Q.1/19: Tam Bửu: Nho,
Thích, Ðạo.
Ðền Thánh, đêm rằm tháng 3
năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay, nhơn Bần Ðạo làm phép Giải Oan cho
một người anh em của chúng ta là Hồ Tấn Khoa, nên Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu. Giảng tiếp về vấn đề ấy lại, Bần Ðạo tuyên bố
cho toàn Ðạo nam, nữ và chư Chức Sắc Thiên Phong Nhị Hữu Hình Ðài
được nghe rõ. Ðối với cơ quan đời biến chuyển, từ
ngày Bần Ðạo bị đồ lưu hải ngoại đến khi về tới nay tính lại đã
gần tám tháng, Bần Ðạo thấy tình hình quốc gia của chúng ta mà cả thảy ai ai
cũng biết chẳng cần phải lập lại, vì Bần Ðạo đã thuyết minh nhiều lần rồi.
Bây giờ thử hỏi chơn truyền của Ðức Chí Tôn mở Ðạo là một nền chánh giáo, tôn chỉ bảo chúng ta làm gì? Và
Ðạo Cao Ðài phải đi theo con đường nào? Chúng ta thấy Ðại Từ Phụ lấy ba Tôn
Giáo: Nho, Thích, Ðạo làm cơ quan duy nhứt, dầu về phần
thiêng liêng hay hữu hình cũng vậy, để làm bí mật chơn truyền dìu dắt linh hồn và thi hài của
chúng ta và là một phương pháp đoạt kiếp giải thoát
linh hồn. Nho lấy nhơn nghĩa làm căn bản, Ðạo lấy công chánh làm căn bản, Thích
lấy bác ái từ bi làm căn bản. Ba triết lý ấy hiệp lại vừa lo phần Ðời và phần
Ðạo, xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Ðức Chí Tôn đứng chờ đợi các con
cái hiệp một cùng người.
Nhơn
nghĩa là gì? Người có nhơn thì không oán, nghĩa thì không bạc. Công chánh là
gì? Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật
được, còn có từ bi thì có khoan hồng dung thứ, có bác ái mới có thể bảo thủ và
thân mến toàn thiên hạ, nếu chiếu theo chơn truyền của Ðức Chí Tôn khuyên bảo
chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan hồng,
tha thứ, biết yêu ái, phải có công bình chánh lý, chúng ta giữ được cả chơn
truyền ấy thì không ghét ai, oán ai. Trái lại, Ðại Từ Phụ buộc chúng ta phải
thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa.
Chiếu
theo chơn truyền ấy, đối với đời, với quốc gia chủng tộc toàn đạo phải xử thế
nào? Chẳng lẽ Ðạo Cao Ðài phải nhượng bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái tinh
thần của Ðạo còn chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô lệ cho đảng phái.
Quyền tự chủ ấy là quyền của Chí Tôn ban cho, Thầy đã không làm tớ ai, nên
quyền Ðạo nó chỉ làm Thầy.
Nó tự
có một năng lực, mà cái năng lực ấy không tùng năng lực của ai cả. Nó có một
quyền hành sở hữu, chớ không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải lập
quyền yêu ái công chánh từ bi, nó có phận sự tạo nghiệp cho đời chớ không phải
làm tôi mọi cho đời. Ðời đang phải chịu vòng nô lệ thì con cái của Ðức Chí Tôn
bây giờ phải theo tôn chỉ nào? Phải biết rằng có Thiên mạng con cái của Ðức Chí
Tôn là Thánh Thể, ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai, không làm tôi
tớ ai, thì con cái của Ðức Chí Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của
con cái Ngài, vì thiên lương ấy là căn bản tạo quyền cho thiên hạ, là con cái
của Ngài, lẽ đương nhiên chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã hội,
chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại. Chúng ta chỉ biết nhìn một quyền dân
Việt Nam mà thôi. Thời buổi loạn lạc dân không có quyền, trong nước đảng nầy
phái kia, chia năm chia bảy, nên buộc chúng ta phải kiếm một cái quyền của nhà
Vua, Vua và dân hai quyền ấy nó tương liên với vận mạng nước Việt Nam, tìm cái
kia không phải tìm cái nọ, cái quyền sở hữu nào chúng ta thấy thì chúng ta phải
cầm lấy, giúp Vua để lập quyền cho nước, cho quốc gia xã hội.
Vì
vậy chúng ta phải đem nhà Vua lại để lập quyền cho dân, quyền là chánh sách Ðạo
Cao Ðài giúp quân chủ tạo dân quyền. Bởi thế Bần Ðạo đã công khai cùng Chánh
phủ rồi. Bần Ðạo sẽ công khai cho toàn thiên hạ biết rằng: Chúng ta sẽ hướng ra
Quân chủ Dân quyền để tạo tương lai cho quốc vận. Chúng ta không thấy còn con
đường nào khác nữa, chỉ một con đường duy nhứt cao thượng nầy mà Ðạo phải làm
cho thành tựu, Bần Ðạo xin cả thảy nghe và tìm hiểu chơn lý ấy rồi hằng đêm cầu
nguyện để quyết định tương lai vận mạng nòi giống của chúng ta.
Q.1/20: Quyền năng của đức
tin.
Ðền Thánh, đêm 29 tháng 2
nhuần năm Ðinh Hợi (1947)
Bần Ðạo giảng về quyền năng của đức tin. Hôm nay vì có hàng Quân Ðội Võ
Chức, nên Bần Ðạo cần giải rõ cái quyền năng ấy cho toàn Ðạo nam nữ rõ.
Thời buổi nầy là thời buổi toàn con cái của Ðức Chí Tôn đưa tay lên cùng
nhau nâng đỡ và vãn hồi quốc vận, nên Bần Ðạo giảng về cái quyền năng của đức
tin, để cả thảy trụ tinh thần cầu nguyện Ðại Từ Phụ ban ơn
nền Quốc Ðạo sớm được hoàn thành, hầu cứu vớt cả giống nòi Việt
Nam chúng ta thoát nạn tương tàn, tương sát.
Toàn
Ðạo nên để trọn đức tin nơi Người, thì mới mong nền Quốc Ðạo mau thành tướng.
Ðức Chí Tôn tạo cơ quan cứu sanh nầy mà gặp phải những điều trắc trở, nguy hại
không sớm giải quyết được, là bởi toàn thể quốc dân ta không biết cầu nguyện
nơi Người. Bần Ðạo lập lại lời nói của Ðức Chúa Jésus nói cùng Môn Ðồ của Người
rằng: "Hỡi các Môn Ðồ, Ðức Chúa Cha ta trên Trời dạy rằng: Nếu toàn thể
các ngươi có một cái đức tin bằng hột mè thì nó cũng đủ sức xô ngã núi, nó đi
không gì ngăn cản nổi".
Ấy là
Ngài nói cái đức tin bằng hột mè mà toàn thể quốc dân đều có, thì đâu có phải
chịu cảnh trạng thương tâm thế nầy.
Hại
thay! Dân 25 triệu, đã tự xưng là con Rồng cháu Tiên, tự biết giống nòi do một
căn nguyên chí Thánh cao trọng, có máu Tiên Rồng, mà cái đức tin lại không bằng
hột mè hay sao? Nếu mỗi người Việt Nam ta đều có một cái đức tin bằng hột mè mà
thôi, cũng đủ dời non vét bể được.
Bần
Ðạo nói thật, buổi Chí Tôn đến tạo Quốc Ðạo cho nòi giống Rồng Tiên nầy, chính
Ngài cầm cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà gọi từ đứa con, cho không biết bao
nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành một nền Tôn Giáo Cao Ðài là Quốc Ðạo, Bần Ðạo
tưởng chưa có người nào đem cả tinh thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy.
Ðức Chí Tôn đến độ rỗi, lập giáo rồi lại bắt minh thệ.
Hỏi
tại sao Ngài lại bắt minh thệ buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau. Mỗi người
có một chút đức tin, Thầy bảo qui đức tin ấy lại, phải có tâm đức tin tưởng yêu
ái lẫn nhau. Phải nhìn nhận có Thầy, có đức tin nơi Thầy.
Hại
thay! Có nhiều đứa con của Ngài cũng nghe, cũng tìm Ðạo, cũng thọ giáo, cũng
minh thệ đủ phép tắc. Biết bao nhiêu, khi mới đến cùng Thầy, quì dưới chơn Thầy
mà hễ ra khỏi chơn Ngài rồi thì lại phản phúc Ngài và con cái của Ngài.
Bần
Ðạo định quyết rằng: Cái tai nạn của giống dân Việt Nam đến cảnh tượng nầy
chúng ta phải nhìn nhận tội của chúng ta vì thiếu đức tin nơi Ngài mà ra vậy.
Phải
chi trước kia biết nhìn nhận Ðấng đến dìu dẫn yêu ái nâng đỡ, để đức tin nơi
Người, nghe theo Người thì cái nạn đổ máu tương tàn, tương sát giống nòi không
hề có đặng.
Cái
hại về sự lưu huyết nầy Bần Ðạo xin nói là do cái tội bất tín nhiệm cùng Ðại Từ
Phụ đó vậy. Ôi! Nếu Bần Ðạo tả hết cái tình cảnh của Ðạo trót hai mươi năm nay,
thì mới biết cái năng lực của đức tin nó mạnh đến bực nào. Từ khi Bần Ðạo đến
đây, ai xô cũng không ngã, đuổi cũng không đi, dầu còn dầu mất, dầu nên hư, Ðức
Chí Tôn bảo Bần Ðạo ngồi nơi đây, ở nơi đây, dầu cho vì mạng lịnh ấy mà mảnh
thân nầy có phải tiêu diệt để bảo trọng nền Quốc Ðạo, thì Bần Ðạo cũng không
bước ra khỏi đây một bước. Nếu Bần Ðạo quí trọng sanh mạng nầy, thì Bần Ðạo có
đủ thì giờ để trốn tránh. Biết bao nhiêu bạn, khuyên lơn Bần Ðạo trốn đi. Bần
Ðạo trốn được, tránh được mà Bần Ðạo không khi nào chịu vậy. Ðức Chí Tôn bảo ở,
dầu sống chết ngồi nơi đây ôm chân Ngài mà thôi. Bần Ðạo chỉ để lời cầu nguyện
đem cả thi hài và tâm hồn làm tế vật cho Quốc Ðạo được thành tướng mà thôi. Bần
Ðạo chỉ xin có bấy nhiêu mà chưa chắc đã xin được, vì phải toàn thể con cái của
Ðức Chí Tôn qui tụ đức tin lại thành một cái năng lực giúp chúng ta thắng nổi
quỉ quyền và các cường lực đàn áp tiêu diệt Ðạo.
Chúng
ta bảo trọng được Quốc Ðạo, do cái năng lực của đức tin ấy. Chúng ta qui đức
tin lại, bảo trọng cơ Ðạo thì thoát được cái nạn tương tàn, tương sát máu đổ
thịt rơi.
Nếu
toàn Ðạo nam, nữ nhìn Ðức Chí Tôn lập đặng cái quyền năng ấy, chúng ta nương
lấy nó mạnh mẽ, cầu nguyện đồng tâm một ngày một giờ, thử coi Ðức Chí Tôn có
giải thoát cho chúng ta không?
Từ
khi Bần Ðạo về qui tụ các con cái của Ngài, thì Bần Ðạo đã giải kiết cho Ðạo
nhiều rồi. Chúng ta cầu nguyện thêm đôi tháng nữa mà thôi và lo tròn phận sự
phú thác thì ngày đoạt vọng không lâu, và chúng ta sẽ thấy có huyền diệu hay
không về quyền năng ấy.
Q.1/21: Tam Bửu: Nguyên thỉ
tạo thành Càn Khôn Thế Giái.
Ðền Thánh, đêm 29 tháng 3
năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, nguyên thủy tạo thành Càn Khôn Thế Giái.
Từ trước đến giờ thiên hạ thường nói là có Ðạo, tin Ðạo, nhưng Bần Ðạo
tưởng chắc chưa có ai hiểu Ðạo
là gì cả, nên Bần Ðạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Ðạo, giải rõ cái liên quan giữa Ðạo và con người
cùng vạn vật do nơi đâu mà có, rồi sẽ giảng về nguyên căn của Tam Bửu, là một
nguyên căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần. Ðức Chí Tôn là Ðấng tự hữu hằng
hữu, mà từ thử đến giờ bất kỳ một Ðấng Thiêng Liêng nào cũng không hiểu rõ
nguyên căn của Người đặng.
Theo
lời Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên căn
của Chí Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô đối của Người mà thôi. Bần Ðạo đã vấn
nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay
chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đã hỏi như Bần Ðạo. Bần Ðạo hỏi nguyên căn của Ðức
Chí Tôn và quyền năng của Người, thì Ðức Chưởng Ðạo có tả một bài văn chữ Pháp
dịch ra Quốc Ngữ; nhưng chính Ðức Nguyệt Tâm cũng đã thú thật rằng: Không biết
nguyên do của Chí Tôn là thể nào, chỉ biết quyền năng vô đối của Người mà thôi.
Nay
thuyết về vấn đề ấy, Bần Ðạo chỉ nói Ðấng Chí Linh hằng hữu ấy là Ðức Chí Tôn,
là Cha cả chơn linh vạn vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm
thúy khối linh ấy thế nào hơn hết, biết bao nhiêu Ðấng, biết bao nhiêu người từ
xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh tâm cao trọng
hơn cả vạn vật? Tìm tòi với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và
cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Ðạo. Nhìn biết và
hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật
tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì, từ trước đến giờ loài người tìm
kiếm mãi nguyên do của nó.
Tiếp
khai các nền Tôn Giáo hiện hữu không một nền Tôn Giáo nào nói mực thước và có
một chơn lý cao siêu hơn là Phật Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần
tìm đâu xa xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm linh chúng ta có
quan sát cả chơn lý của Phật Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc
rằng: Chúng ta có một Tôn Giáo mà Tôn Giáo ấy là Chúa Tể các nền Tôn Giáo khác,
vì bởi nó là nguyên căn của Tôn Giáo và chính nó là một Tôn Giáo tự hữu, từ
buổi Trời Ðất biến sanh đã có, cái khối chơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha
của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ
trước Ðức Chí Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh
khí ấy mà biến thành vạn vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan,
cũng như vạn vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học
luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật Giáo
nói: Cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật, khối linh ấy
trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Ðấng
thứ nhì Civa chủ về Pháp, Ðức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm
quyền năng tạo đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt
ta ấy là Khí, vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn vật nhờ thở khí ấy mà
sống, cho nên chữ Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn
vật. Nên Ðấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2è
Logos" thuộc Âm ấy là Phật Mẫu chưởng quản cả cơ quan tạo đoan nầy vậy.
Như
chúng ta thấy cơ quan sanh hóa vạn vật và loài người là do âm dương phối hợp mà
biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu,
nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình, mà
Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối sanh
quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí
biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn
vật, đi từ Hổn ngươn khí, Hư vô khí đến Huyền ảnh khí rồi mới biến ra vạn vật,
tức là Huyền ảnh khí biến ra nhơn hình vậy. Khí mà khoa học gọi là Nguyên tử khí
(Atome) Nguyên tử khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng,
chớ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài
người tìm được nguyên tử chất và dùng được cái Nguyên tử khí ấy là cái khí sanh
của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ Nguyên tử khí
ấy mà qui nguyên Thánh Thể. Thử hỏi Ðức Chí Tôn cho nhơn loại đoạt Nguyên tử
khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền vi bí mật ấy, mà dầu
cho Ðạo Giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay Nguyên
tử khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử hườn
sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử.
Vì
bởi Nguyên tử khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết được
thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận
hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh thế
nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn Khôn làm Ðại Thiên Ðịa và lấy con
người mà làm Tiểu Thiên Ðịa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn Khôn,
tức là sự sống phải tương liên với Chí Tôn mà Chí Tôn lại cầm quyền năng vô
đối.
Hỏi
vậy Chí Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai? Ðể cho Vạn Linh, mà đứng đầu
Vạn Linh lại là loài người, mà loài người có hưởng được thì Ðức Chí Tôn mới
dành cho, nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một
đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Ðức Chí Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng
muốn chúng ta làm được như Ngài, tức là đem Tiểu Thiên Ðịa đến Ðại Thiên Ðịa.
Ấy
vậy về cơ quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng Tu.
Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế gian còn dữ quá
thì chừng nào mới đoạt đặng.
Q.1/22: Loài người do đâu mà đến.
Ðền Thánh, ngày 29 tháng 4 năm
Ðinh Hợi (1947)
Hôm
nay Bần Ðạo giảng về loài người do đâu mà đến. Trước khi ta tìm chơn lý ấy, ta
nên biết trước tạo đoan là Cha cả vạn vật hữu hình và tìm nguyên căn của Chí
Tôn đã.
Chúng
ta đã nhìn trong kinh điển hồi trước để lại thấy cả cơ quan hữu vi nhãn tiền
nầy làm cho ta biết và nhìn đến tạo đoan ấy là Ðại Từ Phụ. Chẳng luận giống dân
nào và các nhà triết lý của các Tôn Giáo cũng vậy, đều nhìn Ðấng Tạo Ðoan Càn
Khôn Thế Giới sanh hóa vạn vật và loài người, là Ðấng Cha cả chúng sanh, ấy là
các Tôn Giáo đã có từ thượng cổ đến giờ. Phật Giáo cho ta hiểu, có một Ðấng
quyền năng vô biên vô đối không tả được, tạo ra vạn vật Càn Khôn Vũ Trụ nầy.
Ðấng ấy đã có đến ở cùng loài người, cũng thọ bao nhiêu thống khổ, đau đớn, biết
luân luân chuyển chuyển từ phẩm người đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ðấng ấy nắm
cả quyền năng vô đối huyền vi mầu nhiệm trong tay, tạo nên Càn Khôn Thế Giới
định phép công bình, lành có lành trả, ác có ác trả hiển nhiên, nên loài người
tôn sùng Ðấng ấy là Ðức Thượng Ðế, cầm quyền thống ngự vạn linh ấy là Hoàng Ðế
tối cao thượng của võ trụ vậy.
Các
Tôn Giáo có nói Ðức Thượng Ðế, là Ðấng không nhìn thấy được, vì không hình
không ảnh, nhưng không một việc nào mà Ngài không biết. Trong Nho Giáo có câu:
"Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu", nghĩa là: Trời cao lồng lộng
mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới thiêng liêng của Ngài, nên
xưng tụng Ngài là Thiên Tôn cầm quyền Vạn Linh mực thước như một ông Tòa trị
thế.
Ðấng
tạo ra vạn vật Càn Khôn Vũ Trụ, sanh ra nuôi nấng tạo ra bảo bọc, hằng để trong
mỗi thi hài một tâm linh mới được khôn ngoan hiểu biết rằng: Có người có ta nên
ta nhìn Ðấng cho ta cái tâm linh ấy là Ðấng tối linh, là Cha của ta. Ngoài Ðấng
ấy, thì không ai nữa làm Chúa Tể của Vạn Linh đặng, tôn sùng như thế là thấy
Ðấng Cha cao thượng hơn ông Cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Ðại Từ Phụ.
Thật thế, nhà Phật cho Ngài là Ðại Từ Phụ trúng hơn hết, vì nếu Ðấng ấy không
cho một điểm linh quang thì thế nào bảo tồn sanh mạng đặng.
Loài
thú, ta thấy hiển nhiên mới sanh ra tuy mắt còn nhắm híp mà vẫn tìm vú mẹ để
sống, đến cỏ cây hễ sanh ra thì biết trải lá hứng sương tuyết, hấp thụ cái sanh
khí mà nuôi sự sống, một vật có điểm linh quang ấy như thế khối linh quang ấy
là Cha vậy.
Ðại Từ
Phụ là Cha cả Vạn Linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần
hữu hình tại thế mà thôi, Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn là nhứt điểm
linh quang, nhờ đó mà từ vật chất tiến đến thú cầm nhơn loại, mới tiến đến Phật
vị mà ngang phẩm cùng Ngài, Ðức Từ Phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái cũng
thành Phật. Ðặng đạt quyền năng bí mật như Ngài, rồi lập ra một Càn Khôn Thế
Giới khác. Luật thiên nhiên một ông Cha tạo nghiệp, thì con theo nghiệp Cha mà
tạo ra sự nghiệp khác nữa.
Tuy
trong buổi Tam Kỳ Phổ Ðộ, Bần Ðạo biết mở Ðạo Cao Ðài đặng tuyển chọn trong
hàng Phật đạt kiếp từ tạo Càn Khôn Thế Giới đến kế vị Ngài. Trong buổi Ðại Từ
Phụ mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có treo bảng ở Ngọc Hư Cung, lập một ông Trời kế
vị Ngài, nhưng chúng ta thấy trong hàng Phật có ba người:
Phật
Thích Ca
Phật
Di Lặc
Ðức
Chúa Christ
Thử
hỏi ba người ai sẽ làm Trời. Ta tưởng ba người sẽ có một người làm được, mà
người đó chúng ta biết chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ
màng ngó thấy nhưng không dám nói.
Hễ
Ðấng nào đủ quyền năng trị thế, tinh thần cho cao trọng thâu phục cả tâm lý
nhơn sanh vào khuôn Ðại Ðạo, gồm tinh thần tư tưởng loài người lại được, thì
Ðấng ấy sẽ kế nghiệp Ðức Chí Tôn.
Q.1/23: Luật Công Bình
Thiêng Liêng.
Ðền Thánh, đêm rằm tháng 5
năm Ðinh Hợi (1947)
Trên 5 năm Bần Ðạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, khi trở về bổn xứ Bần Ðạo nhìn
thấy vận mạng nước nhà, thấy sự tấn hóa của toàn thể quốc dân trong
hai lẽ buồn vui, nhưng có một điều làm cho Bần Ðạo
ngạc nhiên hơn hết là trong nhơn loại tấn bộ văn minh trên mặt địa
cầu, lại có một hạng người chém giết đồng bào một cách tàn nhẫn, nếu lấy ý trí mà quyết đoán thì ta chẳng biết mục đích của họ định cho tương lai
vận mạng nước nhà thế nào? Theo Bần Ðạo tưởng chẳng có một cơ quan nào
mà chúng ta thấy trong hoàn cầu hiện nay chấp nhận sự sanh sát trước mắt loài
người, và cũng biết bao nhiêu liệt cường hơn thế nữa. Kẻ tính làm bá chủ hoàn
cầu để lập thành một lực lượng với cái phương pháp tàn sát đã kết liễu thế nào,
chúng ta thấy rõ. Hại thay! Nòi giống Việt Nam cũng có bộn người tạo thành một
nhóm tự xưng là trí thức tinh thần có lực lượng mạnh mẽ mong giết hại đồng
chủng của mình mà độc tài lập vị.
Dân
tàn bạo ấy tưởng là khôn ngoan hơn hết, dùng chánh sách cường quyền áp bức đồng
bào. Bần Ðạo thử hỏi đặng hay chăng? Xin trả lời: Không hề khi nào đặng. Bần
Ðạo thấy cái tàn ác động lòng Chí Tôn, nên đã biết tạo ra một đạo Thiên binh để
bảo trọng cái mạng của đồng bào, cái ác nghiệt của họ làm động lòng từ bi của
Ngài, nói cho chánh lý, nếu là một đạo Thiên binh mà đã đứng ra bãi chiến
trường chém tướng đoạt cờ bảo tồn quốc vận, ấy là tướng quân tạo thời cải thế
đã đành còn những kẻ tàn hại dân lành với phương tàn ác tức là quân cường đồ
cướp đảng.
Bần
Ðạo xét đoán cái tình thế nước nhà về hữu hình và hiện diện của Ðức Chí Tôn,
Bần Ðạo suy nghĩ đến cái triết lý đạo đức của Càn Khôn Thế Giái nầy là một cái
ơn công bình thiêng liêng đã định, tức nhiên hễ có vay phải có trả chúng ta
cũng không chối đặng. Chúng ta đã thấy hiện tượng một cơ quan bất công, tại sao
mặt thế người ngu, kẻ trí, kẻ làm cha, người làm tôi .v.v...
Một
khuôn luật công bình vô biên vô tận tấn hóa văn minh khoa học giết hại cả sanh
mạng loài người ở thế gian nầy mà không có công bình thì loài người ví như con
vật, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, cái thuyết đương nhiên của thiên hạ
tranh đấu, chúng ta thấy nếu còn duy trì thì loài người sẽ tận diệt, chỉ nhờ
luật nhơn quả ấy nên chúng ta nói không có ai tiêu diệt loài người được, họ
tưởng giết là tiêu diệt. Ấy là ngu muội.
Giết
người không phải tuyệt sanh mạng của loài người như đốn cây chẳng là giết chết
cây, mà là làm cho nó sanh chồi nẩy tược, kẻ làm ác nó tưởng giết là hết, không
thể như thế được, chúng ta sẽ còn thấy tấn tuồng nhơn quả.
Nước
Việt Nam ta đã từng chịu luật nhơn quả trả vay cựu trào đã tàn sát Ngu Khôi. Mã
Ngụy hiện còn di tích tại Trường Ðua bây giờ, đã giết họ đặng đưa họ lên làm
Chúa, 80 năm nô lệ do đó mà ra.
Kẻ
tàn bạo ấy ngày nay nó tưởng giết Ðạo là hết, nước Nam phải chăng đã thiếu Chúa
cho nên tính giết người mà tạo Chúa, đặng ngày sau họ sẽ quì lụy tôn sùng, nếu
không quả có vậy thì luật công bình thiêng liêng về đạo đức cũng không hề có.
Q.1/24: Nguyên do của loài
người.
& Vấn đề Ðại Ðồng Thế Giới.
Ðêm 14 tháng 6 năm Ðinh Hợi
(dl. 31-07-1947)
Bần
Ðạo hôm nay thuyết về triết lý nguyên do của loài người. Triết lý ấy là một vấn
đề từ có loài người đến giờ, tìm tòi cho thấu đáo chơn lý hầu đi cho trúng con
đường tức là Ðạo vậy.
Từ
Thượng Cổ loài người chỉ biết mình có một, nghĩa là đồng sanh đồng tử. Muốn
biết nguyên căn triết lý các Ðạo giáo, truy tầm vấn đề trọng yếu ấy thì thử hỏi
loài người do nơi nào mà đến? Chịu phần tử sanh cùng vạn vật để làm gì? Và chết
phải đi đâu?
Chẳng
lạ gì, tại thế gian nầy từ thử các Ðạo giáo đều tìm nguyên căn ấy tức là để trở
lại nguyên do căn bản gọi là Ðạo.
Cái
thuyết tối trọng tối cao ấy phải viết sách, mới mong đủ nghĩa được. Bần Ðạo có
nói triết lý ấy nơi đây thì chắc chắn chư Hiền nghe cũng như không, nghĩa là
không bổ ích chi cả bởi quá sức hiểu biết.
Nên
Bần Ðạo hứa ngày Rằm tháng 7 đến đây sẽ viết ra cái Chơn lý ấy trong một bài
Diễn văn, nguyên do cả đạo đức triết lý.
Hôm
nay Bần Ðạo xin thuyết minh vấn đề đương sở dụng hiện thời là vấn đề Ðại đồng
Thế giới (Fraternité universelle). Tại sao nước nào, dân tộc nào trong thế giới
hiện chừ đương mơ mộng tìm phương pháp đại đồng thế giới? Nói thật ra kể từ có
Thánh Giáo Gia Tô, vấn đề ấy chấm một câu hỏi nguyên vẹn và thúc nhặt hơn hết.
Thuyết đại đồng Phật Giáo đeo đuổi mãi mới lập thành giáo, rồi mới lập cả tâm
lý đại đồng.
Loài
người từ tạo thiên lập địa đồng một nguyên do một tánh chất, đồng một nguyên
linh, thúc kết triết lý ấy hơn hết là từ Ðức Chúa Jésus tạo nên Thánh Giáo Gia
Tô. Ngày nay Ðạo Cao Ðài cũng theo đuổi mục đích ấy. Trên mặt địa cầu, người ta
tìm hiểu loài người được hai ngàn bảy trăm triệu (2.700.000.000) vì nguyên căn
tinh thần hình thể, chủng tộc loài người là một nguyên do, một căn bản. Rồi đến
thế nầy biến cải sắc da đen lên xám, lên xanh, lên đỏ, lên vàng, cuối cùng là
da trắng. Ðương nhiên là mãn Hạ ngươn Tam chuyển, lên Thượng ngươn Tứ chuyển
(1er cycle du 4e manvantara) vì chuyển tiến nên loài người phải chịu khảo đảo
đặng vào trường thi hầu thoát khỏi mặt địa cầu nầy để đến thế giới cao trọng
hơn, còn rủi rớt thì ở lại địa cầu nầy mà làm Thần thông nhơn (Race lucidé) do
hai sắc da vàng và trắng hiệp lại xuất hiện.
Ấy
vậy, thuyết Ðại đồng Thế giới trong buổi nầy, Chí Tôn lập Ðạo Cao Ðài cốt yếu
để làm cho loài người biết mình do một nguyên căn linh hoạt sản xuất chung
nhau, biết nhìn nhau là anh em đồng một căn nguyên mà đến. Từ cổ chí kim các
Tôn Giáo tìm đủ mọi phương làm cho loài người thức tỉnh tinh thần, biết nhìn
nhau là cốt nhục. Hại thay! Loài người chẳng biết nhìn Chơn lý của Ðạo những
luống mờ hồ nên Chí Tôn buộc lòng phải đến tạo nền Ðạo Cao Ðài, chủ trương cho
loài người một đại nghiệp, hiệp một hoàn cảnh, chung sống nhau một tinh thần,
một căn bản, qui tựu cho toàn sắc dân, hầu bảo trọng cái sống của nhau, sớt
ngọt chia bùi, bảo tồn nhau cho qua sự khảo đảo đau đớn nơi khổ cảnh nầy từ
trước.
Luận
xét đến các nước ở Âu Châu, ở Á Châu, đồng tìm chánh sách vạch triết lý ấy và
đương hoạt động loài người hiệp nhau làm một. Bởi lý do đó các nhà thượng đẳng
nhơn sanh chia nền chánh trị ra mỗi quốc gia, dụng tâm lý chia đều quyền lợi,
cố ý tìm cách thống nhứt cả loài người làm một trong đường sanh hoạt mà thôi,
ấy là nước Mỹ đương thi thố hiện thời, còn nước Nga lại chia phân tài sản, dung
hòa tâm lý tạo cho loài người một phẩm giá, một quyền lực đồng nhau. Phương
pháp ấy khó đoạt thành nguyện vọng. Chúng ta sẽ thấy những cái tư tưởng rẻ rúng
ấy chẳng còn hiệu lực cao siêu trong thời gian ngắn ngủi, sau đây vì cái quyền
lực muốn hiệp tâm lý cần phải yêu ái, kỉnh trọng nhau, tôn trọng sanh mạng cho
nhau, chia buồn rầu khổ não, nhìn một Ðạo với nhau, lấy tình cốt nhục đối đãi
với nhau, thì mới đầm ấm cả đại gia đình xã hội, tức là toàn cầu thiên hạ vậy.
Muốn
đoạt cho được mục đích ấy, duy lấy đạo đức tinh thần, muốn kỉnh nhau, hòa nhau,
nhìn nhau là ruột thịt, mà thấy nhà bạn mình có của nhiều lại ganh ghét, đứa
nầy giành của đứa kia, hỏi vậy hòa được chăng? Nếu còn giành ăn, ở, mặc, sang,
giàu, cao trọng thì không thể nào đi đến đại đồng tâm lý được.
Cái
hiện tượng của chúng ta đã thấy trước mắt, nước nào tìm phương pháp đại đồng thế
giới mà chẳng biết hiệp tâm lý làm một, thì chỉ là chánh sách vô hiệu nghiệm mà
thôi.
Vì
cớ, Chí Tôn đến tạo một gia đình nầy có một ý nghĩa tối cao tối trọng, là muốn
thế nào, dầu nam hay nữ thương yêu mực thước hiệp tâm lý cả loài người mà tạo
thành khuôn mẫu, một thế hệ mà gây tình anh em cốt nhục, vừa thi hài, vừa trí
thức tinh thần mà chung sống cùng nhau.
Thoảng
ngày kia toàn Ðạo biết thương yêu nhau như ruột thịt, toàn quốc dân Việt Nam
hiệp một, thì hột giống đại đồng thế giới mới mong gieo rắc khắp nơi, gầy dựng
tạo thành nền móng vĩnh cửu, bằng chẳng thì các phương pháp khác chỉ sẽ là vô ý
thức mà thôi.
Q.1/25: Cơ quan Ðại Ðồng Thế
Giới.
Ðền Thánh, đêm 24 tháng 6 năm
Ðinh Hợi (1947)
Hôm
nay Bần Ðạo giảng về các Cơ quan Ðại đồng Thế giới, Bần Ðạo có giải nghĩa cuối
Hạ ngươn Tam chuyển bắt đầu Ngươn Tứ chuyển. Khởi đầu, thường thiên hạ phải
nhập trường chung cuộc khảo thí. Thi đậu thì ra khỏi cảnh đau thảm khổ nầy, nếu
rớt thì ở lại làm Thần Thông Nhơn (Race Lucide).
Bởi
vậy cho nên từ trước năm Bính Dần (1926) Chí Tôn đến than thở trước để thông
tri mỗi lương sanh nam, nữ, khi chưa lập Ðền Thánh. Thầy than rằng: Ðến tạo nền
Tôn Giáo để cứu khổ cho toàn thiên hạ. Ðạo mở sớm một ngày thì cứu nhơn sanh
sớm một ngày.
Hại
thay! Buổi ấy chúng ta nghe lời Thánh Giáo của Người, chẳng ai để trọn tâm quan
sát tìm tòi cho ra minh lý chúng ta lại đoán rằng: Sự tạo Càn Khôn Thế Giới là
thời gian của Ngài chớ không phải của mình. Ai dè nó kết liễu nơi chúng ta, lần
tay tính lại thấy một hoàn cảnh đau khổ của nòi giống quyết liệt, đau đớn
thương tâm không tả được, chúng ta để lời trách Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng
Liêng, trách các bạn thân yêu của ta nữa. Chúng ta đâu có dè các vị Giáo Chủ
đang giáo hóa chúng ta, đã thọ tội cùng Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng, đó là
huyền vi bí mật của Chí Tôn nên ngày nay mới có ảnh hưởng. Hỏi, Chí Tôn than
tưởng tượng như ông Cha kia thấy tình cảnh nguy ngập khổ não làm hại con cái
của Người mới đứng ra cậy mình đi đến đó đặng cứu dùm kẻ toan tuyệt mạng chúng
ta lại chờ viện lý rằng: Lộ trình còn hoãn hượt dầu có trễ một ít ngày cũng
chẳng hề bao. Bất ngờ đi tới nơi, thì con cái của Người đã kề bên vực tuyệt
mạng.
Chúng
ta có lương tâm xét đoán 22 năm tình cảnh đến nước nầy tội lỗi ấy của ai? Xin
hỏi thử rồi trả lời: Chính chúng ta có tội vậy. Xem xét cho đúng lý thì Chí Tôn
đến lập nền Quốc Ðạo làm Cơ quan chuyển thế cứu mạng loài người. Toàn Ðạo nam,
nữ lãnh một cái trách nhiệm trọng hệ dường ấy mà không có đủ tinh thần nghị lực
làm tròn nhiệm vụ. Chư Ðạo Hữu làm chứng cái điều ấy, nếu một ngày kia hình
tướng của Ðạo quả nhiên như vậy, Bần Ðạo chẳng hề nói đã làm nên cho Ðạo cho
Ðời. Năm 1939 bằng chứng đem đến là giặc toàn cầu đều sôi nổi, lời tiên tri
chẳng đi sai, nước Việt Nam là Thánh Ðịa của Chí Tôn mà tránh không khỏi cái
nạn ta thán, hồi hộp, sợ sệt. Mãi đến ngày 27-7-1941 Bần Ðạo bị đồ lưu nơi Hải
ngoại, chính mình làm đầu Thánh Thể mà tự nghĩ xét làm không tròn phận sự đối
với Ðời với Ðạo, trong tâm có nuôi hám vọng là vui chịu bắt lưu đày, để gánh
khổ cho nước nhà thoát đọa. Dường như đắc kế nên cái thú hưởng lạc của Bần Ðạo
không thể tả được, chịu có một người mà cả nước hưởng. Không dè Ðạo Cao Ðài có
cái tương lai gánh cả nhơn quả của toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy, chẳng
riêng một nước Việt Nam mà thôi, cũng không phải riêng cho một nòi giống mình
hưởng, chúng ta, con cái của Ðức Chí Tôn mà bị đồ lưu tức là tội của loài người
chưa trả đó.
Cả
thảy đều thấy bởi Thiên Cơ, nhưng được hạnh phúc cho kẻ nào đã đi đến Thiên
Thai kiến diện nhận định trước sự hạn định, chẳng phải giấc chiêm bao mơ mộng,
ôn lại cả hành tàng của loài người, trên mặt địa cầu nầy, hạn định chưa dứt,
tức còn phải trả đến chừng nào hột giống lành của Chí Tôn mọc lên đã thành cội
hòa bình tâm lý, đơm bông sanh trái nơi đất Việt Nam nầy, mà khắp địa cầu toàn
nhơn loại được hưởng hạnh phúc, bằng chẳng thì do tội tình nầy mà phải chịu một
phen thống khổ hơn nữa. Thảng không đủ can đảm cương quyết thiệt dụng quyền
năng của Ngài thì dầu cho Chức Sắc Thiên Phong, Chức Việc Ðạo Hữu cho đến mấy con
nhỏ cũng vậy, cái họa tương lai không thể tránh thì không lấy gì làm lạ, hết
giặc giả đao binh đến bịnh chướng sát hại. Ðã từng chịu phong ba bão tố, bị
chìm đắm mà chúng ta còn sống rốn nơi đây (rescapé) tức là Chí Tôn dành để lại
hột giống lành để làm căn bản cho cội hạnh phúc hòa bình đại đồng thế giới thì
sự ưu ái nhau rất nồng nàn hơn tình cốt nhục.
Ngày
nay cả toàn cầu thiên hạ đã chịu thống khổ nên hằng xem chúng mình là giống
lành thiêng liêng Chí Tôn đã lựa chọn. Nhận định là mầm chồi hạnh phúc chung
thì khối thương yêu vô tận nầy, bằng ngòi viết không thể tả được. Ảnh hưởng cao
trọng tuyệt đối của sự thương yêu là đó, mấy em tìm hiểu mà tạo lấy.
Q.1/26: Cơ quan Ðại Ðồng Thế Giới (tiếp
theo).
Ngày 29 tháng 6 năm Ðinh
Hợi (1947)
Hôm kỳ Vía Ðức Quan Thánh Ðế Quân, ngày 24 tháng 6 năm Ðinh Hợi Bần Ðạo đã
giảng về Cơ quan Cứu Thế của Ðại
đồng Thế giái.
Biết rằng Thánh Thể của Chí Tôn là nền Ðạo Cao Ðài, có sứ mạng thiêng liêng
đến tại thế nầy để cứu độ toàn nhơn sanh đang lầm than khổ sở vì nạn đao binh. Chí Tôn có than: "Nếu Ðạo trễ một ngày là hại nhân
sanh không biết chừng nào", buổi ấy đương thái bình yên lặng, tưởng đâu Chí Tôn nói vậy là giục thúc cho mình
đạt đến chơn giáo, chẳng dè 5 năm sau toàn cầu thọ nạn, có lẽ trước nhứt toàn Ðạo nam, nữ đều thấy, Bần Ðạo tưởng chắc từ chưa có loài người đến giờ, chưa có trận chiến tranh nào sát
hại nhơn loại thảm khốc dường ấy. Hại thay! Loài người bạc nhược thiếu đức tin
mà phải chịu muôn lỗi ngàn tội đối với Ðức Chí Tôn.
Bần
Ðạo rất ưu tư khổ não về tinh thần, vì xem thấy trường sát hại nhơn sanh cứ
tiếp diễn trong nước nhà của chúng ta mãi. Nếu lấy theo trí độ tinh thần của
chúng ta, tưởng sự tàn sát khốc liệt đổ máu, chủng tộc ta lâm nạn nồi da xáo
thịt thì do tội tình của quốc dân thất tín, thất phận đối với Ðức Chí Tôn.
Nếu
thân ắt hữu tội chỉ đê đầu cúi xin Ðức Chí Tôn giảm bớt cái nạn ấy trong buổi
Bần Ðạo đang đảm nhiệm thì quốc dân Việt Nam đã bị thúc phược muốn làm cũng
không đặng, muốn nói cũng không ai nghe, vì nòi giống của chúng ta thiếu tâm
đức, thiếu quyền hành chánh trị.
Vậy
chúng ta rán cầu nguyện cùng Ðức Chí Tôn, nếu thảng nhiên có lỗi nhờ Ngài đưa
tay giúp Bần Ðạo cứu vãn tình thế một trường sát hại khốc liệt của nòi giống
chúng ta, thì có lẽ Ngài đại từ bi chỉ rõ. Chúng ta biết rằng: Nước Pháp và Nam
không phải thù hận nhau, vì chúng ta nhận thấy đã 80 năm, đồng chia khổ não,
đồng chịu nhọc nhằn khai hóa, hèn có nhau, sang có nhau, vinh nhục có nhau,
cũng đã từng chung sống hai nước có một thâm tình thiết tha, không lẽ chúng ta
không giải quyết được vì không thể chối rằng: "Không có duyên cớ".
Vì họ
phiền nòi giống Việt Nam về tâm lý và tình ái vì xưa kia không có, nên ngày nay
biến sanh cuộc thảm khốc là không biết phòng ngừa cái lạc hậu xưa kia, nó không
đồng tâm lý, hễ phiền nhau thì sanh ra oán nhau, nếu muốn giải quyết cho họ hết
phiền thì chúng ta có phương thuốc cứu rỗi đôi bên lấy tình hòa ái cùng nhau
lấy nghĩa thâm giao, cùng nhau chia sớt thảm, giục cái tình thân ái sôi nổi
cháy bùng lên, có lẽ đôi đàng sẽ giải quyết sự chiến tranh vô lối, vô giá trị,
vô nghĩa lý, vô ích kia được.
Ngày
mai Bần Ðạo sẽ đem tiếng chuông cảnh tỉnh Bạch Ngọc Chung của Ðức Chí Tôn đến
tại Sài Thành đặng thức tỉnh đôi bên, cho nó nhìn nhận, ngoài ra tình thâm giao
họ lại còn tình cốt nhục, có một tinh thần tạo ra một đại nghiệp trong Cao Ðài.
Bần Ðạo xin thú thật rằng: Cả toàn con cái của Ðức Chí Tôn đừng tưởng Ðạo Cao
Ðài riêng của mình, có thể nói rằng: Chúng ta đi một con đường chí thiện, tâm
lý nhơn sanh, hoạt bát tinh thần, chúng ta đi một con đường mà thương yêu nhau,
đồng chung sớt khổ cho nhau, ấy là cái đại nghiệp nầy nó sẽ làm cái bữu vật
nâng đỡ tinh thần của toàn thế giới đại đồng (Liberté de conscience) cả hai
điều ấy hợp thành là Quốc Ðạo.
Cái
đại nghiệp có tinh thần là Pháp và Nam hiệp trong tình yêu ái tinh thần đó vậy.
Bần Ðạo xin nói lại một lần nữa, Ðạo Cao Ðài nầy là một đại nghiệp không phải
riêng của nước Nam mà thôi, mà có tâm lý hoãn hượt, người Pháp sẽ làm đàn anh
đưa tay ra đó mà giải quyết vấn đề rắc rối mâu thuẩn của Pháp và Nam.
Vậy
ngày mai Bần Ðạo sẽ đi Sàigòn thì toàn Ðạo phải nhứt tâm cầu nguyện, cầu nguyện
sao cho họ mở khiếu linh quang nghe tiếng Hạc Thiêng Liêng nầy, đặng thức tỉnh
cả tâm hồn định quyết vận mạng nước nhà và tương lai của toàn mặt địa cầu mà
chớ.
Q.1/27: Chí Tôn xuống tại thế.
Ðền Thánh, ngày 30 tháng 7 năm
Ðinh Hợi (1947)
Hôm
nay Bần Ðạo giảng về Chí Tôn xuống tại thế.
Giảng
đây nói về sự hiển hiện, một cớ là các báo trên hoàn cầu đã đăng và khi ấy có
Vi Bằng Kiết Chứng, không phải là ngụy biện.
Các
Tôn Giáo bất kỳ ngôn ngữ nào, nếu đề nghị vấn đề ấy tức là nói đến Ðạo Bà La
Môn là một Tôn Giáo tối cổ lấy sự tích Chí Tôn giáng trần lần đầu tiên gọi là
nhứt thế. Chí Tôn là Brama (Tàu dịch là Bà La Môn) đến thành Tibet (Tây Tạng)
khách Tàu gọi là Lama, ấy là một Tôn Giáo tối cổ (Bần Ðạo sẽ thuyết tự nơi xứ
Tibet đến Ðền Lama).
Qua
10.000 năm rồi, Ðức Chí Tôn mỗi 50 năm đến đó một lần đến với hình thể chớ
không phải với chơn linh như Ngài đến với chúng ta ngày nay. Việc nầy đã được
hoàn cầu đăng khắp mặt báo. Khi Ðảng Cộng Sản nổi lên đánh đổ Ðế quyền Nga, các
Vương Hầu Khanh Tướng phần nhiều bị giết. Vị Hoàng Ðế thuộc dòng Bạch Nga bị
Cộng Sản giết trong lúc đảo chánh. Có một vị Hoàng Thân chạy thoát, đến lánh
nạn ở Tibet nhờ lòng đạo đức của dân Tibet (Tibetians), các Quan Công Thần phò
vị Hoàng Thân đến Ðền Thánh Tibet ở trong chỗ mà loài người phần nhiều là đạo
đức, bởi dân Lama Ðạo trị, chớ không phải thế trị. Nhờ Ðức Dalai Lama bảo bọc
nuôi dưỡng. Lòng ái quốc, ưu quân đã giúp vị Hoàng Thân ấy thoát nạn cùng gia
đình thân tộc. Khi đến Ðền Thánh được trọng đãi trong 10 bữa vẫn an vui, nhưng
lòng hoài cố cứ đeo đuổi theo mãi, phần thương Vua, phần nhớ nhà Ngài mới yết
kiến Ðại Sư, Ðức Dalai Lama thấy sắc diện đoán biết tâm bịnh của Ngài, mới ngó
ngay nói rằng: Kỳ Chí Tôn đến ngự như đã hẹn, khuyên Hoàng Thân rán đợi vài
tháng Chí Tôn sẽ đến, nếu các Ngài thấy Chí Tôn, các Ngài sẽ được an ủi lạ
thường.
Mấy
vị Công Hầu ở đó trước hai tháng rồi, có hỏi Ðức Dalai Lama: Chí Tôn đến cách
nào và hình thể Người ra sao? Trả lời: Các Ngài muốn biết cứ đợi đến chừng đó
sẽ thấy, chỉ xin căn dặn các Ngài một điều là chung quanh Ðền Thánh có treo
những Thanh Chung, chừng nào những Thanh Chung đó ré lên một lượt là Chí Tôn
đến vậy. May thay! Ðến ngày mấy vị Vương Hầu vì tánh tọc mạch, muốn biết nên đã
vào chờ trước trong Ðền Thánh. Khi cả thiên hạ vào cúng rồi, thì tất cả Thanh
Chung đều khua tiếng. Các bậc Ðại Sư quì niệm, mấy người kia cũng quì, nhưng cố
lóng tai thì nghe từ ngoài xa dường như có nhiều tiếng chân ngựa chạy có nhịp
nhàng đến trước Ðền thì dứt. Chí Tôn từ từ vào, đến ngồi trên cái Ngai để sẵn
thờ Ngài trong Ðền Thánh. Các vị Công Hầu hết sức kinh khủng, chư vị Ðại Sư thì
quì mọp mà họ chỉ quì nửa chừng, mắt lén dòm theo. Hình ảnh Chí Tôn đẹp đẽ vô cùng
không bút mực nào tả được. Hào quang của Ngài rọi sáng khắp Ðền.
Cứ
thường lệ, mỗi năm chục năm (50 năm) Ngài đến một lần, tiên tri những hành tàng
trong 50 năm sẽ tới. Bài tiên tri ấy Bần Ðạo mới đọc, không nhớ ở trong Cao Ðài
Giáo lý hay sách nào, Bần Ðạo sẽ tìm lại đọc cho toàn Ðạo nghe. Mấy người ấy
thấy Ngài đúng như trong Tờ Kiết Chứng Vi Bằng, nghe tới tiếng Ngài nói, nghe
tới lời Ngài giảng Ðạo. Khi giảng Ðạo rồi, chư vị Ðại Sư bái lễ xong, thì hình
ảnh Chí Tôn biến mất, đồng thời ánh hào quang cũng mất. Những người ấy vẫn chưa
tin, mượn cái đèn đi đến chỗ cái Ngai ngự thì còn thấy dấu ngồi trên nệm nhung,
bởi còn lằn. Chí Tôn đã đến Ðền Thờ đã thờ Ngài 15 ngàn năm trải qua, 10 ngàn
năm Ngài đã ban ơn tại mặt thế nầy. Trên thế giới có ba (3) Ðền Thờ Chí Tôn:
Ðền
Thờ Lama (Tibet).
Ðền
Thờ Rome.
Ðền
Thờ Cao Ðài chúng ta mới lập sau đây.
Ðã
hai ngàn năm Ðền Rome Chí Tôn chưa ngự đến hỏi tại sao? Ta có thể nói tại Rome
thờ không đúng hay chưa đủ Ngươn kỳ cho Ngài giá lâm. Chúng ta để sở vọng ước
ao, nhờ Chí Tôn thường đến với Chơn Thần vô hình dụng Cơ Bút dạy Ðạo tại Ðền
Lama thế nào, thì chúng ta cũng được Ngài ban ơn dường ấy.
Duy
dân Tây Tạng họ được hạnh phúc kiến diện Thiên Nhan còn chúng ta chưa. Ước ao
cả toàn sắc dân yêu ái chơn chánh nhứt tâm nhứt đức giữ hiếu cùng Ngài, giữ
trung cùng Ðạo, may ra sau nầy sẽ có Ngài ngự thì hạnh phúc ấy sẽ ghi tạc sử
xanh, để ngàn đời như Ðền Lama.
Hỏi
ta được ân ấy chăng? Ðược mà kiếp hay chầy do tâm đức các nòi giống Việt Nam.
Giờ nào Chí Tôn đến lập Ðạo với hình thể đó nơi nước Việt Nam thì là ấn trấn
toà tâm hồn của loài người thì mới mong mỏi được hòa bình thế giới, đại đồng
thiên hạ. Ước mong thế nào được mau sớm, người ta đã 15 ngàn năm mới hưởng thì
ta chưa chắc gì đặng hưởng sớm.
Xin
dân Việt Nam mà Ngài nhìn là con yêu dấu của Ngài được đủ đầy đạo đức như dân
Tây Tạng, thì mới đặng đặc ân thâm trọng ấy, nếu không đặng như thế, sẽ trễ
nải, khó thấy được Chí Tôn thì cái hại phân chia nhơn loại còn chịu lâu dài hơn
nữa.
Q.1/28: Ý nghĩa Lễ Nhạc: Nhạc
Tấu Huân Thiên.
Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 8
năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm
nay Bần Ðạo giảng về ý nghĩa Lễ, Nhạc.
Từ
thử ai cũng cho âm thinh, sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Ðạo Nho là Lễ
Nhạc, mà chính Ðạo Tam Kỳ là Nho Tông chuyển thế thì phải truy tầm nguyên lý
của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào? Ðòi phen chúng ta không hiểu được
cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí Tôn lúc Nhạc Tấu Huân Thiên, hết lớp trống,
qua đến đờn bảy bài thì lâu quá có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần
Ðạo cũng vậy, vì nghĩ rằng: Chí Tôn tư vị Quốc Dân Việt Nam nên tiền định chi
chi cũng làm gương mẫu cho toàn đại đồng thế giái, mà có Lễ Nhạc nầy luôn luôn
khi dâng lễ thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải.
Bởi
cớ nên khi mới khai Ðạo, Bần Ðạo đến tại Thánh Thất Thủ Ðức của ông Thơ tạo
lập, Bần Ðạo không tin nên hỏi Ðức Lý Giáo Tông, Ngài dạy rằng: "Trên Ngọc
Hư Cung có hai câu liễn, phía hữu: Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão; phía tả:
Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn". Bần Ðạo cũng không hiểu là gì. Lần lần
Bần Ðạo hỏi nữa, Bần Ðạo lại được dạy mà hiểu rằng: "Kể từ phôi thai Càn
Khôn vạn vật nầy, Chí Tôn, là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí,
hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng âm,
người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Ðạo Phật sửa lại thành Úm (Úm ma ni
bát rị hồng) nhờ tiếng nổ ấy Bát Hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài
người. Tiếng ấy bay ra nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó, tức là có sự
sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi.
Bởi
cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn,
tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu
được, tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát Hồn ấy vận chuyển sống lại
mà đảnh lễ Ðức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Huân Thiên là có âm thinh
sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn qui pháp định, thấy và nghe cả
Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài.
Nên
chi từ đây khi Nhạc Tấu Huân Thiên, chúng ta xem quí hơn dâng Tam Bửu, dầu phải
lở đi nửa chừng trong Ðền Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn
xộn, thì lễ ấy giảm điều kính trọng dâng cho Chí Tôn mà không nên. Khi ấy là
vận chuyển Bát Hồn đảnh lễ Ðức Chí Tôn. Vì cớ Lễ Nhạc hiểu rõ lại thì Chí Tôn
không phải là tư vị nước Việt Nam, mà chính nghĩa là làm cho sống lại Bát Hồn,
và Ngài vẫn vui nhận lễ ấy. Ấy vậy mới có thể làm chủ và làm gương cho toàn
nhơn loại được, thì danh ấy không phải là quá đáng.
Xin
khuyên toàn Ðạo từ đây nên để trọn tâm mà kính trọng khi Nhạc Tấu Huân Thiên.
Nói
về 5 cây nhang, từ thử Bần Ðạo để cho các Nho gia tự do giảng nghĩa sao thì
giảng, còn Bần Ðạo hiểu rõ là Ngũ khí. Chí Tôn dùng Ngũ khí mà biến thành Ngũ
hành vận chuyển cả Càn khôn Thế giới, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi chất
đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí. Mùi vị và sanh quang của nó chúng ta
không thể hưởng được, nghe được. Nên chi, khi làm lễ đốt đủ 5 cây hương là đúng
theo phép tín ngưỡng là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí Tôn
chỉ có người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ khí đó
vậy. Ðúng hơn nữa là trong Bát Hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ khí cùng
một ý nghĩa với "Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn".
Ðạo
Cao Ðài là nền Ðạo qui pháp cả cái sống của Bát Hồn mà dâng lễ trả cái sống khi
mới phôi thai Càn Khôn do nơi hai khối sanh khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng
lễ trọng cho Chí Tôn tức là qui pháp cho khối sanh khí ấy, tức là Chí Tôn vui
và duy nhứt là thấy sự sống trả lại cho Ngài. Toàn Ðạo nên trọn tâm xét hiểu
nhiệm mầu Ðạo lý ấy mà lần lần đạt cho được Chơn pháp của Chí Tôn.
Q.1/29: Mừng Lễ Trung Thu.
Ðêm 14 tháng 8 năm Ðinh Hợi
(1947)
Chúng ta hôm nay ăn Lễ Trung Thu của Phật Mẫu, theo lời dạy của Ðức Lý Giáo
Tông. Nếu lấy theo chơn truyền thì từ Thượng cổ đến nay, tức là hồi Nhứt Kỳ, Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Phật Mẫu tiếp rước tại Diêu Trì Cung lập Hội Bàn Ðào, đãi những người đạt Ðạo trở về cùng Mẹ. Ðạo Sử nói: Phép vào Hội Yến nầy Chí Tôn ban cho những
người ấy.
Phật
Mẫu ban sơ đến Hiệp Thiên Ðài làm Mẹ của chữ Khí tức là khí sanh vạn vật. Lấy
Ngươn pháp trong chữ "Khí" biến thành Càn Khôn Vũ Trụ, chữ Khí tương
quan trong Hiệp Thiên Ðài. Nên Phật Mẫu trước đến tạo Hiệp Thiên Ðài thuộc
Pháp, tức là tòa ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu Trùng Ðài. Người đến gọi
mình là bạn của chúng sanh, tự xưng Thiếp, đem bí mật từ thử chưa ai nghe đối
với Chí Tôn thế nào, nói rõ không kiêng phép Ngọc Hư, vì để tạo gia nghiệp cho
con cái của Người, thì Người có quyền nói không ai cản được nổi.
Buổi
nọ, Ðức Phật Mẫu nói: Ngày nào Bà thân của Ðức Cao Thượng Phẩm qui vị là ngày
ấy thành Ðạo, trước ngày Vía ấy Ðức Phật Mẫu giảng Ðạo có dùng tiếng Mẹ con
xưng hô cùng ta tức là ngày thành Ðạo nhằm Lễ Trung Thu. Trước kia Ðức Lý Giáo
Tông không nói rõ nhưng chúng ta cũng hiểu là: Cao Ðài đã thành Quốc Ðạo.
Trong
giây phút đây Cao Ðài đã được ghi vào Ðạo Sử, toàn nhơn sanh đều thấy Phật Mẫu
đến in ấn Thiêng Liêng định thành nền Quốc Ðạo của chúng ta vậy.
Q.1/30: Cửu Trùng Thiên.
Ngày rằm tháng 8 năm Ðinh
Hợi (1947)
Thưa chư Chức Sắc, Chức Việc, Ðạo
Hữu Nam , Nữ cùng mấy em mấy con.
Cửu Trùng Thiên làm lần nầy là lần thứ nhì, là nơi
Bần Ðạo đã giảng Ðạo hai lần đặc biệt năm 1936 lúc lễ Ðại
Tường Ðức Quyền Giáo Tông, Cửu
Trùng Thiên cốt ý để nghinh tiếp Ngài. Lần tay tính lại đúng 12 năm, Cửu Trùng
Thiên hóa hình một lần nữa là ngày nay. Lần trước
đứng trên Cửu Trùng Thiên Bần Ðạo tiên tri rằng: Trong
tình thân mật của chúng ta sẽ chia lìa nhau và đem chơn giáo của Chí Tôn truyền
bá ra cùng khắp. Trong 12 năm ấy dòm thấy biết bao nhiêu thống khổ khảo Ðạo, đã
gieo vào tâm lý loài người tiến bộ. Buổi tiên tri ly tán
đã có kết quả là 12 năm qua Cửu Trùng Thiên lại xuất hiện, chứng tỏ ngày hội
hiệp của chúng ta là ngày Ðạo Cao Ðài có ảnh hưởng đến vạn quốc, tức là nền
Quốc Ðạo đã thành tướng.
Nói
đến những việc loạn lạc trong nước, những loạn lạc ấy Chí Tôn và các Ðấng đã
tiên tri từ năm 1926 chớ không một ngày một bữa gì. Nói trước là Ðức Lý Giáo
Tông lúc Ngài còn cầm quyền nhiếp chánh oai nghi. Còn nhớ lại Tết năm Mẹo 1927
Ngài về chầu Ngọc Hư Cung nên cấm cơ từ ngày 30 Tết, buổi đó Chức Sắc Thiên
Phong chưa rõ thông nghiêm luật, thường mỗi ngày hội hiệp cùng các Ðấng cũng
như ăn cơm quen bữa, nhịn không được, thấy khao khát cho tinh thần, nên Ðức
Quyền Giáo Tông bảo Bần Ðạo phò loan, Ðức Lý giáng nói mấy điều: Bần Ðạo sẽ trở
lại. Qua ngày mùng một, Ngài giáng trở lại, phạt tất cả. Ngài than: Trọn 7 ngày
quì tại Ngọc Hư Cung xin bớt cái nạn tiêu diệt sắp đến cả toàn cầu, đất Việt
Nam là Thánh Ðịa mà xin không được thay! Chư Ðạo Hữu không biết, Bần Ðạo đã cầu
nguyện 7 ngày, xin cho mấy Châu Thành lớn như: Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Hải Phòng,
Gia Ðịnh, Chợ Lớn mà không đặng. Tội tình nhơn loại gây ra quá dữ thì cũng
đáng! Hội Thánh cũng có phương pháp giải quyết được, Chí Tôn đã nói: Ðạo trễ
một ngày hại cho nhơn sanh chẳng biết bao nhiêu , nếu toàn Chức Sắc biết giúp
tay cho Người, khuyến dạy con cái Người, thì có thể giải quyết được. Hại thay!
Trong 22 năm qua, Hội Thánh chịu bao nhiêu điều thống khổ, phí biết bao nhiêu
sanh mạng vì khảo đảo, tù tội ngục hình, phần thì kiệt lực vì trường trai khổ
hạnh, chư Chức Sắc Thiên Phong không chịu nỗi phải bỏ mình chẳng phải chư Chức
Sắc mà thôi, mà toàn cả con cái của Chí Tôn cũng vậy.
Bần
Ðạo cảm xúc khi nghĩ đến con cái Chí Tôn đã đổ biết bao nhiêu xương máu đặng
tạo nên hình tướng Thánh Thể của Ngài trong giai đoạn 22 năm qua. Nếu Bần Ðạo
làm chứng quả quyết thì phải trừ đi 5 năm 2 tháng Bần Ðạo bị đồ lưu ra hải
ngoại, còn tại nơi Ðền Thánh thì kẻ bị đày đi Côn Nôn, người Sơn La, Lao Bảo.
Trong
cơn ly loạn nầy, con cái Chí Tôn muốn bảo toàn sanh mạng thì phải thí mạng một
phen đổi chết ra sống, đem loạn lạc lại hòa bình, ấy là những Thánh Tử Ðạo và
Bát Quái Ðài đã mua rất mắc cái vẻ vinh quang tận thiện, tận mỹ, đem hình ảnh
Ðạo lại giá trị như xưa, đặng để làm chân tay đi từ Liên Hiệp Quốc Gia đến Liên
Hiệp Ðại Ðồng Thế Giái, gieo truyền chơn lý, khuếch trương chủ nghĩa hòa bình.
Con
đường còn dài, Ðạo đi đã phải lối đến tận thiện tận mỹ, mong sẽ được kết quả mỹ
mãn, đặng làm cho nền Ðạo Cao Ðài ra thiệt tướng.
Cầu
nguyện Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu bảo trọng Thánh Thể của Ngài bớt khổ hạnh, con
đường đi bớt gay trở, hầu đi khắp mặt địa cầu, tạo mối hòa bình đại đồng thế
giới, nếu không được thì cái nạn tàn sát lẫn nhau vẫn còn tiếp tục đó vậy.
Q.1/31: Giải nghĩa Kinh
Phật Mẫu.
Thích nghĩa Kinh Phật Mẫu
tại Ðài Cửu Long (Báo Ân Từ)
4 giờ chiều ngày rằm tháng
8 năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày nay là ngày Ðại Lễ Ðức Diêu Trì Kim Mẫu Bần Ðạo tưởng
cả thảy toàn Ðạo nên biết quyền hành của Phật Mẫu như thế nào? Và tại sao chúng ta thờ Người?
Muốn
biết quyền hành ấy Bần Ðạo phải thuyết minh và giải nghĩa bài Kinh Ðức Phật Mẫu
mà chúng ta thường tụng niệm hằng ngày đó. Trước khi giải nghĩa, Bần Ðạo cũng
nên nói rõ ai đến cho bài Kinh ấy? Cho hồi nào? Và tại nơi đâu?
Kinh
Ðức Phật Mẫu cho tại Kim Biên Tông Ðạo (Cao Miên Quốc) nơi Báo Ân Ðường của hai
vợ chồng Thừa Sử Huỳnh hữu Lợi. Lúc trước chưa có Kinh Phật Mẫu, chúng ta chỉ
biết Phật Mẫu, đến Hiệp Thiên Ðài khai Ðạo Cao Ðài, nhờ thi phú văn tự của Cửu
Vị Tiên Nương cho biết nguyên do đến khai Ðạo, chớ chúng ta chưa biết quyền
hành của Người. Nơi Kim Biên cả Chức Sắc Hội Thánh Ngoại Giáo đều cầu kinh,
khiến khi đó Bần Ðạo đến nhằm lúc cúng Vía Phật Mẫu. Bát Nương đến cầm cơ viết,
chính mình Bần Ðạo phò loan nơi Ðại Ðiện, có nhiều người làm chứng. Có chư Ðạo
Hữu và một người không biết Ðạo là gì là ông Hiếu (kêu Bần Ðạo bằng chú) ngồi
trước sân chơi, thấy tứ phía đều có hào quang giáng hạ xẹt xuống rất ngay Báo
Ân Ðường. Tới chừng trọn bài Kinh rồi, cả thảy đều nói lại không biết cái gì
xẹt khi nãy như sao xẹt qua xẹt lại vậy, không dè trong nhà đương phò loan. Có
cháu của Bần Ðạo và nhiều Ðạo Hữu ở ngoài đều làm chứng quả quyết như vậy. Bây
giờ Bần Ðạo xin giảng từ câu Kinh cho toàn thể hiểu.
"Tạo Hóa Thiên huyền vi
Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu
Trì."
Từng
Trời thứ chín gọi là Cung Tạo Hóa Thiên, có vị cầm quyền năng tạo đoan gọi là
Thiên Hậu, nắm cả Kim Bàn tức là nắm đẳng cấp thiêng liêng điều khiển chơn linh
gọi là Phật Mẫu Diêu Trì. Bên Á Ðông người ta thường kêu Phật Mẫu là Mẹ sanh
thờ bằng cốt tượng, cũng nhờ nơi Cửu Vị Tiên Nương truyền bá còn lưu lại ngày
nay, là bọn đồng cốt, nhờ đồng cốt mà cả Á Ðông đều biết Phật Mẫu là Mẹ sanh
của nhơn loại.
"Sanh quang dưỡng dục quần
nhi,"
Lấy
khí sanh quang (Fluide de vitalité) nuôi nấng con cái của Người tức là vạn
sanh.
"Chơn linh phối nhứt thân vi
Thánh hình."
Chơn
linh của Chí Tôn cho ta hiệp với thi hài là thành thân hình, ta gọi là phách
hay vía, khi thoát xác chơn linh ấy xuất ngoại.
"Thiên Cung xuất vạn linh
tùng pháp,"
Do
nơi Thiên Cung mà ra vạn loại, tức nhiên vạn vật tùng quyền pháp Thiên Cung mà
sanh.
"Hiệp âm dương hữu hạp biến
sanh."
Lấy
âm dương khí hòa hiệp nhau biến hóa ra vạn vật.
"Càn Khôn sản xuất hữu
hình,"
Càn
Khôn trước là không không. Phật Mẫu biến ra cả vạn linh.
"Bát hồn vận chuyển hóa
thành chúng sinh."
Trong
Bát hồn kể Vật chất hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh
hồn, Tiên hồn, Phật hồn do trong Kim Bàn của Phật Mẫu mà ra. Bát đẳng cấp
thiêng liêng chơn hồn vận chuyển biến thành vật chất, thảo mộc, cầm thú và nhơn
loại gọi là chúng sanh.
"Cộng vật loại huyền linh đồ
nghiệp,"
Hiệp
cả thảy loài vật hữu sanh cộng lại làm đại nghiệp của mình, mở một con đường
đặng lập vị cho nhau.
"Lập tam tài định kiếp hòa
căn."
Tam
tài trên kể xuống là: Thiên, Ðịa, Nhơn, dưới kể lên là Người, Ðất, Trời. Phật
Mẫu định kiếp căn của mọi người đã sanh ở cõi trần nầy.
"Chuyển luân định phẩm cao
thăng,"
Sự
luân hồi chuyển kiếp của chúng ta, nẻo sanh tử là con đường đạt vị cao thăng:
Sanh ra đặng trả căn kiếp ở thế gian theo luật nhơn quả, sanh đặng lập nghiệp
đạt vị cũng có, mượn kiếp hữu sanh nầy lập vị cao thăng cũng có.
"Hư Vô Bát Quái trị thần qui
nguyên."
Lấy
khí Hư Vô dựng lò Bát Quái đem linh hồn trở lại cố cũ, Phật Mẫu có quyền hành
đem trở lại cho Chí Tôn.
"Diệt tục kiếp trần duyên
oan trái,"
Nhờ
Phật Mẫu định cho ta trả nợ oan trái, Phật Mẫu có quyền sửa cải kiếp luân hồi
định cho ta lập công mà trả quả.
"Chưởng đào tiên thủ giải
trường tồn."
Nơi
Diêu Trì Cung, Phật Mẫu trụ sanh quang lại thành một khối gọi là quả đào tiên,
đủ phép sống vĩnh viễn trường tồn nơi cõi Hư linh. Phật Mẫu cầm quyền phép hườn
chơn thần cho ta đạt kiếp nơi cửa Hư Linh.
"Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn,
Chí công định vị vĩnh tồn Thiên
cung."
Nghiệp
quả của chúng ta, do Phật Mẫu tạo thành, Phật Mẫu lại đem ta trả về cựu nghiệp,
còn Chí Tôn do cựu nghiệp ấy mà định vị.
"Chủ âm quang thường tùng
Thiên mạng,
Ðộ chơn thần nhứt vãng nhứt
lai."
Chủ
âm quang là nơi địa giới, chia ranh Ðịa Ngục với Thiên Ðàng, tùng mạng lịnh Chí
Tôn, Phật Mẫu giữ gìn chơn thần của chúng ta, đem ta đến đem ta về.
"Siêu thăng Phụng Liễn qui
khai,"
Siêu
thăng thì ta nhờ cái xe Tiên là xe Phụng Liễn mà mở cửa đi về.
"Tiên cung Phật xứ Cao Ðài
xướng danh."
Nơi
Tiên Cung xứ Phật Ðức Cao Ðài kêu danh hiệu đều phải tùng quyền lực Phật Mẫu độ
rỗi.
"Hội Ngươn hữu Chí linh huấn
chúng,"
Thượng
Ngươn qua Trung Ngươn, qua Hạ Ngươn rồi trở lại Nhứt Ngươn nữa gọi là Hội
Ngươn. Nay Hạ Ngươn tam chuyển hầu dứt, bắt đầu Thượng Ngươn tứ chuyển, Chí Tôn
đến giáo hóa chúng sanh.
"Ðại Long Hoa nhơn chủng hòa
ki (cơ)."
Ðại
Long Hoa đã tiên tri là: Hội ân xá cho các đẳng chơn hồn, không phân chia chủng
tộc, nòi giống, hiệp nhau làm một.
"Tam Kỳ khai hiệp
Thiên thi,
Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật
duyên."
Tam Kỳ Phổ Ðộ mở ra đúng với Thiên thơ tiền định mở hội thi cho các
Tiên gia thọ khoa mục đạt Phật vị.
"Trung khổ hải độ thuyền Bát
Nhã,
Phước từ bi giải quả trừ
căn."
Phật
Mẫu đem thuyền Bát Nhã độ các chơn hồn qua khỏi biển trần ai, trên thì Chí Tôn
nhỏ phước, vì lòng từ bi giải quả báo, diệt tội căn.
"Hườn hồn chuyển đọa vi
thăng,"
Hườn
hồn của chúng sanh bị tiêu hủy cầu siêu được phục sanh lại, cải đọa ra thăng.
"Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn
Chưởng Âm."
Cửu
vị Tiên Nương trở lại thì Phật Mẫu Kim Bàn chưởng quản bầy Âm linh.
"Thập Thiên Can bao hàm vạn
tượng,
Tùng Ðịa Chi hóa trưởng Càn
Khôn."
Mười
Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, hiệp với 12
Ðịa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, biến
hóa ra hình tướng bao la Càn Khôn Thế Giới, làm cho Thế giới rộng lớn thêm lên.
"Trùng hườn phục vị Thiên
môn,"
Cho
trở lại quê xưa vị cũ là về nơi cửa Trời.
"Ngươn linh hóa chủng quỉ
hồn nhứt thăng."
Các
chơn linh có thể hóa ra nhiều nữa, tức là biến thân có thể đạt pháp cao siêu
được là giáng linh đặng lập vị, còn quỉ hồn cũng được thăng, được đi cùng đường
với Thần, Thánh, Tiên, Phật mà tạo kiếp.
"Vô siêu đọa quả căn hữu
pháp,"
Không
siêu không đọa, căn quả đều có giới định.
"Vô khổ hình nhơn kiếp lưu
oan.
Vô địa ngục, vô quỉ quan,"
Không
còn khổ hình nữa, Phật Mẫu diệt tiêu oan nghiệt cửa địa ngục, bỏ quỉ quan không
có nữa.
"Chí Tôn đại xá nhứt trường
qui nguyên."
Vì chữ đại xá nên Ðạo Cao
Ðài gọi là 3è Amnistie de Dieu en Orient. Chí Tôn ân xá tội tình đem cả con cái
về hiệp một cùng Ngài.
"Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc,
Ðộ anh nhi Nam, Bắc, Ðông, Tây."
Chiếu theo lịnh dạy của
Ðức Chí Tôn, Từ Huyên là Mẹ sanh của chúng ta, thọ sắc độ rỗi vạn linh tứ
hướng, tức là con cái của Ngài không bỏ sót một ai.
"Kỳ khai tạo nhứt linh đài,
Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng."
Kỳ
khai Ðại Ðạo Tam Kỳ tạo một Linh đài qui tụ tín ngưỡng của toàn nhơn loại, đủ
quyền năng tiêu diệt tà pháp đặng đem nhơn loại đến đại đồng.
"Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng
mạch,"
Hiệp
nhơn sanh làm một nhà, Ðạo sẽ duy nhứt, vạn loại sẽ là một khối, không phân
biệt quốc gia chủng tộc, tôn giáo, ngày nao được như vậy là ngày đó hòa bình
thế giới được. (La religion sera une, le monde sera un, l'humanité sera une, une en nation,
en race et en religion).
"Qui thiên lương quyết sách vận trù."
Phật
Mẫu qui thiên lương của con cái của Người, điều độ những người tâm thiện.
"Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Du,
Hiệp qui Tam Giáo hữu cầu Chí
chơn."
Lấy
triết lý của Tam Giáo: Xuân Thu tiêu biểu cho Ðạo Thánh, Phất Chủ cho Ðạo Tiên,
Bát Du Ðạo Phật, gom góp cả ba lại làm một chơn pháp của Người.
"Phục nguyên nhơn hườn tồn
Phật tánh,
Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu
duyên."
Ðem
Phật tánh lại cho các bậc nguyên nhân, nguyên nhân là các chơn hồn Chí Tôn sai
xuống làm bạn đặng độ rỗi chúng sanh, vì họ mê luyến hồng trần, nên Chí Tôn đem
Phật tánh phổ hóa họ, nhờ đó họ trở lại quê xưa. Phỏng định 100 ức Nguyên nhân:
Phật Tổ độ đặng 6 ức, Lão Tử 2 ức, còn lại 92 ức vẫn còn đọa lạc. Phật Mẫu đến
giáo hóa định duyên định phận cho họ.
"Trụ căn quỉ khí cửu tuyền,
Quảng khai thiên thượng tạo quyền
chí công."
Cả
quỉ hồn, Phật Mẫu trụ nó lại tuyền đài, mở rộng cửa Trời đặng thật hành quyền
Chí Tôn tại thế.
"Lịnh Mẫu Hậu khai tông định
Ðạo,"
Mẫu
Hậu là Diêu Trì Kim Mẫu hay là Thiên Hậu Thánh Mẫu Ngài đến mở Tôn Giáo định
Ðạo cho chúng ta.
"Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn
hài.
Càn khôn Tạo hóa sánh tài,"
Ðã
sanh lại dưỡng đặng bảo đảm hình hài thì ơn ấy quá trọng, sánh bằng Càn Khôn
Thế Giái.
"Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài
mộ khang."
Mai
chiều chúng ta đến thăm viếng Ðức Mẹ như Từ thân chúng ta vậy, mộ khang là: đến
thăm mai chiều gọi là vấn an Ðức Mẹ đó vậy.
"Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo
Hóa Huyền Thiên cảm bái,
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi năng hỉ xả,
Thiên Hậu Chí Tôn đại bi đại ái."
Người
cầm quyền năng tạo cả Càn Khôn Thế Giới gọi là Thiên Hậu Chí Tôn là Ðức Diêu
Trì Kim Mẫu đại từ bi bác ái.
Theo
Bí Pháp Chơn Truyền của cơ sanh hóa phải có đủ âm dương, trong sanh quang chúng
ta có điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn
Giáo nào có đủ âm dương thì mới vĩnh cữu.
Như
Ðức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh Giá đầu thuận lên trên
gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là Ðệ nhứt Tông Ðồ bị đóng đinh trở ngược
lại, gọi là phản âm. Âm dương tương hiệp đúng theo Bí Pháp, nên Ðạo Thánh lưu
truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng.
Chí
Tôn có thể sai con của Người đến lập Ðạo như: Thích Ca, Jésus, Khổng
Tử...v.v... Trái lại Người đã xuất nguyên linh của Người đến đây độ chúng ta,
thì tưởng điều ấy trọng yếu hơn hết, khi mở Ðạo Cao Ðài Chí Tôn định cho Phật
Mẫu đến làm bạn với chúng ta, bảo trọng nuôi nấng dạy dỗ chúng ta, thì không có
ân đức nào bằng, vì không ai biết thương con hơn là Mẹ. Phật Mẫu đến cầm quyền
lập Ðạo xong, rồi giao lại cho Chí Tôn. Phật Mẫu làm chủ Âm quang, Chí Tôn là
chủ Dương quang. Âm Dương tương hiệp, Ðạo Cao Ðài nương theo năng lực của hai
khối Âm Dương đó. Ðối với năng lực tạo đoan Càn Khôn Thế Giới thế nào, thì Ðạo
Cao Ðài ngày kia sẽ có năng lực như thế đó.
Phụ ghi:
Câu: Hiệp âm dương hữu hạp biến
sanh.
Nguyên bản chánh in là:
Hiệp âm dương hữu hiệp biến sanh.
Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo ấn bản
năm Ất mão 1975 in là:
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Kinh Lễ in là:
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.
Câu: Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sinh.
Nguyên bản chánh in là:
Bát hồn vận chuyển hóa thành
chúng sanh.
Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo ấn bản
năm Ất mão 1975 in là:
Bát hồn vận chuyển hóa thành
chúng sinh.
Kinh Lễ in là:
Bát hồn vận chuyển hóa thành
chúng sinh.
Câu: Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn,
Nguyên bản chánh in là:
Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn,
Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo
ấn bản năm Ất mão 1975 in là:
Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Kinh Lễ in là:
Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn,
Câu: Trùng hườn phục vị Thiên môn,
Nguyên bản chánh in là:
Tuần hườn phục vị Thiên môn,
Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo ấn bản
năm Ất mão 1975 in là:
Trùng hườn phục vị Thiên môn,
Kinh Lễ in là:
Trùng hườn phục vị Thiên môn,
Câu: Phục
nguyên nhơn hườn tồn Phật tánh,
Nguyên
bản chánh in là:
Phục
nguyên nhơn hườn hồn Phật tánh,
Kinh
Thiên Ðạo và Thế Ðạo ấn bản năm Ất mão 1975 in là:
Phục
nguyên nhơn hườn tồn Phật tánh,
Kinh
Lễ in là:
Phục
nguyên nhơn hườn tồn Phật tánh,
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét