Lời Thuyết Ðạo Của Ðức Hộ Pháp - Toàn Tập 9


Q. 3/10: TÒA THÁNH LÀ TẤM GƯƠNG SOI RỌI ĐỨC TIN.
Tại Đền Thánh đêm 1 tháng 7 năm Kỷ Sửu (1949)

Đêm nay cũng khá đông nhưng Bần Đạo để đợi đôi ba phen coi thử, nếu quả như con cái Đức Chí Tôn siêng năng biết lo liệu học hỏi đạo đức, Bần Đạo sẽ thuyết về bí pháp, để đợi kỳ giảng nữa coi. Bần Đạo thuyết về Tòa Thánh
đối với Chi Phái Đạo, và các Đảng Phái Đời. Chúng ta đã đến giai đoạn phải ra gánh vác đảm nhiệm trọng trách đặng nâng đời, đặng dung hòa các Tôn giáo, đảm nhiệm ấy không dễ gì làm, nếu tinh thần chúng ta không quyết đoán định phận mình cho quả quyết, vả chăng Tòa Thánh là nơi Thánh Thể Đức Chí Tôn, cầm quyền Đạo Giáo, về mặt Đạo giá trị của nó thiên hạ định đặng là do nơi hành tàng của toàn thể con cái Đức Chí Tôn, tức toàn Thánh Thể của Ngài vậy.

Bần Đạo còn nhớ lại buổi mới mở Đạo tại Tây Ninh nầy, về một lời quả quyết của Đức Chí Tôn, đã hứa với chúng sanh Ngài quyết hẳn rằng: Chi chi cũng tại Tây Ninh nầy mà thôi, bất kỳ dầu thể pháp hay là bí pháp, dầu cả hình trạng Đạo Giáo hay tướng diện của nền Tôn Giáo của Ngài xuất hiện đều do nơi nầy mà thôi.
Buổi ấy ai cũng phân vân, Bần Đạo cũng vậy, mà chắc con cái Đức Chí Tôn cũng như Bần Đạo, buổi nọ nền chơn truyền của Chí Tôn chưa ra thiệt tướng, bởi xuất hiện nhằm thời buổi đó, khó mà định hình thể được là vì quyền đời đương cường liệt ép bức, về quyền Đạo các nền Tôn Giáo đương thời đủ năng lực đủ oai quyền có thể diệt tiêu nó đặng mà chớ, lại nữa cả con cái Ngài buổi nọ không bao nhiêu, Đạo mới mở ra nên còn thiểu số, phần nhiều là những kẻ thường nhơn nghèo khó mấy tay cầm giềng mối Đạo buổi ban sơ cũng bơ vơ không biết lập phận mình, chính Bần Đạo buổi nọ khi nghe Đức Chí Tôn nói chi chi cũng tại Tòa Thánh nầy mà thôi, ngó lại thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong, xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi đi, thật vậy họ đuổi đi phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ, như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước trốn mà đi, một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo, bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo nghiệp, Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã biết bao xương máu.

Lớp nào còn sống thì làm nô lệ cho Đời đặng tạo nghiệp cho Đạo, hình trạng thành tướng ngày nay là do giọt máu mồ hôi nước mắt của con cái Chí Tôn, tạo ra đó vậy, vì cớ, buổi ban sơ Đạo hèn hạ bị ép bức hiếp đáp, đời kiếm thế ra trước luật hình nên mới có tấn tuồng chi phái nổi lên đủ thứ hết, mấy người biết chi phái ấy là gì không? Là những kẻ chạy non, Bần Đạo muốn nói những kẻ đó, đã chạy, mình cầm lại sao đặng, chạy đi đâu thì chạy. Họ tạo ra chi phái, họ nói quả quyết ông Trời ở đây không phải ông Trời của họ. Họ nhứt định tạo ra một ông Trời riêng rồi sau đến mình phải chịu đóng cửa đặng cho thiên hạ quên thị nhục chưởi mắng, đóng cửa đặng đào tạo những em út có tâm hồn nhẫn nại, ngày nay nghiệp Đạo ra thế nầy ngó lại 24 năm mấy em làm xong chuyện đó, nghiệp Đạo giờ phút nầy đã cao trọng rồi đa, đã quá lằng mực thiên hạ khi rẻ, dường như đã đến đài vinh quang, đài vinh quang ấy tưởng lập ra vững chắc rồi không còn sợ ai nữa, chẳng những không sợ mà thôi mà có thể làm chủ của Đời và Đạo nữa. Mấy em, Bần Đạo đứng trước giảng đài nầy thừa lịnh Đức Chí Tôn, làm Anh cả mấy em để lời tâm huyết dặn rằng: Buổi mấy em bị áp bức mấy em sợ phải bảo vệ tức là phải tranh đấu, giờ phút nầy mấy em mạnh rồi có đủ oai quyền đủ năng lực nên bỏ phương pháp tranh đấu ấy đi, trải lớp từ bi ra đặng độ thế. Qua cho mấy em biết đại nghiệp của Đạo, ngày nay đáng làm anh, làm chủ được thiên hạ, không cần tranh đấu nữa, lấy từ bi mà đối với Đảng Phái một lỗi hai lầm, ngày nay ăn năn trở lại mấy em nhớ rằng Đền Thờ nầy là Đền Thờ chung của toàn con cái Đức Chí Tôn, không phải của riêng mấy em tuy hữu công đào tạo, nhưng không phải mấy em làm chủ, toàn con cái Đức Chí Tôn làm chủ, người ta về đừng có bạc đãi khi rẻ mích lòng Đức Chí Tôn, trái ngược lại nam cũng vậy, nữ cũng vậy, lấy tình ái vô cực của Đức Chí Tôn, lấy hình ảnh Đại Từ Bi an ủi họ, nhường nơi ăn chỗ ở cho họ, đặng họ cứu vãng chúng sanh về phần hồn ấy là lời tâm huyết. Qua cầu xin nơi mấy em đối với các Đảng Phái Quốc Sự. Đạo của mấy em như: cây cao mát mẻ, như nước suối trong veo tinh khiết, họ cũng muốn trú ngụ cho mát mẻ tâm hồn, họ đến nương bóng nơi mấy em đặng lập thanh danh của họ, mấy em nên từ bi, bác ái, nâng đỡ họ, cả em út can đảm hy sinh mạng sống để bảo vệ tài lợi của họ không kể công, họ đến nương Đạo với sự che chở của mấy em, mấy em cho họ nương đặng cho họ lập thân danh họ sẽ giúp lại mấy em tạo thời cải thế, đừng có bạc bẽo với họ, nương dựa một ngày một bữa hay bao lâu, uống nước phải biết nhơn biết nghĩa cho họ hiểu. Dầu Đế Vương chi nghiệp không giữ nhơn đạo thì không giá trị gì hết, biểu họ coi gương mấy em đối với họ thế nào thì Tòa Thánh đối với chúng sanh giờ nầy cũng thế, giờ phút nầy họ hân hạnh, tinh thần nhân đạo ngày kia họ sẽ mưu ích lợi cho thân danh họ.

Q. 3/11: ĐỨC THƯỢNG ĐẾ ĐẾN CÙNG CON CÁI NGƯỜI ĐỜI ĐỜI
Tại Đền Thánh ngày rằm tháng 7 năm Kỷ sửu (1949)

Đêm nay Bần Đạo lấy làm vui thấy kỳ đàn này được đông đảo, ít ra phải sốt sắng như vầy, chớ nếu ba kỳ lễ mà ai cũng siêng năng thì Bần Đạo sẽ khởi giảng Bí Pháp, kỳ nầy mới có hai còn giảng một kỳ thứ ba.

Hôm nay Bần Đạo giảng vấn đề trọng yếu với thời buổi nầy cốt ý để con cái Đức Chí Tôn biết lập trường của mình đối với cơ thể đời, đương nhiên trong giờ phút khó khăn nầy là Đạo Cao Đài đối với Quốc Tế tức đối với Vạn Quốc.

Vả chăng, con cái Đức Chí Tôn, nam nữ nhỏ lớn chán hiểu rằng Đạo Cao Đài không những một Tôn Giáo mà thôi, nó là Tôn Giáo trên các nền Tôn Giáo, không phải Đạo mà thôi mà là Đạo Cao Đài, tiếng Đại Đạo không phải chúng ta muốn mà đặng, chính Đức Chí Tôn muốn mới đặng.

Từ trước đến giờ toàn nhơn sanh không biết Đại Đạo là gì? Ngài để trong tay chúng sanh đặng chăng mấy ngàn năm rồi, ngày nay Ngài đến, con cái Đức Chí Tôn đều biết rằng nền Đại Đạo nầy chính tay Đức Chí Tôn sáng lập, chính Hộ Pháp giáng trần cầm quyền Bí Pháp. Bần Đạo nhớ một nền Tôn Giáo, như Đạo Thiên Chúa khi Đức Jésus Christ ban quyền cho ông Thánh Pierre, nói trước một câu, đã lập quyền cho Thiên Chúa Giáo khoảng 2.000 năm không có quyền nào đánh đổ cho nao núng. Đức Chúa Jésus hỏi các môn đệ vậy chớ Saint Jean Baptiste là ai? Các môn đệ trả lời là Ông Thánh tiên tri. Đức Chúa hỏi ta là ai? Các môn đệ đều nói: Chúa là Ông Thánh tiên tri như Ông Saint Jean Baptiste, chỉ có Ông Thánh Pierre nói: thiên hạ nói chi thì nói, ta đây quả quyết Chúa là Đấng Chúa cứu thế, là Chí Tôn giáng sanh vậy. Đức Chúa Jésus dạy các môn đệ Ngài trước mặt Ông Pierre, phần điều ấy không phải xác thịt nầy nói, của chính nguơn linh nầy nói. Tên Pierre, nghĩa là đá, trên cục đá nầy ta tạo đền thờ của ta, cửa địa ngục kia không qua đặng, ấy vậy Đức Chúa Jésus đã đưa cho Ông Thánh Pierre mà đến giờ phút nầy chưa có quyền nào làm cho nao núng vẫn còn tồn tại mãi.

Đạo Cao Đài ngày nay do Đức Chí Tôn đến, Ngài nói ta đến ở cùng các ngươi, ta sống cùng các ngươi, ta đem chơn pháp đến cho các ngươi đặng giải thoát, ta sẽ tận độ chúng sanh cứu vớt chúng sanh một lần nữa, ta quyết định ở với con cái ta đời đời chẳng cùng đến thất ức niên. Ngài ở với con cái của Ngài nên Ngài mới đến mà thôi, các lương sanh tức là các chơn hồn, hữu căn hữu kiếp đã tiền căn ở nơi Ngài mà ra, nơi thân hình thiêng liêng vô tận của Ngài mà đến gồm lại làm Thánh Thể của Ngài tức là Hội Thánh ngày nay vậy. Ngài hứa với con cái Ngài đời đời kiếp kiếp. Thử hỏi câu ấy của Đức Chí Tôn đối với nền Tôn Giáo nầy có thể sánh quyền hành Đức Chúa Jésus Christ ban cho Ông Thánh buổi nọ với Ngài đến ban cho ta, ta cần coi trọng khinh thể nào thì biết nền Đạo Cao Đài thực hiện Trời Người hiệp một đồng trị mới có cơ quan giải thoát chúng sanh đặng. Đạo Cao Đài là trên hết các Tôn Giáo như trên đã nói thì phải thế nào, phải chi Thánh Thể Chí Tôn phải thật hiện là Ông Trời tại thế gian nầy.

Làm Ông Trời không phải dễ làm, có làm Ông Trời đặng mới có phương dìu dắt toàn cả con cái Đức Chí Tôn đến đại đồng thế giái đặng thiên hạ mơ ước, thiên hạ đã ngưỡng vọng, thiên hạ đã tin cậy, giờ phút nầy đã thấy Vạn Quốc nhứt là ở Âu Châu, muốn đi tìm tới con đường giải thoát, con đường ấy tranh đấu tàn hại. Giặc giả chiến tranh nguyên do thế nào? Nguyên do tại tinh thần nhơn sanh ngày nay bất nhứt thất lạc tức nhiên tinh thần hết vi chủ rồi, giờ nầy nhơn loại khắp hoàn cầu tự nạp mình vào vòng nô lệ cho xác thân mà nó tham muốn tàn ác, với xác thịt ta không thể làm thỏa mãn đặng, họ sợ lắm, họ sợ cái xác thịt họ biết tinh thần, biết quyền hành của đạo vi chủ họ, biết giờ nầy xác thịt vi chủ sẽ dắt họ xô đẩy đến cảnh tự diệt, trước mắt họ sợ lắm. Mà hại thay! Họ sợ giặc rồi bí quyết của họ là tăng cường tức là làm cho tột bực cường liệt, họ dùng binh khí vô cùng tàn ác tưởng bảo vệ hòa bình, ai ngờ trái ngược lại ta không thế gì lấy khôn ngoan tưởng tượng được, sợ giặc lại muốn giặc, sợ chết họ lại tầm phương chết, lấy phương pháp chết mà tìm sống tìm sao đặng? Tại sao? Giờ phút nầy đại chiến thứ ba xảy tới là do mất tín nhiệm với nhau mà có giặc thất tín, nhơn loại đã thất tín với nhau nhiều rồi, vô đạo đức nhiều rồi, nên có phương pháp chân đạo, có tâm tình chơn chất chính nơi cửa Đạo có phương pháp giải thoát dễ dàng.

Hại thay! Họ lẩn quẩn không ngó ra bởi Vạn Quốc không ai tin ai cả, ta thấy nơi gia đình từ lời nói con cái tới lời nói của cha mẹ làm họ không tín nhiệm nhau, huống chi là toàn cầu. Một gia đình mà không chuẩn thằng, không có Đạo Giáo kềm giữ, gia pháp cho công chánh, yêu ái. Gia đình còn loạn lạc thay, huống chi là toàn cầu trong giờ nầy xã hội tạo nhiều lẽ bất công đối với nhơn loại vì muôn ngàn thế kỷ tạo sự bất công càng chồng chất nhơn tâm bất nhứt lẽ bất công càng ngày càng thêm, không thấy giảm, biểu sao không phát ra phản động lực để phản đối sự bất lực của xã hội, nên mới có tấn tuồng thống khổ tương tàn tương sát. Chủng tộc khác với nhau tương tàn đã đành, đến cùng chung chủng tộc còn sát hại nhau vì cớ có cơ quan tự diệt.

Ngày giờ nào Đạo Cao Đài đủ quyền năng tinh thần đem công chánh và yêu ái làm thuốc trị bịnh, bịnh ấy tưởng đã bất trị, ngày ấy mới hòa bình thiên hạ và đại đồng thế giới, ta tự hỏi: Đạo Cao Đài làm đặng chớ? Hiện giờ các nước nào cũng tìm giữ linh hồn các bậc tài tình thượng lưu trí thức thông minh. Thấy nguy hiểm tưởng tượng lại tìm phương giải ách họ đang tìm như thầy bói mò. Cách tìm phương giải thoát chúng sanh giờ phút nầy Bần Đạo lấy làm hân hạnh thấy Đạo Cao Đài đưa ra cho họ thấy tuy vẫn ước mơ, mắt họ dòm thấy tượng hình cứu khổ giải thoát của nó. Thiên hạ đã thấy, Bần Đạo chắc con đường đi đến sẽ cứu thiên hạ và giải thoát có ngày quyết dọn cho họ đi đến, duy có điều trọng yếu là Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải làm sao đáng Ông Trời tại thế nầy mới được.
Q. 3/12: CÔNG NGHIỆP CỦA ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG.
Tại Đền Thánh đêm 18 tháng Tám Kỷ Sửu (1949)
(Vía ĐỨC LÝ ĐẠI TIÊN)

Đêm nay ngày Vía Đức Lý Đại Tiên, tức nhiên Đấng cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Thiên Cung. Bần Đạo giảng giải nhơn dịp ngày lễ của Ngài, Bần Đạo cũng nên nhắc công nghiệp của Ngài, đã cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm, còn phải chịu vì Đạo, buộc mình kiêm luôn chức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là anh cả toàn Thánh Thể của Đức Chí Tôn.

Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ nền Đạo mới phôi thai nền chính trị Đạo không có chi hết. Bần Đạo đã bị uy quyền ép chế thành thử buổi ấy chưa biết giá trị của mình lãnh sứ mạng nơi Đức Chí Tôn là gì hết, mà dám chịu lãnh quyền tước, khi chịu mang cái quyền tước trong mình thì thời buổi không có làm gì được hết.

Vì buổi ấy Đạo còn yếu ớt, non nớt bạc nhược, chẳng có đem lại mảy may năng lực gì cả, biết bao phen Đức Lý Đại Tiên giáo hóa khuyên lơn. Ngài chỉ có để lời ngọt dịu dạy bảo khuyên răn. Thánh Giáo dẫy đầy mà họ không biết tìm hiểu gì hết, chính mình họ, họ cũng không biết giá trị của họ là gì, Ngài đến cầm quyền định Đạo. Ngài cầm quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm. Vì thương Đức Chí Tôn nồng nàn đáo để mà vâng lịnh của Ngài cầm quyền Giáo Tông Đại Đạo mà hễ động đến vị Chức Sắc Thiên Phong, nam nữ nào thì Đức Chí Tôn than phiền, trách trừng răn biểu mình đừng làm chinh lòng với nhau. Thánh Giáo Đức Chí Tôn không coi mà cứ toàn mưu phá Đạo, hiện giờ có vài vị Chức Sắc Bần Đạo không nói tên, nghe lời Đức Lý răn phạt thì Đức Chí Tôn buồn, đến đổi Ngài hờn mà làm bài thi như vầy:
Con khổ mà cha sướng đặng nào,
Ai từng cắt ruột lại không đau.
Chia quyền lại sợ quyền chia lại,
Muốn liệng cho xa mảnh đế bào.

Vì giận Đức Lý rầy phạt một mình con thảm Ngài sướng đặng sao. Thật sự Bần Đạo biết thời buổi ấy Đức Chí Tôn và Anh Cả chúng ta bất hòa với nhau. Bần Đạo buổi nọ không biết gì hết, chưa biết phận sự mình là gì không biết làm sao ra cho thật hiện được, không biết quyền hành gì hết, duy có biết lý thuyết chớ không biết thi thố gì được cả.

Buổi nọ Đức Chí Tôn sợ Bần Đạo nghe lời theo Đức Lý mỗi phen chấp bút thì Ngài đều can gián. Chi chi con cũng nghe lời Thầy, đừng có nghe Thái Bạch nghe con. Khi đó rất đáo để cho Bần Đạo nếu không nghe lời Ngài, để vậy mãi, thì tiêu diệt không thể tránh khỏi, nhứt là nội loạn, còn ngoài thì Đảng Phái phá rối nền chơn pháp của Đức Chí Tôn, Ngài đến chỉ cho Bần Đạo thấy cái cảnh nguy biến của nền Đạo như thế đó. Cảnh tượng của mỗi người như thế đó. Ngài biểu Bần Đạo phải nghe lời Ngài thì mới cứu vãn tình thế, bằng không thì tiêu diệt nền chánh trị Đạo buổi đó, có mạnh mẽ duy nhứt nào cả, bên nầy là lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, bên kia là lời dạy của Anh Cả, hai bên không biết đường nào mà đi, làm cho Bần Đạo ngơ ngẩn trong 6 tháng trường, cứ thơ thẩn đi tới đi lui nơi rừng thiên nhiên mà suy nghĩ, làm cho Bần Đạo bối rối cả đầu óc.

Đức Lý đến chỉ công chuyện như vầy rồi thăng, kế Đức Chí Tôn đến biểu đừng nghe lời, làm Bần Đạo lưng chừng, túng thế, Ngài nắm Bần Đạo ngồi trên bàn từ 9 giờ tối đến 4 giờ khuya, Ngài không cho đi đâu hết, buộc phải nghe lời Ngài viết nói đủ lẽ nguy tướng của Đạo, nếu không quyết định thì đi khỏi nền Đạo Cao Đài trước tốt hơn. Bần Đạo thấy chỉ đủ lý lẽ quả nhiên buộc phải nghe lời, nghe lời rồi Ngài mừng quá nhiều, mà Bần Đạo không hiểu không biết tại sao Ngài mừng, vì nghe lời thọ pháp quyền năng thiêng liêng đó vậy.

Trong đó có 3 Đài, có ba người chủ nắm vững.
1. - Bát Quái Đài, dưới quyền Đức Chí Tôn, Ngài Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn Linh, chính Ông chủ Bát Quái Đài là Đức Chí Tôn.
2. - Cửu Trùng Đài là quyền Giáo Tông làm chủ Hội Thánh.
3. - Hiệp Thiên Đài là quyền Hộ Pháp làm chủ.

Ba Ông chủ ấy, có hai Ông nầy, Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, nếu riêng ra không có thể gì dâng sớ cho Bát Quái Đài, tức nhiên quyền Chí Tôn ở nơi Bát Quái Đài, hai Đài Cửu Trùng và Hiệp Thiên hiệp nhứt là quyền Chí Tôn tại thế nầy, không có một quyền nào cai quản cãi qua quyền Bát Quái Đài được.

Có lần Bần Đạo nghe lời Đức Lý thì Đại Từ Phụ thất vọng thấy tội nghiệp Ngài quá đổi, Đức Đại Từ Phụ tính không thể gì bảo trọng mấy đứa kia được, biết Đức Lý nhứt định đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn Giáo, Đại Từ Phụ biết không thể gì không biến sanh chi phái, nếu nẩy sanh chi phái rồi thì không phương cứu vãn và trị loạn được, thì nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn không có giá trị gì hết, Bần Đạo vừa nghe lời Đức Lý, Đức Chí Tôn không đến chừng ba tháng. Khi Đức Chí Tôn giáng cho làm lễ đăng điện tái quyền Giáo Tông lại chính mình Ngài đòi Đức Lý đến, Đức Lý xin từ chức Giáo Tông. Ôi thôi! Buổi ấy rất biến đổi, đến chừng Ngài triệu hồi Đức Lý trở lại, rồi Đức Chí Tôn không thể gì phản kháng với Ngài nữa Ngài thường nhắc cả toàn Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm lễ đăng điện cho long trọng khi Ngài tái nhậm phận sự rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết: Tôi tưởng không có vị Vua Chúa nào viết được bài diễn văn như Ngài; trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có 4 câu thi của Ngài rất ngộ nghĩnh.
"Cửu tử kim triêu đắc phục hườn,
Hạnh phùng Thiên mạng đạo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử,
Tử giả hà tồn chủ "tịch hương".

"Cửu tử kim triêu đắc phục hườn" là cảnh trần ta chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn.

"Hạnh phùng Thiên mạng đạo khai nguơn" là còn hạnh phúc đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần Đạo đã thuyết cuối Hạ nguơn tam chuyển khởi Thượng nguơn tứ chuyển Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ.

Bần Đạo dám chắc rằng: Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được, Ngài đến đặng mở Thượng ngươn tứ chuyễn.

"Thế trung kỵ tử hà tri tử" thế gian sợ chết mà không biết cái chết là gì, chính Ngài hỏi rồi nói.

"Tử giả hà tồn chủ tịch hương" là tịch của nữ phái, nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của nữ phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế gian nầy chi?

Bây giờ nói đến quyền hạn của Ngài, chính tay Ngài cầm bút viết :
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng vưng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân.

"Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch" là buổi Thái Cực vừa nổ hiện ra ánh sáng Thái Cực, chính là Ngài, duy Đức Chí Tôn cầm pháp, xin cả thảy nhớ nghe khi Đức Chí Tôn cầm pháp hiện ra hai lằn Hạo nhiên khí đụng lại với nhau nổ, tức nhiên trái khối lửa đó tạo Càn Khôn Vũ Trụ ánh sáng Thái Cực đó là Ngài.

"Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu" là các cung đẩu trên mặt địa cầu nầy đều hưởng ánh sáng ấy, mà chính ánh sáng vi chủ và điều khiển là Ngài.
"Quyền năng vưng thửa Thiên Triều" là quyền năng vưng lịnh của Thiên điều.
"Càn Khôn thế giái dắt dìu Tinh Quân" là các cung đẩu trong Càn Khôn thế giái nầy có Ngài vi chủ hết thảy.

Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Đường triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường Canh trích tử đến thăm trần,
Động đình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Đảo Câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.

"Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần" là Ngài đoạt ngôi vị cùng quyền hành của Ngài có sắc phong thiệt hiện hồi đời Phong Thần.

"Cho đến Đường triều mới biến thân" là đến đời Đường Ngài mới biến thân.

"Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế" là vì nguyên linh ấy cầm quyền trị thế.
"Trường Canh Trích Tử đến thăm trần"
"Động Đình thi rượu đong muôn đấu"

là nơi Động Đình hỏi đến Ngài thì thiên hạ đều biết danh Ngài hết.
"Bồng Đảo Câu Tiên nắm một cần" là nơi Bồng Đảo Ngài cầm Thiên Thai cho Khổng Giáo.
"Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế" là buổi Đại Đạo Tam Kỳ khai mở đây Ngài thọ lịnh Ngọc Hư đến trị Đạo.
"Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân" là (92) chín mươi hai ức nguyên nhân, thì Tam Kỳ này Ngài độ rỗi.

Bần Đạo quên nói cái tiên tri của Ngài rất ngộ nghĩnh, thời buổi ấy Ngài đến dạy biểu Bần Đạo nghe lời, nếu hiền hữu không nghe lời, ngày kia cái tai họa ấy tiêu diệt hay đoạt Đạo thì hiền hữu gánh trách nhiệm ấy nặng nề trước cả. Bần Đạo buổi nọ không hiểu gì cả. Bần Đạo nói toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn cả triệu con người cớ sao một mình Bần Đạo gánh vác. Nói tiên tri ấy là thời giờ Ngài giao quyền Giáo Tông nầy cho Bần Đạo chưởng quản luôn Cửu Trùng Đài, nếu không nghe lời thì Bần Đạo gánh hết. Nếu không nghe lời Ngài buổi nọ thì gánh nầy giao lại cho ai? Như giờ phút nầy có nên bỏ, chớ không thể sống với Đạo.

Bần Đạo xin nói thế gian nầy cầm quyền trị cơ quan chính trị đạo nào hay định luật trước dưới Bát Đạo Nghị Định lập nên chính trị của nước như Ngài, Bần Đạo chưa ngó thấy Đức Lý ra Bát Đạo Nghị Định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn sùng đáng kính, đáng sợ quá đổi Đấng cứu Đạo như thế, Bần Đạo cũng khen kính Người ấy cho đến ngày tận thế.

Nếu nền Đạo Cao Đài còn mãi mãi thì công nghiệp Đức Lý Giáo Tông vẫn còn tồn tại trong tâm trí nhơn sanh luôn luôn.

Q. 3/13: TRIẾT LÝ TRỜI NGƯỜI ĐỒNG TRỊ.
Tại Đền Thánh đêm 27 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1949)
(Vía Đức KHỔNG PHU TỬ)

Hôm nay ngày lễ của Đức Khổng Phu Tử, tức là Đức Đại Thần Chư Thánh Văn Tuyên Vương chuyển giáo đạo Nho. Đạo sử của Ngài Bần Đạo đã thường thuyết lập đi lập lại không ít, vì đêm nay là ngày lễ của Ngài, Bần Đạo thuyết về triết lý Trời Người đồng trị.

Chúng ta đã ngó thấy Ngài là tiền bối của Đức Chúa Jésus Christ mà Ngài ít đặng hạnh phúc hơn Jésus Christ; năm trăm (500) năm về trước cái thuyết của Ngài, tâm lý nhơn loại buổi ấy chưa có nạp dụng đặng, lại nữa Ngài đến cái danh từ một nhà triết lý mà thôi. Ngài không có hân hạnh không có can đảm đến với danh từ con cái Đức Chí Tôn cũng như Jésus Christ, vì cớ lý thuyết vẫn có một, nhưng giáo đạo của Ngài không có hạnh phúc hơn Jésus Christ đó vậy. Ngài chỉ có làm chứng rằng có một Đấng thống trị cả Càn Khôn thế giái, đấng ấy Ngài để danh hiệu là "Nhứt Đại" mà thôi, tức nhiên là "Thiên" mà Ngài không nói ra như Jésus Christ. Ngài chỉ làm chứng rằng có một đấng tối cao mà thôi, thất bại của Ngài là vì lẽ đó. Đắc thế của Jésus Christ nói quả quyết nhơn loại có Ông Cha, mà Ông Cha ấy là Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ đắc thế của Jésus Christ là vậy.

Nếu chúng ta biết lấy theo triết lý học thì chúng ta nên lấy cái gương của một nhà đại gia tư tưởng, nhà đại gia triết lý học là Descartes người nói: "Je pense donc je suis" (tôi tưởng là tôi có vậy) con người là một động vật ở nơi mặt địa cầu nầy, chúng ta ngó thấy hiện hữu phải vận hành phải xao động, bởi nó là động vật, nó phải hoạt động, nếu không hoạt động thì chết. Trong cơn đương hoạt động có hai phần đặc biệt:

1. - Hoạt động về thi hài xác thịt, tức nhiên như thân thể chúng ta giờ phút nầy vậy, mỗi ngày chúng ta phải hoạt động mới có sống, bằng không hoạt động thì chết luật Tạo Đoan quả nhiên vậy.

2 . - Còn cái hoạt động nữa, hoạt động vô hình chúng ta không thể thấy được mà chúng ta nhìn quả quyết có hoạt động về tinh thần trí thức. Vì cớ hai cái hoạt động của con người chia ra hai phần.
1 . Hoạt động về phần Đời
2 . Hoạt động về phần Đạo.

Là vì cái thi hài phàm tục này nó là con vật, nó phải hoạt động theo con vật, hoạt động theo giác thể của nó, nó chưa có biết hoạt động theo chơn linh. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn tạo nên hình tướng nó, để tạo nơi mình nó. Ngài còn sắp đặt một kỷ cương để cho tinh thần nó vi chủ hình hài của nó, còn để cho thân thể nó vi chủ tâm hồn của nó, nó sẽ ngây cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự diệt nó mà thôi. Bởi vậy chúng ta ngó thấy hai phần Đạo đặc biệt ấy, chúng ta buộc phải nhìn về phần Đời chúng ta, chúng ta phải chung sống cùng xã hội nhơn quần, tức nhiên sống theo khuôn khổ quốc gia dân tộc ấy, nên luật khuôn khổ quyết định hơn hết. Nếu trên cái sống ấy, sống theo trên kia chúng ta thấy, chúng ta phải nhìn có một đấng cầm quyền trị về phần tâm hồn, trí não chúng ta. Đấng đến giờ phút này đến ở cùng chúng ta, nhìn chúng ta là con cái của Ngài, Ngài đến với một danh từ là Thầy của chúng ta, mà chẳng phải làm Thầy mà thôi, còn làm Cha nữa.

Chúng ta tưởng tượng lụng lại, để tinh thần bình tĩnh suy xét từ thử đến giờ coi các sắc dân nào trên mặt địa cầu nầy đặng hạnh phúc dường ấy chăng?

Hai ngàn năm về trước Đức Khổng Phu Tử đến tạo Đạo không đạt được thuyết quý báu cao trọng ấy, cũng do nơi duyên cớ, chúng ta tưởng Ngài đến tình cờ, không có gì là tình cờ trên mặt địa cầu này hết, không phải tình cờ mà Ngài đến.

Ngài đến trong đời chiến quốc tức nhiên trong buổi ly loạn (không có buổi nào trên mặt địa cầu này chịu ly loạn bằng nước Trung Hoa buổi nọ) đời chiến quốc Ngài đến trong buổi ly loạn, thiên hạ đương chiến đấu với nhau, giành phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục quốc phân tranh không ai nhường ai, tranh sống với nhau một cách kịch liệt Ngài mới đến. Ấy vậy Ngài đến không phải tình cờ, nếu chúng ta tưởng tình cờ thì đấng cầm cân Thiêng Liêng nơi cõi Hư Linh hằng sống chẳng có hay sao? Bằng cớ hiển nhiên là Chúa Jésus Christ cũng đến lập Đạo của Đức Chí Tôn như Ngài trong buổi loạn ly. Buổi mà La Mã làm bá chủ, các sắc dân bị chinh phục quật cường chiến đấu để giải ách nô lệ của mình, buổi ấy cũng là chiến quốc vậy. Hai người đến không phải là tình cờ mà đến đâu. Cũng một thuyết với nhau đem Đạo Lý cứu vãn nhơn loại, mỗi phen nhơn loại chịu thống khổ về tâm não dường nào thì có Đấng Từ Bi độ tận đưa tay ra cứu với họ luôn luôn, đặng mà cứu khổ, nhơn loại mãi mãi không bao giờ sơ sót hết, chúng ta quan sát tận tường thời buổi nào, các vị Giáo chủ đến giáo đạo đều có lý do hết.

Nếu như không có Đấng cầm quyền năng trị tâm lý tinh thần nhơn loại thì chưa chắc có ai làm nổi. Cái thi hài của nhơn loại tức nhiên thân thể còn tồn tại được để quyết định tương lai của nhơn loại đương nhiên, hai cái lý thuyết duy tâm và duy vật. Ngày giờ nào hai thuyết ấy tương hòa đặng thì chúng ta ngó thấy cơ quan giải thoát đặng. Ngày giờ nào Người, Trời hiệp một cùng nhau đồng trị với nhau tức nhiên Người trị thế, Trời trị hồn.

Hai Đấng cầm quyền thế gian này cõi Hư Linh hằng sống hiệp với nhơn loại mới được hạnh phúc, tương lai mới được vững chắc và tồn tại.

Bằng chẳng vậy con đường chiến đấu đặng sống của họ, họ sẽ xô đẩy họ đến con đường tự diệt.
Q. 3/14: LỄ VÍA ĐỨC PHẬT TỔ THÍCH CA MÂU NI VÀ BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH.
Tại Đền Thánh đêm 7 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1949)

Đêm nay là Vía Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni mà cũng là ngày vía Chị Cả của chúng ta là Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền định mà Bà Nữ Đầu Sư qui liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích Ca. Theo Bần Đạo hiểu biết tưởng những người ái mộ Đạo Phật nồng nàn hơn hết. Chúng ta có thể nói rằng: Bà Đầu Sư cũng là người đứng trong đầu sổ của thiên hạ vậy. Trước ngày Đức Chí Tôn chưa mở Đạo, Bà Đầu Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng của Người thuật lại với Bần Đạo. Từ bé Người đã để tâm ham mộ Đạo Phật không biết có quyền năng lạ lùng của Đức Chí Tôn tiền định hay chăng, mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giái, Đức Chí Tôn là Phật vị nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng nàn. Khi Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài tức nhiên Phật Giáo chấn hưng đó vậy.

Ngày nay là lễ của Đức Phật Thích Ca và của Chị chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu nguyện chơn linh của Ngài và của Bà tức nhiên là Long Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí mật ấy.

Bà Nữ Đầu Sư, Chơn Linh Long Nữ, Long Nữ là ai? Thật ra là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy. Bần Đạo hiểu về cái thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng yếu vâng lịnh của Đức Di Lặc Vương Phật Chưởng Quản điều khiển Bát Nhã Thuyền, vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không có thể giáng trần được, chính mình Long Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn Linh, các cung các điện và Hộ Pháp đặng mở nền Chánh Giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ Vạn Linh tạo cơ giải thoát.

Hôm nay là ngày Vía Phật Thích Ca, chúng ta cũng nên hiểu triết lý cao siêu của Đức Phật Thích Ca, Ngài đã đạt đặng và đã truyền giáo, theo nền Tôn Giáo của nhà Phật là nền Tôn Giáo tối cổ, Bần Đạo thường thuyết, loài người vừa đến mặt thế nầy thì đã có Phật nơi mình rồi. Chính Đức Phật Thích Ca đã chịu ảnh hưởng Phật Giáo ấy và chính chơn linh của Ngài có sứ mạng đến đặng độ bá ức Nguyên nhân qui hồi cựu vị. Ngài vì sứ mạng ấy mà Ngài phải tìm cho hiểu biết cơ quan giải thoát ấy phải định phương nào cho đạt được. Tại sao các nguyên nhân không qui hồi cựu vị? Vì lẽ gì có sứ mạng đem cơ giải thoát đưa nơi tay bá ức nguyên nhân cho họ đạt vị? Ngài tìm thế nào triết lý cho nhơn sanh khỏi bị đọa lạc. Ngài hiểu rằng: Tứ Diệu Đề làm cho các nguyên nhân phải đọa lạc không giải thoát đặng, Ngài để cơ quan giải khổ tức nhiên thoát "Tứ Diệu Đề" vì cớ cho nên triết lý cao siêu của Ngài tính sau này tìm cái phương pháp bá ức nguyên nhân đạt pháp đặng qui hồi cựu vị mà thôi, theo Bần Đạo đã biết, đã hiểu Ngài định hạ trần đầu kiếp cho vật loại tạo cái tam thập lục phẩm Liên Hoa của Ngài.

Tôi tưởng các vị Phật nơi Niết Bàn đã tạo nơi Kim Tự Tháp, dầu có bực cao siêu hơn Ngài là Đấng Di Đà đi nữa cũng chưa bằng bằng từng Liên Hoa chót của Ngài, nó vinh diệu làm sao đâu. Tôi dám chắc chưa có vị Phật nào có can đảm tạo được nhứt phẩm Liên Hoa tốt đẹp như từng chót hết của Ngài. Bần Đạo dám chắc còn lâu lắm Ngài mới đến viếng mặt thế gian này vì Ngài đã sợ sệt, đã gớm ghiết hơn ai hết. Ngài tạo phẩm Liên Hoa chót của Ngài rồi thôi. Vinh diệu là biết bao nhiêu, vì khổ ấy mới đoạt được vinh diệu.

Hại thay! Những người không có đoạt được cái huyền vi bí mật tạo đoan, đạt Đạo họ tưởng dễ lắm, dễ dàng lắm, họ tưởng một cái ăn, cái ở mà họ đạt được. Cái oái oăm đó bởi tinh thần người se sua mơ mộng lầm tưởng nội cái ăn cái ở, lại làm màu mè bao nhiêu đó đủ đạt Đạo.

Coi lụng lại kiếp sống của Phật Thích Ca, năm đạt đạo có 32 tuổi mà thôi, Ngài đạt coi dễ dàng chớ không phải như thuyết mơ mộng của nhơn loại, ta thường thấy Ngài không cần gì, Ngài đã dày sành đạp sỏi trong kiếp sanh đã chịu khổ hạnh cho tới 82 tuổi. Cái năm chót của Ngài 82 tuổi mà Ngài còn truyền giáo, buổi qui vị của Ngài mà còn truyền giáo Ngài không có ở cảnh Chùa nào hay mảnh đất nào mà thiên hạ đã hiến cho Ngài. Ngài chết giữa hai cội Bồ Đề buổi Ngài 82 tuổi mà Ngài không có nghỉ, mỗi ngày ôm bình Bát Du đi xin cơm nuôi trẻ khó tật nguyền khổ não. Đức Phật Thích Ca đã chịu bao nhiêu khổ hạnh, phản phúc đủ điều, các môn đệ của Ngài khổ hạnh là đi xin ăn mà sống. Bần Đạo không tả nhiều, ai cũng biết cái cảnh ôm bình Bát Du đi xin ăn có đủ no không? Các môn đệ của Ngài đã chịu khổ hạnh quá, khi tới bên xứ Bénarès dân đó ăn cá, chỉ có cá với cơm, có vị môn đệ yêu ái nhứt của Ngài là Vadatha ăn trường chay, cái thuyết của Ngài là cái thuyết ăn chay cao siêu Vadatha ăn trường chay, nghĩ một điều là trên sáu ngàn môn đệ đi đến đâu đều ăn xin của thiên hạ, ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy.

Đến xứ Bénarès thiên hạ cho ăn cá, người môn đệ Vadatha nói nếu ăn cá thì không phải là Phật, nếu phải dùng theo luật buộc cả thảy đều ăn là được, Đức Phật Thích Ca cho ăn thì người môn đệ Vadatha xúi giục môn đồ của Ngài chia ra dắt đi một mớ, lập phe phân phái làm phản lại với Phật Thích Ca, như nạn Cao Đài đã bị tấn tuồng không có gì hết mà sanh ra phản Đạo, lập ra chi phái giết Đạo.

Một buổi trưa Ngài đang tham thiền nhập định tại chơn núi, chính Vadatha lăn đá xuống để cho Ngài chết, một vị Phật chẳng lẽ chết "bất đắc kỳ tử" như thế được, nên khiến một cây cản lại có miểng văng rớt xuống trúng chơn trái của Ngài đổ máu, Ngài giựt mình ngước mặt lên thấy Vadatha ở trên núi. Đức Phật Thích ca nói: Sao dám làm đổ máu nhà Phật; có lời nói làm cho nhà Phật đổ máu mà Vadatha phải chết, nòi giống của Vadatha phải tiêu tàn, vì Vadatha giết Phật chẳng kể gì sự sống của Phật.

Ngộ nghĩnh thay! Bên xứ Jérusalem là dân bất động "Juif" tức nhiên dân Do Thái giết Đức Chúa Jésus Christ đã phân định tội tình, nước người phái chịu điêu tàn, nòi giống người phải chịu lưu xứ. Quốc Thể các người không còn. Ngày giờ nào các người lập lại Tổ Quốc các người là ngày tận thế. Tiếng tận thế của Thiên Chúa Giáo, ngộ nghĩnh thay sự tình cờ mà chúng ta nên để ý. Ngày nay Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài thì dân Do Thái phục quốc lại, dân bất động đặng huờn nguyên ấy là ngày ân xá của Đức Chí Tôn cho đám tội nhơn đứng đầu của nhơn loại là dân Do Thái là dân bất động. Chúng ta suy nghĩ bao nhiêu đó, chúng ta thấy Đức Chí Tôn lập nền Tôn Giáo của Ngài đặng độ tận chúng sanh, quả nhiên có hiển hiện trước mắt chúng ta đã thấy đó.

Bần Đạo nói tiên tri rằng: Làm như thế dân Do Thái lập quốc, mình cũng như dân "Intouchable" nó sẽ qui nguyên của nó lại, vì nó đã đặng ân xá của Đức Chí Tôn, cả hình phạt ấy do Đức Phật Thích Ca định nó cũng như dân Do Thái bị Đức Chúa Jésus Christ định án nó mà nó đã được ân xá, coi lời nói của Ngài hứa, đã thi hành đó, nếu ai còn mơ hồ nữa chết không còn hồn vậy.

Vì cơ quan tận độ chúng sanh Đức Chí Tôn đến lập thành quả nhiên cơ quan ấy hiện hữu hiển nhiên, nếu chúng ta không tưởng tới, ngày kia về Bạch Ngọc Kinh không còn hồn, chừng đó người ta vạch ra không thế mình gian lận được.

Hạnh phúc thay cho nhơn loại! Hạnh phúc thay cho các đẳng chơn hồn có duyên phần mộ đạo, gặp buổi Đức Chí Tôn đến ở chung cùng mình, nếu không giải thoát được, Bần Đạo chưa dám chắc trái Địa Cầu nầy phải chuyển kiếp lần thứ ba nữa cho thoát khỏi nghiệp chướng đặng qui hồi cựu vị.

Q. 3/15: Ý NGHĨA SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI.
Tại Đền Thánh đêm 30 tháng 10 năm Kỷ Sửu (1949)

Đêm nay Bần Đạo đình thuyết Bí Pháp, cái nguyên do thế nào Bần Đạo xin minh biện ra. Vã chăng, chúng ta đương ở trong hoàn cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết duy tâm và duy vật đương chiến đấu với nhau, chúng ta dầu Chức Sắc Thiên Phong hay là mấy em nam nữ cũng thế, là một phần tử trong Thánh Thể Đức Chí Tôn. Ngài đã tạo tinh thần chúng ta, vì sự thương yêu của Ngài, Ngài lập thiên vị tại thế này cho con cái thương yêu của Ngài, Ngài biểu chúng ta ký hòa ước với Ngài, để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ bi công chánh của Ngài, đối với Vạn Linh, tức nhiên chúng ta phải thay thế hình ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn Linh hiệp với Chí Linh, tức nhiên Ngài cho ta cái sứ mạng để dung hòa Đời với Đạo.

Cái lý thuyết duy vật, là cái lý thuyết sống của đời, còn cái lý thuyết duy tâm phải chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt duy tâm thì mới phải, bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay thế vi chủ của duy tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé duy tâm hơn hết, vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí Linh kia giữ công chánh đặng dung hòa tinh thần Đời với Đạo, vì mức công chánh ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.

Chúng ta tìm tàng, chúng ta định lụng lại, là có cái lý do này, Đạo Cao Đài không cần dùng mê tín dị đoan là cho sự tín ngưỡng đặng mạnh mẽ của nó. Chúng ta không cần trái ngược lụng lại, đem hết triết lý chơn thật để lại thế nầy mà thôi. Bởi vì dối trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo Đoan nghiêng ngữa. Chúng ta không cần xu hướng, theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu diệt cái dối trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta đương làm trung gian giữa Đạo và Đời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê tín dị đoan để làm khiếp phục đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh thần loài người điên đảo, một trường ngôn luận xù xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên hạ đang tính tạo thành một phản động lực đặng làm mất giá trị của nền chơn giáo Đức Chí Tôn. Bần Đạo nói thật, muốn đánh tiêu cả sự dối trá, gian ngược ấy, chẳng phải dễ, người có thể làm cho thiên hạ mê tín dị đoan được là Bần Đạo, mà Bần Đạo không làm. Bởi vì Bần Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo đức, Bần Đạo chỉ lấy một triết lý chơn thật của Đức Chí Tôn để giáo đạo cho con cái của Ngài mà thôi.

Bần Đạo duy muốn làm bạn với con cái Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức Chí Tôn để cho Bần Đạo, mà Bần Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy mê tín dị đoan trong cửa Đạo Cao Đài không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại bí pháp chơn truyền, nếu thuyết ra là lấy cái quyền năng mê tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần Đạo không dùng, để khi nào dùng được Bần Đạo sẽ dùng. Bần Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái Đức Chí Tôn mà thôi.

Bây giờ Bần Đạo xin thuyết "Ý vị và ý nghĩa lý sống của con người". Vã chăng, chúng ta đến với một phần xác ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống của nó có ý vị gì? Đã sanh đứng làm người sống tại mặt thế gian nầy, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng Cổ đến giờ tinh thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các hình tướng, các nền Đạo, các Tôn giáo.

Chúng ta quan sát cả triết lý của cái sống phải có lý do nào? Sống đương nhiên của chúng ta có hai cái sống.

1. - Sống về vật chất, mà nói rõ ra sống về phương pháp thú chất.
2. - Sống về tinh thần, tức nhiên sống về phương pháp hiển hách, anh linh của nó, chúng ta thấy có hai cái quyền năng ấy, nó tương tranh với nhau mãi mà thôi. Vì cớ cho nên mới nảy sanh ra thuyết duy tâm và duy vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch sử của loài người, thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải "Connais-toi, toi-même" Nghĩa là: "Người biết người hơn hết". Mình muốn biết mình đặng chi? Đặng tìm hiểu cho thấu đáo cái nghĩa lý sống của mình.

Chúng ta ngó thấy Thượng Cổ, bực cổ nhân, nhứt là hạng vĩ nhân. Dân Âu Châu thì có Socrate cũng trong thời đại nhơn sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, cái thuyết làm cho phản động lực coi Ngài như kẻ thù nghịch đến nước, cái quyền năng buổi nọ coi mạnh mẽ thế nào? định tử hình Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự tử. Khi giam Ngài trong ngục, Ngài có phương thế hội đàm với các nhà triết học. Tới giờ chúng đem chén thuốc độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống. Ngài bưng chén thuốc độc ấy để từ giả các bạn của Ngài mà Ngài nói như chơi vậy.

Ngài nói: "Tôi biết rằng: Ngoài cơ thể Tạo Đoan của đời nầy nó còn có cơ quan vô hình tối trọng kia, tôi đã quả quyết rằng có, thì cái chết nầy ta mong lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền triết được làm bạn với họ thì có gì hơn" Nói rồi: Ngài bưng chén thuốc độc Ngài uống.

Giờ chết của Ngài, giờ ngặt mình của Ngài thì môn đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu? hay sẽ làm gì ?". Ngài cười nói: "Ta chưa biết, ta sẽ làm chúa cả cơ thể Tạo Đoan nầy, để điều đình cả cơ quan vĩ đại của Càn Khôn Vũ Trụ hay ta sẽ làm chơn của con châu chấu, dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì, thì ta làm cái nấy". Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.

Đức Lão Tử khi đạt được bí mật của Bát Quái Đồ rồi, Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn Lôn Sơn mà an nghỉ, môn đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn Lôn Sơn để làm gì? Có hạnh phúc hay không? Ngài trả lời: "Duy có cái biết của ta mà nó làm cho ta có cái thú vị sống đặc biệt riêng, không cần nói rõ hạnh phúc ấy ra thế nào? Nhưng ta chỉ nói rằng: cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú vị an ủi của cái sống ấy".

Đức Khổng Phu Tử từ giả quan trường về giáo Đạo cho các môn đệ của Ngài, thiên hạ gọi là vô phước, mà cảnh thiệt vô phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên, và lúc châu lưu trong lục quốc.

Bây giờ Ngài về sống với thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ của Ngài, là Ngài hạnh phúc hơn hết, vì Ngài biết thú vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi.

Giờ trái ngược lại, sống chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần Thủy Hoàng, sống như Sở Bá Vương, hai tay trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh thần dân chúng buổi nọ, vị Chúa của họ sanh sát tàn ác không có điều chi mà họ không làm, quyền hành của họ tàn sát lắm.

Cái sống của Tần Thủy Hoàng thế nào? Dòm lụng lại, thấy cái chết của Ngài, Ngài than: Cái tài tình thâu cả nghiệp Đế ta thắng được, duy có cái chết ta thắng không được, vì thế mới cho người đi kiếm thuốc trường sinh bất tử, mê tín đến nước người ta cho ăn dái ngựa mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.

Nả Phá Luân đã được cơ hội làm nên nghiệp đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn dân Âu Châu, các nước chư hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Le Saint Hélène.

Ông vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis (XIV) thiên hạ hồi thế kỷ đó cho Ông là vua Trời "Le Roi Soleil" cả thiên hạ đều tùng phục, kính trọng, kiêng nể, Âu Châu buổi nọ, có thể nói Ngài là một Vị Bá Chủ của thiên hạ, không có cái gì mà anh ta không có, "Phú Hữu Tứ Hải" sang trọng vô biên có một điều là đền Vua của Ngài "Palais Louis XIV quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi. Ngài than rằng: Hại thay! Hoàng Thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.

Chức vị sang trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như cá Ông không ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.

Hai cái sống đặc biệt ấy là cái sống duy vật và duy tâm. Bần Đạo tả ra cho con cái Đức Chí Tôn mỗi người lấy đó mà suy gẫm.

Q. 3/16: CÁI HIẾU CỦA ĐỨC JÉSUS ĐỐI VỚI ĐỨC CHÍ TÔN VÀ CÁI NGHĨA CỦA ĐỨC CHÍ TÔN ĐỐI LẠI VỚI NGÀI.
Tại Đền Thánh đêm 24 tháng 12 năm 1949 (âl. Kỷ Sửu)

Đêm nay một đêm kỷ niệm Jésus Christ tức nhiên là Phật Christna giáng sanh bên Âu Châu mở Đạo. Thường năm hễ đến lễ Giáng Sanh này thì Đạo Cao Đài chúng ta vẫn tôn sùng Giáo Chủ Gia Tô cũng như Vị Phật của chúng ta vậy, chúng ta coi Ngài cũng như một Vị Giáo Chủ của một nền Tôn Giáo đương nhiên đã để tại mặt thế này. Âu Châu văn minh cầm quyền thiên hạ gần có ba trăm triệu năm (300.000.000).

Thường năm Bần Đạo thuyết minh cái lịch sử của Ngài lập đi lập lại cũng thừa. Vậy hôm nay Bần Đạo chỉ thuyết cái hiếu của Ngài đối với Đức Chí Tôn và cái nghĩa của Đức Chí Tôn đối lại với Ngài. Chúng ta sẽ ngó thấy và đã ngó thấy một cái gương "Phụ từ tử hiếu" nơi mặt thế này chưa hề có.

Khi Đức Chúa Jésus Christ, tức nhiên Chúa Jésus đến thọ pháp giải oan nơi tay Ông Saint Jean Baptist, giải oan cho Ngài tại bờ sông Jourdais. Khi Ngài thọ pháp vừa rồi thì liền có đạo hào quang hiện giữa không trung chiếu diệu ngay đầu của Ngài, tượng hình ba con bồ câu trắng và giữa không trung nghe lời nói rằng: Này đứa con yêu dấu của ta, ta đã tín nhiệm nơi con đó. Đức Chúa Jésus Christ trong buổi ấy đã được Đại Từ Phụ nhìn nhận là con yêu dấu của Ngài, vì cớ cho nên Ngài có quyền xưng là con của Đức Chí Tôn, Ngài có quyền kêu Đức Chí Tôn bằng cha, đã chẳng phải Ngài dụng quyền ấy mà thôi, Ngài lại còn muốn toàn thể nhơn loại hưởng đặc ân được làm con của Đức Chí Tôn như Ngài, vì cớ cho nên Đạo Thiên Chúa đã truyền bá toàn mặt địa cầu này.

Chúng ta đã ngó thấy 3 năm Ngài hành Đạo, Ngài đã bị cái quyền Đạo Giáo, tức nhiên với cái quyền lực của Moïse khủng bố bắt buộc chẳng khác nào như chúng ta đã bị, mà Thiên Chúa Giáo cũng vẫn bị khảo dượt mãi thôi, giờ phút này cũng chưa dứt khủng bố bắt Đạo và bắt Ngài do toàn quyền Hérode Antipas của Nước Palestine xử tử Ngài.

Chúng ta ngó thấy thời buổi ấy gần ngày lễ trọng hệ của đạo Polse, ngay lễ ấy người tù nhân được tha án tử hình, trong hai người: Tướng cướp giết người cướp của tàn hại nhơn sanh không biết là bao nhiêu, bị án tử hình đem ra giữa quốc dân Juifs, tức nhiên dân Do Thái, trong hai người này, cướp của sát nhân là Baraba, còn Jésus Christ chúng lên án "mê hoặc quốc dân phiến loạn". Hỏi vậy quốc dân muốn tha ai, dân Do Thái nói tha Baraba, giết Jésus Christ.

Ba năm truyền bá có lẽ chúng ta ngó thấy thế nào. Trong ba năm truyền giáo không lâu, giữa nước Israel buổi nọ bị thâu chiếm thuộc địa do dân Romain tức nhiên dân La Mã. Sự truyền giáo của Ngài không có đắc lực mảy may nào cả, nên buổi ấy đã lên án Ngài là kẻ trộm, kẻ cướp đồng án với kẻ sát nhơn, nên đóng đinh Ngài lên cây Thánh Giá như kẻ tội nhơn tử hình kia vậy.

Trong Đạo Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tôi gian dối, nói rằng: Ngài mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá, Ngài chết như thế ấy, nếu không phải con mắt Thiêng Liêng oai quyền của Đức Chí Tôn thì cái chết của Jésus Christ mai một mờ ám mà thôi, không có cái gì gọi là chí Thánh cả, không phải vậy Đức Chí Tôn đã hứa, đã nhìn nhận là con và chính mình Ngài đã ở trọn hiếu cùng hy sinh tánh mạng của mình làm cho danh của Đức Chí Tôn cao trọng, và làm cho nhơn loại đặng hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn chan rưới, làm con cái của Ngài biết cái hiếu của Jésus Christ đối với Đức Chí Tôn từ thử đến giờ chưa có một vị Giáo Chủ nào đã làm.(*1)

Giờ chót, chúng đem lên đóng đinh trên cây thập tự giá gần trút linh hồn mà khát nước làm sao, vì bị chúng bỏ đói bỏ khát. Ngài biết bây giờ xin nước uống, chúng nó sẽ cho uống mật đắng, mà bây giờ khát nước quá không thể nhịn được nữa mới xin nước uống, nó liền lấy bông đá nhúng trong chén mật đắng đưa cho Ngài uống, Ngài uống mật đắng, ấy đặng lãnh phần khổ não của nhơn loại. Khi uống rồi ngước mặt lên không trung Ngài kêu Cha nói: Con đã làm xong phận sự của Cha phú thác, vậy xin dâng linh hồn của con trong tay Cha, vừa nói đến đó thì vừa tắt hơi.

Cái hiếu của Ngài đến giờ chót đối với Đức Chí Tôn đã trọn, còn Đức Chí Tôn, nếu không phải giữ "Nghĩa" với đứa con yêu dấu con hiếu hạnh của Ngài, thì cái chết của Jésus Christ bất quá như kẻ tù nhơn chết mà thôi, có đâu lên phẩm vị Giáo Chủ ngồi trên ngai Thiêng Liêng vô cùng quí báu trên mặt địa cầu nầy gần hai ngàn năm (2.000) tức nhiên (1949) một ngàn chín trăm bốn mươi chín. Trong lúc Đức Chúa Jésus Christ làm con hiếu hạnh có ba năm mà thôi, mà Đức Chí Tôn trả lại cái danh dự sang trọng cho Ngài đến một ngàn chín trăm bốn mươi chín năm là năm nay. Bài học ấy nó sẽ quí báu cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn đương nhiên ngồi trong lòng Ngài, bây giờ nói toàn thể chúng ta đây không lẽ không có một người hiếu hạnh như Đức Chúa Jésus Christ đối với Đức Chí Tôn.

Bần Đạo để dấu hỏi? Nếu có một người hiếu hạnh với Đức Chí Tôn như Jésus Christ thì toàn thể con cái của Ngài có hạnh phúc lắm, có người như vậy thì nhơn loại sẽ thế nào?

Bần Đạo để cho toàn thể con cái Ngài tìm hiểu, kiếm hiểu, và làm cho đặng như vậy thì hạnh phúc cho nhơn loại không thể gì tả đặng.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đọan thứ 7: Trong Đạo Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tôi gian dối, nói rằng: Ngài mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá,... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Trong Đạo Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tội gian dối, nói rằng: Ngài mê hoặc con cái Juifs nên bị án tử hình đóng đinh trên cây thập tự giá,... ...
Q.  3/17: TINH THẦN THƯỢNG VÕ CỦA CHƯ LIỆT THÁNH.
Tại Đại Đồng Xã ngày 25 tháng chạp năm Kỷ Sửu (1949)

Trước Bần Đạo để lời cám ơn Chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hội Thánh Phước Thiện, Quân Đội và toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, nam nữ có mặt tại đây để làm lễ truy diệu các vong linh của chiến sĩ anh dũng ngày hôm nay.

Bần Đạo là một vị Giáo Chủ tưởng chẳng cần minh bạch nói thẳng thắng ra cho toàn thể điều biết cái khối thương tâm của Bần Đạo thế nào, mỗi người đã cân lường nó.

Trót hai mươi bảy năm trường, nói rõ ra là từ khi mới mở Đạo, đi theo cái bóng vô hình của Đức Chí Tôn, lãnh một sứ mạng thiêng liêng đem nền chơn giáo của Ngài đến nơi mặt thế này, đặng cứu độ chúng sanh. Ngài đã giao cho một đặc điểm khó khăn hơn hết là tìm thế giải ách nô lệ cho nước Việt Nam hầu đem lại hai mối cảm tình của hai nước Pháp Việt làm khuôn khổ đặng để nơi mặt thế này một kiểu vở hòa bình tâm lý. Muốn cho đôi đàng hòa, hòa với nhau một cách hợp pháp, hòa với nhau một cách xứng đáng thì ít nữa phương diện danh giá đôi đàng phải ngang nhau, đồng thể với nhau mới đặng. Vì cớ cho nên Bần Đạo lập giá trị nước Việt Nam này làm thế nào cho ngang hàng phẩm giá trị của Vạn Quốc, nên dùng nòi giống Việt Nam làm Thánh Thể Đức Chí Tôn, hầu gieo truyền nền Chơn Giáo của Ngài toàn trong thiên hạ.

Ôi! Biết bao nhiêu hy sinh, nhứt là buổi sau này, khi đã bị đồ lưu hải ngoại qui hồi cố quốc thì một trường chiến tranh đã nổi dậy, con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn đã hy sinh biết bao xương máu để làm cho xong cái sứ mạng thiêng liêng của mình.

Thật Bần Đạo ngày nay đứng nói đây, Bần Đạo thú thật rằng: trường hợp như thế Bần Đạo chưa hề tưởng tưởng đặng, càng nghĩ càng nhớ cái bí mật vô biên của Đức Chí Tôn đã tiên định trong bài thi của Ngài, năm Bính Dần là năm mới khai Đạo Ngài đề bài thi này.
"Phong Thần đừng tưởng việc mơ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô,
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ".

Thật ra Bần Đạo không ngờ mà Ngài đã tiên định rằng: Cái thời cuộc đương nhiên hôm nay là tấn tuồng của Phong Thần diễn lại đó vậy.

Trước Linh Vị của các Anh Linh Chiến Sĩ Bần Đạo tưởng tượng chẳng khác nào Côn Lôn Sơn của Đức Lão Tử chịu tâm khổ lập bản Phong Thần, Ngài đã chịu đau thảm về tinh thần thế nào, thì ngày nay Bần Đạo cũng chịu y như thế ấy.

Bao nhiêu xương máu con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn tức nhiên bao nhiêu sanh mạng anh hùng Liệt Sĩ Cao Đài. Mỗi một giọt máu là một giọt huyết lệ chan hòa trong ấy.

Muốn tương lai nước Việt Nam sau có ngước mắt dòm cả toàn thiên hạ không thẹn thì ít nữa trong Quốc Dân, trong con cái của nước Việt Nam phải đủ can đảm, đủ tinh thần, đủ tâm đức trung liệt ái quốc nồng nàn mới đem lại cái hạnh phúc chơn thật cho nòi giống nước nhà được. Những kẻ ấy chúng ta muốn tìm đặng duy có.... Bần Đạo xin lỗi duy cửa Đạo Cao Đài này mới có mà thôi.

Mỗi sanh mạng ấy chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, ngày nay người dám hy sinh là người đã tỏ rằng mình là con cái xứng đáng của nước nhà chủng tộc đó vậy. Các vị anh hùng đó là con cái xứng đáng của nước Việt Nam, là nòi giống trung thành của nước Việt Nam, các Đấng ấy đã dám hy sinh cho Tổ Quốc họ. Hỏi chúng ta mất kẻ ấy chúng ta có tìm lại đặng hay chăng? Câu hỏi ấy Bần Đạo để dấu hỏi mơ hồ.... Nếu có hay chăng tương lai sẽ chỉ rõ, Bần Đạo mơ uớc một điều là những gương hy sinh đó được để trong tâm não các chiến sĩ Cao Đài và Bần Đạo mơ ước phải nhớ mãi ấy là danh giá cao thượng của Đạo đó vậy.

Q. 3/18: LỄ ĐẦU XUÂN.
Thời Tý tại Đền Thánh
Đêm mùng 1 tháng giêng năm Canh Dần (dl. 16-02-1950)

Đêm nay đã mãn một năm, khởi đầu qua năm mới, là năm Canh Dần, tưởng chúng ta có thể đoán trước rằng: Đức Chí Tôn đã dành để cho nước Việt Nam, một sắc dân của Ngài đã lựa chọn, để gởi cái Chơn Giáo của Ngài, tạo một cơ quan cứu khổ toàn thiên hạ.

Bần Đạo nhớ lại năm Bính Dần, cũng đêm nay, cũng giờ này Đức Chí Tôn giáng cơ; buổi ấy có Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo phò loan, Ngài kêu cả hai người đứng dậy, Ngài viết nói: Biểu toàn thể con cái nam, nữ của Ngài chun ngang qua cây cơ đặng Ngài ban ơn cho mỗi đứa, cây cơ chống lên cả thảy đều chun qua. Sự làm của Ngài hồi năm Bính Dần thế nào, đêm nay cũng vậy. Hiện giờ trong óc não Bần Đạo quả quyết rằng: Mỗi năm giờ này đêm này Ngài hằng ở gần con cái của Ngài, và cũng đêm nay Ngài ban ơn riêng cho toàn thể con cái của Ngài, chúng ta nên tin đi, nên quả quyết đi.

Chúng ta có thể quả quyết rằng: Ngài đã nói với chúng ta 24 năm trước, Ngài phải làm thế nào cho Quốc Dân Việt Nam này được giải ách nô lệ mới xứng đáng làm thánh thể của Ngài. Chính sứ mạng thiêng liêng khó khăn ấy Ngài đã giao trọn trong tay của Bần Đạo thiệt hiện đặng điều ấy.

Ôi! Nếu hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước giờ phút nầy Bần Đạo tưởng tượng lại; tưởng Ngài biểu lên Thượng Thiên gỡ mặt nhựt, mặt nguyệt đem xuống để nơi thế gian này cho thiên hạ thấy thì tưởng có thể đặng, còn giải ách nô lệ cho nước Việt Nam Bần Đạo chưa chắc đã làm đặng hay chăng?

Giờ phút này Bần Đạo ngó thấy Ngài giữ lời hứa và đã thực hiện đặng cho toàn cả con cái của Đức Chí Tôn, tưởng lại coi không có năm nào được vui như năm nay.

Bần Đạo thú thật từ khi mới lọt lòng mẹ tới giờ và đã biết sống với đời cho tới ngày nay không có năm nào Bần Đạo hưởng cái hạnh phúc vui sướng cho bằng năm nay, nó vui sướng làm sao đâu. Bần Đạo rất thỏa dạ thi hành sứ mạng thiêng liêng của Đức Chí Tôn; ngọn cờ cứu thế do nơi cửa Đạo Cao Đài nầy, do tay của Đức Chí Tôn đến ban tinh thần để giải ách nô lệ cho nước Việt Nam và đòi cả sự độc lập thống nhứt Hoàng Đồ lại cho họ. Mỗi phen Bần Đạo đứng nơi Giảng Đài nầy nói điều ấy thì trước kia chưa có chi hết; ngày nay Bần Đạo dám đảm đương bảo kê rằng sự độc lập và thống nhứt của nước Việt Nam phải có, phải đặng và đến nay đã đặng.

Năm Canh Dần là năm Bần Đạo 61 tuổi, đã chung sống nơi cõi tạm nầy, mới một lần đầu tiên Bần Đạo hưởng được hạnh phúc vô đối của Đức Chí Tôn đã ban cho đó vậy.

Bần Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái của Đức Chí Tôn; nam cũng vậy, nữ cũng vậy, nếu toàn thể con cái của Ngài, một đôi triệu chơn linh mà có đức tin vững chắc như đức tin của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư và Hộ Pháp Phạm Công Tắc, nếu cả thảy đều có đức tin vững vàng dường ấy, Bần Đạo dám nói chắc rằng: Các người dời núi Bà xuống Châu Thành Saigon cũng được, có thể nói, nền Đạo Cao Đài này thiệt hiện được như ngày nay là nhờ đức tin của Thượng Trung Nhựt.

Bần Đạo nói, ngày nay sự độc lập và thống nhứt nước Việt Nam đã thiệt hiện, quả sự thật vậy, Bần Đạo đứng giữa đây không thêm không bớt, sửa soạn đi đăng hưởng hạnh phúc vô đối của Đức Chí Tôn ban cho.

Ngày mùng năm tháng Giêng năm Canh Dần đến đây toàn thể Quốc Dân Việt Nam sẽ hân hoan thế nào, nếu ai có biết vui sướng hân hạnh. Ấy là ngày giờ đơm trái trước mặt cho họ ngó thấy.

Bần Đạo sẽ sắp đặt thế nào cho cuộc lễ biểu tình được long trọng để thúc tinh thần con cái của Đức Chí Tôn và toàn thể Quốc Dân được hưởng hạnh phúc mà họ đã chờ đợi trên 80 năm nay.

Q. 3/19: MỤC ĐÍCH NỀN CHƠN GIÁO LÀ AN ỦI CHIA SỐNG LẪN NHAU.
Tại Đền Thánh thời Tý
đêm mùng 8 tháng giêng năm Canh Dần (1950)

Đêm nay nếu chúng ta co tay đếm lại Đức Đại Từ Phụ đã đến chung hiệp cùng chúng ta, đem Chơn Giáo Ngài làm phương cứu thế đã 25 năm rồi. Bần Đạo nhớ lại khi Đại Từ Phụ mới đến, Ngài gởi con cái của Ngài với sứ mạng thiêng liêng đến thế gian nầy cùng Ngài, đến chung hiệp làm một cùng nhau đặng lập thành thánh thể của Ngài. Hai mươi mấy năm, chúng ta tưởng lại sự khổ tâm nhọc trí của Ngài, chúng ta phải bùi ngùi cảm động. Đức Đại Từ Phụ với lòng đại từ đại bi của Ngài không thể gì nói đặng, hai mươi mấy năm trường Ngài đến Ngài độ từ đứa, Ngài dụ từ người, đem cả một thể thống thiêng liêng vô cùng vô tận, quí hóa kia đổi lại một tấm yêu ái của chúng ta đặng làm cơ quan cứu thế, buổi Ngài mới đến, Bần Đạo thú thật phần nhiều anh em chúng ta buổi nọ không hiểu Đạo là gì, dầu đàn anh chúng ta đã có sứ mạng nơi mình lãnh trách nhiệm làm thánh thể cho Ngài khi ấy cũng không biết Đạo là gì cả, chỉ nhắm mắt theo Ngài mà thôi; chính Bần Đạo buổi nọ, Đại Từ Phụ nói với Bần Đạo một lời thiết yếu: "Tắc, dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu Đời con có chịu chăng?"

Bần Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng: Nòi giống con còn nô lệ, nước nhà còn lệ thuộc thì làm thế nào con tu cho đặng. Ngài cười nói: Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để cho Thầy, tiếng để đó cho Thầy, Bần Đạo nhớ lại dễ như không, mà đã hai mươi mấy năm trường rồi đó, Ngài hứa khi Ngài mới đến cùng Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cuối năm Tý đó vậy, theo phàm tánh của chúng ta có lẽ buồn, nhưng vì chúng ta sống trong thời gian, còn Đức Chí Tôn sống trong không gian, chúng ta tính từ ngày, tháng, năm, còn Ngài chỉ lấy quyết định của Ngài làm căn bản mà thôi. Lời hứa đơn sơ ấy ngày nay chúng ta đã thấy rằng Ngài không bao giờ thất hứa với chúng ta đó vậy, nếu chúng ta đoán xét kỹ cơ quan của Ngài đã thi thố giải ách nô lệ cho nòi giống Việt Nam, chúng ta ngó thấy một hành tàng khắc khe khó nói, thi thố với một cách mà trí óc phàm chúng ta không thể đoán đặng và Bần Đạo nói rằng: Không có một tay phàm thi thố đặng; muốn giải ách nô lệ cho nước Việt Nam mà dùng quyền phép vô biên của Ngài đào độn cả Vạn Quốc hoàn cầu đặng làm cho sôi nổi một trường chiến tranh của toàn thế giới, giục thúc các nước còn lạc hậu chiến đấu lấy cho đặng quyền sở hữu của họ, giành cho được độc lập cho nòi giống và Quốc Gia của họ, quyền sở hữu ấy là quyền định sống của họ đó vậy. Nơi cõi Á Đông nước nào còn lạc hậu đều đặng giải thoát, đều chiến đấu đặng tranh độc lập và thống nhứt. Nước nhà nòi giống Việt Nam cũng tấn triển theo khuôn luật ấy mà định vận mạng lấy mình, không coi lại sự độc lập và thống nhứt nước Việt Nam, có nhiều điều khắc khe, mà trí óc phàm nầy không thể làm đặng nên phải dùng tay của Đức Chí Tôn, và cả con cái của Ngài. Bần Đạo đứng nơi Tòa Giảng nầy không nói thêm không nói bớt; khó nhứt là nước Việt Nam, nòi giống Việt Nam, quốc gia Việt Nam đã thiếu Ngài một nợ tình không biết giá trị nào nói cho đặng, thâm tâm của Ngài muốn gieo món nợ tình với Quốc Dân Việt Nam đặng chi, ta nêu một dấu hỏi? Thêm cho đủ yếu lý ấy, Bần Đạo nói sự mơ ước của Ngài rất đơn giản rất nhẹ giá trị không cùng, chỉ muốn Quốc Dân Việt Nam là thánh thể của Ngài, thay thế hình ảnh của Ngài đặng chia khổ cho Ngài, chung hiệp cùng Ngài hầu nâng đỡ kẻ khổ, an ủi tâm hồn nhơn loại đang đau đớn trong buổi cạnh tranh giành sống của họ, của cơ quan tranh đấu cho kỳ đặng độc lập đặng bảo vệ sanh mạng của họ, nếu không mực thước chuẩn thằng định tâm lý của họ, dầu cho đấu tranh để lập quyền sống của mình, ít nữa phải có Nhơn Đạo đặng giúp mạng sống của người, chớ đừng bảo vệ mạng sống của mình để chiếm đoạt mạng sống của kẻ khác, tấn tuồng ấy Bần Đạo chỉ nói là quả kiếp mà thôi. Đức Chí Tôn Ngài đến lập nền Chánh Giáo của Ngài cốt yếu làm thế nào cho họ đừng cướp sống lẫn nhau mà an ủi với nhau ấy là chí hướng của Ngài đó vậy.

Q. 3/20: LỄ KỶ NIỆM ĐỆ TAM CHU NIÊN QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI.
Ngày mùng 8 tháng giêng năm Canh Dần (1950)

Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong nam, nữ, Hội Thánh.
Thưa các Quan Viên, Chức Sắc.
Thưa các bạn đồng chí và chiến binh Cao Đài.

Bần Đạo hôm nay đến đứng trên Giảng Đài nầy có tình cảm khác hơn hai kỳ trước.
Bần Đạo thú thật đã trót hai mươi mấy năm lãnh sứ mạng thiêng liêng hòa tâm cho toàn thiên hạ nắm cơ thiêng liêng của Đức Chí Tôn phú thác, đem cái thuyết Bác ái từ bi ra cứu vãn tình thế cho nhơn loại đương cực kỳ đảo lộn, sợ e cho sự nhiệt huyết tranh đấu của họ, đặng định phương sống tự do của họ, dìu dẫn xô đẩy họ đến con đường diệt vong mà chớ. Nếu không có năng lực đạo đức bảo thủ Nhơn đạo họ cho chắc chắn vững vàng thì họ sẽ đi đến con đường diệt vong.

Thưa các Ngài, từ bao giờ ai đã đi trên con đường chiến đấu thì chỉ ngó con đường quyết thắng mà thôi, còn cái khuôn khổ ái tuất thương sanh, họ đã liệng ra ngoài hành tàng của họ.

Bần Đạo hồi tưởng lại, khi trở về bản xứ sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại, thì thấy một trường náo nhiệt chiến tranh đã biến sanh trong nước. Cái lẽ mất còn của chủng tộc, có lẽ tùng theo cái khuôn luật tấn triển trên thế giới.

Hôm nay cái quyền năng tranh đấu của họ, đã chán hiểu không có một năng lực nào kềm thúc cái chí hướng của nhơn loại định vận mạng lấy mình, tranh thủ cho tồn tại và độc lập nơi mặt địa cầu nầy.

Tuy đã biết bổn phận như thế, nhưng có một điều ân hận hơn hết là chính giữa nước Việt Nam thân ái của đồng đạo dầu cho Bần Đạo là tượng trưng tinh thần Quốc Tế, nhưng xin thú thiệt nòi giống của Bần Đạo vẫn là Việt Nam, Bần Đạo còn thiếu nợ tình của Việt Nam, Bần Đạo buộc phải trả.

Trót một đời tranh đấu cốt yếu để giải ách nô lệ cho người Việt Nam không phải vì chủ hướng chủng tộc, mà vì công lý.

Bần Đạo hôm nay vẫn tiếp tục cho đến cùng tới giờ chót; nhưng cái lý do giải ách nô lệ cho các sắc dân lệ thuộc là đầu tiên hơn hết.

Bần Đạo chán hiểu trường tranh đấu phải hủy bỏ nhơn tình, nhưng Bần Đạo thú thật có một điều làm cho náo nhiệt là cảnh tượng của những tay dẫn đạo tương lai cho nước nhà chủng tộc, lại vô tình tiêu diệt các phần tử ái quốc chơn chánh nồng nàn, vì lý tưởng và vì cạnh tranh của đảng phái.

Một điều mà Bần Đạo lấy làm lạ hơn hết là: những công nghiệp vĩ đại của Cao Đài khi tự cường ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945. Đáng lẽ các quân công ấy, cả Quốc Dân Việt Nam điều thiếu mối nợ tình của họ mới phải. Trái lại khi Bần Đạo trở về thấy con chiên vô tội của Đức Chí Tôn và Quốc Dân vô cớ, Việt Nam bị đứng giữa hai đường tên đạn, một bên là Pháp, một bên là Việt Minh Cộng Sản.

Ôi! Biết bao nhiêu sanh mạng đã hy sinh một cách vô lối và vô nhơn đạo, ấy là một điều làm cho Bần Đạo ra khỏi lập trường tranh đấu đứng giữa để bảo vệ sự tàn sát cho đám Quốc Dân vô tội ấy.

Vì cớ cho nên xuất hiện ra đạo binh Cao Đài đứng giữa hai vòng tên đạn, để đở một là đường tên mũi đạn của Pháp, một là đường tên mũi đạn của Việt Minh, đặng bảo vệ sanh mạng cho nòi giống Việt Nam.

Vì lòng từ bi bác ái và vì chí hướng cao cả thiêng liêng của Quốc Dân mà thôi. Nhứt định hy sinh mình đặng tượng trưng cây cờ: "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" và từ bi bác ái! Chủ hướng của Quân đội Cao Đài để trên cây cờ. Họ mong cứu vãn tình thế phục hồi Quốc Thể.

Bần Đạo hôm nay đứng giữa đây, Bần Đạo không có thẹn thuồng với tuổi già của Bần Đạo, hôm nay đã 61 tuổi hưởng một hạnh phúc cuối cùng do công lý thiêng liêng của Chí Tôn đã để nơi mặt thế này, hiển hiện là nước Việt Nam được độc lập thống nhứt và nòi giống Việt Nam được giải ách nô lệ.
Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể chiến sĩ hy sinh vì nghĩa vụ ấy.

Q. 3/21: LÀM NGƯỜI ĐỨNG GIỮA XÃ HỘI PHẢI TÌM PHƯƠNG LẬP VỊ MÌNH.
Tại Đền Thánh thời Tý, rằm tháng giêng năm Canh Dần (1950)

Đêm nay là đêm Rằm Thượng Nguơn tức nhiên là cái lễ tối yếu tối trọng của Đạo buổi khai niên đó vậy, bình thường ngoài đời dầu cho quan dân, tứ dân, tứ thứ: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, họ thường đi lễ đầu năm kiếm hiểu coi giá trị của mình trong một năm qua thể nào. Ngày nay Bần Đạo bắt chước theo họ tìm hiểu cân lường thử coi giá trị của chúng ta đã là phần tử của thánh thể Đức Chí Tôn ra thể nào.

Hội Thánh, mấy em nam, nữ lưỡng phái còn trong hàng Tín Đồ nghe Qua nói rõ: Thánh thể Đức Chí Tôn không phải Chức Sắc Thiên Phong mà thôi, các phần trong nền Chánh Giáo của Ngài mấy em phải biết trong thân thể của mấy em thế nào chẳng phải đầu óc mặt mũi tay chân là cơ quan trọng hệ gọi là trọng yếu, dầu cho một sợi tóc móng tay cũng trọng yếu vậy; các phần tử trong thánh thể của Đức Chí Tôn Qua nói rõ chẳng phải Chức Sắc Thiên Phong mà trọng yếu, chính mình bản đồ của Đức Chí Tôn đã vẽ rõ: Trên Đại Từ Phụ dưới là mấy em đó đa nghe! Chớ chẳng phải thánh thể Đức Chí Tôn là Chức Sắc Thiên Phong mà thôi, bây giờ Qua nói: Qua thuyết đêm nay cho mấy em Tín Đồ nam, nữ với mấy đứa nhỏ hậu tấn nghe đó vậy phải để ý hơn hết nghe! Phàm chúng ta đã sanh trưởng làm người đứng giữa xã hội nhơn quần chúng ta đương nhiên phải tìm phương lập vị mình, ai ai cũng như ai, nhưng sở dụng của mỗi người đều muốn làm thế nào cho giá trị mình trên thiên hạ lẽ hằng nó vẫn vậy, khi lập thân danh của mình rồi dầu muốn dầu không trí não mình vẫn so sánh cân lường định giá trị của nó coi hạng nhơn sanh nào, mình đứng vào hàng phẩm nào và thân danh của mình giá trị bực nào lẽ tự nhiên trí óc ai cũng vẫn vậy. Chúng ta ngó thấy một vị quan chẳng cần nói cao kỳ cho đến Vương Đế công thần chỉ lấy bực thường theo quan viên có sứ mạng cầm quyền trị dân, có cái sở hướng định chí của họ làm thế nào để lưu lại miệng đời cái danh tiết yếu trọng, danh để cho thiên hạ tôn sùng kính nễ, vì thế cho nên trường quan lại không luận để lại một phương sống là Tam Cang Ngũ Thường, còn ba hạng nữa, trước khi xuất sĩ buộc mình phải cho có đủ là liêm, khiết, để lại trong trí não thiên hạ một cái giá trị. Nhà giàu làm lụng cực nhọc cốt yếu làm cho có của tô điểm danh giá của mình; tôi không được sang mà đều tôi có của tôi làm oai cũng được vậy, lẽ tự nhiên thời đại nó vẫn vậy, lấy giá trị nó cân lường giá trị, coi nó lập cho mình năng lực bao nhiêu, khinh trọng quí hèn dường bao, chúng ta ngày nay cũng vậy, mấy em cũng vậy, phàm mấy em cũng nghe một lời huyền bí thiêng liêng của Đại Từ Phụ đến cùng chúng ta với một phương pháp phi thường là ngòi bút, đến đặng tương thân, tương ái với chúng ta và cả thảy đều nghe đều ngó thấy đều xu hướng chạy theo Ngài, chịu biết bao nhiêu khổ não truân chuyên cùng Đạo, ít nữa mình phải kiếm coi cái hy sinh của mình ở đâu, chạy theo Ngài giá trị thế nào là lẽ tự nhiên phải vậy, ta phải làm cho được đặng định giá trị của mình.

Bần Đạo nói dầu cho bực Công Khanh Vương Hầu Khanh Tể giá như phú hữu tứ hải thế nào đi nữa nội trong một kiếp sanh là hết, chúng ta ngó thấy trường đời nào là Đài Tần Đảnh Hớn, ngày nay danh thể có còn tồn tại chăng? Chúng ta đặng ngó thấy trên mặt địa cầu nầy đã có một quyền hạn trị thế biết bao nhiêu danh giá cao trọng, nhơn loại đã lập vị nơi mặt thế này, chúng ta chỉ đọc lại mấy trang sử không có chi lạ, là sự giàu sang của họ tạo để nơi mặt địa cầu này, đời này qua đời kia biết bao nhiêu là giai đoạn. Sự tồn tại của nó chẳng khác như cái bông sớm nở tối tàn không giá trị chi hết. Chúng ta để trí não so sánh bao nhiêu đi nữa, chúng ta chỉ ngó thấy hình bóng bất quá như ánh sáng hào quang của mặt Trời đi ngang qua cửa sổ mà thôi, không có chi trọng hệ. Đương nhiên bây giờ chúng ta đã ngó thấy con đường trước mắt giục thúc nhơn loại tranh đấu vì danh lợi, quyền thế, thế nào chúng ta móc cân tinh thần để định giá trị coi, thấy rằng không có giá trị chi hết, như giấc chiêm bao, giấc huỳnh lương mộng mà thôi. Chúng ta mang danh ra trước thời kỳ ngộ Đạo, đứng giữa con đường Đức Chí Tôn đi ngang qua đầu chớ không thấy hình ảnh của Ngài, nhưng chúng ta cũng hưởng được mùi vị sống, mùi vị thiêng liêng của Ngài chỉ biết được điều mượn mảnh hình hài xác thịt này làm con thuyền Bát Nhã độ thế cứu đời, lấy cả khối trí óc tinh thần này làm câu kinh vô tự đặng chuyển cả tinh thần loài người tiến tiến triển trên mặt nhơn đạo của họ, đặng bảo thủ cái sống còn trên mặt thế gian nầy, đem mảnh thân nầy đưa trong tay Đức Chí Tôn cho Ngài lập phương cứu khổ, chẳng phải sống của đời mà thôi, chúng ta còn đảm nhiệm cái sứ mạng thiêng liêng quí hóa hơn trước, chúng ta còn lấy linh hồn chúng ta làm mực thước đặng cứu vớt các linh hồn sa đọa làm cho họ có danh giá cao trọng. Bần Đạo nói sơ qua bao nhiêu đó cho cả thảy con cái Đức Chí Tôn để ý tìm coi thể nào rồi tự định giá trị lấy mình.

Q. 3/22: NGÀY NÀO NHƠN LOẠI BIẾT YÊU ÁI NHAU LÀ NGÀY HÒA BÌNH HẠNH PHÚC.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 2 năm Canh Dần (1950)

Đêm nay Bần Đạo đem sự sưu tầm hạnh phúc của nhơn loại sẽ đưa đẩy mình đến đâu.

Mỗi 15 ngày mới tới kỳ đàn, mỗi kỳ đàn cúng rồi cả thảy đều mệt, cúng thường có một giờ rưỡi, hay một giờ bốn mươi phút nên thường lệ lên giảng đạo Bần Đạo tìm thế thúc nhặt gói ghém lại, nhưng trong thời gian ngắn ngủi không thế gì thuyết minh nhiều vấn đề trọng yếu.

Nói thật có nhiều vấn đề giảng mà Bần Đạo viết thành quyển sách sưu tầm sự sống của nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, kiếp sống của họ, chúng ta thử hỏi họ có tìm hạnh phúc đặng chăng? Không thế gì đặng... có tìm đặng chăng chỉ tìm với cái bóng dáng mà thôi chớ không khi nào tìm đặng.

Nơi thế gian nầy có hai lẽ:
1 . là tìm với bóng dáng thì sẽ đưa đẩy đến con đường tận diệt.
2 . là tìm hạnh phúc đi đến đại đồng thế giới.

Chúng ta thử nghĩ theo triết lý nhà Phật có nói rằng: Khi chúng ta mang xác phàm đến thế gian này, chúng ta chịu trong vòng thúc phược của tứ khổ, khi chúng ta khổ, chúng ta mong mỏi tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc đâu mà kiếm.

Bần Đạo nói thật hạnh phúc của nhơn loại tìm bây giờ chỉ là mơ mộng, tìm chẳng khác nào tìm cá trên ngọn cây. Giá trị của nhơn loại thử trong cảnh khổ của họ tìm, Bần Đạo không chối là do sự cố gắng miệt mài của họ, đã đo được bước đường tấn hóa, họ đạt đến thời đại văn minh, thời kỳ nguyên tử lực, họ bay lên Trời được, lặn xuống nước được, họ có thể tiêu diệt trái địa cầu này được, họ muốn làm thế nào do cách vật trí tri của họ giúp họ phương pháp hóa học tạo ra máy móc, như bay lên trời thì có máy bay, chun xuống nước thì có tàu lặn, muốn chạy mau phải có chiếc xe máy, các điều ấy phải có tiền mua sắm mới được, mà muốn cho có tiền thì phải làm mới có đặng sắm, khi có tiền muốn lên trời hay xuống nước cũng được, có tiền thì dễ như không.

Coi lại như lời Đức Chí Tôn khi lập Thiên Chúa Giáo để lại trong sám truyền: "Các ngươi hãy sống, có thể sống với giọt mồ hôi nước mắt của các ngươi".

Muốn tìm hạnh phúc phải làm cho có tiền, nhưng tìm mà là mồ hôi nước mắt của nhơn loại thì nó xô đẩy nhơn loại vào trường tranh đấu náo nhiệt, tranh đấu cho sự sống còn của họ.

Chúng ta thử nghĩ, rồi can đảm nhìn nhận kiếp sống của chúng ta từ khi mẹ đẻ tới giờ chúng ta đã có hạnh phúc buổi nào chưa?

Chúng ta thấy cái khổ của nhơn loại chẳng khác nào kẻ kia mang mụt nhọt đau nhức sợ quá, rồi rờ mãi, mà sợ mãi đau vẫn còn đau, có ai dám can đảm nặn mụt nhọt cho đau thử coi... không có... nơi mặt địa cầu nầy chưa ai dám làm, vì mình khổ cần tìm giải pháp nào đặng trừ cái khổ.

Bởi vậy trường chiến tranh hạnh phúc náo nhiệt ấy là tranh sống; tranh sống vì hạnh phúc giả, họ phải đổi giọt mồ hôi nước mắt của họ, nên trong khi đổi chọn phải tranh đấu, náo nhiệt đương nhiên giờ này là trường tranh đấu, tranh đấu đặng tìm cái hạnh phúc giả ấy.

Chúng ta tìm thấy đương nhiên giờ này có hai lý thuyết :
1) Cộng Sản.
2) Tư Bản.

Đương tranh đấu nhau, một đàng thấy họ tìm hạnh phúc họ vì các của cải sẳn có, họ muốn lên Trời, xuống nước tìm hanh phúc, họ bay lên Trời được, xuống nước được, nên họ đánh họ giết. Một đàng thì nói tao có làm tao mới sống hạnh phúc, tao có thì tao hưởng. Họ đang chiến đấu nhau vì hai thuyết ấy, mà tranh đấu là giặc giã, tức nhiên là cơ tự diệt, họ gớm, họ ghê, sợ giặc lắm, giờ phút nầy cho đến nhà binh cầm vận mạng quốc dân họ cũng sợ chiến tranh sẽ tới, bởi chiến tranh không phải như hai trận chiến vừa qua, mà nó chiến tranh bằng bom nguyên tử và khinh khí, không phải vì sự sống mà họ sợ họ chạy đi sưu tầm hạnh phúc giả nên họ chiến đấu mãi thôi. Mà sợ chiến tranh nên họ mới kêu gọi hòa bình, tìm kiếm hòa bình với đường tên mũi đạn của họ đặng họ sống mâu thuẫn làm sao... Họ sợ chiến tranh mà tức nhiên họ tạo chiến tranh.

Ban đầu họ sợ, họ tìm phải có hòa bình, bởi hòa bình là phương sống còn. Nếu chiến tranh là tự diệt của họ, họ mơ mộng kiếm hạnh phúc để sống, họ nhè đẩy vào hạnh phúc giả cho chết.

Nên họ tìm lập vào hội Vạn Quốc Liên Minh v.v... giờ phút nào cũng vậy, tấn tuồng xảo trá mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất vẫn còn diễn mãi, sự chơn thật đâu thấy mà hòa bình thế giới, nếu các nước yếu ớt toàn mặt địa cầu này đừng bị cái ách thâu chiếm thì mới có thể hòa bình trở lại.

Như hai trận đại chiến xảy ra xô đẩy nhơn loại vào đường tàn sát nhau ghê gớm.
Bây giờ họ muốn kiếm phương thế đặng dung hòa hai thuyết ấy, một đàng thì nói phái vô sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.(*1)
Một đàng nói: Phải thực hiện hạnh phúc nhơn loại với sức mạnh làm ra của cải, phú hữu, tứ hải phương pháp giành giựt cướp bóc.

Hai thuyết ấy đang chiến đấu nhau giờ này... có điều ngộ nghĩnh sẽ tới trước mắt ta, lạ lùng thay! Huyền vi mầu nhiệm của Đức Chí Tôn Ngài để cho Quốc Gia Việt Nam hát một tấn tuồng dị hợm... giờ phút này là giờ phút chúng ta đang giải ách nô lệ, ta có thể nói nước Việt Nam đã đứng ngang mặt với Vạn Quốc.

Hại thay! Nước Việt Nam chúng ta lại là một trường chiến địa của hai khối sẽ đối chọi nhau, hai khối ấy đang gầm hét nhau, nơi địa giới Việt Nam.

Thử hỏi nó sẽ làm nơi chiến địa cho Vạn Quốc không?
(Bần Đạo nói ra thiên hạ sẽ cho Bần Đạo là mê tín dị đoan) Bần Đạo nói: Nếu như nòi giống Việt Nam đối với các sắc dân họ biết bảo vệ sanh mạng họ trước đã, đặng họ làm kiểu vở cho Vạn Quốc bắt chước theo, may ra Chí Tôn gồm Vạn Quốc để trước mắt dân Việt Nam sẽ có bí ngôn nói với họ rằng: Cả toàn thể nhơn loại tìm hạnh phúc đều là giả, cả phương pháp của người đều trật hết, duy có phương pháp vô đối là: Giờ phút nào nhơn loại biết yêu ái hòa bình, biết lấy thân mình giúp thân nhơn loại, lấy thân mình giúp lẫn nhau, hạnh phúc mới có thiệt tướng.
Còn những phương pháp của các người thi thố như giọt nước mưa rơi xuống.
Vì giả dối với nhau thì không thể nào tìm hạnh phúc cho ra đặng.

Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 21: Bây giờ họ muốn kiếm phương thế ... ..., một đàng thì nói phái vô sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Bây giờ họ muốn kiếm phương thế ... ..., một đàng thì nói phải vô sản, với đẳng cấp bảo vệ hòa bình cho thiên hạ mới đi đến đại đồng thế giới.

Q. 3/23: ĐỨC CHÍ TÔN LÀ CHA CỦA CHƠN LINH, CÒN TRÍ NÃO VÀ XÁC THỊT LÀ DO ĐỨC PHẬT MẪU ĐÀO TẠO.
Tại Báo Ân Từ ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (1950)

Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, nếu chúng ta tin chắc chắn rằng: Đức Phật Mẫu là Mẹ sanh chúng ta, ta phải để đức tin nơi Người, theo ý Bần Đạo tưởng cái gì thuộc về xác thịt này đều do Phật Mẫu đào tạo cả, Đức Đại Từ Phụ duy làm cha của chơn linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm này Ông cha duy nhứt điểm chơn linh (*1), còn huyết khí do nơi bà mẹ đào tạo mà có, Đức Chí Tôn duy có nhứt điểm linh còn tạo nên trí não và xác thịt của ta hình tướng là do tay Phật Mẫu. Hai chủ quyền ấy rất cao trọng hễ khôn ngoan muốn cầu cho được siêu thoát thì không ai hơn Đức Chí Tôn, còn phần xác thịt nếu đau đớn khổ sở mỗi cái gì đều xin Mẹ thì chắc hơn hết, có nhiều điều ta đến xin với mẹ thì mẹ cho chớ xin Cha thì không đặng phải vậy không? Nhứt là phái nữ tâm hồn phải nương theo Phật Mẫu một cách mạnh mẽ, hơn nữa hoặc sanh con không đặng tráng kiện hoặc đức tin còn yếu ớt sao không đến xin mẹ; chính mẹ có đủ quyền năng ban ơn ấy cho con, như mấy em nhớ đã có vợ có chồng thì nên phụng sự Đức Mẹ cầu xin cho đặng sanh con tốt cho đứa nào đến của mình sẽ là một chơn linh cao siêu, ấy là thiệt khôn đó, nhớ nếu mà chúng ta tin quả quyết có điều ấy thì tự nhiên có như vậy, Bần Đạo thấy nữ phái lãnh đạm điều ấy lắm.

Phụ ghi:
 (*1)Nơi đọan thứ 1: Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, ... ... ... như cha mẹ phàm này Ông cha duy nhứt điểm chơn linh,... ...
Chúng tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, ... ... ... như cha mẹ phàm này Ông cha duy nhứt điểm tinh,... ...

Q. 3/24: ẢNH HƯỞNG THIẾT LÝ ĐẠO GIÁO CỦA ĐỨC THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ.
Tại Đền Thánh thời Tý đêm rằm tháng 2 Canh Dần (1950)

Hôm nay là ngày Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ, mỗi năm đến ngày Vía của Ngài, Bần Đạo và Chư vị đại Thiên Phong đã có thuyết minh Đạo Sử của Người, nếu có thuyết lại cũng không bổ ích, vì cả thảy đều biết; Bần Đạo ngày hôm nay chỉ thuyết ảnh hưởng triết lý Đạo Giáo của Ngài đã để lại thế nào.

Thời buổi hổn loạn, nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, Bần Đạo nói họ đương dung ruổi trên con đường quyền lợi triết lý cao siêu của Đức Thái Thượng Đạo Tổ để lại, giờ phút này nhơn loại chịu ảnh hưởng triết lý ấy thế nào Bần Đạo xin luận thử cho cả con cái Đức Chí Tôn tìm hiểu hơn nữa.

Đức Thái Thượng Đạo Tổ lấy căn bản tinh thần vi chủ của Ngài trong mỗi kiếp sanh con người có thể tấn triển mãi thôi, tấn triển về trí thức tinh thần, thật ra nhơn loại đã hưởng được cao siêu của triết lý ấy, nhứt là các nhà học thức đã tìm đã đạt huyền vi bí mật và năng lực của cơ thể tạo đoan mà đào luyện kiếp sanh hôm nay, có lẽ chúng ta đã tưởng đi đến một đặc điểm khá cao. Bần Đạo nói thời kỳ nguyên tử nhơn loại đã đạt đặng do sự xu hướng đặc biệt huyền vi bí mật dòm bên kia quyền năng tạo đoan cũng khá nhiều.

Nhưng chỉ có một điều là đạt được cái năng lực của cơ thể tạo đoan ấy thay vì để phục vụ nhơn loại với đạo đức nhơn nghĩa. Trái ngược lại cả tài tình của họ đào luyện thâu hoạch quyền lực, cơ tạo đoan của nhơn loại nắm trong tay là để làm một cái lợi khí tiêu diệt nhơn loại.

Thật nguyên tử lực của các nhà học thức Bác sĩ, Bác Vật đã đạt đặng. Đức Thái Thượng Nguơn Thủy đã biết nó trước duy có một điều vi chủ hướng của Ngài bảo tồn sanh mạng con người chớ Ngài không tiêu diệt người như ngày nay.

Bí truyền của Ngài để nơi tinh thần luyện khí cốt yếu là đạt đặng nguyên tử lực vào con người vậy, bí mật của sự luyện khí là do đó, điều Ngài biết đã chính mình Ngài thâu hoạch được trước 2.500 năm. Ngài tưởng năng lực ấy để bảo vệ nguyên linh ta thắng được phản lực của hình thể ta, tinh thần ta vi chủ kiếp sống của chúng ta.

Hại thay, những nhà truyền giáo tưởng đã đủ năng lực bảo vệ sanh mạng loài người bằng triết lý cao siêu ấy.

Trái ngược lại, ta thấy những nhà hành Đạo truyền giáo họ thúc giục tương tranh, tương đấu nhau vào đường chiến trận mà thôi, ta thấy lịch sử lưu lại triết lý Tiên Gia chỉ giục loạn chớ không trị bình đặng.

Ngày giờ nào nhơn loại biết chỗ chơn thật của triết lý ấy thấu triệt đặng phụng sự nhơn loại với cái trí hóa khôn ngoan trong năng lực của Ngài, thì ngày giờ ấy nhơn loại mới hưởng được đặc ân của Ngài đã để nơi mặt thế nầy.

Q. 3/25: NHIỆT TÂM CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM.
8 giờ ngày mùng 1 tháng 3 năm Canh Dần (1950)
(Tại Tháp)

Mỗi năm đến ngày nay là ngày của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã thương tiếc nhứt là Qua đây, một người bạn còn mấy em là một người anh. Nếu Đức Cao Thượng Phẩm còn sống đến ngày nay thấy một cái hạnh phúc của giống dòng Việt Nam, thấy mối Đạo ngày nay đã đến địa điểm nó cam lãnh một trách nhiệm trọng yếu Thiêng Liêng, đặng định vận mạng tương lai cho toàn thiên hạ, nếu mấy em biết được giá trị của Người đã khuất thì mấy em thương tiếc quá lẽ!

Đức Cao Thượng Phẩm không những cố tâm ái quốc nồng nàn với nước Việt Nam, không những lo giải thoát ách nô lệ toàn thể giống nòi mà Ngài còn vì lòng thương cả toàn thể nhơn loại bị giam hãm trong lẽ bất công của Xã hội nhơn quần, Ngài vì công lý, vì ái tuất thương sanh nên hy sinh trong một kiếp sống đặng thọ lãnh cây Phướn cứu khổ của Đức Chí Tôn. Qua nói thiệt, buổi gần mãn công quả của Ngài tức nhiên buổi Ngài gần qui hồi cựu vị Ngài chỉ có tiếc một điều, tiếc không đồng khổ không còn ngày giờ đặng gánh vác cái khổ của mấy em đặng tạo dựng cho nên hình tướng nền chơn giáo, để giải thoát cho toàn thể nhơn loại trong lẽ bất công của Xã hội nhơn quần, Ngài tiếc có một điều đó mà thôi. Trong bài thơ của Người cốt ý nói về nước Việt Nam yêu ái nồng nàn, Ngài biết rằng:

1) Thế nào nước Việt Nam cũng phải làm ngọn đuốc thiêng liêng đặng soi cho toàn thể nhơn loại biết cái sống của mình ở nơi nào.

2) Nước Việt Nam sẽ làm biểu hiệu ngọn cờ cứu khổ ấy.

3) Sẽ làm đài vinh diệu cho toàn thánh thể của Ngài dựng trên đấy, đưa tay điều độ thiên hạ cho ra bảo sanh của Ngài.

Mấy em phải biết cái khổ hạnh của Ngài, cố tạo dựng nên cho nước Việt Nam này trước đã, nhơn loại mới có bóng đuốc sau, tiếc thay cơ quan thành tựu đương nhiên bây giờ chớ phải chi Ngài còn sanh tiền với óc não cao thượng, chí khí cương quyết, ái tuất thương sanh nồng nàn của Ngài không biết chừng giúp cho chúng ta đạt đặng nhiều thắng lợi mạnh mẽ, nhiều giá trị và may mắn hơn nữa.

Tiếc thay! Chúng ta đã mất một tinh thần, năng lực giúp ích cho chúng ta thi hành phận sự trong sứ mạng thiêng liêng đó vậy, tiếc chăng là tiếc giờ phút thiêng liêng này đương buổi này, anh linh Ngài vẫn đeo đuổi theo mấy em mà nhứt là bên Quân Đội đặng bảo sanh nhơn nghĩa cầm cờ thiệt hiện ra.

Ngày giờ này, Qua tưởng mấy em sẽ thắng đặng đem hạnh phúc cho nhơn loại mới đặng, nếu mấy em phải bại thì tương lai của nhơn loại để dấu hỏi mơ hồ nguy hiểm.
Mấy em phải cương quyết lên, anh linh của Ngài giờ phút này vẫn ở bên mấy em đó vậy.

Q. 3/26: VÍA ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM.
Tại Đền Thánh đêm mùng 1 tháng 3 năm Canh Dần (1950)

Đêm nay là ngày vía Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo sẽ thay thế tiếng của Ngài đặng thuyết một bài. Buổi nọ Đức Chí Tôn mới đến đây thuyết đạo, duy có hai người thôi, hễ Bần Đạo thuyết thì Đức Cao Thượng Phẩm làm thính giả, hễ Cao Thượng Phẩm thuyết thì Bần Đạo làm thính giả, cốt yếu Đức Chí Tôn đến dạy phương pháp thuyết đạo.

Khi ấy, Cao Thượng Phẩm chú ý đến tình trạng đương nhiên của nước Trung Hoa. Chúng ta đã ngó thấy một tấn tuồng thống khổ náo nhiệt tương tàn, tương sát ghê gớm trước mắt; dám chắc từ khi lập quốc nước Trung Hoa đến giờ, chưa có buổi nào như thế, ấy là một nguồn cội gốc rễ của Nho Tông, một nền Tôn giáo bị yếu, nên Chí Tôn đã đào tạo một nền văn minh tối cổ cũng rán lưu truyền nơi cõi Á Đông này trên 2.500 năm, nhứt là nước Việt Nam chịu ảnh hưởng nền Tôn Giáo ấy, nền văn minh nước Việt Nam cũng do nền Tôn Giáo ấy xuất hiện. Điều trọng yếu hơn hết là chúng ta phải nhìn rằng Đạo Cao Đài nầy lấy căn bản ấy mà ra, dầu cho ai cũng phải để ý đến tương lai của nền Tôn Giáo tối cổ của Đức Chí Tôn tạo dựng làm nền tảng cho tinh thần loài người đó.

Đức Cao Thượng Phẩm buổi ấy Ngài cũng nghĩ đến điều đó, làm cho Ngài phải thắc mắc là trong buổi nọ nước Trung Hoa thống trị một đại cường quốc chỉ lấy tinh thần làm căn bản vĩ đại trị vì thiên hạ thái bình, giờ phút này đeo đuổi theo nền văn minh tối tân mà chúng ta gọi là văn minh hóa học, chỉ biết tương tranh mà sống, lấy mạnh làm căn bản, tức nhiên lấy gươm đao làm phương trị thế, hai cái phương pháp, hai cái hành tàng ấy để trước mắt nhơn loại đều thấy rõ phương nào hay, phương nào dở, nên hay hư, một nền văn minh vĩ đại vi trị tức nhiên thiên hạ và thiên thượng đồng trị. Cái làm cho chúng ta cảm kích hơn hết, tấn tuồng đã diễn ra đây chưa có định quyết ngày giờ nào chấm dứt, tội nghiệp thay cho Trung Hoa làm chủ một nền văn minh dường ấy, nắm trong tay một mãnh lực phi thường mà hôm nay phải chịu nạn tương tàn tương sát dường ấy.

Hôm rồi Bần Đạo đến Kim Biên có gặp một vị Võ quan tức nhiên là quan sáu Des Basaords, Ngài hỏi một điều lạ thường là Đức Khổng Phu Tử sanh trước Đức Chúa Jésus Christ 500 năm, Mahomet sanh sau Đức Chúa Jésus Christ 500 năm, Ngài vừa nói đến đây Bần Đạo liền chú ý đến ba người ấy tương lai cũng như một, bởi thuyết Trời, người đồng trị của họ đó vậy. Bần Đạo liền nói: Ba người ấy cách biệt nhau 500 năm mà ba người vẫn như một, Ông lại cười, Ông biểu Bần Đạo đã quan sát tấn tuồng triết lý của ba nền Tôn Giáo ấy, Trời, người đồng trị phải chớ, nếu không vậy, sự sống chết, còn mất, của nhơn loại phải làm sao, hành tàng của họ tồn tại hay chăng? Trường cửu hay chăng? Hay nạn tiêu diệt hầu đến ấy là vấn đề trị nước đến giờ vẫn để trong óc các nhà đại tư tưởng của nhơn loại, chúng ta đã ngó thấy có trường tranh sống để quên cái chết, lại có cái trường tưởng cái chết quên cái sống hai lẽ bất đồng.

Hại thay! Cho nhơn loại nếu toàn thể nhơn loại đều hưởng cái triết lý vô đối trung dung đạo đức của Khổng Phu Tử để lại thì mạng căn kiếp số của nhơn loại chưa đến mức nguy hiểm, chưa đến mức hại tương lai họ, không biết chừng đưa đẩy họ không đến nạn diệt vong mà chớ! Đương nhiên bây giờ có hai triết lý oái oăm:

1) Một đàng nói tôi chủ về phần xác đây, tôi biết sống chớ không biết chết, duy có cái tranh sống hay ăn thịt, hay giết người để thay thân.

2) Một đàng nói tôi bỏ phế kiếp sống, thân hình này không đáng kể, chỉ trọng linh hồn mà thôi.

Hai đàng đều quá khích, biểu sao không có trường tranh đấu náo nhiệt về tinh thần và hình thể nơi mặt địa cầu này, vì sự tranh đấu ấy mà nhơn loại xáo trộn không biết theo bóng nào để nương thân cho được tồn tại.

Đức Cao Thượng Phẩm luận rồi, bây giờ tới triết lý của Bần Đạo luận thuyết của Đức Cao Thượng Phẩm là thuyết Trời người đồng hợp, triết lý thắc mắc ấy đang làm cho nhơn loại để dấu hỏi? Từ trước đến giờ chưa có ai giải quyết, có giải quyết đặng hay chăng chơn lý ấy, mà tinh thần nhơn loại vẫn còn mờ mịt, chưa có biết chơn chánh hay chơn lý ấy đã thực hiện rồi. Ngài nói thảng như ta sống theo đạo chánh, họ cũng có tam cang ngũ thường cũng đủ sống theo triết lý đạo chánh, họ quyết lấy sanh mạng nó mà bảo trọng các sanh mạng nô lệ kia mà thôi, các người không có năng lực nào bảo trọng các người, thì các người sống cũng như con vật, chính các người dòm cả vạn vật đương nhiên sẽ cho các người biết triết lý thâm diệu và cao thượng.
Bí mật các người không có tức nhiên các người không tồn tại nghe!

Dầu các người mạnh thì các người sống với phương pháp mạnh, yếu sống với phương pháp yếu mà cái sống ấy các người chưa có làm chủ được, cái sống tạm này chưa có cái sống thiệt. Cái sống thiệt là sống có nguồn cội, cái sống chủ quyền, cái sống đó là cái sống trong tay Đấng Tạo Đoan mà ra, cái sống nầy mới là thiệt, cái sống các người không có bảo trọng được không có vi chủ tức nhiên phải nhìn Ông Trời có quyền trị về phần xác thịt và linh hồn của chúng ta nữa.

Thảng như, không có quyền hành ấy ta nói mặt thế gian này không ai biết sợ ai, không ai biết kiêng nể ai, thì sống như vật vậy. Ta phải tranh đấu, giựt giành cái sống của cả thảy đặng làm cái sống của mình, khi ta chết nó sẽ ra con vật mà thôi không có nghĩa lý gì, nếu ta nói vậy thì ta không có tin ai, nếu ta tin có số hay chăng là sợ Đấng nầy, Đấng có thể tiêu diệt cả hình thể và linh hồn sa đọa nơi địa ngục mới sợ, nếu biết sợ mới giữ được, không thì trường tranh sống mãi tiếp diễn.

Ngài dòm lại nạn tương tàn, tương sát nước Trung Hoa, Ngài nói mình đã hưởng một đặc ân, một chủ quyền Trời người đồng trị dường ấy, mà ngày giờ này người chạy theo con đường tranh sống. Vì tranh sống, tiêu diệt với nhau mà chết.

Q. 3/27: ĐỨC NGÀI TƯỜNG THUẬT CHUYẾN ĐI ĐÀ LẠT.
Tại Đền Thánh thời Tý ngày 13 tháng 3 năm Canh Dần (1950)

Đêm nay Bần Đạo giảng đạo buổi bất thường, cũng như mấy kỳ trước, bất kỳ đi đâu về cũng vậy, ngó thấy toàn cả con cái Đức Chí Tôn nhao nhao trông ngóng để nghe tin tức, muốn hiểu hành tàng của Đạo, cho nên mỗi phen đi đâu về cũng thuật lại cho nghe, nhưng hôm qua bị mệt nghỉ một ngày, ngày kế đây thế nào cũng nói cho nghe, không thì trong lương tâm bứt rứt lắm. Nên cho cả thảy hiểu biết, hiểu đặng khỏi bị thiên hạ lường gạt.

Đương nhiên tinh thần nhơn loại ở trên mặt địa cầu nầy đang bị trong vòng bất định, vì quả kiếp của họ đã tạo nhiều cho nên ngày nay họ phải chịu cái bất công của xã hội nhơn quần; đã lắm gây quả cho nên ngày nay phải chịu, không được ở trong cảnh nghỉ ngơi phải chạy quanh trong vòng bất định, vì xã hội lấy cường lực, lấy tàn ác sát hại sanh vật làm căn bản, nhìn thấy cảnh mạnh đặng, yếu thua, khôn còn, dại mất, đã lưu lại tấn tuồng thảm não nơi mặt địa cầu này cái quả nghiệp vô tận vô biên của họ hôm nay họ phải trả. Chúng ta được ở ngoài vòng phồn ba náo nhiệt là nhờ ơn riêng của Đức Chí Tôn đem chúng ta để nơi thanh tịnh cảnh, có thể dòm ngó xem coi, còn thiên hạ bị đứng trong vòng ác nghiệt.

Chúng ta thấy trước mắt đã diễn một tấn tuồng thiếu đạo đức tinh thần, nhứt là đạo nhơn luân căn bản của nhơn loại đã bị hủy hoại tiều tụy, nó sẽ bị tiêu diệt nữa mà chớ, vì nó thiếu kinh nghiệm, thiếu kinh nghiệm thì vẫn gây thù nhau, ghét lẫn nhau thì không thế gì lập hạnh phúc cho đặng. Phải tin với nhau, nếu không tin với nhau thì không có giờ phút nào nhơn loại hòa bình được.

Nước Việt Nam cũng bị hoàn cảnh ấy, đứng trong trường hợp ấy, sau tám mươi mấy năm nô lệ họ đã đứng trong quả kiếp. Muốn bảo thủ sống còn cho các chủng tộc Á Đông họ phải chiến đấu với Âu Châu, định tương lai cho nòi giống Việt Nam cũng ở trong trường hợp ấy, trong giờ phút này tuy cuộc chiến tranh mãnh liệt, chiến đấu không ngừng còn tiếp tục mãi là tại họ thiếu kinh nghiệm, vì cái thiếu kinh nghiệm mà họ giết lẫn nhau, cho tới đồng chủng đồng loại họ cũng vậy, hễ thiếu kinh nghiệm thiếu hòa giải thì loạn, không thế gì đem hạnh phúc lại được, cái loạn ly này cũng bởi không tin cậy nhau, đối với nước Việt Nam, dầu cho trước mặt Quốc Tế chúng ta cũng thắng, đối với sự lãnh đạo của Đức Bảo Đại cũng được 28 nước nhìn nhận cho độc lập. Dầu cho bên khối Nga với sự lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh cũng được toàn thể bên khối ấy cho nước Việt Nam được độc lập.

Tình trạng đương nhiên bây giờ phải lấy trí thức quyết định, không cho ai lường gạt nữa. Bần Đạo thấy hiển nhiên giờ phút nầy Việt Nam đã được độc lập trước mặt Vạn Quốc đã nhìn nhận rồi, dầu muốn dầu không cũng đến đã có chứng cớ hiển nhiên mạnh mẽ. Nước Pháp không còn thế gì thối bước, hay dừng bước lại không chịu nhìn nhận sự độc lập cho nước Việt Nam được.

Bây giờ nói đến quyền nội bộ của nước Việt Nam, chúng ta đã bị nước Pháp thu chiếm trên tám mươi mấy năm, giờ phút nầy chúng ta phải đòi quyền sở hữu lại, quyết đòi cho được nắm trong tay thôi; nhưng sự thâu đoạt quyền nội bộ chúng ta lại còn thắc mắc lắm. Chánh phủ Pháp đã nói muốn thí nghiệm đưa quyền ấy cho, nhưng phải đưa cho trong tay kẻ nào có thể bảo thủ được, nước Pháp chỉ sợ có một điều là quyền ấy đưa trong tay kẻ giữ không được sẽ bị họ giựt họ lấy đi, cho nên quyền nội bộ chưa giao. Muốn cho thiên hạ không chối cãi, ít nữa quân bị phải thống nhứt bảo vệ cho được hiển nhiên, để trước mắt cho toàn thể thiên hạ thấy, thì chúng ta mới có đủ phương pháp, đủ năng lực bảo thủ nền độc lập, không còn lý do nào Pháp không trả được, nhơn loại đã nhìn nhận sự độc lập thì cố nhiên phải trả.

Trước khi Pháp thu chiếm nước ta, là một nước thái bình thạnh trị, hoàn toàn độc lập, chúng ta đã có Văn Hiến, đã có phong hóa, có đạo đức, cả nền Chánh trị vững chắc của Tổ Tiên lưu lại 4.000 năm, không cần xin ai hay nhờ ai nữa, trước kia làm thế nào thì bây giờ cũng lập y nguyên lại như thế ấy.

Muốn nói cho chúng ta chung đứng trong Liên Hiệp Pháp thì Liên Hiệp Pháp phải trả quyền nội bộ lại cho chúng ta thì chúng ta đem tới cho, bằng không thì thôi, không ai được phép buộc ta đem quyền sở hữu hiến cho họ, nếu có chánh phủ nào dám can đảm nói lời nói đó với họ thì không có tới ngày nay, từ trước đến giờ chưa có miệng lưỡi nào ra nói, mới có đây là miệng lưỡi của Bần Đạo. Giờ phút này Bần Đạo đã giao quyền quân trị trong tay Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, cả quân bị hôm nay phải giao trong tay Ngài, đặng Ngài chiến thắng mới đặng. Quân Đội Cao Đài từ đây không còn Quân Đội Cao Đài nữa mà nó là căn bản tương lai Việt Nam, Quân Đội Quốc gia Việt Nam.

Bần Đạo đi Đà Lạt có ở Sài Thành trong một tuần lễ, sắp đặt đã hoàn toàn giúp cho các cơ quan ấy và thay đổi cho Chánh Phủ Việt Nam đi đến mục đích độc lập cùng thống nhứt như lời của nước Pháp đã hứa trước Vạn Quốc công nhận.

Q. 3/28: TƯỜNG THUẬT VỀ CÔNG CUỘC ĐI NAM VANG.
Tại Đền Thánh thời Tý đêm 27 tháng 3 năm Canh Dần (1950)

Hôm nay Bần Đạo lên giảng đài buổi bất thường, biết rằng mỗi lần đi đâu về toàn thể Chức Sắc Thiên Phong, Hội Thánh nam, nữ lưỡng phái con cái Đức Chí Tôn đều trông ngóng để nghe, muốn nghe muốn biết lắm nên tội nghiệp đi đâu về cũng nói lại cho nghe bằng chẳng vậy xốn xang lắm.

Từ thử đến giờ Bần Đạo chưa có buổi nào đặng hưởng hạnh phúc đại thắng lợi một cách mỹ mãn như kỳ Bần Đạo đi Cao Miên; thật sự như vậy đã trải qua 11 năm Bần Đạo mới để bước lại Cao Miên tức nhiên Tần Quốc. Trước đồ lưu 2 năm Bần Đạo có đến một lần, về sau Bần Đạo đã bị thiên hạ bạc đãi, đồ lưu nơi Hải Ngoại, khi trở về Quốc Sự trong buổi náo nhiệt hổn loạn Tần Quốc phải chịu một tai nạn loạn ly cũng như ai kia vậy. Nhưng người ta có phúc hậu hơn, sự phá hoại của nước người ta có ít hơn; nên Bần Đạo không có thẹn mới đến sắc dân ấy, sắc dân trí hóa về tinh thần, ngày nay Bần Đạo thấy tiến xa lắc, trong thời gian ngắn ngủi mà sao dân ấy tiến triển về tinh thần trí hóa, làm cho thiên hạ phải để mắt suy nghĩ.

Bần Đạo lại có dịp nữa chăng, hại thay nói sự tiến triển tinh thần trí hóa toàn thể dân của họ mà thôi, Bần Đạo lại còn gặp Giáo Chủ của họ tức nhiên Đức Vua của họ, người đạo đức tinh thần không thua gì ai, cao kỳ huyền bí có thể Đạo ấy có cơ quan làm tăng về tinh thần đạo đức của toàn thể nhơn loại được mà chớ.

Bần Đạo xuất hành tại Tòa Thánh, cốt yếu tính đi bằng xe, người ta khuyên đi bằng máy bay phương tiện nhanh hơn, nhưng Bần Đạo quyết đi đường bộ, đi đường bộ đặng chi? Đặng coi sắc dân yêu mến của Bần Đạo sống thế nào, coi sự sống siêu thoát có bề tiến triển hay chăng, Bần Đạo lấy làm hạnh phúc được thấy họ tấn triển một cách mau chóng, dọc theo con đường biên giới gia đình của dân phải di cư, những nhà cửa gần biên giới nước Việt Nam bị tiêu hủy về sự phá hoại, duy có từ Sway Riêng lên tới kinh đô còn giữ tồn tại lại được, nhưng cũng hư hao chút ít, lên tới Kiêm Biên rồi mới thấy sự tiến triển, sự biến chuyển trong nước rất lạ thường, có trí để mà coi cả sự tiến triển về đạo đức, tiến triển về kinh tế, tiến triển về quân sự, tiến triển về chánh trị sáng láng đủ mọi phương diện.

Ngộ nghĩnh một nước được hưởng hạnh phúc đã có một ơn riêng, nên xứ Tần được tiến triển đẹp đẽ. Bần Đạo thấy từ Vua tới dân, trước trường quan lại đã để trong một đời nghị luận khéo giữ nền chánh trị họ, họ tranh đấu trí thức tinh thần họ thuộc về đầu óc cương quyết biết tôn trọng cái quyền dân, quyền nước hơn lợi lộc.

Bây giờ kể từ Sway Riêng tới Kinh Đô, Bần Đạo đã thấy cái tự do của nước người được hưởng, trong nước của người ta trương cờ xí của Đạo lên dọc dài theo đường đặng nghinh tiếp vị Giáo Chủ của mình một cách tự do không ái ngại e lệ chi cả, nhứt là nơi bên đó ở Ba Nam đem biểu ngữ ra ngoài đường trương cờ tiếp lễ từ Ba Nam cho tới Kinh Đô rần rần rộ rộ, lên tới thấy sắp đặt khéo lắm, Bần Đạo được lễ nghinh tiếp rất trọng hậu.

Trong mấy ngày Bần Đạo, Bảo Thế và Tiếp Đạo ở đó cũng tự do không có điều gì làm mất tự do cả, nhứt là nhà binh Pháp, mấy ngày ở Kinh Đô canh tuần nghiêm nhặt, sự cung kính đối đãi Bần Đạo và các bạn lấy làm cảm kính vô hạn, chúng tôi có mời Quan Sáu Desesseares ở Tần Quốc đến hội kiến làm cho cả nhà binh thỏa mãn có vẻ cảm kính với chúng ta lắm.

Kế tiếp chúng tôi đi đến nhà Vua, thì Vua dùng lễ Đế Vương mà tiếp rước chúng tôi tại tư dinh của Ngài, nơi ấy là nơi để rước những người thân yêu của nhà Vua, rước chúng tôi làm cho chúng tôi ngạc nhiên sự đối đãi của nhà Vua rất trọng hậu không thể tưởng tượng được.

Khi nào tới, Bộ Nhạc đến trước ngai Vua trương Quốc kỳ, khi đến đó lật đật bước xuống xe, nhạc trổi lên, quân lính bồng súng lên nghinh tiếp, chúng tôi liền đến trước cây Quốc kỳ bái đãnh lễ, khi xong truyền bách bộ đi vô Điện, chúng tôi vẫn giữ lễ ấy, có lính bồng súng đứng giữ lễ, từ ngoài đến Cung Ngài, Ngài thấy chúng tôi đi bách bộ vào Ngài, Ngài sai quân lính ra tiếp rước, tôi không có dè Ngài lấy một trọng lễ tiếp rước như thế, bước vào thấy Ngài mặc đồ Âu phục coi đẹp lắm, mặt sáng láng có vẻ một Vị Vương Đế. Vào đến Ngài chấp hai tay bái, làm cho Bần Đạo phải bái lại xong Bần Đạo đưa tay ra bắt ngang nhau nói chuyện đi vô tại trong Cung. Cung Ngài thường để rước khách quí trọng của Ngài, Ngài mời Bần Đạo ngồi, Bần Đạo nhường lại cho Ngài, Ngài nhứt định nhường lại cho Bần Đạo phải ngồi, Ngài chỉ ngồi né một bên nói chuyện với Bần Đạo.

Trong sự luận đàm với Bần Đạo, Bần Đạo thấy vị Vương Đế yêu nước, yêu dân một cách lạ lùng làm sao, Bần Đạo nói chuyện với Ngài chọn tiếng nào đáng nói mới nói và Bần Đạo lấy làm hữu hạnh được biết Ngài và có thể làm cho hai nước Việt Nam và Miên quốc hiệp với nhau đem hạnh phúc lại cho hai nòi giống.

Nhưng dầu Ngài đã nói với Bần Đạo, không nên lặp lại, đây Ngài nói quả quyết với Bần Đạo: Ngài ước mong một điều là làm phương nào cho hai nước hiệp chung lại với nhau đặng định vận mạng cho nước, Ngài than làm thế nào cộng hiệp lại được, Ngài để một dấu hỏi nhỏ, điều ấy làm cho Bần Đạo thắc mắc, nếu giúp cho hai nước cộng lại, ngoài ra có Đức Chí Tôn định cho; Bần Đạo chưa biết làm thế nào cho kết quả đặng, trong khi nói chuyện Bần Đạo mơ ước làm sao gặp Vua Sãi, kế Ngài tiếp nối Đức Giáo Chủ thế nào Vua Sãi cũng thế ấy nói chắc như vậy.

Khi chúng tôi đã viếng Thủ Tướng rồi dầu biết cả tâm tình trí óc của họ đã mơ ước thế nào, khi ra khỏi Điện nhà Vua, rồi có tin Vua Sãi mời đến nhà thờ Norodom nhà thờ đặc biệt từ trước đến giờ của nhà Vua, khi đến nhà thờ thì Đức Vua Sãi cũng tiếp rước đối đãi với vị Giáo Chủ vậy. Riêng Bần Đạo có một điều là khi Bần Đạo vô nhà thờ dặn trước các bạn đi theo phải giữ lễ trước những khi vào, họ ngó thấy Bần Đạo làm cái gì họ đều làm theo vậy nên không có sái phép tới mấy vị Sĩ Quan theo hầu, theo đạo nhà Phật thì lễ phép, nên lo sợ của Ngài cho mấy Ông Quan nhỏ kia không biết có giữ lễ phép không, dòm lại thấy họ cũng làm y như vậy.

Tiếp chuyện đạo đức với nhau tâm đồng ý hiệp là về Giáo Lý; giờ phút này Bần Đạo nói thật đạo của nước Tần và Vua của nước Việt Nam có thể hiệp một cùng nhau đặng. Nếu ơn thiêng liêng Đức Chí Tôn định thì Hội Thánh Cao Đài có thể hiệp nhứt với Đạo của nước Tần, chung hiệp là một đặng đem Giáo Lý đạo đức làm con thuyền Bát Nhã đặng độ thiên hạ mà chớ.

Khi Bần Đạo vô tận Cung nhà Vua Bần Đạo có một cảm tình làm sao, lạ lùng hơn hết, vì Cung Điện ấy không lạ với Bần Đạo ở năm 1927 Bần Đạo đã vâng lịnh của Đức Chí Tôn đến Tần Quốc đặng kiến diện Sisoh và lên đó với Ông lão (Silipe) Bần Đạo phải mặc sắc phục của nước Tần đặng Bần Đạo được dẫn đến Sihohvade.

Trước khi bước ra đền thấy những bức tranh củ kỹ ấy trước mắt chúng ta, làm cho Bần Đạo nhớ đến Ông bạn già của Bần Đạo buổi nọ là Ông Silipe gặp nhiều trở lực lắm, muốn vào điện không phải dễ gì vào, buổi nọ có một vị tên Trần Thị Hương người đẹp lắm không hiểu duyên cớ gì mà bị thiên hạ bắt đem nạp cho vua Norodom làm cung phi. Vua ấy trọng hậu người lắm, chừng Vua Norodom thăng hà (chết) Bà Trần Thị Hương cũng vẫn còn sống, khi làm cái tháp tượng hình cho ông Norodom, trong ba vị cung tần có hình Bà Trần Thị Hương trong nầy (hình lõa thể) chính mình bà có dự trong cuộc lễ đó, khi làm lễ xong rồi Bà ra khỏi Điện tự hổ thẹn thất tình mà chết. Đức Chí Tôn phong làm Nội Quan Thần Nữ, Thị Hương có giáng đàn cơ. Bần Đạo khi đến Tần Quốc vào cung nhớ kêu danh của Bà, nhớ cái ơn ấy mà Bần Đạo làm Thiên Đạo đặng mỹ mãn.

Trong Cung ấy ngộ nghĩnh làm sao! Khi nói chuyện thấy ba bốn người dòm phía sau, Bần Đạo liếc mắt qua, chẳng ngờ trong ấy người dòm phía sau đây có một. Nhìn Đạo Cao Đài sẽ biết Bần Đạo, nếu có người biết Đạo Cao Đài được thế ấy vui không biết bao nhiêu, nếu có người được biết Bần Đạo đến kiến diện Sihohvade buổi nọ mà bây giờ được nhà Vua lấy lễ Đế Vương tiếp rước thì họ thỏa mãn không thế gì nói đặng, Bần Đạo ở đó được một tuần lễ.

Khi Bần Đạo về đi xuống Sài Thành đặng hội các đảng phái quân sự, Bần Đạo thấy có nhiều vấn đề hay, họ định thi hành, nếu thi hành được thì tương lai Quốc Gia Việt Nam có thể gỡ được điều ấy cũng nhờ ơn riêng của Đức Chí Tôn, nếu Bần Đạo nói ra sẽ được thỏa mãn, nhưng Bần Đạo chưa có thể nói bây giờ được, vì có ba điều bí mật chừng nào Bần Đạo thi hành được rồi Bần Đạo sẽ minh thuyết cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam, nữ nghe.

Q. 3/29: LỄ HƯNG QUỐC KHÁNH NIỆM.
Ngày 2 tháng 5 năm Canh Dần (1950)

Hôm nay trước khi nhắc lại những võ công oanh liệt của Đức Cao Hoàng, một giọt máu của dòng họ Nguyễn, một bực anh hùng đã không nài vào sanh ra tử, khổ sở gian lao để tạo lên một san hà như hoa như gấm chạy dài từ cửa Nam Quan đến mũi Cà Mau, mà chúng ta con cháu của Ngài được thừa hưởng ngày nay.

Bần Đạo xin nói qua về tôn chỉ của Cao Đài. Phải cần nhắc tới lập trường và tôn chỉ của Cao Đài lúc này vì tôn chỉ của Cao Đài có liên quan mật thiết với sự tồn vong của lãnh thổ, sự suy thịnh của Quốc Gia.

Về phần xác một tín đồ Cao Đài là một tượng trưng của sự quả cảm, sự hy sinh, sự tận tụy với tổ quốc, vì tin rằng một dân tộc vô tổ quốc thì dân tộc không làm nên một việc gì; cũng như dân tộc có tổ quốc mà không có đạo thì dân tộc ấy cũng là cái xác phàm phu của Trời ban cho không có tâm hồn để điều khiển.

Về phần siêu hình, Bần Đạo đã nhiều lần giải rõ bởi Linh hồn của người vô đạo luôn luôn bị điều khiển chế ngự bởi cái xác, sa ngã vào cái vòng dục vọng cạnh tranh phù hoa hảnh diện; kẻ đó còn đâu cái bản năng cao cả, cái lý trí sáng suốt để nghĩ đến chủng tộc giống nòi; trái lại cái linh hồn của kẻ có đạo là linh hồn của Đấng Chí Tôn tạo thành luôn luôn lựa đường quang đi, nẻo rậm tránh, dám hy sinh tất cả cho quyền lợi Quốc Gia, vì kẻ đó nghĩ rằng Quốc Gia có chủ quyền thì nước mới có Đạo; mỗi nước có Quốc Đạo thì dân tộc ở trong nước mới tìm thấy lẽ sinh tồn.

Nhắc tới những sự nghiệp của Đức Cao Hoàng thì Bần Đạo thấy rằng Ngài cũng vì quyền lợi tổ quốc vì không muốn bản đồ của nước Việt Nam phải vì thời gian mà bị xóa nhòa trong trí nhớ của hậu thế, mới ra công nằm gai nếm mật khôi phục sơn hà lưu cho cháu con ngày nay một dãy non sông như dệt gấm thêu hoa.

Mặc dầu nước Việt Nam của chúng ta đang bị hăm dọa bởi nạn xâm lăng, nhưng Đức Cao Hoàng một Đấng anh quân đã dày công gầy dựng san hà, thì theo chân Ngài cái chí phục quốc ấy phải có ở mỗi người dân Việt. Ngày nay, phải cần có một Đấng anh quân như vậy để bảo tồn nòi giống, gầy dựng giang san, người anh hùng ấy, bực anh quân ấy là ai Bần Đạo còn đang trông đợi.
    Home             1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ]  [ 10 ]  [ 11 ]  [ 12 ]  [ 13 ]  [ 14 ]  [ 15 ]  [ 16 ]  [ 17 ]  [ 18 ]  [ 19 ]  [ 20 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét