Q. 1/44: Cứu khổ về tinh thần.
Ðền Thánh, thời Tý rằm tháng
10 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm
qua Bần Ðạo đã giảng về phương pháp cứu khổ của Chí Tôn đem đến cho con cái của
Ngài về hình thể tức nhiên về xác thịt.
Hôm
nay Bần Ðạo tiếp, giảng phương pháp cứu khổ của Chí Tôn về tinh thần, tức nhiên
về tâm hồn.
Cái
khổ tâm hồn của loài người nó thống thiết nặng nề, nguy hiểm nhiệt liệt hơn cái
khổ xác thịt muôn phần. Cái khổ tâm hồn ta thấy nhiều người chịu không nổi phải
chịu quyên sinh, họ tưởng đau thảm của họ hễ diệt tiêu thi hài là hết, nguyên
do quyên sinh là vậy. Họ lầm! Sự thống khổ tinh thần hay tâm hồn, dầu xác thịt
nầy hủy hoại, cũng không an ủi được tâm hồn vẫn đau thảm như thường. Quyên sinh
họ tưởng khỏi việc đau khổ phần xác, trái lại sự đau khổ tinh thần ấy vẫn sống
mãi nơi Hư Linh lại còn dữ dội ghê tợn hơn nữa.
Ấy
vậy, sự đau thảm nơi thế nầy bao nhiêu, nếu không đặng an ủi, nó sẽ còn khổ não
thêm gia bội lúc ở cõi trần. Tại sao có sự khổ não tâm hồn? Loài người, chúng
ta lấy hết khối óc tinh anh xét căn nguyên, do đâu mà xuất hiện? Ta thấy tuồng
đời, các bậc nhơn sanh vô ngằn đẳng cấp, nếu làm thống kê định phẩm giá thì con
số vốn vô cùng tận, bao nhiêu người, bao nhiêu tâm lý, khác hẳn cùng nhau, tại
sao? Nếu ta biết rõ chơn lý của Ðạo thì do địa vị tấn hóa các chơn hồn, định
phẩm hình thể mình chẳng phải sản xuất do quyết định của mình mà do tiến triển
phẩm vị tinh thần trí não nơi Chí Tôn định vị. Ðiều ấy không cần luận vì biết
phần tâm lý, trí não mà hành tàng, sanh hoạt, mọi sự đều biệt phân, nên vì cớ
mà Ðạo pháp Chí Tôn đã giải rõ: Toàn cơ quan thống khổ cốt để làm bài học hay,
đặng tinh thần giục tiến tới nơi cao trọng cuối cùng là làm Chí Tôn trong vật
loại. Chúng ta không cần luận.
Phần
xác ta thấy gì? Thấy dường như trường bất công hiển nhiên trước mắt, nếu không
biết Ðạo thì chỉ trích cơ Tạo đoan bất công là phải. Tại sao chúng ta thấy dưới
thế nầy, ai cũng là người như ai, sao có kẻ tài, người dở, kẻ trí, người ngu,
kẻ hiền, người dữ. Cả thảy sự phân cách đặc biệt tâm lý cá nhân, ta thấy trường
tranh đấu sanh hoạt tương liên, tỉ như học trò đến trường cùng đồng bạn với
nhau, thấy mình sao tối tăm ngu muội, còn bạn mình sao sáng láng thông minh,
ngu đến nỗi phải bỏ trường không học đặng nữa về làm tên dân hèn, bạn mình khôn
ngoan hơn, lập phẩm vị cao trọng, làm quan quyền cầm vận mạng dân sanh, sửa trị
phong hóa, làm lãnh đạo cho đời, sao có sự phân biệt lạ lùng như thế ấy? Học
trò nào cũng quyết tâm rán học, mà học không nổi là do tại nơi đâu? Rán tranh,
tranh không lại phải khổ tâm hồn. Ðó là một lý.
Còn
lớn lên rồi trường đời chán mắt, nghề hay nghiệp giỏi tài tình đủ bảo thủ gia
đình, với nghề hay khéo, kẻ khác kia thâu sự đắc lợi sanh sống hạnh phúc, muốn
học làm theo mà học không nổi bắt chước lại hư, là tại mình ngu muội hơn mới
vậy. Tức mình hổ thẹn, phải đau khổ tâm hồn, người ta làm được sao mình lại
không, người lập danh vị đời đủ mực quyền hành, ta cả đời hiểu biết, có lẽ cũng
như người, mà vẫn làm tôi tớ cho người ra thân mai một. Uất ức tinh thần, người
ta sao được thế mà mình như vầy? Thấy hiển nhiên trường đời bất công, tức mình,
đó là khổ não tinh thần, tức là khổ não tâm hồn đó vậy.
Lại
nữa, kẻ đi buôn kia cũng buôn như ai, với phương pháp như họ, sao họ lại được nhiều
lời, lập lầu các nguy nga, vợ con đầy đủ sang trọng vinh hoa, còn mình dấn thân
làm con buôn lỗ lã thất bại tiêu tan, tức mình quá sức tức nhiên phải thống khổ
tâm hồn.
Mấy
lẽ bất công ấy thiên hạ tìm phương thuốc, có người theo huyền vi tìm mãi, kiếm
mãi, chờ có người đủ phương cứu khổ tâm hồn mà cũng tìm chưa gặp đặng. Mang xác
thịt phải chịu một phen thống khổ, đầu óc tính toán, tại sao mình tài tình hoạt
động có hơn thiên hạ, mà làm thì thất bại, tục gọi không thời buồn bực tức tối
đủ thứ, rồi đành an ủi lấy mình bằng câu: "Tài mạng tương đố" mà thật
ra không biết quyền năng do đâu mình phải chịu thống khổ như thế.
Các
sự thống khổ, Bần Ðạo luận từ nãy đến giờ, thiên hạ tìm thuốc cứu khổ, chạy mãi
không tìm đặng cho nên không một người nào sống ở đời được thỏa mãn. Kẻ hèn,
người sang, kẻ trí, người ngu, thất công tìm phương an ủi. Như hai vợ chồng anh
nhà nghèo kia, thấy thiên hạ giàu mình nghèo, mảnh áo chưa lành, ăn buổi mơi lo
buổi chiều, đau khổ, không hiểu duyên cớ nào người ta sang trọng, hết sức khóc
than rồi cũng tự mình an ủi lấy nhau, ngồi ngâm nga hát ru tâm hồn:
"Người ta giàu cái quần cũng
đũi, cái áo cũng đũi,
Ðôi đứa mình nghèo đốn củi, đốt
than.
Nghèo hèn xin bậu chớ than,
Rảnh đồng công mối nợ, anh mua
lụa hàng may cho".
Hát
như vậy rồi có lẽ vợ bớt khóc, mà anh ta cũng buồn cười.
Còn
trí như Khổng Minh, hồi đốt Tư Mã Ý đặng bảo thủ nghiệp Lưu, sợ có ngày sẽ vào
tay Tư Mã Ý. Ðốt nửa chừng trời mưa tắt cứu Tư Mã Ý khỏi chết, tức quá không
biết an ủi làm sao ngước mặt lên trời than: "Mưu sự tại nhơn, thành sự tại
thiên. Thiên lý vị nhiên, vị nhiên" nếu không an ủi như vậy, ắt ông phải
điên mà chớ.
Ông
Hồ Ðịch thấy Nhạc Phi bị Tần Cối giết một cách tàn nhẫn vì tại ngu trung, nghe
Phiên đem binh phạt Tống, ngồi xem kết quả bên nào ăn thua, nhứt là đợi cho quả
báo nhà Tống, nhưng Trời định Tống không thua, Phiên phải thối binh về nước,
tức mình than rằng: "Thiên Ðịa hữu
tư, thần minh bất công" đó là an ủi một cách hung bạo.
Ngày
giờ nào nhơn sanh tìm phương an ủi cho bớt thống khổ phương an ủi tìm cũng đáo
để như tìm gió theo mây, chạy đến gõ cửa Khổng Phu Tử: "Ông có thuốc gì an ủi nỗi thống khổ tâm hồn của tôi chăng?".
Thì Khổng trả lời: "Phương chuyển
thế không cùng, dầu đạt được Bí Pháp lấy Trung Dung cũng chưa thỏa mãn".
Sang gõ cửa Phật Thích Ca: "Phật có
thuốc gì chữa nỗi thống khổ tâm hồn tôi chăng?". Phật đem chơn lý Tứ
khổ trước mắt là: Sanh, lão, bịnh, tử, ấy là chơn lý. Người mới tự xét, tôi
không muốn sanh, mà ai sanh tôi ra chi để tôi chịu khổ thế nầy. Sống tôi không
muốn sống, vì sống là gốc sản xuất Tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai
làm cho tôi khổ, cũng không thỏa mãn tâm hồn. Tìm nơi Phật không thấy đặng gì,
đến gõ cửa Lão Tử: "Bạch Ngài, có
món thuốc gì an ủi tâm hồn tôi chăng?". Bảo cứ giữ đạo đức làm căn
bản, thoát mình ra khỏi thúc phược thế tình lên non phủi kiếp oan khiên nơi
tịch mịch an nhàn thân tự tại. Nếu không thế ấy thì đừng mơ mộng gì thoát khổ
được.
Nghe
lời lên núi ở mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn thì khó nhọc trần ai khổ
nhộng. Ðói tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an ủi cũng ra ăn trớt. Rồi
đến gõ cửa Jésus de Nazareth hỏi: "Ðấng
Cứu Thế có phương thuốc nào trị thống khổ tâm hồn tôi chăng?". Trả
lời: "Nếu các ngươi quả quyết nhìn
nhận mình là con cái Ðức Chúa Trời, tức là Ðức Chí Tôn, làm như Người làm, mới
mong an ủi tâm hồn được". Trong khuôn khổ phương pháp làm con cái của
Chí Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được, cũng như tuồng hát viết hay mà
không có kép tài đặng hát.
Cả
thảy không chối: Cũng có kẻ an ủi được nhờ đức tin vững vàng, còn phần nhiều
ngược dòng đi ngã khác, không ở trong lòng Chí Tôn chút nào tất cả. Thất chí
nữa hết thế tìm ai.
Bây
giờ Chí Tôn làm phương nào trong thế kỷ 20 nầy đặng an ủi tâm hồn nhơn loại,
Ngài đến cùng con cái của Ngài, quả quyết rằng: Nếu các con cái của Ngài tức là
Thánh Thể của Ngài mà lập Ðạo không thành, thì Ngài phải tái kiếp. Trọng hệ gì
dữ vậy? Ngài đến thế lập Ðạo, từ tạo thiên lập địa không cơ quan nào rời khỏi
tay Ngài. Ngự Mã Quân của Ngài sợ sệt kinh khủng, vì mỗi lần Ngài tái kiếp thì
phải chịu mọi điều thống khổ xác thịt lẫn tâm hồn.
Mỗi
phen đến, đặc biệt Ngài muốn thế nào sự đau khổ của Ngài đó sẽ làm cơ quan giải
thoát cho toàn thiên hạ. Sợ Chí Tôn phải khổ, nên Ngự Mã Quân tái kiếp lập Ðạo
thay thế cho Ngài. Tại sao vậy? Nói thật, không ai có quyền năng nào hơn mẹ ru
con, không ai có quyền năng bằng cha yêu ái, khi con đau đớn, con đương khóc mẹ
bồng thì liền nín, còn cha hôn một cái, hết thảm hết buồn.
Chí
Tôn sai các vị Giáo Chủ đại diện Ngài đến lập Ðạo do danh thể của Ngài, vâng
mạng lịnh nơi Ngài, đến thay thế giáo hóa con cái của Ngài. Chưa vị nào an ủi
được sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của đời. Khối đau thảm ấy từ buổi có loài
người chất chồng vô số kể.
Ngài
đến bồng nhơn loại trong tay, ru rằng: Khối đau khổ tâm hồn của các con là tại
các con đào tạo chớ không phải của Thầy, khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho
nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn đập đổ các đẳng cấp tâm hồn, thống nhứt
nhơn loại, nhìn nhau là anh em đồng máu thịt, cũng một căn bản cội nguồn, hầu
chia vui sớt nhọc, biết tôn ti nhau, kẻ trên không áp chế người dưới, trí không
hiếp ngu, hèn sang không phân biệt, mực thước tâm hồn nhơn loại phải đồng phẩm
giá, đồng quyền năng.
Ngày
giờ nào, nhơn loại biết tôn trọng nhau, dầu sang hèn nhìn nhau là anh em cốt
nhục, ngày ấy phương giải khổ không khó. Các con nghe Thầy mà làm y lời Thầy
thì khổ ấy tự tiêu diệt. Nếu các con còn đau thảm, thì đấm ngực nói: "Khổ nầy do các con tạo, không phải do
Thầy định tội đa nghe".
Thầy
đến chỉnh đốn tâm lý loài người, tránh tranh đấu, tiêu diệt lẫn nhau thì không
còn hổn loạn với nhau, thì tức nhiên diệt khổ chớ có chi đâu lạ.
Cơ
quan giải khổ tâm hồn của Ngài là đó.
Q. 1/45: Thuyết đại đồng.
Ðền Thánh, ngày mồng 1
tháng 11 năm Ðinh Hợi (1947)
Ngày nay Bần Ðạo giảng về đại đồng. Trước khi giải thuyết ấy, Bần Ðạo xin
giảng thuyết duy tâm và duy vật. Nếu không thấu hiểu hai thuyết ấy, thì không
hiểu thuyết đại đồng. Bần Ðạo đã giảng về Tam Bửu tức là ba cơ quan tạo nên con người: 1. là Tinh, 2. là Khí, 3. là Thần.
Tinh
là gì? Tinh
là con người hữu hình tức là xác thịt ta.
Khí là gì? Khí là trí não
của chúng ta.
Thần là gì? Thần là linh
hồn của chúng ta, Ðức Chí Tôn gọi là chơn linh.
Ba
món báu ấy tương liên với nhau, bởi vì mỗi Bửu có Thể Pháp riêng, mà ba xác ấy hiệp
lại mới tạo thành hình ảnh con người.
Bây
giờ phân ra: Tinh là Vật, tức nhiên là con vật là thú, như các con thú khác,
nghĩa là hình xác đứng về hàng phẩm thú. Khí là sanh quang trí não ta. Thần là
chơn linh sản xuất nơi Chí Tôn. Ba cơ quan tương liên nhau, có Khí làm trung
gian. Khí là trí não ta, nó đáo đến địa giới hiệp cùng chơn linh cho huệ trí.
Trái lại, nếu nó không tương liên với linh hồn đặng thì nó lại tương liên với
xác thịt, nghĩa là nhập vào giác tánh của con người. Giác tánh là gì? Giác tánh
là trí não thô sơ, nó chỉ biết sống như con vật. Tỉ như con thú kia mới sanh ra
chưa biết gì mà đã tìm vú mẹ, đặng bảo trọng sanh mạng của mình. Luật bảo sanh
biểu nó tìm bao nhiêu đó để sống mà thôi. Ba món báu ấy tương liên với cả Càn
Khôn Vũ Trụ, Thần tương liên với Phật tức là Chí Tôn, Khí tương liên với Pháp,
còn Tinh tương liên với Tăng, tức là với vật loại.
Ấy
vậy duy vật là xu hướng theo Tinh, còn duy tâm tức là thuyết hữu thần, tương
quan với Phật là Chí Tôn. Bình thường các Tôn Giáo, đặt ra tên nầy, danh nọ đủ
thứ, chí lý là tìm Ðấng tạo sanh vạn vật, lấy hình của người mà tạo linh quang
của loài người tức là Cha linh quang của chúng ta, hay là Cha của vạn loại đó
vậy. Bởi vậy, các Tôn Giáo, nhứt là Thiên Chúa Giáo nói: Con người là Thiên Thần
bị hãm tù bởi chơn linh của chúng ta với Thiên Thần đồng chất với Chí Tôn. Mang
lấy xác thịt nầy tức là ở trong cái khám vật loại. Còn Phật Giáo cho ta hiểu ba
báu ấy chẳng khác nào như người cỡi ngựa với con ngựa. Con ngựa ấy là con kỵ
vật tức là Tinh, Pháp là dây cương con ngựa, mà trọng yếu hơn hết là đồ bắt kế
con ngựa là hàm thiết, chưn đưng kềm con ngựa chạy ngay con đường mình muốn tức
là Tinh. Người cỡi là chơn linh ta, nghĩa là Thần, Thần là hình ảnh của Chí Tôn
tạo cho ta, vì cớ con người có cao vọng chưa đạt được gì cao trọng, chưa đắc
huệ trí mà đã tưởng mình là Ông Trời con, nên luôn luôn muốn làm Trời hơn hết.
Tại sao vậy? Có khó gì đâu mà không hiểu: Ðứa học trò ngồi trong lớp thấy ông
quan vô, có kỉnh sợ chi đâu, mà tự nói thầm rằng: Ông làm quan được trước, tôi
cũng sẽ làm quan được, trừ ra khi nào ném sách vở ra chăn trâu, thì mới hết
phương làm được.
Chơn
linh biết mình muốn tu hầu làm Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng có thể làm bằng
được Chí Tôn mà chớ, bởi vì phẩm vị Ngài đã dành để sẵn cho các con cái Ngài,
nếu người nào làm được như Ngài vậy. Bởi vậy dầu chưa làm được ra gì, đã biết
mình là Trời tại thế. Có câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển nhiên như Ðức Trạng
Trình là Nguyễn Bỉnh Khiêm buổi nọ hồi còn bé đi học, có Quan Huyện đến xét trường
hay là thăm trường chi đó, nghe nói Ngài nổi danh Thần Ðồng khi thấy Ngài nhỏ
người, thân không cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng xình, vì bận bính của ai
đó lết bết dưới đất tức cười lắm nên ghẹo chơi. Ông Huyện ra một câu đối như
vầy: "Học trò là học trò con, quần áo lon xon là con học trò". Ngài
ứng thinh trả lời liền: "Ông Huyện là ông Huyện thằng, ăn nói lằng xằng là
thằng ông Huyện". Ngài nói liền thiên tư
nhứt định không chịu thua.
Ấy
vậy duy tâm thì sản xuất thiên tài, duy vật thì sản xuất nhơn tài. Ðể rồi sau
Bần Ðạo sẽ thuyết ra thiên tài và nhơn tài một lần đặc biệt. Nãy giờ Bần Ðạo đã
mở đề cho hiểu xin nên nhớ và nghe giảng tiếp thuyết đại đồng.
Ðại
Ðồng là hiệp một loại vật. Vậy đại đồng tiến hóa do căn bản nơi đâu mà có? Dám
chắc hỏi đại đồng là gì? Không ai giải nghĩa được. Ðại đồng là đồng sanh tức
nhiên là chúng sanh đó vậy. Ai đã đồng sanh với ta là bạn, là anh em của ta. Bởi các
vật hữu hình thọ quyền năng vô tận vô biên của Chí Tôn, đến thế gian với một
mạng sanh, tức là đồng sanh, dầu vật loại, côn trùng, thảo mộc, thú cầm hiệp
với loài người là chúng sanh, tức nhiên là bạn đồng sanh cả thảy.
Hễ đồng sanh ta phải nhìn nhau là anh em trong lòng Chí Tôn mà sản xuất, vì nhà
Phật cấm ta không đặng sát hại sanh vật, vì là bạn đồng sanh của chúng ta.
Vậy hai chữ Ðại Ðồng là
gì? Thật ý nghĩa bạn đồng sanh, nhìn nhau hiệp một trong nguyên căn gọi là đại
đồng. Hỏi thuyết đại đồng ngày nay xuất hiện là tại sao? Chúng ta đoán dễ lắm.
Cung kỉnh, tôn trọng, quí hóa mạng sanh vạn loại, loài người
đứng phẩm tối cao tối trọng, thay thế hình ảnh Chí Tôn có quyền làm Chúa đại đồng. Loài người bị tàn ác, chẳng những sát hại vạn linh mà thôi, lại chém giết tranh
ăn, tranh sống, lấy cường lực đàn áp làm căn bản, dùng bạo tàn làm chúa thiên
hạ, chớ không dùng đạo đức tinh thần. Bạo tàn không dễ làm chúa thiên hạ. Cái
thuyết duy vật là trong khuôn luật vật hình nhứt định, còn thuyết duy tâm chỉ
có khuôn khổ thiên nhiên, theo thuyết duy vật nào là các cường quốc trên khắp
địa cầu tìm đủ phương châm luật pháp, làm cho thiên hạ hòa ra đại đồng ấy là
điều mơ mộng, vì không hề đạt vọng được. Chưa ai hiểu đặng một người tài tình
quán chúng, trí não cao sâu phải hạ mình làm người ngu dốt. Chưa có quyền năng
nào mà đem một đứa ngu dốt lên làm ông Tể Tướng triều đình. Hàng phẩm căn mạng
đều do Chí Tôn sở định. Ðã biết không ai ép buộc được, không khuôn luật nào
biểu một vị đại văn sĩ ăn mày ngoài chợ được.
Hễ
không có hình luật nào làm được, sửa được, thì thuyết đại đồng thiên hạ không
thành tựu. Thuyết ấy kết liểu được là khi nào lấy thuyết hữu thần duy tâm làm
môi giới chung trong sự yêu ái tôn trọng nhau trong tình anh em đồng một căn
bản, một máu thịt một chủng tộc. Vì cớ các Ðấng giáng cơ bên Âu Châu nói: Loài
người sẽ đạt được đến địa vị tối cao tối trọng mà họ muốn đạt, là loài người sẽ
có nòi giống một quốc gia, một Tôn Giáo, ngày giờ nào loài người đạt được ba
điều ấy thì thế giới đại đồng kết liểu thành tướng. Chí Tôn đến với loài người,
Ngự Mã Quân của Ngài sợ sệt Ngài xuống trần phải nguy hiểm. Ngài đến tạo cho
loài người một quốc gia, một nòi giống, một Tôn Giáo. Nhưng Ngự Mã Quân của
Ngài không muốn cho Ngài đến, nên thay Ngài đến làm cho ba điều ấy thành tựu
nên hình. Nếu ba điều ấy thành thì đại đồng thế giới thành. Nếu ba điều ấy
không thành, thì đại đồng thế giới là thuyết vẫn còn trong vòng mơ mộng.
Q. 1/46: Sự tích Ðức Chúa Jésus giáng sanh.
Ðền Thánh, đêm 14 tháng 11 năm
Ðinh Hợi (1947)
Ngày
hôm nay chúng ta tính từ ngày đã đúng 1947 năm của Chúa Cứu Thế, tức Ðức Chúa
Jésus Christ ở làng Nazareth xứ Palestine vâng mạng lịnh Ðức Chúa Trời, tức là
Ðức Chí Tôn, đến độ rỗi các sắc dân Âu Châu. Chúng ta quan sát và chính Bần Ðạo
quan sát thấy chơn truyền của Ðạo Thánh Gia Tô vẫn đồng căn đồng bổn với Ðạo
Phật, ấy là Phật Giáo Hạ Thừa, không có chi khác, dầu Bí Pháp chơn truyền hay
Thể Pháp đều cũng y như vậy.
Thảng
từ thử đến giờ, có thuyết chia rẽ tinh thần, là tại nơi người phàm, đem thuyết
ấy để trong sự tín ngưỡng của sắc dân Âu Châu nên mới có sự chia rẽ nòi giống.
Vì nạn ấy mà chúng ta ngày nay thấy trên mặt toàn cầu nòi giống chịu nạn tương
tàn, tương sát nhau.
Bần
Ðạo xin thuyết cái nguyên căn của Ðức Chúa Jésus Christ là gì?
Thỉnh
thoảng rồi Bần Ðạo sẽ đem nguyên căn của Thánh Giáo Gia Tô thuyết minh ra cho
cả thảy nam nữ đều rõ biết.
Ðức Chúa Jésus Christ là
ai? Nếu chúng ta thấy chơn truyền của dân tộc Nébreux tức
dân Do Thái bây giờ để lại, theo luật pháp của Thánh Moise đã tiên tri nói về Ðấng Cứu
Thế giáng sanh, nếu chúng ta tìm tòi, lật từ tờ trong Kinh Thánh Gia Tô chẳng
hề thấy tên Christ và chẳng có tên Christ mà nơi cõi thiêng liêng Bần Ðạo
dám chắc Ðức Chúa Jésus Christ là Chơn linh Christna là Tam Thế
Tôn đó vậy.
Ðức
Phật Christna không phải xa lạ với chúng ta, bởi vậy cho nên Ngài đã đến mà tại
đến với chức trách nhỏ nhen hèn hạ, bởi loài người quá tự kiêu, tự đắc, dùng
phương pháp nhỏ nhen, hạ mình hèn hạ ấy hầu đem tâm hồn chí Thánh của Ngài thức
tỉnh các sắc dân Âu Châu. Ngài đến nơi một nhà bần hèn. Bần Ðạo xin nói rằng:
Ngài đến nhà của bà Maria cốt yếu là một bà tu trong Ðền Thánh Jérusalem, ông
Joseph cũng người tu trong Ðền Thánh. Luật của Ðền Thánh buộc hễ con gái đến
tuổi cập kê cho ra xuất giá. Năm ấy cô Maria tức là một cô Ðạo nữ, chúng ta nói
là một Ni Cô ở Ðền Jérusalem, đến tuổi lấy chồng. Phép Ðền Thánh buộc mấy Thầy
tu trong Ðền Thờ phải có người đứng ra cưới, bởi vì chiếu theo lời Chí Tôn căn
dặn nhủ lời Ngài nói với Adam và Eve buổi nọ: "Unissez vous et multipliez". (Bây phải chung sống cùng
nhau đặng biến sanh ra nhiều nữa.)
Lễ
tuyển chọn chồng cho bà Maria, theo luật Ðền Thánh buộc mỗi vị nam lựa bông để
trong Ðền Thánh 3 ngày, nếu bông ấy còn tươi tắn thì được cưới.
Hại
thay! Có nhiều kẻ trẻ trung, còn ông Joseph buổi nọ đã quá 50 tuổi cũng phải
chịu theo luật cưới ấy. Nếu chúng ta nói đến hoa khôi lịch sắc thì bà Maria
cũng có thể kể vào hạng đó. Mới tới tuổi cập kê mà sắc đẹp ấy làm biết bao
nhiêu kẻ nam nhi ước vọng. Ông Joseph cũng như mọi người đem bông đến Ðền Thờ
chịu trách nhiệm tuyển chọn ấy. Người tìm bông nầy, bông kia. Còn ông, ông tính
mình đã già rồi, vợ con mà làm chi, nhưng luật Hội Thánh buộc không làm ắt có
hình phạt hoặc quì hương chẳng hạn (Cười...). Bước ra khỏi Ðền Thánh, ông thấy
bông huệ khô héo của ai bỏ, ông lượm lấy đem cậm vào bình, không ngờ thứ huệ
rất nên kỳ lạ, những bông nụ nở rồi nó rụng đi, còn bông búp bắt hơi nước sống
lại, nở tươi đẹp, còn các thứ hoa khác tàn rụi hết ông phải chịu phép cưới cô
Maria.
Hại
thay! Nhà tu nếu làm lễ cưới rồi phải ra khỏi Ðền Thánh, mà đôi vợ chồng ông
đều tu không gia đình, không nhà cửa, không phương sanh sống, thật rất nên thê
thảm.
May
thay! Lúc còn ở Ðền Thánh, ông Joseph làm thợ mộc. Ông giỏi nghề mộc lắm. Ông
mới bàn tính, bây giờ vợ chồng nghèo dắt nhau ra ngoài làm ăn, chồng làm thợ
mộc, vợ may vá mà bà Maria về nữ công rất hay, khéo nghề đan (tricoter) nhờ vậy
tìm sự sanh sống cũng tạm được đầy đủ.
Thảng
mãn ngày qua tháng lại, hạ sanh con đầu lòng là Jésus. Hai vợ chồng nuôi con
với phương tiện nghèo khổ, nhứt là ngày hôm nay là ngày sanh của Ðức Jésus
Christ còn để lại dấu tích cho chúng ta thật đáng để ý hơn hết. Ðêm lễ Noel
trong Ðền Thánh làm lễ long trọng như chúng ta làm lễ hôm nay vậy, hai vợ chồng
đi lại từ làng Nazareth vô Ðền Thánh làm lễ. Khi đó bà đã có thai gần ngày
sanh, nghĩ mình đã có căn tu, đến ngày Ðại Lễ không thể ở nhà được, bụng mang
dạ chửa, cũng rán đi đến chầu lễ thường lệ.
Ở
Châu Thành nhà cửa bị thiên hạ mướn chật hết, kiếm không ra chỗ ngụ, không lẽ ở
ngoài trời, mới vô năn nỉ chúng cho ở trong chuồng chiên tạm trú. Trời đang
tiết Ðông thiên, như ngày nay chúng ta nghe cũng hơi lạnh, lạnh lẽo lạ lùng
nhứt là đối với hai người tâm Ðạo nầy vô ngủ trong chuồng chiên rất khổ sở.
Ðúng 12 giờ khuya đêm ấy bà chuyển bụng sanh ra Ðức Chúa Jésus Christ.
Trong
sách nói, ngày Chúa Giáng Sanh, có vì sao gọi là sao chổi mọc không gì khác lạ,
đó là Comete de Halley, mỗi 75 năm mọc trở lại một lần. Các vị Vương tiên tri
rằng: "Ngày nào sao chổi ấy mọc là ngày Chúa giáng sanh nên nhớ để dạ tìm
người". Có nhiều huyền diệu ta không thể tưởng tượng được như đám chăn
chiên đóng trại ngoài trời, bổng nghe giữa thinh không có nhiều Thiên Thần kêu
nói có Chúa Cứu Thế giáng sanh, nên Vua của dân Maures và các người chăn chiên
ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên hơn hết.
Tai
hại thay! Thời buổi đó nước của dân Juifs bị Ðế quốc Romains chiếm làm thuộc
địa, ở Palestine thì để một vị Chánh Soái là Hérode Antivas hằng để tâm mưu sát
Ðấng Chúa Cứu Thế, vì có tiên tri nói đến làm Vua nước Do Thái, nên ngay từ
buổi đến trấn nhậm Palestine chính Hérode đã giết ông Thánh Saint Jean
Baptiste.
Buổi
ấy các nhà tiên tri cho biết Ðức Chúa Cứu Thế sanh ngày đó mà không biết Ðấng
Chúa Cứu Thế là ai? Muốn giết, mà không biết ở đâu? Nên bắt tất cả con nít sanh
trong đêm ấy ra giết hết, đinh ninh rằng: Trong đám đó có lẽ có Ðấng Chúa Cứu
Thế. Ai dè may thay! Ông Joseph đêm mệt mỏi nằm mộng thấy Thiên Thần mách bảo,
liền bồng đứa trẻ trốn qua Egypte. Hai vợ chồng đào tẩu kịp chớ không thì Chúa
cũng đã bị giết rồi.
Qua
Egypte một thời gian, đứa con lên được lên 5, 6 tuổi, nghe tin bên nước mình
đặng yên và có lịnh thiêng liêng truyền dạy hai vợ chồng trở lại Palestine,
chồng làm thợ mộc theo nghề cũ, vợ may vá nuôi con, lại sanh thêm ba bốn người
con trai, gái nữa, thành thử cách sống rất nghèo hèn khổ não, từ cái đường sông
Jourdain Ðức Chúa để bước đội nước mỗi ngày giúp mẹ cùng kiếm công một hai cắc.
Buổi
nọ là lúc đã trộng rồi, được 12, 13 tuổi, theo cha học làm thợ mộc, ông chỉ đâu
làm đó. Khi đó ông Joseph lãnh làm nhà của người ta, rủi cắt làm sao mấy cây
cột lỡ cụt hết người chủ bắt đền không biết liệu làm sao? Nhà nghèo tiền đâu
mua cột khác đặng bồi thường. Ông ngồi khóc ròng, đoạn Chúa mới cầu nguyện rồi
cha một đầu con một đầu nắm kéo nhẵng ra cho đủ thước đặng bồi thường cho đủ,
bằng không thì chỉ có ở đợ mà trừ. Thiệt lạ lùng thay và huyền diệu thay, đó là
Ðấng Christ hành pháp lạ lần thứ nhứt.
Trong
năm 12 tuổi là năm kéo cột đó, Jésus vô Ðền Thờ, buổi nọ chơn linh Ðức Christna
giáng hạ, các vị Giáo Chủ trong Ðạo toàn là những bác sĩ nghe tiếng đồn danh
thần đồng của Chúa Jésus nên khi vô Ðền Thờ, họ xúm nhau lại vấn Ðạo, Ðức
Christna giáng linh, ngồi giữa các vị Giáo Chủ ấy, thuyết đạo làm cho thiên hạ
ngạc nhiên sự lạ.
Hai
vợ chồng buổi nọ đi chầu lễ Sablat vô Ðền Thánh cúng rồi về, dòm lại Ðức Chúa
đâu mất, hỏi ai nấy có thấy Jésus không? Hai ông bà tìm kiếm mãi cũng không
thấy con, sợ sệt, hơ hãi chạy trở lại Ðền Thờ, thấy Jésus ngồi giữa, các bác
sĩ, Giáo Chủ đó ngồi chung quanh đương vấn Ðạo.
Bữa
nọ vì tình cờ, tuy vân lúc còn ở trong Ðền Thánh Bà có được truyền tin rằng: Bà
sẽ cho loài người nơi mặt thế nầy, bởi nơi lòng Bà xuất hiện ra Ðấng Chúa Cứu
Thế, tuy đã biết trước như vậy, nhưng vì chạy kiếm con không thấy, vừa mệt, vừa
sợ sệt đến khi tìm gặp, thấy con ngồi thuyết Ðạo, đã có lòng phiền, bèn kêu
Chúa nói: "Sao con làm cho Mẹ khổ não kiếm con lắm vậy". Ðức Chúa
liền nói: "Bà kia, bà không biết tôi
đang làm phận sự của Cha tôi biểu phải làm hay sao?". Bà mới tỉnh, tự
hiểu biết, nên phiền Ðức Chúa vì lời nói đó. Từ đó khi Chúa về nhà thì cũng như
mọi đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng đục đẽo làm thợ mộc phục tùng cha mẹ
hiếu hạnh đủ điều.
Trong
nhà em út bất hòa, còn ông Jésus hiền lắm tánh hay nhịn nhục nên mấy người em
thường hay ăn hiếp. Ở nhà không yên, ông đi làm thợ lấy tiền về nuôi cha mẹ lây
lất qua ngày.
Ðến
năm 30 tuổi nghe Saint Jean Baptiste truyền giáo tại bờ sông Jourdain, cũng
trong lúc đó, Ðức Chúa đến gặp ông đang giải oan cho thiên hạ. Khi vừa thấy Ðức
Chúa ở xa xa đi đến thì ông đã biết là Ðấng Chúa Cứu Thế, mới nói: "Từ
sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một người nầy thôi". Ðức Chúa đến thọ giáo nơi
ông Thánh Saint Jean Baptiste và chịu phép Giải Oan của Ngài. Trong buổi vừa
hành pháp xong, Ðức Chúa ở bờ sông Jourdain vừa bước lên thì trên không trung
hiện ra hào quang sáng suốt, hiện ra giống như chim bồ câu trắng (colombe) sa
giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh không có tiếng nói: "Nầy con yêu dấu của
Ta, cả ân đức của Ta để cho Ngươi đó ". Từ ngày đó Ðức Chúa Jésus là chơn
linh Ðấng Christna giáng hạ cho nên đi truyền giáo nơi nào, chơn linh Ngài
không phải như ngày sanh nhựt nữa, mà đã biến thành Chí Thánh vậy. Ngài là chơn
linh Thánh sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả Ðạo Giáo, Ngài quan sát nơi mặt
thế nầy, Ðức Jésus Christ không kém hơn ai trong hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt
tâm lẫn truất thương sanh, yêu ái người thật nồng nàn chơn chất. Ðức Thích Ca
thế nào thì Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên hạ thương mến nghe theo Ðạo Giáo của
Ngài. Dân Juif các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua chúa Palestine, thấy Ðức
Chúa Jésus Christ thuyết Ðạo Giáo có một chí hướng chơn truyền phản khắc với tôn
chỉ của họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến đầu cáo với César rằng: "Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn
Juif ra khỏi sự thống trị của chế độ Romain", nhưng họ cáo đủ thứ cũng
không được , vì Thánh đức của Chúa không thể phạm vào được. Họ lại tìm cách bài
bác Luật Ðạo, tạo một ban tuyên truyền làm cho nhơn gian sợ di hại liên lụy
không dám gần Chúa. Mấy Giáo Chủ (Caiphe) ấy bắt Jésus giao cho Nguyên Soái
Pilate lên án tử hình. Tuyên truyền thế nào không biết cho đến ngày Lễ Pâques
là ngày thả tù nhơn, có tên Barabbas là Tướng hung dữ, sát nhơn đủ tội lỗi mà
toàn dân Juif đồng tha bổng, còn Ðức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử hình
và đem ra giết, đóng đinh trên cây Thập Tự.
Cái chết của Jésus Christ
là gì? Là Ngài đem xác Thánh trọng quí dâng cho Chí Tôn làm tế vật, xác Thánh
chết trên Thánh Giá là Lễ Tế đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng cùng Ðức
Chí Tôn ngày nay đó vậy.
Vậy, Ðức Chúa Jésus Christ
đã làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân Âu Châu, nên danh thể Ngài để hai chữ Cứu Thế
chẳng có chi là quá đáng.
Thật
ra Ðấng Cứu Thế ấy là Tam Thế Chí Tôn giáng linh tức Christna tái thế.
Q. 1/47: Thiên Tài và Nhơn Tài.
Ðền Thánh, ngày rằm tháng 11
năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm
nay Bần Ðạo giảng về "Thiên Tài và Nhơn Tài". Nhưng trước khi giảng
thuyết ấy, nên mở một lối để cả thảy hiểu nguyên do nào mình đạt được thiên tài
hay chỉ nắm nhơn tài mà thôi.
Bần
Ðạo đã giảng nhiều phen hình trạng Tam Bửu, đã cho cả thảy biết trong mình ta
có tam thân, thất phách, chúng ta gọi theo Ðạo giáo là Tinh, Khí, Thần.
Thứ
nhứt: Thân thể hữu hình của chúng ta đây gọi là Phàm thân.
Thứ
nhì: Thân thể khí chất vô hình, mắt không nhìn thấy được, nếu thấy được là đạt
Ðạo, gọi là Pháp thân.
Thứ
ba: Gọi là Linh thân tức là linh hồn. Ba món báu ấy chung hiệp nhau lại tạo nên
hình ảnh con người.
Nếu
ta thấy được thì thân thể hữu hình nầy đồng thể với vật loại tức là thú vật.
Pháp thân tương liên với Càn Khôn Thế Giới đồng thể với Khí, cả Khí chất tạo
đoan ra nguyên do loài người, lấy nguyên do đó làm hình ảnh của linh thân chúng
ta, còn sự sáng suốt linh thiêng là do nơi lòng Ðức Ðại Từ Phụ. Vậy chia làm ba
(3) người trong ta nuôi nấng xác hài hữu hình nầy. Pháp thân một mặt gìn giữ
xác thân châu toàn kiếp sống, một mặt tương liên với quyền năng sở định của các
Ðấng Thiêng Liêng với Chí Tôn. Vậy nó chia ra hai lập trường:
Lập
trường đối với vật loại.
Lập
trường đối với Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng.
Ðối
với Chí Tôn, Pháp thân phải có tinh thần trí thức bổn năng xu hướng quyền năng
vô hình, tìm nguyên căn mình xu hướng theo Ðấng Tạo Ðoan, hiểu thể hình, biết
đi, biết về, gọi là huệ tức tâm. Thảng không biết, chỉ lo bảo tồn sự sanh sống
của vật loại thôi thì trở nên tánh. Một đàng Linh tâm, một đàng Giác tánh, nó ở
giữa.
Bây
giờ đã hiểu rồi, Bần Ðạo xin thuyết về "Thiên Tài và Nhơn Tài".
Trí
giác Pháp thân chúng ta có hai điều xu hướng, hễ xu hướng theo thiên tư thì đạt
được thiên lương là một khối tài tình đạt kiếp sống vi chủ cùng tận hình thể,
việc nầy không gì khác hơn là cái kho đựng quyền năng ta đạt được. Trong phép
luân chuyển kiếp sanh lập kho chất chứa cả tài vật của chúng ta đạt đặng trong
kiếp sanh, nhờ đào luyện bởi bài học khổ của cơ tạo đoan, năng chịu khổ, giỏi
chịu hành hạ khổ não chất chứa. Kho đó còn, tài vẫn còn.
Trở
lại Giác tánh, ta thấy gì? Biết bảo trọng mạng sống như muôn vật, như trâu ăn
cỏ, khỉ ăn trái cây, giác tánh tạo hình xu hướng theo vật loại thì đè pháp thân
xuống, muốn tìm hạnh phúc mà thôi, mà tiềm tàng hạnh phúc ta tưởng thế gian nầy
nhiều tượng hình, tương đối với Càn khôn, xác thịt yếu ớt tìm phương để bảo vệ
không có phương nào không làm, so sánh với vạn vật thì con người thua nhiều con
vật khác, thua công khai, như con cọp mà mình kêu ông cọp. Muốn thắng nó đặng
thì trí lự tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự vệ lấy mình, nên làm
chủ nó được. Giác tánh tìm phương tự vệ phải xu hướng theo đường duy vật.
Nhơn
Tài ta thấy gì? Có một kho sách ở thành New York có 2.000 triệu quyển sách, học mưu hay chước khéo, cả thảy tài tình nhơn loại cộng thành khối lớn,
nhưng chưa hề quyết đoán vận mạng nhơn loại được.
Nhơn
Tài đã làm gì hạnh phúc cho nhơn loại, chúng ta đã thấy dầu cách vật, họ đi tới
mức huệ, qua không được, trở lại vật hình. Trên kia đã thấy gì? Họ tìm phương
pháp tương tàn tương sát nhau, có gì khác hơn đâu, bởi duy vật chỉ làm chúa vật
loại mà thôi, ấy là Nhơn Tài. Phương pháp của con người tìm thế đem cả hình thể
của người lên làm chúa cả vạn vật, ấy là thuyết duy vật. Những mưu chước hay
khéo, họ thâu đoạt được để làm chúa vạn vật thuộc Nhơn Tài.
Bây
giờ tới thuyết Thiên Tài. Thiên Tài là khi nào Pháp thân xu hướng theo nguyên
do căn bản, tâm linh của nó. Tự hỏi mình cũng như con vật, sao khôn ngoan hơn
vật, sao có linh tâm, có căn bản vì đâu? Tìm kiếm ra căn bản ấy là Tu. Tu để
tìm nguyên do linh tâm chúng ta là thiên lương ta đó, hay khéo hơn hết là ngày
giờ nào để trí thức tinh thần theo thiên lương thì mở mang một cách lạ lùng.
Tại
sao khiếu vật hình không làm trở ngại vật mà phải cùng ta tự tìm kiếm, tự luyện
tinh thần ấy là Pháp thân thì đạt huệ, mà đạt huệ đặng thì đóng khối trong kho
vô tận từ thử đến giờ, nếu mở cửa ra được là lấy được, kiếp nầy mang thi hài
xác thịt, có một bài học mà thôi, còn các bài học kia nếu chúng ta dở quyển
sách vĩnh sanh ra thì không có gì khuất lấp được.
Thiên
Tài qui tụ nơi trí ta đặng, không có năng lực nào nơi mặt thế nầy đối phó mà ta
không thắng. Không nói Thiên Tài ấy đủ quyền năng tạo hạnh phúc thi hài chúng
ta mà thôi, lại còn tạo hạnh phúc cho thiên hạ nữa mà chớ, ấy là cơ quan đạt
Ðạo. Các Giáo Chủ tại thế nắm Thiên Tài, bảo trọng tinh thần loài người tức
nhiên cứu người đó, bởi chúng ta thắng vật hình hữu vi, hữu hoại nầy. Ðêm ngày
24 giờ, thấy chết sống trước mắt, thiệt tướng . Chẳng phải ở cái sống nầy mà ở
trong buổi chết, biết bao nhiêu kẻ khi khổ não cực nhọc thi hài quá lẽ, chạy
theo phương cứu khổ, tìm không được phải thống khổ tinh thần. Muốn an ủi chúng
nó phải đi con đường nào? Sự thống khổ có thể an ủi được chỉ trong giấc ngủ,
khi thức, mở mắt ra thấy kiếp sống nầy đương đau thảm, ta tìm được phương an
ủi, làm cho bình tỉnh tâm hồn, định được thiên lương chúng ta trong giấc ngủ,
khi thức chúng ta đã thấy trường đời đau thảm.
Ðã
giải rõ hai thuyết Nhơn Tài và Thiên Tài, xem coi bên nào hơn bên nào kém. Hại
thay! Những kẻ biết vật không biết hình bóng của vật, chỉ biết vật không biết
thiên lương, bởi cớ, trường đời ta thấy trí lự Nhơn Tài tìm phương tranh đấu
sanh sống, hạnh phúc hơn người, cả Nhơn Tài hiện tướng dữ dội lần lần đẹp đẽ có
mùi vị quyền năng trục cả tinh thần con người theo nó, chưa biết tồn tại chăng?
Hình ảnh trước mắt ta thấy cả trường đời đi đến con đường tự diệt, chớ không
phải con đường vĩnh sanh. Nếu chúng ta muốn đạt được quyền vĩnh sanh thì lấy
Thiên Tài làm căn bản.
Muốn
đoạt Thiên Tài không theo ai, không xin ai được hơn là đi theo Ðại Từ Phụ, dầu
ta ngu ngốc thế nào, xin một ngày không đặng thì hai ngày đến một tháng, một
năm, nếu theo hoài dầu cho có nhiều xin mà ông Cha không thể cho đặng, chúng ta
cứ cương quyết chiều lòn phục lụy, kiên nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải cho,
bởi không nỡ nào không cho, mà hễ Ðấng ấy cho rồi không có cái gì ở thế gian
nầy đối với của ấy được.
Lời
Bần Ðạo căn dặn: Mặc ai sang trọng ở trường đời, ta cứ quyết theo Chí Tôn thì
đại nghiệp không mất, quả quyết đứa con nào của Ngài trọn trung, trọn hiếu với
Người và với Hội Thánh là hình thể của Người tại thế gian nầy, thì không bao
giờ thất nghiệp và thất phận.
Q. 1/48: Dâng Tam Bửu.
Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng
chạp năm Ðinh Hợi (1948)
Bần Ðạo xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam Bửu. Hễ
dâng Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí
Tôn: "Con xin dâng mảnh hình hài của
con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
Khi dâng Rượu cầu nguyện: "Con
xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
Khi dâng Trà cầu nguyện: "Con
xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
Câu chót nếu ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con, Thầy đào tạo đó là của Thầy thì
do nơi
quyền hành độc đoán của Thầy định". Ðó
ta cầu nguyện như vậy với Chí Tôn.
Bần
Ðạo đã giảng Tam Bửu, tại sao Chí Tôn lấy bông tượng trưng hình hài, Ngài muốn
nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.
Ngài
lấy rượu là muốn tinh thần của loài người cường liệt như rượu mạnh vậy.
Ngài
lấy trà là muốn chơn linh ra điều hòa như trà vậy. Ngài lựa ba món đó cốt yếu
là vậy.
Ngày
nay Bần Ðạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Ðức Chí Tôn, cả thảy mỗi phen vào Ðền
Thánh nắm sanh khí ấy tạo cả cơ quan hữu hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú
vật vạn linh hữu tướng, thuộc về Tăng.
Ðứng
đầu tiên hết Chí Tôn tức là Phật nắm cả cơ quan bí mật tạo thành Càn Khôn Vũ
Trụ.
Ðạo
nầy luật thế nầy, Ðạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật Giáo.
Giả
thí như Thánh Giáo Gia Tô cũng có ba ngôi (la trinité): Le Père, Le Fils et Le
Saint Esprit (Ðức Chúa Cha, Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần). Ðức Chúa Cha
là Phật, Ðức Chúa Con là Pháp, Ðức Chúa Thánh Thần là Tăng.
Không
Ðạo giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo đoan, lấy thuyết hổn độn sơ khai phân
chia: Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng trược hạ ngưng
giả vi Ðịa. (Hễ khí thanh thì lên Trời, khí trược thì hạ xuống đất).
Cả
vật loại hữu tướng nầy có hai quyền năng sản xuất:
Ngôi
Chí Tôn.
Ðức
Mẹ.
Cả
quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền năng Chí Tôn cũng
đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền
năng vô tận của Phật Mẫu dùng đặng đào tạo Càn Khôn Thế Giái, chúng ta không
biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.
Chí
Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn khôn là Tăng, mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế
giái cũng là Tăng.
Nắm
quyền trị thế là Hạo Nhiên Pháp Thiên chính quyền năng Chí Tôn định, địa cầu
nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác, trong 24
giờ có một ngày, Ðấng cầm quyền trong pháp giới là Hư Vô Cao Thiên vâng mạng
lịnh Hạo Nhiên Pháp Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương tàn với nhau. Ðịa cầu nầy
nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.
Bây
giờ chúng ta quan sát Hổn Ngươn Thượng Thiên, ngày nay Ðức Phật Di Lặc ở nơi
Hổn Ngươn Thượng Thiên cầm cả hành tàng Càn Khôn Vũ Trụ, giờ Ngài đương cầm
quyền cả vật loại.
Trước
khi nguyện lấy dấu và niệm: Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc
thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.
Ngày
nay Bần Ðạo giảng: Phật là gì? Phật là một Ðấng toàn tri toàn năng, người ta
lầm lạc tưởng không thấy hình dạng là không có người thế gian lầm lạc nhiều
lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi
hài mà thôi. Ðấng toàn tri toàn năng ấy là Ðấng đầu tiên hiệp lại với Chí Tôn.
Bần
Ðạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc biệt:
1 . Hạo Nhiên Pháp Thiên tương liên hiệp một cùng Ðức Chí Tôn.
2 . Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên Ðiều.
3 . Hổn Ngươn Thượng Thiên thuộc Tạo hóa thuộc Tăng. Phật vị có ba đẳng cấp
ấy đặng nắm cả quyền năng Càn khôn Thế giái.
Phi
Tưởng Diệu Thiên nắm quyền hành tạo đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với
Phật.
Tạo
Hóa Huyền Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo đoan thế giái hữu hình nầy vô
cùng tận. Tạo hóa cầm sanh khí để tạo sanh vật.
Phi
Tưởng Diệu Thiên, Tạo Hóa Huyền Thiên. Bây giờ tới Phi Tưởng Diệu Thiên lãnh
phận sự nơi Ðức Chí Tôn cầm ngươn khí của con người, giữ sanh mạng vạn vật kêu
là vạn linh.
Tới
Tạo Hóa Huyền Thiên, Phật Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh hóa không cùng tận, cả
loài người, cây, cỏ, sắt, đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Ðức
Phật Mẫu nắm Pháp biến xuất. Cả thi hài chơn linh trí não pháp thân luân chuyển
sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo hóa trong các cơ thể ấy, loài
người học làm đặng biết, đặng chi? Ðặng tạo Pháp thân huyền diệu được toàn
thiện toàn mỹ, toàn tri toàn năng như Phật Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo
Pháp thân do quyền lực thuộc Pháp, hình hài xác thịt thuộc Tăng thấy chúng ta
thay đổi lăn lóc trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng,
gần Chí Tôn là Hạo Nhiên Pháp Thiên. Các Ðấng ấy hữu sanh hữu tử tri khổ nghiệp
chướng vạn linh năng du ta bà thế giái độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.
Các
Ðấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn tri
toàn năng, họ đi trước, mình đi sau, họ cao mình thấp thỏi, con đường họ đi
mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt
thế nầy chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo Nhiên Pháp Thiên một vị Phật cao
trọng toàn tri toàn năng gần như Ðức Chí Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học,
bài học khổ dám làm kẻ ngu dốt lắm.
Chúng
ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị Chí Phật như Ðức Cakya Mouni
đến thế gian bưng bình Bát Du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở
thế gian như vậy mà nơi cửa hư không lại có quyền năng vô tận vô đối. Ðến Ðức
Chúa Jésus Christ là một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp Chí Tôn giáng linh
xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng
nuôi kẻ đói khó. Ðó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.
Ðấng
Tạo Ðoan đưa tay xin cho loài người ăn, đó là Người cầm quyền năng nuôi khắp
vạn vật Càn Khôn Võ Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết.
Kỳ
sau Bần Ðạo sẽ giảng tiếp.
Q. 1/49: Lễ Khánh Thành văn
phòng Hiệp Thiên Ðài.
Lễ Khánh Thành văn phòng Hiệp
Thiên Ðài, ngày mồng 8 tháng chạp năm Ðinh Hợi (dl. 18-01-1948)
Các bạn Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện Nam, Nữ.
Tưởng
từ khi tôi đã phế đời, hiến mảnh thân phàm nầy cho Ðức Chí Tôn làm khí cụ tạo
cho nước nhà Việt Nam một nền Tôn Giáo nầy, không ngày nào được phần thưởng vô
giá như ngày hôm nay, mà chỉ có một ly rượu. Theo sự hưởng ứng của các bạn
biết, nếu con người ta lấy cái sức lực phàm làm môi giới cho cái sở hành riêng
thì hẳn không ai can đảm chịu. Cái người đã thả mình vô cảnh khổ với một sự vui
tươi thì hồi xưa đến giờ chưa có. Tại sao vậy? Tôi đã hiểu bí mật ấy, tôi hiểu
cả, nên cho các bạn hiểu.
Các
Ðấng tự hữu, hằng hữu, thiên hạ tưởng không có, họ lầm từ trước, người ta tưởng
Ðấng ấy không có, Ðấng ấy đã có từ tạo thiên lập địa, tôi biết tôi hiểu, tôi đã
chịu khổ não để thay thế hạnh phúc cho đời là do nơi đâu? Không phải tại nhà
tôi hay tại tôi, chưa chắc, do nước Việt Nam chăng? Ấy là do toàn nhơn loại.
Ðấng Cha lành ấy dầu thấy con bạc bẽo thế nào, Ðấng ấy cũng còn thương yêu. Sự
thương yêu của ông Cha lành nó truyền nhiễm tôi, do nơi chỗ tôi nghe được, tôi
hiểu được, biết rõ đặng Người.
Ðấng
ấy có mơ mộng gì vô hạn? Nhứt là Ngự Mã Quân của Chí Tôn biết trước hơn ai hết,
bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh Kim Khuyết, bỏ Thiên Cung đòi
xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu tôi không lầm, cơ bút
đã cho tôi biết các bạn Hiệp Thiên do nơi đâu sản xuất? Do để giữ quyền Thiêng
Liêng nên mới có 12 vị Thời Quân, Thập Nhị Ðịa Chi, tức là cảnh Thiêng Liêng vô
hình của chúng ta. Tôi tưởng tấn tuồng tôi đã làm trọn và làm nơi cõi vô hình.
Ngày kia về thiêng liêng các bạn sẽ thấy hình tối đại tối thiểu. Phận sự tôi
đối với các bạn nó có thâm tình vô hạn, vì đồng tâm, đồng chí, một mực đề xướng
cả thảy đều nghe chịu một hoàn cảnh, Bần Ðạo làm không hết, số là tại Bần Ðạo
và các bạn Hiệp Thiên Ðài đã hứa với Chí Tôn.
Bần
Ðạo lo cho toàn cả nhơn loại hoàn cầu, chớ không phải thương một cá nhân nào
hay một đoàn thể nào, một quốc gia nào, không phải làm tôi mọi cho Ðời, làm tôi
mọi cho Ðạo, nhưng vì cái năng lực vô hình kia mà thôi.
Trước
khi lãnh lịnh trên Bạch Ngọc Kinh tạo nền Chơn Giáo, Chí Tôn quyết định có Ngài
giáng thế mới được, Ngự Mã Quân không cho, bắt buộc phải có người thay thế cho
Ngài tức là Thánh Thể của Ngài tại đây.
Ngài
đi mà không cho thì phải có hình ảnh thế cho Ngài mới được. Hình ảnh của Ngài
là Hội Thánh Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên. Hộ Pháp có khôn ngoan nào hơn là cầu
khẩn cho có người đến với mình đặng tạo Thánh Thể đó, chớ một mình Hộ Pháp
xuống không thế được, nên phải cám dỗ cung nầy điện kia, đến Cửu Thiên Khai
Hóa, biết chắc làm được mới đi.
Các
bạn cứ làm đi, vì cái phận sự đối với thế gian, đối với lời hứa ở trên kia, mặt
cân không biết đồng chưa? Lời hứa trước kia, sự làm bây giờ, biết hai cái đó có
đúng không? Bần Ðạo làm mãi không biết làm sao cho rồi, nào lo cho Cửu Trùng,
rồi đến Phước Thiện, đầu óc của Hộ Pháp đã chịu thâm giao cùng các bạn, cứ làm
mãi thôi, sống giờ nào làm giờ nấy. Không phải kiếp nầy tại đây có Thánh Thể,
không phải tại xứ Việt Nam ta mới có, chúng ta chỉ là người cặm bông tiêu thôi,
chớ không phải người tạo, chúng ta sáng lập là để cho đoàn hậu tấn, vì chúng nó
đứng chàng ràng, không biết đứa nào gánh vác đảm đương.
Bổn
phận làm anh phải tạo nghiệp cho em, mở đường trước cho con cháu đi, sau nhờ có
chúng nó Thánh Thể của Chí Tôn mới tồn tại. Thầy không phải đến một kiếp nầy
thôi, mà đến phải ở đời đời, không phải Thánh Thể đương nhiên, họ sẽ đến nữa
hay đã đến rồi, nó còn lộn xộn không biết đứa nào.
Biết
còn nữa thì tức nhiên phải mở con đường cho chúng nó đi vào tạo nghiệp cho
chúng nó. Tôi là đầy tớ của Ðức Chí Tôn, biết có bao nhiêu đó cứ đảm nhiệm
cương quyết nâng đỡ Ðạo và Ðời thôi.
May
một điều là tôi còn thiếu với Ðức Chí Tôn, tôi xin đầu kiếp, thiếu hay không mà
kiếp nầy tôi đã là tên dân nô lệ cho nước Việt Nam, đã chịu thống khổ tâm hồn
lẫn hình thể trên 35 năm.
Tôi
không xin, tôi biết tại sao tôi đầu kiếp xuống dân Việt Nam, tôi cảm khích vô
hạn, nào chịu khổ, nào chịu bạc nhược và yếu hèn. Tại thấy nhơn loại đau đớn
Chí Tôn mới đến mở một nền Tôn Giáo, làm một khối sanh quang cho toàn nhơn
loại, đó là cái danh dự của nước Việt Nam đã chịu khổ.
Vì
cái tình của Chí Tôn đối với dân tộc Việt Nam nên tôi thí thân phải chết mới
đền bồi xứng đáng.
Còn
một việc khác nữa là Ngài tạo đầu óc, từ ngày mở Ðạo Cao Ðài đến giờ, Ngài tạo
đầu óc nòi giống Việt Nam để vãn hồi quốc vận, như thế cũng đủ cho mình đưa
sanh mạng mà đổi.
Vậy
sự làm của chúng ta phải cương quyết và nhẫn nại đủ điều, không nhút nhác, vui
chịu, bởi đã hiểu giá trị ân đức của Ðức Chí Tôn như thế nào rồi, muốn trả được
hết phải học sách làm đầy tớ của những đầy tớ của Ðức Chí Tôn, làm được vậy
chừng đó mới trả nợ tình của Ðức Chí Tôn đặng.
Q. 1/50: Lễ Mãn Khóa Hạnh
Ðường.
Trường Hành Chánh, lúc 4 giờ
ngày 10 tháng chạp năm Ðinh Hợi (dl. 20-01-1948)
Ðể
trả lời Bài Diễn Văn của Nguyễn Hữu Lương thay mặt các vị Lễ Sanh tân phong cảm
tạ Ðức Hộ Pháp và các vị Giáo Sư.
Ấy là
áng văn đầy chơn lý đi thẳng vào tâm hồn của Bần Ðạo nó có mãnh lực mạnh mẽ lạ
thường. Bần Ðạo tưởng, nếu cả thảy đồng thật hành đúng theo lời thuyết văn mới
vừa đọc đây thì mối đạo sẽ lan tràn tốt tươi vô đối. Bần Ðạo lấy làm cảm tình,
tuy vân, mấy em nói bữa tiệc thô sơ, nhưng bữa tiệc nầy xem lịch sử Ðạo trong
các bậc Thánh Hiền nước Việt Nam từ xưa nay chưa từng có. Lịch sử của Ðức Khổng
Phu Tử từ nhà Châu đến giờ nay mới sống lại, nó sống với bữa tiệc nầy thôi.
Quả
nhiên từ ngày mở Ðạo thì đã tạo Hạnh Ðường, nhưng nó chưa có sanh hồn, nay nhờ
bữa tiệc nầy mà nó có sanh hồn hiển nhiên quí báu vô giá vậy. Tuy vân, không có
gì xứng đáng, nhưng Bần Ðạo hưởng được một vật quí giá mà từ trước đến giờ chưa
hưởng được.
Trước
hết Bần Ðạo giải nghĩa cái quyền đương nhiên quyền chánh trị đương nhiên là
quyền đời và quyền đương nhiên của Ðạo trong thế kỷ 20 nầy, nền văn minh của Thiên
Chúa Giáo truyền khắp cả nhân gian cùng vạn quốc trong hai ngàn năm trước, Ðạo
Thánh Gia Tô lập quyền Ðạo hồi xưa có cảnh tượng như thế nào thì ngày nay nền
Ðạo Cao Ðài của chúng ta cũng thế.
Hiện
tượng nền Tôn Giáo của Chí Tôn bây giờ nó giống theo khuôn khổ và cảnh tượng
của Thánh Giáo Gia Tô đã truyền, dầu cho ai cũng phải nhìn rằng: Cái công trình
của Thiên Chúa Giáo với nhơn loại là vĩ đại. Có thể chia ra hai quyền:
1 . Là quyền đời đương nhiên (Pouvoir temporel).
2 . Là quyền năng của tinh thần (Pouvoir spirituel).
Cái
quyền tinh thần ấy biến ra một nền chánh trị đặc biệt riêng của nó như Ðền
Thánh Vatican ở La Mã là một nước trong vạn quốc, một nước về tinh thần. Cái
tương lai Ðạo Cao Ðài sẽ đi đến đó, không phải mơ hồ mà tưởng chắc quả quyết vậy.
Lập
quyền Chánh Trị Ðạo Cao Ðài cũng như nền Chánh Trị Thánh Giáo Gia Tô nơi Ðền
Vatican 2.000 năm về trước. Lúc ấy quyền đời và quyền Ðạo Thánh Gia Tô chiến
đấu và phản khắc nhau trong lúc mà Ðạo Thánh Gia Tô đang tạo quyền hành tinh
thần đạo đức. Cái chánh trị của Thánh Giáo Gia Tô lập thành được là nhờ lấy từ
mảnh mún tinh thần mà tạo nên khối đó vậy.
Cái
chánh trị của Ðạo Cao Ðài cũng thế, nhưng chỉ có một điều khác là người ta làm
trước mình làm sau, đường đi chúng ta kỹ lưỡng hơn, trước kia tôi tưởng nó phải
gặp nhiều trở ngại nguy hiểm như Thánh Giáo Gia Tô đã đi. Trong hai ngàn năm
mới lập quyền vững chắc và mạnh mẽ đặng.
Còn
nền Chánh Giáo của Chí Tôn mới 23 năm mà đã nên hình mạnh mẽ, đó là Ðức Chí Tôn
ban ân huệ cho nước Việt Nam đặc biệt, từ xưa các vị Giáo Chủ trên mặt địa cầu
nầy chưa đạt được như chúng ta bao giờ. Tuy vân, chúng ta đã chịu nhiều phen
khảo đảo ấy, ngó lộn lại đối với các nền Tôn Giáo, các vị Giáo Chủ, muôn phần
không có một.
Nền
móng của Thiên Chúa Giáo tạo ra khó khăn thế nào, chúng ta noi theo sự sáng tạo
ấy đặng tạo nên một nền móng nữa, phận sự rất dễ dàng. Nền chánh trị ấy là một
nền chánh trị để phân quyền với quyền đời, quyền đời Bần Ðạo chẳng cần luận vì
nó là oai quyền như trước mắt chúng ta đã thấy. Bần Ðạo chỉ luận về quyền Ðạo
của chúng ta mới vừa đạt đặng.
Nó
cũng quyền hành như ai, nhưng có một điều trọng yếu khác hẳn là quyền đời và
quyền đạo cách nhau một trời một vực, như bên nây và bên kia, mặc dầu không có
mức chính giữa đã định, nhưng bên kia xâm lăng qua bên nây một chút thì người
ta đã thấy. Hai quyền đều đặc sắc không giống nhau đặng. Cây huệ kiếm của chúng
ta không phải là thiết kiếm của thế gian hữu hình mà là huệ kiếm vô hình tức là
tinh thần và đạo đức của chúng ta.
Bần
Ðạo đã nhiều dịp nói rằng: Cả Thánh Thể của Chí Tôn là trường quan lại, nếu
quan lại Ðạo mà bắt chước đồ theo thể pháp và hình thể của quyền đời, thì xem
nó dị kỳ hì hợm lắm. Quyền Ðạo nó có hình tướng khác, nó không quái gở và dị
hợm như trường đời chúng ta xem thấy hiển nhiên đó vậy.
Nếu
anh họa sĩ đủ tài, đủ năng lực cầm cây bút họa cho nó nên hình tướng, tưởng
không có vật báu chi ở thế gian nầy so sánh được, vì nó có Tiên căn Phật cốt
hiện trong đó, để tạo ra hình tướng. Cái hình tướng và tinh thần của Tiên Phật
tốt đẹp thế nào không nói ra ai ai cũng biết. Cái hình nó phải mường tượng như
thế đó, phải làm cho nó ra hình Tiên cốt Phật các bạn thử xem Tiên, Phật tốt
đẹp thế nào, thì trường quan lại của Ðạo phải cầm cây viết thiêng liêng vẽ nên
hình tốt đẹp như Phật như Tiên vậy.
Nếu
rủi có một bệt lọ, hay một chút bợn nhơ dính vào thì nó dị hình dị dạng và ô
trược lắm. Nó phải cho đẹp đẽ khôi ngô linh dị nguyệt xu mới đặng. Tỷ như hạng
gái kia đi ra đường mà có một bệt lọ lấm trên mặt thì nó đã dị hợm khó coi rồi.
Tóm lại là nó phải tinh túy, nếu dính một chút bợn nhơ thì nó sẽ gớm ghê hình
dạng mà chớ.
Tôi
nói quyết một điều là Chánh Trị Ðạo mà có dính một chút của quyền đời thì dị
hợm xấu xa lắm vậy. Bởi tinh thần không chịu vật chất, vật chất không hề hòa
thuận với tinh thần. Trường quan lại của nền Chánh Giáo Chí Tôn khác hơn đời,
chúng ta chỉ lấy đạo đức nhơn nghĩa làm quyền, còn ngoài kia họ lấy quyền lực
cưỡng bức, hai cái so nhau khác hẳn.
Trong
cửa Ðạo nếu chẳng biết quyền mình là gì, lại bắt chước đồ theo tâm lý thiên hạ,
cường bức vô đạo đức, vô nhơn tình thì quả nhiên sái hẳn. Quyền chúng ta là chỉ
lấy đạo đức tinh thần của Tổ Phụ ta để lại trong 4.000 năm làm huệ kiếm để bảo
trọng quốc hồn của nòi giống thì mới trúng, còn ngoài ra dùng phương pháp khác
là sai lầm.
Tôi
nói ít mà các bạn nam nữ hiểu nhiều, tôi chỉ trông cậy các bạn. Vậy tôi xin để
cả sự trông cậy của tôi trong tâm của các bạn là hình thể của Ðức Chí Tôn thật
hành dùm nhơn nghĩa của Chí Tôn đã để trước Ðền Thánh cho đời ngó thấy, đặng
hưởng lấy hạnh phúc thiên nhiên ngàn xưa để lại là may mắn cho tương lai con
Hồng cháu Lạc.
Chúng
ta hãy lấy Nho phong làm căn bản, phục sanh hồn nước đã điêu tàn, sau 80 năm nô
lệ, cho nó phục sanh lại với cái năng lực làm sống quốc hồn của mình trong
4.000 năm về trước. Như thảng ta vẽ được khéo, được đẹp, thì người ta đương
trông mong cho nó thành tướng. Chừng đó chúng ta không muốn bán cũng có kẻ mua,
chẳng phải một nước Việt Nam nầy thôi, mà toàn cầu vạn quốc nài mua mà chớ.
Nhưng
phải làm sao cho nên hình tướng để có đủ quyền năng bảo trọng cả toàn cầu nhơn
loại đặng tồn tại, sống trong tinh thần đạo đức, trong sự công bình yêu ái của
Chí Tôn gieo trồng nơi cửa Ðạo. Ðến chừng ấy chúng ta có thể trương tấm bảng
lên rằng: Nền Ðạo Cao Ðài làm môi giới, căn bản nền đại đồng thế giới đó vậy.
Bần
Ðạo tưởng ly rượu nồng ngày hôm nay là ly rượu trường sanh bất tử, bởi đây là
nơi sản xuất hột giống trường sanh bất tử. Ly rượu trường sanh nầy, các bạn
đừng khinh rẻ nó.
Trước
khi từ giã, cảm ơn các vị Giáo Viên và chư vị Tân phong nam nữ đã cho Bần Ðạo
hưởng được mùi ngon, vị ngọt rất hay ho.
Bần
Ðạo để lời cảm ơn.
Q. 1/51: Lễ Bế Mạc Ðại Hội Hội Thánh.
Ðền Thánh, ngày 13 tháng chạp
năm Ðinh Hợi (dl. 23-01-1948) 4 giờ chiều
Bần
Ðạo hân hạnh tỏ lời cảm ơn Chư Thánh Nhị Hữu Hình Ðài. Tuy vân, Bần Ðạo không
ra tay giúp Hội Thánh vì chơn pháp buộc phải như vậy, nhưng cả đôi tháng nay
Bần Ðạo để tâm theo dõi Hội Thánh từ bước, có nhiều vấn đề không giải quyết
được, muốn Bần Ðạo đến giải quyết dùm, nhưng Pháp Chánh không cho Bần Ðạo định
đoạt. Hội Nhơn Sanh có quyền Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh có quyền Hội Thánh,
Thượng Hội có quyền Thượng Hội. Cũng như Hội Thánh không được phạm quyền Hội
Nhơn Sanh, Thượng Hội không được phạm quyền Hội Thánh. Nghiêm luật ấy đã định
chơn chánh mực thước không ai có quyền cải qua đặng, Bần Ðạo chỉ giúp về phương
diện ngoài mà thôi. Nếu có điều chi trọng yếu giải quyết không đặng, Bần Ðạo
giúp chút ý kiến chớ không dự biết gì trong quyền lực đặc biệt của Hội Thánh.
Trong
hai tháng Bần Ðạo nói thật tình thấy Hội Thánh tấn bộ khá nhiều rồi. Hội Thánh
năm nay đã đem ra mặt luật lưu lại cho hậu tấn một khuôn khổ chuẩn đích từ thử
chưa xuất hiện.
Một
nền Chánh Trị Ðạo, không khác gì chánh trị đương nhiên ở các nước Âu Châu. Ở Á
Ðông nầy có nhiều nước phát triển như: Nhựt, Tàu, Miến, Xiêm cũng có một khuôn
khổ nhứt định như vậy. Dầu Quân Chủ Lập Hiến hay Dân Chủ Pháp Chánh cũng một
mực như nhau, đều chia ra hai phần:
Phòng
dân chủ.
Phòng
định luật.
Phòng
định luật là phòng bảo thủ, phòng dân chủ là phòng tấn bộ. Phòng dân chủ của
Pháp dưới thời dân quyền "La Chambre
des Députés", còn phòng định luật hay quân luật nói thật ra họ không
có Chúa, nhưng muốn biết phòng quân luật hẳn hòi, xem như nước Anh có "Chambre des Lords", tức là
Sénat của Pháp vậy.
Chánh
trị của Pháp thấy hai phần: "Chambre
des Députés" và Sénat không dung hòa được, nếu chúng ta chẳng nói
nghịch hẳn, họ dung hòa khó khăn lắm. Chánh Pháp muốn dung hòa đặng chi? Ðặng
dìu dắt chánh trị đến con đường tận thiện tận mỹ, mực thước chơn chánh, nếu
không vậy không tấn bộ được. Chánh trị chia ra hai phòng riêng biệt, biết rằng
khó dung hòa được, mà khó dung hòa được, thì hai khối ấy phải đảo lộn.
Chánh
Phủ Pháp phải đảo lộn, tương đối sụp đổ biết bao nhiêu lần, chúng ta đều thấy.
Thấy các nước dân chủ chia ra hai phòng, mỗi khi Sénat tức phòng dân chủ bác
không tín nhiệm, thì phòng dân chủ phải đổ, tức Nội Các đổ, mà Nội Các đổ tức
là Chánh Phủ đổ. Ðời chia ra hai phòng đặc biệt, Ðạo lại khác hẳn. Chơn pháp
của Chí Tôn để hai phòng hiệp một là Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài. Hiệp
Thiên Ðài là phòng quân luật, còn Cửu Trùng Ðài là phòng dân chủ, biểu sao khỏi
xích mích nhau. Một đàng bảo thủ, một đàng giục tấn, nếu hai đàng không hòa
nhau, đem chơn lý hiển nhiên thì hòa được, còn không lấy chơn lý thì đụng tại
chỗ phản khắc, không thể đệ lên thượng quyền mà còn nhơ bợn được. Ðó là cái bàn
sàng, sàng mãi cũng phải lọt xuống.
Tại
chơn pháp như vậy, nên Bần Ðạo biết trước cái ngày đôi bên chạm nhau, ngày ấy
Bần Ðạo tự nhiên lắm, còn ngoài nầy toàn Ðạo náo động. Bần Ðạo chỉ kêu: "Coi chừng hễ giữa Hội Thánh hai quyền
tương khắc nhau đem lên tới trên, gặp quyền độc tôn thì chịu lấy". Nên
hai bên hoảng mới tìm phương dung hòa nhau. Ðó chỉ nghĩa Bần Ðạo duy mới cầm
cây Phướn Thượng Hội rung rinh chớ không có dùng đến quyền gì hết.
Hội
Thánh hôm nay đã thành tựu trong thời gian ngắn ngủi sợ e ngày kia Chư Thánh
nhiều, quyền hành Hội Thánh lớn thì sự bàn cải kịch liệt nữa kìa. Tương lai đó
tưởng chúng ta sẽ ngó thấy.
Từ
việc định công nghiệp đến quyền hành, thì Bần Ðạo thấy trong thâm tâm, riêng
tưởng cầm cân công bình thay thế Chí Tôn không được chinh lịch, hoặc nói được
hay không nói được, đừng nói hay là sẽ nói mà thôi, câu nầy không chinh lịch
với Bần Ðạo được.
Kẻ
nào có dày công cùng Ðạo, Bần Ðạo xin bảo lảnh không có điều chi bất công qua
mắt Bần Ðạo được, nhưng thời cuộc chưa đến mức ấy. Ai có dày công cùng Ðạo,
đừng tưởng Hội Thánh quên công.
Ngày
nay không nói đặng có ngày sẽ nói đặng. Hội Thánh không quên được một ai, ắt sẽ
quyết định cho.
Ngày
nào Bần Ðạo còn đây, không có một điểm gì bất công qua mắt Bần Ðạo được và Bần
Ðạo quyết chắc như vậy.
Bần
Ðạo xin bế mạc Hội Thánh và để lời cảm ơn.
(Ðọc
Kinh Bãi Hội xong, lúc trong Ðền Thánh bước ra, Ngài nói: "Có một điều đáng để ý, tại đây có một vị Ðại Thiên Phong Ðường
Nhơn làm đầu Hội Thánh. Ngày sau người ta sẽ lấy làm lạ lắm."
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét