại từ, đại bi, đại lực.

Các nhà Ðạo Giáo đi đến cửa mà vô không đặng thì trở qua Tả Ðạo Bàn Môn, còn đi thuận chiều thì là đại từ bi, qua được tức nhiên theo chiều của Ðức Chí Tôn mà đôi khi còn đi qua thiên lý, thiên số, và thiên tánh tức nhiên là chơn tánh, tức nhiên là chơn đạo. Nếu chơn đạo không biết giữ thì đại hùng đại lực sẽ biến thành đại ác Tả Ðạo Bàn Môn.

Ðương nhiên bây giờ Hitler, Mussolini, Lénine và Staline nó do đại hùng đại lực đại ác chớ không có đại từ bi thì nó nghịch chiều đó vậy.

Kết luận, cả con cái Chí Tôn thấy một trường hợp nào bất chánh thì quan sát cái trạng thái của nền Chánh Giáo Ðức Chí Tôn đã cho hay trước, nó có đại hùng đại lực rồi nó phải đi trong con đường đại từ bi, coi chừng có đường nào đi qua đại ác của nó, cả thảy đều đứng lên làm một bức tường thiên nhiên gây thành một bức tường huyền diệu của Ðức Chí Tôn đặng cản ngăn che cho Ngài, cái nền Tôn Giáo của Ngài đừng cho đi vào đường đại ác.

Tương lai thay đổi, phải mở con mắt Thiêng Liêng, lấy tinh thần toàn thể, dầu Chức Sắc Thiên Phong hay Tín Ðồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt ấy là Huệ Nhãn phải mở cho rõ ràng minh mẫn đặng coi chừng thay đổi nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn vĩnh cửu trường tồn, đừng để ngày sau đổ sụp mà ân hận.
Q. 2/62: LUẬT QUYỀN.
Tại Ðền Thánh, thời Tý đêm rằm tháng chạp năm Mậu Tý (1949)

Kỳ thuyết pháp trước, Bần Ðạo đã có để một dấu hỏi: "Ðạo Cao Ðài có thế đem hạnh phúc cho nhơn loại, tạo hòa bình, làm cho đại đồng thiên hạ đặng chăng?".

Ðã đặt dấu hỏi, tức nhiên phải trả lời.

Chúng ta chẳng nên mờ ám chỉ biết tin nơi Ðức Chí Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài đến để tạo nền Tôn Giáo cốt yếu là đến ký hòa ước với nhơn sanh, tạo hạnh phúc cho nhơn sanh và làm cho thiên hạ hưởng đặng thái bình nơi mặt địa cầu 68 nầy, tức nhiên chúng ta dám quả quyết và để đức tin chắc chắn rằng thế nào cũng thành tựu, nhứt là có quyết đoán của Anh Cả Thiêng Liêng chúng ta là Ðức Lý Giáo Tông đã nói:
Ðức tin một khối tượng nên hình,
Ðã hiệp Vạn Linh với Chí Linh.

Nghĩa là Ðạo Cao Ðài đã thành, nhưng từ từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó.

Ta chán biết Chí Tôn đến ký hòa ước của nhơn sanh, nhứt là các liệt cường ký với nhau, khoản nầy, khoản nọ, khoản kia, đủ thứ, ký không biết mấy khoản. Với Ðức Chí Tôn chỉ có 2 khoản thôi.

Luật: Thương yêu, Ngài định luật cho chúng ta là thương yêu, không phải thương yêu nhơn loại mà thôi, mà phải thương yêu toàn cả Vạn Linh nữa.

Còn Quyền: Ngài chỉ định là quyền công chánh.
Từ thử, ta chưa thấy cái hòa ước nào đơn sơ như thế, mà nó có oai quyền làm sao? Không thế gì thật hiện đặng, dầu cho tận thế, loài người cũng chưa thật hiện ra đặng, chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không quyết định, ta chỉ lấy lương tri, tức là lấy trí tri tìm hiểu chơn tướng Ðạo Cao Ðài làm thế nào mà đem hạnh phúc cho nhơn loại hưởng được, và tạo hòa bình cho thiên hạ đại đồng thế giới. Chúng ta duy lấy trí tri tìm hiểu thôi.

Chúng ta thấy quyền năng của luật thương yêu thế nào? Tấn tuồng đời hiển hiện từ khi có loài người đến giờ. Nếu không nhờ sức mạnh mẽ vô biên của luật thương yêu ấy thì Ðức Phật Thích Ca chưa có lập giáo thành tướng được. Khi Ngài đến Résu, luyện pháp tuyệt thực, có người theo Ngài, bốn (4) người không phải theo làm môn đệ, mà theo đặng coi Phật có đạt pháp đặng chăng. Ðến chừng Ngài từ trên ngọn núi tuột xuống núi, Ngài ăn uống lại, mấy người đợi ở chân núi thấy như vậy, cho rằng Ngài đã qui phàm rồi, không có đạt pháp chi hết, 4 người chê bỏ đi. Tới chừng Ngài đi thuyết giáo, Ngài tìm 4 người ấy, bốn người biết Ngài là chơn thật mới theo. Trong bốn người mà chỉ có hai (2) người trọng yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối cùng còn có một người đạt đặng Phật Giáo thôi.

Ðạo Tiên, Ðức Lão Tử có một người Môn đệ và một đứa ở là Từ Giáp biết Ðạo của Ngài, duy có ông Doãn Hĩ theo Ðức Lão Tử, đạt pháp truyền giáo mà Ðạo Tiên còn tồn tại đến ngày nay.

Ðạo Khổng Phu Tử, tuy vẫn còn có Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị Hiền, mà cả thảy Ðức Khổng Phu Tử, chưa chắc người nào đạt Ðạo đặng. Duy có một người mà thôi, là Thầy Sâm. Bằng cớ là buổi chung qui Ngài kêu Sâm nói: "Sâm hồ ngô đạo, nhứt dĩ quán chi" (Ðạo ta chỉ một người biết mà thôi).

Ðức Chúa Jésus Christ có nửa người môn đệ thôi, bởi ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn năn khóc lóc với bà Maria mà xưng tội mình.
Mahomet có một người môn đệ phụ nữ mà Ðạo Hồi Hồi đã thành vậy.
Chúng ta suy đoán chỉ thấy có thương yêu. Duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo Chủ đã lập thành Tôn Giáo tại mặt thế nầy.

Chúng ta xét lại thấy Ðạo Cao Ðài còn hạnh phúc nhiều hơn các Tôn Giáo khác, nếu nhận quả quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn Giáo Ðức Chí Tôn đã hiện tượng, do quyền năng vô đối của Ngài mà đạt được, mà trong các vị thừa mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó. Bần Ðạo kiếu lỗi toàn con cái của Ngài, không phải là tự kiêu hay tự đắc, chính tay Bần Ðạo có một phần khá lắm.Vì cớ Bần Ðạo rủ toàn thể chúng ta dùng phép "Hồi quang phản chiếu" đặng định tướng diện của mình, cốt yếu là một phần tử trong nền Chơn Giáo, hễ mình định được chơn tướng của mình, tổng số các chơn tướng đó làm chơn tướng của Ðạo.

Bần Ðạo thấy Ðạo Cao Ðài được nên hình trạng trọn vẹn, tức là hình tướng thương yêu vô tận, nó nên hình có nét đẹp thiên nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương yêu. Trước Ðức Chí Tôn đến cầm cây viết thương yêu mà viết nét Thiêng Liêng cho cả Thánh Thể của Ngài đồ theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên hình trạng, thành tướng một khối thương yêu. Ta không có mơ mộng và không lường gạt tâm lý nhơn sanh, trước mắt mọi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền lực ngày nay? Quyền Ðạo ngày nay do luật thương yêu mà thành tướng, vậy đã do luật thương yêu thành tướng thì không có quyền năng nào tàn phá cho đặng. Nó có sợ chăng là luật thù hận. May thay cả lực lượng thù hận cũng không xung đột được, bởi có bàn tay Thiêng Liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.

Nó nên hình bởi sự thương yêu, trưởng thành trong sự thương yêu, bởi hình chất của thương yêu, hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng kiện, nó sẽ làm chúa cả thù hận, và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được. Nói quả quyết Bần Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí Tôn để tại mặt thế nầy, Bần Ðạo đã can đảm dùng quyền của Bần Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần Ðạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của Chí Tôn cho trọn thương yêu. Bần Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối thương yêu của Chí Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại sao mà Bần Ðạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bởi biết nó là chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bỉ nhơ nhớp, thì không thế gì làm thầy thiên hạ đặng.

Các Chi Phái buổi nọ dùng cường quyền mà đoạt vị, không lẽ Bần Ðạo là Hộ Pháp, nắm giữ chơn truyền trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước, để lưu lại cho nền Chơn Giáo của Chí Tôn sao? May thay, quyền ấy chưa xung đột được Chánh Giáo của Chí Tôn: Nó đã bại trận, bởi Thánh Thể của Ngài có người cầm luật pháp oai nghiêm, tức là cầm cây HUỆ KIẾM trong tay đặng gìn giữ nền Tôn Giáo nên hình được, nó nên được tức tạo cho thiên hạ được. Nó đã tạo oai quyền của nó thành tướng đặng thì tạo quyền cho nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy về tương lai đặng.

Q. 2/63: TÌM HÒA BÌNH VÀ HẠNH PHÚC.
Tại Ðền Thánh, đêm 23 tháng chạp năm Mậu Tý (1949)

Ðêm nay là thời chót của đêm cúng Chung Niên năm Mậu Tý, chúng ta lấy ngày 23 là ngày Hiệp Thiên đó vậy.

Ngày nay Bần Ðạo không thuyết đạo mà thuyết thời cuộc đặng quan sát cả năm của chúng ta, ngày nay đến bước nào, nhứt là về Quốc Gia Việt Nam.

Nghe được truyền thanh dường như Pháp đã chịu lời yêu cầu của Ðức Bảo Ðại trả độc lập và thống nhất của nước Việt Nam lại cho quốc dân Việt Nam, có lẽ Bảo Ðại sẽ hồi loan. Về sở vọng của quốc dân Việt Nam đã trao nơi tay của Ngài để buộc Ngài đòi hỏi, có lẽ Ngài sẽ lấy lại được, làm cho thỏa vọng quốc dân Việt Nam, liên kết trong 80 năm và ước vọng của quốc dân Việt Nam đang thỏa mãn vậy.

Ta tìm lụng lại coi thế gì nó giúp cho tương lai kiến thiết quốc gia Việt Nam đắc lực hay không đắc lực. Chúng ta cứ quan sát xem hành tàng định cuộc thế, bàn thử tương lai của chúng ta, có một điều Bần Ðạo tưởng rất cần rất bổ ích, cái khuôn luật tạo đoan đã gọi rằng vạn vật tối linh tức nhiên mạng sanh trọng hệ nơi mặt thế gian nầy, bởi vì mạng sanh là thể của vạn năng tối linh thành tướng, bởi vậy cho nên có một khuôn luật đặc biệt. Nơi ấy làm như đã vô khuôn luật thiên nhiên để vay trả. Chúng ta thấy năm nào lúc mưa gió dữ dội, thì loài kiến nó làm ổ trên cây nó tha trứng gát lên nhành cây cao, nó có khiếu linh, hễ lụt thì hang ổ hư hết, dường như tâm linh của nó, bảo sanh của nó cho hay trước đặng nó tìm phương thế tự vệ mạng sanh của nó. Bần Ðạo ngó thấy nữa, tỷ như loài ong mà ngày mai ổ nó sẽ bị phá, bị đốt, bị lấy mật, thì nó hay trước, đêm đó hai phần ong đi trước.

Chúng ta còn ngó thấy nữa, khi chúng ta cỡi con ngựa đi trong đường vắng, thảng như có cọp, hay mãnh thú gì đón đàng bắt người cỡi và nó, khi đi gần tới chỗ đó mà người cỡi hiểu biết thì tránh được vì nó không chịu đi hay nó đi qua đường khác, vì nó biết tánh mạng của nó đi tới khuôn luật đó. Ta đây cũng vậy, khi nào ta có tai nạn gì hại đến mạng sanh của ta, dường tâm linh của ta cho biết trước, điều ấy có hiển nhiên của mỗi người, được thấu đáo đến cái nguy hại đến mỗi cá nhân cũng vậy.

Bần Ðạo thường nói lấy nhỏ mà đoán lớn, cả Vạn quốc nhơn loại trên hoàn cầu lúc nầy cũng vậy, dường như tâm linh của họ cho biết trước cái nạn nguy biến tự diệt nơi mặt địa cầu nầy. Nếu họ chia rẽ tương tàn, tương sát với nhau, không phải buổi nầy mà thôi, mà về tương lai nữa.
Khi chưa có trận giặc thứ nhất họ đã lập Vạn Quốc liên minh để bảo vệ hòa bình thiên hạ.
Hỏi cái hung tàn bạo ngược của đời có nghĩa lý gì không? Nhưng lấy tâm lý công chánh định coi chúng ta ngó thấy, nhờ có Hội Vạn Quốc liên minh mà hòa bình mới còn duy trì đến ngày nay. Nếu không có Hội Vạn Quốc liên minh bảo vệ hòa bình thì trận giặc thứ ba khởi chiến trước rồi. Bây giờ dường như thiên hạ đã ngó thấy cái tai nạn, nhơn loại ngó thấy hình tướng, hiện hình xuất tướng mà thôi.

Chúng ta ngó thấy cả toàn cầu Vạn Quốc liên minh dầu có đổi tên nhưng cái tướng của nó vẫn còn là nhỏ, cơ quan ấy là cơ quan cứu thế. Nếu không có nó thì nhơn loại đã đi đến con đường tự diệt, không còn quyền năng nào ngăn cản bước nguy hiểm của nó được.

Vì cớ chúng ta thấy, nó xuất hiện trước cũng như vị Thánh Gandhi chống cây gậy mặc một tấm chăn đi khắp cùng thiên hạ kêu gọi bác ái từ bi đặng định tâm thiên hạ; lấy đạo đức làm căn bản đặng cứu vãn cái nạn tương tàn, tương sát của nhơn loại, bảo vệ hai chữ hòa bình trong khuôn khổ đạo đức.

Ngài đã làm bên xứ Ấn Ðộ, tôi tưởng sự làm của Ngài với sự làm của Ðức Chí Tôn đi đôi với nhau. Ðức Chí Tôn không trước Ngài, mà Ngài cũng không trước Chí Tôn, ngoài ra cũng không phải ảnh hưởng cho vị Thánh Gandhi.

Tìm hiểu nhơn loại để tự giác mình, còn nhiều bậc trí thức cao siêu hơn nhơn loại, cầm vận mạng các quốc gia trù tính kế hoạch đặng bảo vệ hòa bình và bảo tồn sanh mạng cho loài người tức là bảo tồn sanh mạng cho nhơn loại.

Chúng (ta?)( *1) đã ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc tìm đủ phương chước để bảo vệ hòa bình mà họ còn thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy nạn phân chia tâm lý nhơn loại hiện giờ làm gì? Chúng ta có ba mãnh lực: Mãnh lực tư bản, mãnh lực cộng sản và mãnh lực đạo đức.

Cộng sản nói rằng: Của sở hữu nơi mặt địa cầu đủ nuôi nhơn loại trên mặt địa cầu nầy. Nhơn loại trên mặt địa cầu nầy có ít nữa 2.500 triệu người. Của cải trên mặt địa cầu nầy có thể nuôi họ đặng. Nhưng của cải phải chia đều với nhau, không ai hơn, không ai kém.

Nếu muốn chia phải làm, phải có sản xuất mới chia được. Luật chia đã đành không chánh thật, mà nó không làm thì của đâu mà chia, người làm người không thì chia sao được. Giựt ăn chớ chia cái gì. Cái thuyết cao siêu lắm mà hành tàng thì trái hẳn với chơn lý.

Một đàng tư bản nói làm cho nhiều, làm dư giã, để của cho nhiều tức thiên hạ sống hạnh phúc, mà nếu có luật buộc thiên hạ chia của, mà kẻ không làm đặng chia của, ở không mà đặng ăn là bất công, giờ toàn cả thiên hạ phải làm, làm cho qua sở vọng của loài người thì sống vô cùng hạnh phúc. Có một điều làm ra rồi người làm coi giữ quyền lợi của mình không cho thiên hạ hưởng, thành ra thuyết hay mà sự làm trái hẳn chơn lý nữa. Hai thuyết ấy tương đương với nhau, chiến đấu một cách kịch liệt thành ra hai khối Nga và Mỹ.

Bây giờ còn thuyết đạo đức có hơi khác hơn hai thuyết kia, Bần Ðạo tưởng không cần để của cho nhiều mà làm giàu, vì nghĩa lý của Ðạo, mình biết khổ với nhau, biết thiếu thốn cùng nhau, hoạn nạn có nhau, mình biết tùy thế tùy thời, dầu không có của mà gìn luật thương yêu, bảo vệ nhau tuy nghèo mà nó còn giữ gìn đặng cho nhau. Của cải nhiều không bao giờ bảo vệ đặng. Duy có hiệp cả nhơn loại, thông tri cả tâm lý tinh thần loài người như một gia đình kia. Nhơn loại ngày giờ nào mà biết yêu ái nhau, biết bảo vệ nhau như trong gia đình của các Ngài, đó mới gọi là hạnh phúc; làm việc có kẻ mạnh người yếu. Kẻ bịnh, người già không thể làm hơn kẻ tráng kiện được. Người bạc nhược không thể để cho phận sự nặng nề trong đó được. Nếu suy ra biết bao nhiêu sự bất công. Duy có tình thương yêu nồng nàn mới tạo hạnh phúc chung mà thôi. Tạo hạnh phúc chung cho nhau về mặt tinh thần hay mặt xác thịt cũng thế, con người thỏa mãn đặng về phương sống của mình với tâm tình thương yêu thì mới hạnh phúc, còn ngoài ra dám chắc mạng sống con người không khi nào hoàn toàn hạnh phúc. Bởi vì thảng như mình đương mạnh đây nhưng đi đâu đó rủi đạp nhằm cái gai cũng đủ đau đớn rồi, đương nhiên như thế mà phải chịu cảnh ăn không ngồi rồi cũng là mất hạnh phúc kiếp sống, con người ta không khi nào hưởng trọn hạnh phúc, duy có đau khổ thêm thì có chớ không có hạnh phúc gì đâu mà mơ vọng.

Hỏi thử trong kiếp sống của chúng ta có giờ phút nào có hạnh phúc chăng? Tìm thử trong kiếp sống kiếm lụng lại coi, hạnh phúc bao nhiêu? Rồi xem tổng số lại coi được cái gì có hạnh phúc, coi đó được hạnh phúc hay chăng? Ôi! Chỉ thấy cảnh khổ, cũng như ra ngoài bãi sa mạc kia muốn có giọt nước Cam Lồ rải xuống trong khi nắng hạ, vậy thì tìm hạnh phúc cho nhơn loại không khác. Nếu có hạnh phúc hay chăng thì như Bần Ðạo đã nói, làm người phải biết yêu ái với nhau, biết tôn trọng nhau, biết bảo vệ sự sống còn cho nhau ấy mới là hạnh phúc. Ngoài ra thì cũng như câu cá trên ngọn cây không hạnh phúc gì hết.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 13: Chúng (ta?) đã ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc tìm đủ phương chước để bảo vệ hòa bình mà họ còn thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy ... ... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chúng ta đã ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn quốc tìm đủ phương chước để bảo vệ hòa bình mà họ còn thất bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy.
Năm Kỷ Sửu - Canh Dần (1949-1950) .
Do Ban Đạo Sử ấn hành lần thứ nhứt năm Giáp Dần (1974) .
Kiểm duyệt số 102/KD ngày 12 tháng 10 năm 1970..

Q. 3/01: GIẢI PHÁP CỨU THẾ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI.
Thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 30 tháng chạp năm Mậu Tý rạng 1 tháng giêng Kỷ Sửu (dl. 28-1-1949)

Đêm nay là đêm giao thừa, năm cũ bước qua năm mới. Năm Mậu Tý đã qua năm Kỷ Sửu đến. Bần Đạo nhân danh Đức Lý Giáo Tông để lời cầu chúc cho toàn Thánh Thể của Đức Chí Tôn và cả con cái của Ngài nam và nữ. Chúng ta đã vui hiệp với nhau trong đêm nay. Tưởng cả tinh thần con cái Đức Chí Tôn buổi đầu năm đã hiến cho Đức Chí Tôn trọn ba món báu là cả xác thịt mình trí não mình và linh hồn mình đặng làm khí cụ cho Đại Từ Phụ tận độ chúng sanh.

Đêm nay cũng như những đêm 24 năm về trước. Chúng ta vẫn để tâm trí tinh thần, tâm đức làm con vật hy sinh để trên bàn thờ thiêng liêng của Đức Chí Tôn mong Ngài tha thứ toàn tội lỗi cho nhơn loại, và năm nào cũng thấy hữu hạnh nhơn loại đã đặng khoan dung tha thứ. Chẳng phải tha thứ cho nước Việt Nam mà thôi, chúng ta còn cầu xin tội tình cho nhơn loại và miệt mài xin cho nhơn loại đặng hạnh phúc ấy là phận sự của chúng ta đó vậy, và căn sinh của ta biểu ta rằng: Sống đặng làm phận sự tối yếu tối trọng của Đức Chí Tôn làm thành hay chưa mà thôi.

Một năm qua chúng ta đã ngó thấy không có đem hạnh phúc cho nhơn loại mãy may nào hết, chỉ thêm áo não cho nhơn loại mà thôi, cả vạn quốc dầu Âu, Á cũng vậy, đương sống trong một cảnh tượng hồi hộp không biết nạn chiến tranh sẽ tới buổi nào. Bần Đạo nếu không lầm thì khi nãy đã hành pháp trên liên đài, Hộ Pháp thấy đặng yếu trọng năm kế là năm Kỷ Sửu Đạo sẽ còn vẻ vang hơn nữa, còn có một phương pháp đặng làm hữu ích cho nhơn loại mà chớ.

Chúng ta biết đặng mình có đặc ân của Đức Chí Tôn, chúng ta đi tầm lấy đặc ân ấy đặng chan rưới cho toàn thể nhơn loại trước. Chúng ta muốn cả nhơn loại hưởng đặc ân như chúng ta đã tưởng. Chúng ta có một điều là, cầu xin cho toàn thể quốc dân Việt Nam là một sắc dân mà Đức Chí Tôn đã tuyển chọn làm con tin của Ngài đặng cứu độ vạn linh. Chúng ta cầu nguyện xin cho một đặc ân riêng mà đặc ân ấy chúng ta không xin gì khác hơn là tâm yêu ái vô tận của họ.(*1)

Nhơn loại phải trở lộn lại tinh thần yêu ái với nhau, bảo vệ mạng sanh của nhau mới tồn tại được, ngoài ra không có một phương pháp nào giải quyết nạn tương tàn tương sát của nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy mà chớ. Chúng ta nên lấy nhỏ mà đoán lớn, cả một cơ quan phản trắc làm cho thiên hạ đảo huyền dầu trong nước Việt Nam cũng vậy hay toàn mặt địa cầu nầy và giữa vạn quốc cũng vậy, chỉ có hai tiếng mà thôi, tiếng "ừ" và tiếng "không". Tiếng ừ có thể bảo tồn toàn nhơn loại đặng, nói tiếng không đủ làm cho giặc giã chiến tranh, nhơn loại tự diệt.

Hỏi cái miệng lưỡi của toàn nòi giống Việt Nam nầy có thể xin họ tiếng ừ đặng không? Có chớ! Con người nó cùng nước rồi, bất kỳ là cơ quan hành tàng nào, nên hư có mức định của nó. Họ thấy cái hư không lẽ họ không chế ngự nó.

Nghĩ lộn lại con người bao giờ cũng vậy, không khi nào đặng trọn lành, đặng trọn lành có một mà thôi, là Đức Đại Từ Phụ của chúng ta đó vậy. Cả thảy con người trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy không ai trọn lành, Đại Từ Phụ cầm cây viết thiêng liêng vẽ hai chữ trọn lành đặng họ vẽ theo, đồ theo bắt chước theo kiểu vở của Ngài mà lần vào bực trọn lành. Các Đấng thiêng liêng cầm quyền bảo vệ vạn linh nơi cung Hiệp Thiên Hành Hóa, nói tới chúng ta tưởng tượng họ được trọn lành. Tỷ thí lộn lại với Đại Từ Phụ vẫn có một, chúng ta đây cũng vậy, làm là học đòi theo Chí Tôn, bắt chước theo Ngài đồ theo kiểu vở của Ngài tưởng đâu chẳng phải trọn đặng, nhưng chúng ta cố tâm vẽ thử sẽ hay. Các cơ quan chánh trị đạo nong nả để tâm suy gẫm kiếm trong phương pháp học đòi theo, vẽ theo, đặng xem thật hư mà quyết định, vẽ theo cho ra tướng trọn lành của chúng ta, nếu chúng ta vẽ được chúng ta sẽ cứu thế.

Ngài thấy tinh thần trọn lành ấy coi có tồn tại hiện hữu mà định thế giải nguy, giải quyết đặng bảo tồn sanh mạng của vạn linh, nhứt là nhân loại.

Chúng ta đồ đặng chăng? Theo tầm khuôn khổ đạo giáo của Đức Chí Tôn mà lập thành thì đặng cái sở vọng của chúng ta, điều làm đặng duy chúng ta cần cù mài miệt cố gắng thì sẽ làm đặng.

Hại thay! Nếu không trọn lành ấy, Đức Chí Tôn để quyền nơi tay của nhơn loại. Trong thời kỳ nguyên tử nầy, nếu có con người điên kia cầm trái bom nguyên tử liệng xuống đất cũng có thể giết cả sanh mạng con người. Duy có thằng điên kia mới làm nổ trái bom nguyên tử nơi mặt địa cầu nầy để tiêu diệt cả nhơn loại mà thôi.

Phải trọn lành, trọn lành đặng bảo vệ sanh mạng của vạn linh. Nhứt là sanh mạng của nhơn loại. Nhưng tinh thần của nhơn loại đã đạt đến địa điểm đạo giáo, nên Chí Tôn giao mạng sống và mạng chết nơi tay của họ, họ có quyền sanh hay sát, cũng do họ. Đức Chí Tôn đã giao trong tay họ quyền đặc biệt ấy. Họ phải khôn ngoan, hiển hách chí linh cũng như chí linh kia họ mới bảo vệ sanh mạng của họ đặng.

Nếu họ còn mờ ám không biết vi chủ cả sanh mạng mình thì cơ quan tự diệt họ trong năm đầu ngón tay của họ. Hỏi vậy bí mật thiêng liêng kia đã để cho họ đạt đến Tiên, Phật vị, hình ảnh tối thượng tối cao kia phải chiếu ảnh ra chiếu tướng của nó đã đạt đặng. Trong vạn quốc nắm được báu vô giá là nguyên tử, thay vì để cho nó được trường sanh bất tử, mà trái ngược lộn lại là món tận diệt với nhau.

Bí pháp tiên gia nắm trong tay, mà mặt luật vô đối kia họ thi hành không đúng, tâm đức của họ không lập Phật vị cho họ, thì cả vạn pháp cả tinh thần trí não vô biên của họ sẽ biến làm một ngọn gươm bén đặng tiêu diệt lại họ mà chớ.

Họ đã đặng hình Chí Tôn để cho họ đạt đặng vạn pháp tiên gia hiện tướng ra nơi mặt thế nầy. Nhơn loại đã nắm vạn pháp tiên gia, làm chủ sanh tử của mình. Nếu họ không thể đạt Phật vị của họ thì họ sẽ tự diệt lại họ mà chớ.

Bần Đạo tưởng Chí Tôn đến cứu thế, dám chắc chưa đi đến nước đến đó. Phải có một giải pháp. Ngài đến hiệp cả giải pháp mà chúng ta tạo chưa nên hình.

Giải pháp cứu thế là giải pháp của Đạo mà có. Chúng ta có thể tạo ra giải pháp đặng cứu thế. Nếu đặng hay chăng là do nơi tâm đức của toàn con cái của Ngài trong cửa Đạo nầy đó vậy.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đọan thứ 4: Chúng ta biết đặng mình có đặc ân của Đức Chí Tôn, ... ... .... Chúng ta muốn cả nhơn loại hưởng đặc ân như chúng ta đã tưởng....
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Chúng ta biết đặng mình có đặc ân của Đức Chí Tôn, ... ... .... Chúng ta muốn cả nhơn loại hưởng đặc ân như chúng ta đã hưởng....

Q. 3/02: NHƠN LOẠI PHẢI TÌM PHƯƠNG THUỐC TRƯỜNG SANH LÀ LUẬT THƯƠNG YÊU.
Tại Đền Thánh đêm 8 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949)

Ngày nay là ngày Lễ vía Đức Từ Phụ tức nhiên là Đức Chí Tôn đó vậy.
Ta thử xét 24 năm Đạo Cao Đài đã mở, mở do nơi tay ai? Do chính tay của Đại Từ Phụ đến mở đó vậy. Nếu chúng ta nói rằng: Trót 24 năm Đức Cha Lành của chúng ta đã chung sống với chúng ta, tôi tưởng nếu chúng ta tưởng tượng việc ấy cũng không quá đáng.

Thử nghĩ cái hạnh phúc mà chúng ta đã hưởng đặc ân của Đức Cha Lành ấy. Chúng ta xét lại coi Ngài đến chung lộn với chúng ta để làm gì? Bần Đạo tưởng cả thảy con cái của Ngài đều hiểu và quyết đoán đặng.

Ngài đến với một lời hứa hẹn rất thiết yếu, mà chính Ngài đến đặng chuyển pháp xây cơ chuyển thế Ngài đã hứa quả quyết nhơn loại sẽ là một; một về nòi giống, một về xã hội, một về tôn giáo. Lời hứa hẹn ấy nếu chúng ta không có đủ đức tin vững vàng, hay chúng ta không quyết chắc cái tay quyền năng vô biên ấy có thể làm đặng, một người nào, một đấng nào dám cả gan nói điều ấy. Chúng ta dám chắc cả thảy đều để dấu hỏi nghi hoặc. Nếu chúng ta nghi thì chúng ta phải kiếm thôi.

Bây giờ cả con cái của Ngài xin lỗi với Đức Cha Lành, rồi làm khách bàng quang tính thử cái lời ấy có kết quả chăng? Chúng ta đã ngó thấy và dám chắc biết rằng, không có một vật loại nào, một tinh thần nào mà gầy dựng một cơ quan hữu hình trong Càn Khôn Vũ Trụ mà ra ngoài quyền lực của vài điều ấy. Chúng ta đã chán biết, chúng ta bất quá là xin lỗi Ngài đặng làm kẻ phàm kia xét đoán thử coi Ông Trời nói vậy mà có thể làm đặng chăng cho biết. Làm bàng quang lấy lý trí đoán thử coi lời hứa rất khó khăn, lời hứa rất trọng yếu, trong buổi nhơn loại đang hoang mang, dở sống dở chết, có thể chúng ta cũng nên tọc mạch kiếm hiểu thử coi, cả cơ quan chuyển thế ấy quả nhiên đặng, tức nhiên nó có ảnh hưởng tối yếu, tối trọng của cơ huyền vi bí mật cứu khổ của Đức Chí Tôn đó vậy.

Lạ chi chúng ta thấy vạn vật hữu hình từ trong vật loại côn trùng thảo mộc. Cả thảy chúng ta không luận về toàn thể của nó, dầu cho các phần tử trong vạn loại ấy nó có quyền năng tinh thần đặc biệt của nó. Chúng ta thử đoán xét một vật vô tri, vô giác, có thể chúng ta tưởng tượng vật vô hồn vô giác là đá kia mà nó cũng còn có giá trị. Thứ đá có ngọc, ngọc đó để định giá trị đặc biệt trong tông môn. Ngọc đó là chúa của đá. Chúa của đá ấy để làm gì? Để làm giá trị của đá, để định giá trị của đá.

Bây giờ nói đến loài kim khí kể từ chì, kẻm, sắt, dĩ chí cho tới bạc, vàng, cũng có vàng là chúa của kim khí và có giá trị đặc biệt đặng định giá trị của kim khí.

Trong vạn vật, Bần Đạo không cần nói nhiều, dầu cho loài người loài thú cũng thế. Thấy trong ổ kiến, ổ mối, hay ổ ong kia, chúng ta cũng ngó thấy có con chúa, cả thảy đều phải tuân theo con chúa ấy, nó có quyền năng tuyệt đối đặng định mạng của nó, vi chủ mạng sống của nó, nó làm chủ xã hội nó, đặng nó định giá trị của loài ong, loài kiến.

Luận tới loài người, chúng ta thấy toàn thể xã hội sự chê khen, nào là từ bỏ vương quyền, đế quyền, thì nhơn loại cũng phải chịu dưới quyền thống trị nào mới tồn tại được.

Nếu gọi dân trị, thì để thiệt dân đi đánh đổ giai cấp như thuyết cộng sản thì cả thảy là dân đi, lập trường quan lại mà làm gì? Thành thử đánh đổ giai cấp là thuyết quái gở, lý thuyết dở sống dở chết. Chúng ta ngó lộn lại dầu cho Quốc gia xu hướng về dân trị đi nữa, thì các vị Giám Quốc hay các vị Thủ hiến quyền áp bức của họ còn hơn đế vương mà chớ, bất quá thêm duyên, thêm tánh làm cho thiên hạ tin mình đó là lòe con mắt thiên hạ, không có chánh lý, sự thật là gì hết.

Bây giờ trong xã hội nầy, chúng ta ngó thấy đảo lộn hai quyền hành khác nhau, đương tranh quyết nhau là quyền hành đế chủ và dân chủ.

Nếu chúng ta lấy đầu óc suy đoán thì hai cái như một, không cái nào hơn cái nào, cũng như một hình bóng, một khuôn khổ với nhau, lấy công lý lòe con mắt của cơ quan trị thế. Dầu cho là đế quyền hay là dân quyền cũng là một phương pháp áp bức thiên hạ mà thôi. Bởi cân công chánh nơi mặt thế nầy không có. Nếu có thì Đức Chí Tôn không đến kỳ hòa ước với nhơn sanh. Luật thương yêu mới có cân công chánh mà thôi thành thử chơn luật nơi mặt thế gian nầy cũng không có.

Ấy vậy, hiện giờ nhơn loại đương kiếm gì? Kiếm cân công chánh, kiếm luật thương yêu, kiếm ở đâu? Luật thương yêu ấy Chí Tôn đã ban bố mà nhơn loại chưa tìm được. Nhơn loại đương khao khát mà chớ. Quyền công chánh thì do nơi luật thương yêu mà có, quyền công chánh nơi mặt thế gian nầy không có, dầu trong tay đế quyền, hay dân quyền cũng không có.

Đức Chí Tôn Ngài đến do tay Ngài ký một hòa ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng hai điều trọng yếu làm cho nhơn loại đặng sống tồn tại là luật thương yêu và quyền công chánh.

Ngài đã ký, Ngài đã hứa với Thánh Thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy đặng tạo ra hình ảnh luật thương yêu. Nếu cả quốc dân Việt Nam lấy quyền công chánh làm thành tướng ra, rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm món thuốc cứu sanh mạng của nhơn loại đó vậy.

Bần Đạo và toàn con cái của Ngài nhờ phương thuốc của Ngài mà tạo ra cửa Đạo Cao Đài đó vậy. Giờ phút nầy phải thật hành không thế gì không thành. Mà nó sẽ thành hình trong nầy thì chúng ta ngó thấy ở ngoài toàn cầu, vạn quốc đều thay hình, đổi dạng, đổi cả chơn tướng của nó cho phù hạp và đủ phương thế thọ hưởng hườn thuốc cứu sanh của Ngài. Tức nhiên toàn cầu xu hướng, làm cho nhơn loại thống nhứt lại làm một, chúng ta ngó thấy bằng cớ rõ ràng trận giặc thứ nhứt cả vạn quốc đều xúm nhau đặt Hội Vạn Quốc Liên Minh, rồi trận giặc thứ nhì nầy, vạn quốc cũng chưa bỏ nó và còn kiếm phương thế tăng cường nó nữa. Hỏi vậy, Vạn quốc Liên Minh là gì? Là cơ quan hiệp chung nhơn loại làm một vậy.

Đức Chí Tôn nói :
"Nhơn loại sẽ một về nòi giống, một xã hội, một về tôn giáo", tôi tưởng không xa đó vậy. Tại sao Đức Chí Tôn phải làm phương thuốc ấy đặng chi? Đặng đưa cho họ uống, đặng họ phục sanh lại, không thôi họ sẽ đi đến con đường diệt vong của họ vậy.

Q. 3/03: LONG HOA HỘI LÀ GÌ?
Tại Đền Thánh đêm 14 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949)

Nay là ngày rằm Thượng Nguơn năm Kỷ Sửu. Vậy Bần Đạo nhắc lại cho toàn cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn và toàn con cái của Ngài nhớ rằng: Bần Đạo xin thuyết minh, gần mãn Hạ Nguơn tam chuyển, khởi đầu Thượng Nguơn tứ chuyển, mỗi một Nguơn, là 12 ngàn năm, 30 ngàn năm của đệ tam chuyển. Vì cớ cho nên kinh Phật, sấm truyền của nhà Phật hay là Thánh Giáo của Gia Tô đã tiên tri rằng: Mãn tam chuyển tức nhiên của Thượng Nguơn tứ chuyển sẽ có Long Hoa Hội. Hay theo lời Thánh Giáo Gia Tô đã nói rằng: Có một thời kỳ xử đoán cuối cùng của Đức Chí Tôn nơi mặt địa cầu 68 nầy.

Long Hoa Hội là gì? Long Hoa Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của toàn thể các chơn hồn dầu quỉ vị hay là trong thần vị cũng vậy, định khoa mục của mình đặng lập vị thiêng liêng.

Chúng ta hiểu rằng: mỗi chuyển tức nhiên là mỗi khoa mục, hễ cuối một chuyển tức nhiên Hạ Nguơn là ngày định vị của các đẳng linh hồn. Thánh Giáo Gia Tô đã nói rằng: Ngày xét đoán cuối cùng (Jugement Général) mà kỳ thật là ngày định vị cho các chư Phật đó vậy.

Bởi thế cho nên trong kinh của Đức Phật Mẫu có nói: Khoa mục của thiên vị lập vị của mình là kỳ Long Hoa Hội nầy, chúng ta đã chán biết thế thường hễ mình học, dầu giỏi hay dở mà tới ngày thi, tức nhiên là ngày điểm bài vở của chúng ta, dầu cho biết chắc mình đủ tài khoa mục, có đủ phần phước đậu đặng, nhưng bây giờ cũng lo ngại hồi hộp mà thôi.

Toàn thể chúng sanh tức nhiên nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, giờ phút nầy tinh thần họ chẳng khác gì một cá nhân kia vậy, họ phải lo sợ hồi hộp, không biết định phận đậu rớt thế nào và trong khoa mục ấy chúng ta có đậu hay chăng, chúng ta đã ngó thấy thiên hạ lo sợ hồi hộp, mà không lo sợ cái gì?

Ôi! còn một trường náo nhiệt chúng ta đã ngó thấy cảnh tương tàn tương sát, giặc giã chiến tranh, thiên tai, nghiệt chướng, nhưng có cuộc ấy chăng? Có chi lạ hơn là trát đòi hầu của Tòa Thiêng Liêng kia vậy.

Một cái quả kiếp nhơn loại dầu ở Á Đông hay Âu Châu cũng vậy, nếu chúng ta để tâm nghiên cứu, quan sát tận tường chúng ta ngó thấy cả hình luật quả kiếp luân hồi quyền năng vô đối của cảnh thiêng liêng hằng sống.

Quyền thiêng liêng hằng sống đã cầm quyền như mặt Càn Khôn Vũ Trụ kia, chúng ta không mảy may gì sợ rớt và không mảy may gì bất công, giờ phút nầy chúng ta thấy ở Âu Châu sanh ra một trường biến loạn náo nhiệt, chưa biết có tránh khỏi trận giặc thứ ba nầy chăng? Rồi chúng ta xem lại lịch sử nhơn loại mà chúng ta thấy quả quyết họ trả quả báo một cách chánh đáng, kiếm lại coi đất Âu Châu là nòi giống Aria là nòi giống của Ấn Độ đã chiếm đoạt toàn diện. Dân bổn xứ, đoạt cả nước của người ta, sát hại không biết bao nhiêu sanh mạng, tấn tuồng có vay thì phải có trả. Giờ phút mà xử đoán cuối cùng nầy, họ phải trả quả kiếp ấy, đặng định phận họ mới đặng. Tuy chúng ta đã ngó thấy, đừng ngó đâu xa, nước Việt Nam chúng ta đây cũng thế, bởi ngày định xử cuối cùng không sót một án tiết nào hết, phải trả mà thôi, trả đặng định phận cho nhơn loại mới được.

Nếu không trả vốn lời nhơn loại không định phận được, thì tấn tuồng quỉ vị, Phật Vị bất công kia không phương gì định vị cho các đẳng chơn hồn, mà chính cửa thiêng liêng hằng sống muốn cho có một mực thước, chánh đáng tức nhiên phải xử, phải xử án cuối cùng mới được.

Nước Việt Nam ta đương tương tàn, tương sát, có lạ chi hơn là tiền án Tây Sơn đối với nhà vua, cái trận đó mà Tây Sơn thế nào thì tấn tuồng ấy phải vay trả đến ngày nay. Có trả chớ nếu không trả thì nợ ấy, vẫn còn không thể gì định vị cho nước Việt Nam nầy đặng.

Chúng ta chỉ mừng có một điều là: chúng ta thấy trả nợ đặng, có thể trả nợ đặng là chúng ta thấy nợ giàu sang vinh hiển đến trước mắt chúng ta. Chúng ta thấy trước kia hễ trả xong mối nợ tức nhiên là cái vinh quang giàu có sang trọng đứng trước mắt chúng ta kia, sự đó ngó thấy rồi bất quá là Đức Chí Tôn để cho chúng ta gội rửa cho sạch quả kiếp đặng Ngài tạo địa vị quí trọng, một địa vị vô đối Ngài dành để cho nòi giống Việt Nam mà thôi.

Hạ Nguơn phải chuyển Thượng Nguơn, Thượng Nguơn là gì? Tức nhiên là Xuân Nguơn chúng ta đương ngưỡng vọng.

Ngày nay giờ phút nầy cái Xuân Nguơn cả toàn nhơn loại nhứt là nòi giống của chúng ta đã tôn sùng mà trước đã chịu ảnh hưởng từ thượng cổ đến giờ thế nào, thì tôi tượng hình bóng là quyền năng vô đoán của cơ tứ chuyển.

Nay qua Thượng Nguơn đây có lẽ lập vị cho một sắc dân mà Đức Chí Tôn đã dành để làm con tin của Ngài mà là kẻ đồng bước của Ngài đặng dìu dắt cả toàn nhơn loại đi đến con đường hạnh phúc vô đối đó vậy. Cũng như Đức Chí Tôn dành để ngôi vị cho nước Việt nam ngày nay vậy. Ấy vậy chúng ta đoán rằng: Trong thượng Xuân Nguơn năm Kỷ Sửu nầy chắc hẳn rằng: nó sẽ đem lại cho nòi giống Việt Nam một hạnh phúc mà chúng ta không thể tưởng tượng được.

Q. 3/04: ĐẠO CAO ĐÀI HY SINH VÌ CHỦ NGHĨA.
Tại Đền Thánh đêm 23 tháng giêng năm Kỷ Sửu (1949

Ngày mai nầy, Bần Đạo phải xuống Sài Thành một phen nữa, đặng giải quyết một vấn đề trọng yếu là chấm dứt cuộc đổ máu Việt Pháp.

Một nền Tôn giáo mà chúng ta theo đây phải có tinh thần đặc biệt của nó, mà chỉ có tinh thần ấy mới đủ oai quyền đảm nhiệm trách vụ nặng nề của nó mà thôi. Bần Đạo đã nói rằng: nó đem cơ quan cứu thế để tại mặt thế nầy duy sở vọng của Bần Đạo định nó phải có phương pháp để chứng tỏ rằng nó đủ quyền năng cứu thế, thì nó mới có giá trị và lý do tồn tại. Bằng chẳng vậy, thì Đạo Cao Đài bất quá là một thuyết mộng ảo mà thôi.

Có lẽ toàn cả con cái Đức Chí Tôn cũng còn nhớ, cái ngày mà Bần Đạo ở Hải Đảo trở về đây sau năm năm bị đồ lưu nơi hải ngoại. Bần Đạo vừa bước chân về nước thì Bần Đạo đã thấy cơ thảm loạn, xã tắc đảo huyền nhà vua bị cưỡng bức mà phải thoái vị, bỏ cả đại nghiệp 4.000 năm của tổ tiên để lại.

Thảm thay! Khi Bần Đạo vắng mặt toàn cả con cái Đức Chí Tôn hy sinh tánh mạng, vì Đạo vì Đời mà phải tuyệt mạng. Cả một đoàn hậu tấn trung quân ái quốc, vì hiếu với Chí Tôn, vì trung với Hội Thánh hy sinh cả xương máu mà tranh thủ độc lập lại cho nước nhà được thành tựu, đáng lẽ cái cơ thể do sự hy sinh đó mà đoạt được thì phải tồn tại để nơi tay chúng nó hưởng mãi mãi sự hạnh phúc ấy mới đáng chớ! Nhưng hại thay! Vừa tạo thành thì vừa bị đoạt lại làm cho mất cả lập trường, làm cho con cái Chí Tôn phải chịu dưới ách nô lệ lại một phen nữa, mà sự tai hại ấy do bởi đâu? Ai ai cũng đều dư hiểu. Như thế mà nước Việt Nam lại còn phải mang một cái ơn trọng của nước Pháp trước mặt quốc tế và quốc tế cũng đã nhìn nhận rằng nước Pháp hy sinh mạng sống nơi đất Việt Nam nầy để giải ách Cộng Sản cho nước nhà ta. Ôi! Nếu các bạn có đọc báo Pháp văn thì các bạn đã thấy bài ai điếu của quan Tổng Trưởng Pháp Quốc hải ngoại rằng họ đem con cái của họ hy sinh tánh mạng đặng giải ách cho nước Việt Nam ta, cho nòi giống Việt Nam ta. Dầu thiệt dầu không mà toàn cầu đều nghe cái đại nghĩa của nước Pháp đã làm đối với nước Việt nam ta vậy.

Các bạn cũng biết rằng một nền Tôn Giáo tượng trưng hồn nước Việt Nam buổi nầy, đã được địa vị trong tâm hồn của toàn thiên hạ ở địa cầu số 68 nầy mà duy có một vị đại diện của Tôn Giáo ấy là Bần Đạo đây, nên buộc phải chịu một phen thử thách đáo để, Bần Đạo suy nghĩ nếu Bần Đạo không đủ đạo đức đặng cứu vãn tình thế nguy ngập, thì ít nữa Bần Đạo cũng phải có phương chi chớ chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó cái tai nạn gớm ghê của nhơn loại. Vì lẽ ấy mà Bần Đạo phải buộc mình áp dụng phương pháp thọ khổ nhục đặng day trở theo thời cuộc mà cứu vãn tình thế và cũng vì lẽ ấy mà Bần Đạo buộc phải nghe theo đoàn hậu tấn, tận trung báo quốc là để cho chúng nó hy sinh vì chủ nghĩa.

Nay thời kỳ ấy đã qua nên Bần Đạo thú thật, Bần Đạo nhất định hưu chiến đôi bên Việt cũng như Pháp không ai có quyền nào mà giết lẫn nhau nữa.

Bần Đạo quyết định hưu chiến, và Bần Đạo quyết đi theo sở hành của mình cho đến cùng, dầu cho đôi bên không nghe, Bần Đạo cũng dám đem sanh mạng của Bần Đạo mà đổi chọn cho đặng chấm dứt tai nạn tàn sát giữa đôi bên Việt và Pháp.

Từ đây Bần Đạo tuyên bố tranh đấu cho cuộc đổ máu ấy phải dứt tuyệt, nhứt định không cho đổ máu nữa.

Q. 3/05: ĐỨC QUAN ÂM THỂ HIỆN CHO TỪ HÒA VÀ NHẪN NẠI.
Tại Đền Thánh đêm 18 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949)
(Vía QUAN ÂM BỒ TÁT)

Hôm nay là ngày Vía Đức Quan Âm Bồ Tát, Bần Đạo đã thường nói nơi cửa thiêng liêng hằng sống, Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng ở trong gia tộc sang trọng oai quyền hơn hết. Cái nguyên căn của Đức Quan Âm Bồ Tát do nơi pháp thân của Từ Hàng sản xuất. Quan Âm đến thời đó chỉ rõ cho chúng ta biết nguyên căn của mình, Quan Âm là cái thời gian của luật tạo Càn Khôn thế giới, ấy là một chơn linh rất cao trọng đó vậy, cũng như Đức Lý Thái Bạch là một chơn linh của ánh sáng. Hào quang Thái Cực khi đã hiện ra tức nhiên bóng đèn chúng ta ngó thấy khối lửa có ánh sáng kia tức nhiên là Đức Lý Giáo Tông.

Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền nhứt thống oai nghiêm chẳng cần luận thuyết, cả thảy cùng đều biết cái quyền oai của Ngài vĩ đại như thế này, nhứt là phái nữ nên để ý bài giảng nầy cho lắm. Vả chăng, thời gian chúng ta, sẽ nói thời gian mà thôi, chúng ta phải kiên nhẫn và từ hòa, nếu chúng ta hấp tấp hay lật đật, thì chẳng hề khi nào chúng ta để thời gian đến trước mặt chúng ta đặng.

Chơn linh của Người tức nhiên thể tánh của Người, chứng tỏ rằng: một Đấng đã có 52 kiếp ở trong trái địa cầu 68 nầy, và có đảm nhận trọng trách lớn lao hơn hết, là buổi trái địa cầu nầy nó chưa có thoát xác của nó, là nó đầu kiếp lụng lại cho tới đệ tứ chuyển ngày nay. Đức Quan Âm Bồ Tát đã cầm quyền điều khiển trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy từ thử đến giờ đã 52 kiếp.

Ngài đã đầu thai thế gian nầy mấy kiếp, vì có tánh đức từ hòa và tinh thần đạo pháp mà thôi, tỷ như Bạch Vân Hòa Thượng, Bạch Vân là ai? Bạch Vân là Ngài, ngày nay Ngài ở trong cửa Đạo, trong một cơ quan trọng yếu của Tam Kỳ Phổ Độ nầy.

Bạch Vân Hòa Thượng kiếp trước là Đức Quan Âm Bồ Tát đầu kiếp ở bên nước Tàu trước, rồi mới đầu kiếp ở bên xứ Việt Nam, ta kêu là Thanh Sơn Đạo Sĩ tức nhiên là Trạng Trình đó vậy, Thanh Sơn Đao sĩ dầu kiếp bên Pháp là Ralagode Bourgall, 52 kiếp có một kiếp trọng hệ có thâm tình với nòi giống Việt Nam ta hơn hết, chúng ta có hạnh phúc lắm, mới được Ngài đầu kiếp ở trong nước hai lần, lần thứ nhứt đầu kiếp làm người đàn bà tức nhiên Thị Kính, chúng ta đã biết Quan Âm là ai rồi. Bởi vậy cho nên buổi Tam Kỳ Phổ Độ nầy Đức Chí Tôn đã chọn lựa một Đấng cao trọng cho đến mặt địa cầu 68 nầy, có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết, nhứt là Ngài lựa chọn một Đấng có thâm tình với nòi giống chúng ta hơn hết, cái tánh đức từ hòa yêu ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan Âm đâu xa hơn là Thị Kính. Kiếm cái đức Thị Kính thế nào, thì tánh đức trạng thái của Quan Âm như thế ấy, tánh đức của Ngài là từ hòa nhẫn nhục, hiền lương, ân tha mọi điều oan khúc, chịu nổi thắng nổi thời gian là Đức Quan Âm. Đức Quan Âm chơn linh của Ngài là thời gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay bật rật, gấp rút, lật đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp người ta vu oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ hòa nhẫn nại của Bà vẫn chịu nổi đủ phương diện khổ não và oan khúc, chịu nổi thế tình ấy là một vị Trạng Sư đắc lực và oai quyền nơi cảnh thiêng liêng hằng sống bảo vệ cả nữ phái vậy. Chúng ta lấy làm hạnh phúc lắm Bần Đạo lấy làm mơ vọng và Bần Đạo nói quả quyết rằng: rất hạnh phúc cho chơn linh kẻ nào được gia tộc của Ngài, gia tộc vinh hiển tối cao tối trọng trên cửa thiêng liêng hằng sống, dầu bên cửa Thiên Oai hay là bên Cực Lạc thế giới cũng thế.

Bần Đạo nói quả quyết rằng: Ngài là một Đấng Phật Mẫu yêu ái hơn hết, tôn trọng hơn hết.

Q. 3/06: TÔN GIÁO VÀ ĐẢNG PHÁI PHÂN BIỆT NHAU THẾ NÀO.
Tại Đền Thánh đêm 27 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949)

Nước nhà nòi giống của Việt Nam ta sẽ tới một giai đoạn trọng yếu là giai đoạn định quyết vận mạng của nó, cho nên đêm nay Bần Đạo đình nghỉ giảng cuộc giục tấn trên đường thiêng liêng hằng sống, đặng giảng về Tôn Giáo và Đảng Phái phân biệt nhau thế nào.

Bần Đạo đã thấy sự ơ thờ của toàn thể Quốc Dân Việt Nam trong thời buổi nầy, sự ơ thờ ấy làm cho tâm thần hoang mang không chủ định đặng quyết hẳn hành tàng của chúng ta, đối với nòi giống nước nhà, hoang mang không biết giá trị của nền Tôn Giáo và giá trị của Đảng Phái ra sao, đặng định giá trị của mỗi cơ quan, ta phải nhận xét cho tận tường phân biệt, trọng khinh thì mới có định quyết giá trị của nó đặng.

Buổi xưa kia mấy ông mấy bà cao kỷ trưởng, họ mua một cái võng họ đếm võng mấy con, mua hàng họ quan sát kỹ lưỡng đếm từ sợi, coi mình gì, hàng hay the hay lãnh, xem xét một cách dè dặt rồi mới mua, còn buổi sau nầy con người thờ ơ, không tìm tòi giá trị của nhơn vật hình tướng, có lạ chi đâu một nền Tôn Giáo nó đặc biệt, khác hẳn với Đảng Phái, ta thấy hai hình tượng khác nhau Tôn Giáo là tinh thần của nhơn loại, trên mặt địa cầu nầy chủ hướng định thân mình vào cơ quan giải khổ cho mình, do nơi tinh thần của nhơn loại, nó đòi hỏi sự thiếu thốn của nó, mới sản xuất ra nền Tôn Giáo.

Tỷ như bên Âu Châu buổi Đạo Moïse để lại cho dân Hébreux là dân Do Thái ngày nay, trải qua mấy thế kỷ mới bày ra các Đảng Phái khác nhau, các Đảng Phái ấy phân chia bốn năm Chi phái làm loạn lạc tinh thần của Quốc Dân. Tinh thần của Quốc Dân mà không thống nhứt được, tức nhiên sanh loạn cho cơ thể hữu hình của nền chánh trị, do đó sắc dân cầm đầu tinh thần đã loạn, thành ra tinh thần của các sắc dân ở Âu Châu cũng loạn hết, rồi họ tìm tòi tìm lời tiên tri nói rằng: Sẽ có Đấng cứu thế đến, họ trông đợi, họ đòi hỏi cho đến ngày có Đức Chúa Jésus Christ đến làm chủ tinh thần họ.

Cũng như bên Ấn Độ nền Tôn Giáo tối cổ chia ra nhiều Đảng Phái, lát nữa Bần Đạo sẽ tỏ tại sao Tôn Giáo lại chia ra Đảng Phái. Bởi chia ra nhiều Đảng Phái cho nên các sắc dân Ấn Độ là nước đã nắm chủ quyền tinh thần đạo đức buổi nọ, tinh thần chia nhiều Đảng Phái thì xã hội chia nhiều đẳng cấp, làm cho thống khổ nhơn sanh chẳng biết bao nhiêu, dân một nước mà coi như thù nghịch, ngày giờ nầy ta thấy đám dân Intouchables nghĩa bất khả đụng chạm vẫn còn làm cho xã hội Ấn Độ khổ chẳng biết bao nhiêu, rồi họ tìm tòi lời tiên tri nói sẽ có Phật đến, có nhiều kẻ tu hành họ trông đợi, họ hối hả, họ giục thúc, có người thì đứng một chơn đến cả đời, kẻ thì trồng chuối ngược, người khác nằm trên chông gai, đặng đợi Phật đến họ mới thôi hành xác, họ đợi thì sẽ có Đấng đến lập Tôn Giáo.

Còn Đạo Cao Đài ngày nay tại sao mà có? Bởi vì văn minh duy vật tăng tiến quá sức tưởng tượng của loài người làm cho cả tinh thần của loài người phải xu hướng, tức nhiên họ xu hướng theo con vật của họ mà bỏ phận làm người, họ mặc kệ nhơn sanh, vì lo cho hình thể nhiều quá, họ sang trọng sung sướng không kể tâm hồn ra gì, họ xu hướng duy vật, họ phản duy tâm, làm cho nhơn loại mất cả phẩm cách, không đáng phận làm con người nữa, cả Vạn Quốc trên địa cầu này, nhìn thấy sự nguy hiểm trên bước đường tương lai, nên nhơn loại mơ mộng tìm phương pháp định phẩm đặng vi chủ vật hình nhục thể của họ. Nhơn loại mơ mộng tiềm tàng, vì đó xuất hiện Tôn giáo Cao Đài ngày nay. Tôn giáo là cả tinh thần của nhơn loại đòi hỏi mà thành tượng.

Bây giờ nói các Đảng Phái, nói Đảng Phái Tôn Giáo trước, sẽ nói đến Đảng Phái Quốc Sự sau, ta thấy các Đảng Phái của Gia Tô Giáo như: Saint Bernardin Jésuites, Dominicaine các Đảng Phái ấy nương nơi gốc Đạo Thiên Chúa mà thành lập, như Đạo Tiên có hai người đặc sắc trọng yếu, là hai môn đệ của Đức Lão Tử là Dương Châu, Mặc Địch. Dương Châu là chủ trương thuyết tồn tâm, còn Mặc Địch chủ trương thuyết siêu phàm. Trong Khổng Giáo có nhiều thuyết khác nhau, như Khổng Cấp tức là cháu Khổng Phu Tử thọ giáo với Ông nội mà nêu ra thuyết trung dung, còn Mạnh Tử là học trò của Tử Tư lại lấy thuyết nhơn nghĩa làm căn bản, thành ra hai thuyết hai Đảng Phái. Đạo Cao Đài khai sanh đã 24 năm, bởi tinh thần quá mạnh mẽ, nên các Đảng Phái biến tướng rất mau ra đủ thứ, nào là Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo v.v... người ta thấy ảnh hưởng của Đạo Cao Đài mà làm ra các Chi Phái.

Bây giờ nói về các Đảng Phái Quốc Sự, nó cũng nương theo Đạo mà ra, các Đảng Phái chính trị trong toàn thể nhơn loại, phần nhiều bên Âu Châu chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa Giáo mà thành tượng. Cũng như bên Á Đông nầy, ta thấy các Đảng Phái, đừng nói chi xa, gần đây ta thấy có Phật Giáo Hòa Hảo, phái đi tu tại gia ta thấy Minh Sư, Minh Đường v.v... đều có ảnh hưởng của Phật Giáo mà thành tượng ra. Đạo Cao Đài giờ phút này nó bị 12 phái ở Hậu Giang hiệp nhứt, ở bưng biền kháng chiến vì Quốc Sự đó.

Tình trạng của Chi Phái khác với Tôn Giáo, Tôn Giáo làm mẹ. Chi Phái là con, do nơi tinh thần của Tôn Giáo sản xuất. Bần Đạo thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy, con cái Đức Chí Tôn còn ơ thờ lắm, để ý coi họ có biết giá trị của họ không, mà Bần Đạo lấy làm buồn, thấy họ bỏ mẹ chạy theo con họ còn dốt quá.

Bây giờ nói về Quốc gia đương nhiên thiên hạ thấy các Đảng Phái tương tranh làm cho loạn lạc giặc giả tai nạn do các Đảng Phái đem lại đủ thứ, nào Cộng Sản Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, các Đảng Phái Quốc Sự càng nhiều làm cho nước nhà thêm biến loạn, Đảng Phái nào cũng quyết tương tranh để trong óc ý nghĩa thâu đoạt lực lượng làm bá chủ của nước, lại còn có kẻ dám cả gan xưng Vương, xưng Đế, cái mộng đó là cái mộng nhà thương Biên Hòa đa! Chúng ta thử tìm coi tại sao họ không định quyết giá trị, ai trọng ai khinh, nhà Vua xuất hiện lập nền Vương Đạo đã 4.000 năm, tượng hình đó sản xuất do nơi Đạo, nó là hiện tượng của Nho Tông của Đạo, nói là Đạo đó chớ, còn Đảng Phái kia bất quá là Đảng Phái mà thôi, chỗ nào trọng khinh đã thấy rõ rệt rồi, dầu cho các Đảng Phái có tranh Vương quyền của Bảo Đại, Bần Đạo dám quả quyết không thể gì họ thắng đặng. Thiên hạ tưởng Bảo Đại về đây sẽ loạn.

Bần Đạo dám chắc rằng: Ngài về đây đứa con nít cũng theo nữa, nếu cả nguyện ước của toàn thể Quốc Dân mong mỏi mà Ngài đạt vọng được, Ngài về đây ai cũng theo, bởi giá trị hai đàng rõ ràng khác nhau, một bên là do tướng diện của Đạo vi chủ, còn một bên các Đảng tranh quyền đoạt vị, bất quá những tấn tuồng Thái Sư soán ngôi Vua mà ta thường nghe thấy, rốt cuộc rồi cũng sụp mão, cũng chết, chớ làm gì được, để cho phép họ hoang mang thì vô lý quá, thiển kiến quá, phải biết giá trị mình đặng định quyết.

Bởi cớ bên nầy ngồi nghe tin vô tuyến điện nói Đức Hộ Pháp đem vấn đề Việt Nam ra bàn tán hoang mang, Bần Đạo chỉ cười thầm.

Q. 3/07: ĐỨC CHƯỞNG ĐẠO NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN (VICTOR-HUGO).
Tại Đền Thánh đêm 22 tháng 5 năm Kỷ Sửu (1949)

Đức Victor Hugo tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một Đấng Thiêng Liêng tại Quảng Hàn Cung. Khi tái kiếp Ngài sanh tại thành Besançon Pháp Quốc nhằm ngày 26-02-1802, Ngài từ trần tại Paris ngày 22-05-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.

Từ buổi Đạo khai tại Tần Quốc, thì Ngài giáng cơ với danh hiệu là Chưởng Đạo Nguyệt Tâm, Chưởng Quyền Hội Thánh Ngoại Giáo, Ngài là một nhà thi sĩ trứ danh của nước Pháp trong thế kỷ thứ 19, lúc còn thiếu thời Ngài thường châu lưu ở nước Italie (Ý Đại Lợi), ở nước Espagne (Tây Ban Nha) kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có tài thi văn đến lúc trưởng thành thì những văn từ thi phú Ngài làm đều là những tác phẩm lỗi lạc hoạt bát tình tứ cao thâm, nên trong trường đời Ngài đã nổi danh là thi bá, đứng đầu trong các bậc kỳ nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi tên tuổi của Ngài đã nêu danh nơi Hàn Lâm Viện và Ngài trở nên một Đại Công Thần danh dự của Pháp Triều buổi ấy.

Đến sau cuộc cách mạng 1848 tại nước Pháp, Ngài đắc cử vào Hạ Nghị Viện lớn lao để bảo tồn nền chánh trị và luật pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách nhiệm trọng yếu ấy, Ngài đã lắm phen trổ tài hùng biện và binh vực quyền lợi cho dân Pháp với những lẽ công chánh nhứt là sự tự do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau ngày 2-12-1851 lại có cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra ngoại quốc, mãi đến năm 1870 ngày 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh trị. Lúc đó Ngài đặng 68 tuổi, từ ấy đến sau Ngài đã đem hết nhiệt tâm mà chuyên lo cần mẫn vì nước vì dân cho đến ngày qui vị.

Trong kiếp sanh của Ngài rất vinh diệu cho nước Pháp ngoài những chuyện sử thi văn kiệt tác đối với quê hương dân tộc Pháp, Ngài còn để dấu trong trường chánh trị một danh thể bất thủ. Vì vậy mà khi Ngài qui vị, đám táng Ngài rất long trọng, quan cữu và linh vị đặng hưởng đặc ân của nước Pháp để vào Công Thần Miếu (Panthéon).

Ấy vậy thật là một vĩ nhân và một Đại Công Thần nước Pháp đó vậy. Bần Đạo cũng nên cho toàn đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng ta ngày nay đương tôn sùng lễ bái kỷ niệm một vị vĩ nhân Công Thần của Pháp như trên đã nói đó là tôn sùng người Pháp.

Nghĩ vì Ngài cũng có công trình khai đạo từ sơ khai thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn lãnh quyền Chưởng Đạo cầm đầu Hội Thánh Ngoại Giáo. Ngài thường giáng cơ giáo hóa và phong Thánh cho chư Chức Sắc Ngoại Giáo, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết tiền kiếp của Ngài trước kia tái kiếp nước Pháp thì Ngài đã có một kiếp sanh tại nước Việt Nam là Đức Nguyễn Du là một nhà thi sĩ, tác phẩm truyện Kim Vân Kiều mà ngày nay cả thế giới đều nhận bản tác phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng ta dân tộc Việt Nam càng vinh hạnh hơn hết.

Q. 3/08: LUẬT ĐẠO LIÊN QUAN VỚI LUẬT ĐỜI.
Tại Đền Thánh thời Tý mồng 5 tháng 6 Kỷ Sửu (1949)

Đêm nay Bần Đạo thuyết Đạo có liên quan với Thể Pháp tức nhiên nói rõ luật Đạo có liên quan với luật Đời.
Ta thấy cơ quan Tạo Đoan Càn Khôn Võ Trụ là cơ quan của Đức Chí Tôn đã phụng sự Vạn Linh về Chơn Pháp, vậy điều đó Bần Đạo đã thuyết rồi, thuyết ấy Bần Đạo nói rằng: đất phải hy sinh đặng phụng sự thảo mộc, nghĩa là phải hy sinh đặng nuôi cây, cây hy sinh với thú, tức nuôi thú, mà loài người đứng đầu thú mà thôi.

Vì cớ nên cổ luật buộc nói thú phải hy sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá mức hy sinh đặng nuôi người, một lẽ vì lầm hiểu chơn pháp nhơn sanh lầm lạc.

Bây giờ tới mức nữa, người phải hy sinh phụng sự cho Trời chắc cả thảy đều nhớ cổ luật. Thượng Cổ khi tế Trời thì đem người ra giết, rồi thiêu người như thú vật, tế sống loài người thời hạn cổ luật ấy khá lâu đã dùng tế vật hiến cho Đức Chí Tôn, nên Bần Đạo chiếu theo sử thì đã có từ bốn chục ngàn năm, trước pháp luật ấy thử nghĩ coi số nhơn mạng buổi nọ phải đem ra làm tế vật đặng tế Đức Chí Tôn.

Mới đây trước lịch sử 6.000 năm đời Vua Jacob, trước 6.000 năm theo Đạo luật của dân Hébreux (Do Thái) luật giết người lúc hy sinh dâng con người làm của tế Trời, vẫn còn vậy.

Hỏi Đức Chí Tôn có cho như vậy chăng? Đức Chí Tôn đòi hỏi như vậy chăng? Bần Đạo dám chắc, không.

Vì chính mình Ngài tạo Vạn Linh, phụng sự cho Vạn Linh, có lẽ nào cho nhơn loại lấy sanh mạng làm tế vật đặng tế Ngài bao giờ, ta thấy phụng sự Vạn Linh, luật ấy đi từ vật loại đến nhơn loại, tức nhiên nhờ ta thấy con ong có một ong chúa phụng sự, phụng sự đến đâu nó làm chúa vẫn có quyền chúa, vì cớ nên có nhiều phận sự sanh sản nòi giống duy nhứt của nó mà thôi.

Như hồi thượng cổ trước đây 150.000 năm, loài người cũng vậy, cũng một khuôn luật vậy, Đạo pháp còn để lại ta gọi Đấng vi chủ, các sắc dân tiếng phạn gọi Manu. Hiện giờ con ong con mối Chúa nó cũng vậy, nó phụng sự cho cả ổ mối hơn ai hết. Bởi chính mình mối chúa nó phải sản xuất cả chủng tộc mối trong ổ đó.

Ta ngó thấy các triều chính trong xã hội nhơn quần, lập nền chánh trị có tương liên với quốc dân do một khuôn khổ, dân chúng chịu một pháp luật, luật pháp ấy muốn ai thi hành phải có triều chính tức nhiên chính mình nhà Vua phải phụng sự quần linh, là phụng sự trong quốc dân vậy. Mà một mình Vua trị toàn thể lê dân không kham, nên phải lập Triều chính là từ bực Tể tướng dĩ chí đến bực Phủ, Huyện, hiệp lại thành Chánh trị, quốc gia thay thế hình ảnh của Vua đặng phụng sự quốc dân mà thôi.

Ta thấy từ vật loại như mối chúa, ong chúa, là chúa của loài mối, chúa của loài ong, phụng sự của nó cũng phải lập ra có triều chính mới cầm phương pháp để phụng sự được, còn nhà Vua lập Triều chính để làm gì? tức nhiên là biến thân ra muôn, ngàn, triệu đặng phụng sự cho lê dân một nước mới được. Bây giờ Đức Chí Tôn phụng sự, Ngài phụng sự cho cả Vạn Linh toàn thiên hạ, Ngài phải làm thế nào, Ngài dùng phương pháp nào, phụng sự Vạn Linh nầy, Ngài lấy Vạn Linh phụng sự cho Vạn Linh, Ngài lấy đất nuôi cây, lấy cây nuôi thú, lấy thú nuôi người không lạ gì, lấy thú đặng phụng sự cho người, Ngài dùng căn bản ấy đặng phụng sự. Như một ông Vua lập Triều Chánh dùng dân phụng sự cho dân, một khuôn khổ mà thôi, Đức Chí Tôn ngày giờ nầy đến lập Đạo tức nhiên Ngài muốn phụng sự nhơn sanh nơi địa cầu 68 nầy.

Ấy vậy, ta thấy mối chúa vì phụng sự loài mối mới làm chúa mối. Con ong chúa vì phụng sự loài ong mới làm chúa của ong. Nhà Vua vì phụng sự quốc dân mới làm Vua.

Nên Đức Chí Tôn vì phụng sự Vạn Linh mới làm Trời, Ngài lập Triều chánh là Hội Thánh tức là Thánh Thể của Ngài, muốn Thánh Thể của Ngài đủ quyền phụng sự chính mình Ngài lập và cho quyền đặc biệt Thánh Thể Ngài là phần tử của Ngài, tức là Ngài vậy.

Ngài lấy Triều chánh trên Thiên Cung thế nào, Ngài lập Thánh Thể dưới nầy cũng y như thế ấy, như thế ta thấy Thánh Thể tức nhiên Hội Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế không phải mơ mộng. Ngài chỉ dùng công nghiệp của người mà phải đền trả bồi thường.

Vậy Đức Chí Tôn đến cậy nhơn sanh làm Thánh Thể của Ngài, Ngài phải bồi thường, phải trả mắc cho người, người ta mới phụng sự cho Ngài trả bằng cách đến ký hòa ước với loài người nhứt là với dân tộc Việt Nam nầy trước đã, nếu các người thay thế cho Tôi phụng sự con cái Tôi, Tôi có phận sự lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật cho các người chịu không? Nếu các người chịu làm tôi cho con cái Tôi, cho vừa sức Tôi muốn, cho vừa sở ý Tôi định, thì Tôi sẽ trả mắt cho mấy người, vì công ấy Tôi thường lại ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật, tức nhiên Tôi đem đưa cơ quan giải thoát nơi tay mấy người, mấy người đạt được nơi thế nầy thế nào, nơi cõi vô hình Tôi cũng không chối cải.

Bởi chính mình Ngài cậy làm tôi tớ cho con cái Ngài tại thế nầy, Ngài mới đem Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đưa cho ta.

Nếu chúng ta đạt được, khi trở về cõi hư linh Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và Đức Chí Tôn không hề chối cải mà chẳng có quyền luật nào định cải được phẩm vị của chúng ta do phụng sự Vạn Linh mà lập được tại thế nầy.

Q. 3/09: CÁI ÁN TỬ HÌNH BẤT CÔNG CỦA XÃ HỘI.
Tại Đền Thánh đêm rằm tháng 6 năm Kỷ Sửu (1949)

Nhân đương thuyết về sự tương khắc của Thế Đạo và Chơn Đạo, trong cơ quan phụng sự Vạn Linh, Bần Đạo ngày nay thừa dịp ấy thuyết về vấn đề án tử hình của các xã hội nhơn quần đã dùng trị thế với một phương pháp phi pháp. Bằng cớ là Đức Chí Tôn đã phú thác cho Bần Đạo đảm nhiệm rất khó khăn và rất trọng yếu, Ngài căn dặn nhiều phen làm thế nào trừ cho được cái án tử hình, do xã hội giết người một cách phi pháp và nơi nào cây cờ Đạo trương lên bất kỳ nước nào, xứ nào, phải làm sao cho được bóng cờ ấy trở nên Thánh Địa, tức nhiên không có quyền hành nào xâm phạm nó đặng bảo vệ sanh mạng nhơn loại cả mặt địa cầu, tưởng lại ta thi thố có kết quả cùng chăng tại đó ta đã để một dấu hỏi?

Đương nhiên Bần Đạo thi thố phụng sự đối với Đức Chí Tôn để phụng sự nhơn loại. Buổi Bần Đạo ở hải ngoại về, khi ở Madagascar có quen biết hai người thân sĩ giống dân Malgache hai vị thân sĩ ấy vì tội phiến loạn tức vận động phục quốc của họ, bị Pháp triều lên án tử hình. Bần Đạo đánh điện văn xin hủy án tử hình ấy, hoặc thay bằng án nào khác hơn là án giết người. May thay! Nước Pháp là nước cầm quyền được văn minh chiếu diệu nơi địa cầu nầy, ai cũng biết, lại là nước đề xướng nhơn quyền. Ngày nay, Bần Đạo hữu hạnh thấy vụ án tử hình ấy được đem xử lại.

Lại nữa, khi Bần Đạo hội kiến cùng Cựu Hoàng Bảo Đại tại Đà Lạt trước khi về có để lại cho Người một bức cẩm nang, công việc hành tàng phục quốc trong bức cẩm nang, vấn đề đầu tiên hơn hết là bỏ án tử hình, và toàn xá các tù nhơn. Tại sao Đức Chí Tôn phải căn dặn Bần Đạo hủy bỏ án tử hình, và tranh đấu đến kỳ cùng cho kết liễu điều ấy. Bởi nó phi pháp không có quyền năng nào hơn mặt địa cầu nầy, hay là Càn Khôn Vũ Trụ đặng làm chúa mạng sống của Vạn Linh, cả cái chi mình có quyền vi chủ nhứt định xài nó, dùng nó, mình là chủ quyền đặng, cái chi không phải mình vi chủ mà mình cướp đoạt là có tội, mạng sanh không phải mình là vi chủ, Đức Thượng Đế vi chủ. Duy Đức Thượng Đế có quyền định sống chết, ngoài cái quyền của Đức Thượng Đế tức Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ của chúng ta thì không có quyền nào định chết sống cho ta được, chết sống ấy không phải là mình định được. Lại nữa ta biết con người sanh ra nơi cõi thế nầy có ba xu hướng:
   1 . Là trả quả.
   2 . Là học hỏi.
   3 . Là lập vị.

Đi đến đặng trả quả tức là làm đầy tớ cho đời, học hỏi tức là học trò của đời, còn đến lập vị, tức là đến làm học trò khó của đời.

Nếu nói từ thử đến giờ có ông chủ nào có quyền giết đầy tớ phi pháp chăng? Không có, dầu cho con vật như con ngựa kia rủi mắc chứng không chịu cỡi, ta cho kéo xe, không kéo xe được ta tập nó cày, chớ không phải nó không được một việc gì rồi đem giết. Con người đến thế nầy cũng vậy, làm đầy tớ trả quả do nơi căn quả về trí thức tinh thần họ không đủ để bảo vệ thiên lương của họ, ngoài ra phương pháp giáo hóa ấy nhơn sanh nơi mặt địa cầu này còn có nhiều điều mâu thuẫn nếu như một người nào không được chí thiện, chí nhơn, ta thử hỏi: Ai là người trên mặt địa cầu nầy dám nói mình là chí thiện, chí nhơn đặng?

Đức Chúa Jésus Christ tức là Gia Tô Giáo Chủ nói: "Nul n'est parfait ici bas seul notre Père au delà des Cieux qui est parfait". Không ai dưới thế nầy được toàn mỹ toàn thiện, chỉ có Đức Cha ta trên Thiên Cung mà thôi.

Một cơ quan tại thế nếu nói các chơn linh, mang xác phàm đặng học hỏi, họ đã học bài gì ở thế gian, ta chỉ thấy nước nầy tranh sống với nước kia, mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, cả sự bất công nơi mặt địa cầu đã dẫy đầy không phương thế gì giải cho hết trong khi nước mình hơn nước người ta, đưa binh khí trong tay, xúi giết nhau, quen thói giết rồi, chúng giết người lại đem ra giết chính mình, đem cái giết ra dạy nó làm, rồi trở lại giết nó.

Giờ phút nào chánh trị nơi mặt địa cầu biết cung kỉnh mạng sanh nhơn loại đồng thể thì đừng dạy nhơn loại dữ. Thánh nhơn đã có nói: "Thánh" bất giáo nhi thiện, "Hiền" giáo nhi hậu thiện, "Ngu" giáo diệc bất thiện, rồi hỏi lại: "Bất giáo nhi thiện phi thánh nhi hà, giáo nhi hậu thiện phi hiền nhi hà, giáo diệc bất thiện phi ngu nhi hà".

Nhơn sanh nơi mặt địa cầu nầy vẫn nhiều từng hạng, từng lớp, biểu sao kẻ ngu làm Thần, Thánh được, kẻ dại biết phương pháp cơ quan trị thế được, đương nhiên ta thấy phương pháp giáo dân một cách phi pháp biểu sao không dữ, không tàn ác nhơn sanh buổi nầy do ông thầy xã hội nhơn quần dạy họ dữ, tới chừng họ dữ, đem họ giết phi pháp, dạy hiền đi, giờ phút nào dạy hiền mà họ còn dữ chừng đó mới giết họ chớ!

Quái dị thay! Đạo Đời vẫn tương khắc điều thiệt hại ấy do họ muốn lập quyền, giành quyền giáo hóa nhơn sanh họ cũng ngăn đạo giáo, họ giành quyền giáo hóa trong tay để họ dạy thiên hạ dữ, hỏi đem ra mặt công lý của tòa lương tâm Đạo kiện Đời thử coi? Tại sao họ giành quyền dạy người ta dữ!

Giết người ta rồi chừng ấy giữa tòa lương tâm họ sẽ trả lời thế nào? Bần Đạo nói quả quyết giờ phút nào còn một hơi thở cuối cùng, Bần Đạo cũng nhứt định chiến đấu cho tiêu hủy cái án tử hình của nhơn loại.
    Home             1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  [ 17 ]  [ 18 ]  [ 19 ]  [ 20 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét