Q . 4/09: LỄ KHAI GIẢNG HẠNH
ĐƯỜNG PHƯỚC THIỆN.
Hạnh Đường Phước Thiện, ngày
02-05 năm Tân Mão (1951)
Hồi 4
giờ chiều Đức Hộ Pháp đến chứng lễ khai trường trong trường có lập bàn thờ Đức
Mạnh Tử Tiên Sư. Đức Hộ Pháp hỏi cả môn đồ trong trường, tại sao Đức Khổng Phu
Tử Ngài truyền giáo Đạo khi trước mà không thờ Ngài, lại thờ Đức Mạnh Tử.
Cả
thảy đều có trả lời nhưng không trúng lý, Đức Hộ Pháp nói trong thời kỳ Đức
Khổng Phu Tử lập Đạo giáo giáng sanh nhằm lúc thời bình lập đời quân chủ, khi
Đức Mạnh Tử giáo dân nhằm lúc thời loạn phong trào sôi nổi, giặc giã tứ phương,
bởi vậy cho nên Ngài lập đời lấy cái thuyết Quân Chủ dân quyền, tức là Quân Chủ
lập hiến mới thâu phục được lòng dân, ấy vậy mới phù hạp với thời kỳ nầy, tại
vậy mới thờ Ngài.
Đức
Hộ Pháp hỏi câu thứ nhì: Tại sao Tam giáo qui nhứt Thích, Đạo, Nho nghĩa là
Phật, Thánh, Tiên mà sao không lập hội Phật Tông chuyển thế hay là Tiên Tông
chuyển thế?
Lại
lấy Đạo Nho lập thành Hội Thánh mà Chí Tôn đến khai Đạo, kỳ nầy lại dụng Nho
Tông chuyển thế (cả Chức Sắc đều có trả lời nhưng không rõ tột ý) Đức Hộ Pháp
nói: Đạo Thánh, cốt yếu chuyển đời, mà chỉ có biết quyền, chớ không biết người
biết mình, không biết Trời, nên còn khuyết điểm, có công rèn luyện tâm tánh, mà
không chỉ rõ đường siêu thoát cho nhơn loại, vì chỗ thiếu đó mà Đức Chí Tôn mới
đến đặng thêm sức, Trời và người hiệp một đặng lập Đời Thánh Đức, nhơn lực phải
tùng Thiên lực để đạt cơ mầu nhiệm, thì tu hành mới mong siêu thoát nên lập
thành Hội Thánh ba Đài Bát Quái, Hiệp Thiên, Cửu Trùng Đài đặng chấn hưng ba
nền Tôn Giáo lại làm một, gọi là Tam Giáo Qui nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, là thêm
Thần Đạo và Nhơn Đạo gọi Ngũ Chi Đại Đạo.
Q. 4/10: LÒNG YÊU ÁI PHỔ HÓA CHÚNG SANH.
Tại Đền Thánh, ngày 05-05 năm
Tân Mão (1951)
Ngày
giờ nầy, chính Bần Đạo đã hưởng được cái tình cảm của toàn thể con cái của Đức
Chí Tôn, ngoài cái tấm lòng thương yêu vô tận, Bần Đạo trong cái kiếp sống nầy,
Bần Đạo cũng không biết lấy chi để bồi đáp cho xứng đáng.
Bởi
vậy Bần Đạo dám quả quyết: Nếu không nhờ tấm lòng thương yêu vô bờ bến của toàn
con cái của Đức Chí Tôn, thì cơ quan đại cuộc của nền Đạo ngày giờ nầy chưa
chắc đã thành hình thiệt tướng, để cho toàn thể dân tộc Việt Nam cùng ngoại
quốc để tâm sùng kính.
Bần
Đạo thú thật rằng, ngoài cái chí cố gắng của Bần Đạo, còn có một quyền năng vô
đối Thiêng Liêng, lúc nào cũng nhắc nhở Bần Đạo phải đem hết lòng yêu ái đặng
phổ hóa chúng sanh, vì thật ra cái sứ mạng ấy, Đức Chí Tôn đã tìm nơi Bần Đạo
mà giao phó.
Đối
với Quốc dân Việt Nam, là đồng bào của Bần Đạo, là máu thịt của Bần Đạo, là
chủng tộc của Bần Đạo như thế nào, thì các dân tộc khác cũng vậy, thì cái tình
cảm của Bần Đạo là cả toàn thể nhơn loại, nó có một đặc sắc của nó đời đời kiếp
kiếp chẳng hề phai lợt.
Ấy
vậy, Bần Đạo để lời cám ơn cả toàn thể.
Chiến
sĩ anh dũng các con!
Cái
sự nghiệp của Đạo ngày nay, được đứng vững theo chơn truyền, cũng là một phần
do nơi công trình của các con đào tạo. Thầy đã thấy và công nhận cái chí hy
sinh ấy.
Nhưng
các con ơi! Thầy cũng đã khổ hạnh nhiều rồi mà Thầy cũng không khỏi thẹn một
điều là Thầy chưa đem giọt máu của Thầy mà chung hòa giọt máu của mấy con.
Thầy
đã hiểu các con chiến binh hy sinh, liều chết đặng bảo vệ sanh mạng và tài sản
của toàn thể nhơn loại, các con dám làm, các con dám hy sinh, cái ân nghĩa giá
trị ấy giờ phút này, kẻ nào còn sanh mạng và tài sản là nhờ ơn của các con đó.
Q. 4/11: BÍ PHÁP CỦA ĐỨC CHÍ
TÔN.
Đền Thánh ngày 15-05 năm Tân
Mão (1951)
Trước
Bần Đạo đã hứa kỳ này giảng về Bí Pháp, ấy là một điều giảng rất khó khăn, Bần
Đạo lấy cả tinh túy của nó thuyết ra đây, chẳng phải đứng nơi tòa giảng này mà
thuyết cho đủ được. Nếu như không có điều gì trở ngại về bí quyết, Bần Đạo
thuyết minh cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn thấu đáo, hiểu cho tận tường cái
bí pháp Đức Chí Tôn đến trong thời kỳ này để trong nền chơn giáo của Ngài. Ấy
vậy Bần Đạo có một điều mơ mộng tìm phương trụ cả đức tin con cái của Ngài nam
nữ, đặng cái đức tin ấy làm một ngọn huệ quang Thiêng liêng nó dìu dắt Thánh
Thể của Ngài trong con đường Thiêng Liêng Hằng Sống tức nhiên con đường giải
thoát.
Bí
Pháp là gì? Là những cái hình trạng của Đạo về hữu hình, tức nhiên hình trạng
của Hội Thánh, tức là hình trạng của Thánh Thể Đức Chí Tôn tại mặt thế này. Là
quyền năng điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ tức là quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn
đã cầm nơi tay, Ngài đến cùng con cái của Ngài, đặng Ngài ban cho một quyền
hành đủ phương pháp, đủ quyền năng tự giải thoát lấy mình.
Tiên
Nho chúng ta có trạng tả một điều vô hình, để tả ra một hình trạng hữu vi, nó
vô tướng mà nó hữu lý làm sao đâu. Tiên Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt
thế gian, tức là mặt địa cầu 68 nay là "Quán tục" ta là khách, cõi
trần này là Quán, nó hay là sao đâu, không lấy tỉ thí gì minh bạch chơn chánh
hơn tỉ thí đó. Chúng ta thử nghĩ toàn cơ quan huyền diệu vô biên Đức Chí Tôn
đào tạo trong Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật hữu hình, chúng ta có thể quan sát
trước mắt chúng ta đây, chúng ta ngó thấy đều do khuôn luật Thiên nhiên tương
đối mà ra, hễ có khuôn luật tương đối tức nhiên nó phải có đối cảnh. Bởi khuôn
luật tạo ra hình, hễ có hình thì có cảnh, hễ có khuôn luật tương đối tức nhiên
phải có đối cảnh, tức nhiên có hình thì có bóng, vô bóng tức nhiên vô hình.(*1)
Chúng
ta thử nghĩ luật tương đối, chúng ta lấy điều đơn sơ quan sát chúng ta thấy
sống trong giấc ngủ, và chúng ta sống trong khi thức, ngủ là sống với Vạn Linh,
thức là sống với vạn vật. Chúng ta quan sát được hai đối cảnh sống với khuôn
luật Càn Khôn Vũ Trụ kia cũng vậy không có gì khác, có cảnh sống có cảnh chết,
sống chúng ta thể nào chết chúng ta thể nấy, không có chi la. Sống chúng ta là
khách của "Quán tục" này, ta chết tức nhiên ta trở về quê Tổ, tức
nhiên ta nhập trong cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống chớ không có chi lạ.
Bây
giờ hai hình trạng ấy chúng ta thử nghĩ nó có liên quan mật thiết với chúng ta
thể nào? Đơn sơ chúng ta nên lấy tỉ thí một cách khoa học là khi chúng ta thức
mơ vọng điều gì, làm điều gì cái năng lực trong hành tàng thường thức của chúng
ta, trong giấc ngủ chúng ta nằm mộng mơ nói tầm xàm làm đối cảnh của nó, đối
buổi thức tức nhiên buổi sống ấy vậy. Thức ngủ là trong khuôn luật sống chết,
cái sống phải có cái chết, hành tàng của cái sống chúng ta thể nào thì buổi
chết của chúng ta nó cũng hiện tượng ra nguyên vẹn, ấy vậy không có điều gì lạ
hết.
Bây
giờ luận về phần Thiêng Liêng tức nhiên phần linh hồn của chúng ta. Bần Đạo nói
mỗi cá nhân con cái Đức Chí Tôn đều có phẩm vị của họ có từ thử đến giờ, khuôn
luật vẫn có một mà thôi. Chúng ta thấy trong Bí Pháp của Phật Tổ Ngài đạt đặng
bí pháp Ngài để khuôn luật giải thoát. Chúng ta đã ngó thấy tại sao người khác
Đức Chí Tôn không để "Tam Diệu Đề" tức nhiên, Lão, Bịnh, Tử trước mắt
đặng lãnh giáo Ngài, lại để cho Đức Phật Thích Ca thấy Tam Diệu Đề, khi Phật
Thích Ca thấy Tam Diệu Đề Ngài mới thêm một đề Sanh nữa là Tứ Diệu Đề: Sanh,
Lão, Bịnh, Tử, Đức Phật Thích Ca nhờ bí pháp của Đức Chí Tôn để trước mặt Ngài
mà Ngài đạt được cơ quan giải thoát có chi đâu. Muốn tránh Tứ Diệu Đề tức nhiên
Tứ Khổ thì đừng gây Nhân, có Nhân tức nhiên có Quả, muốn tránh Sanh, Lão. Bịnh,
Tử thì phải diệt cho hết Quả, lẽ dĩ nhiên đó vậy...
Bí
Pháp Đức Chí Tôn đã cho Phật Thích Ca thế nào, Đức Chí Tôn cũng có thể cho con
cái của Ngài mỗi đứa để tự giải thoát lấy mình.
Nếu
Đức Lão Tử không làm Thượng Thơ Tịch vô Đại thơ phòng nhà Châu, nếu Ngài không
vô Thư Viện nhà Châu lật Bát Quái Đồ của Phục Hi để lại, chưa chắc rằng Ngài đã
đoạt pháp, Ngài ngồi tìm tòi coi Bát Quái Đồ để trong Thư Viện nhà Châu, tức
nhiên Bí Pháp của Đức Chí Tôn dành để cho Lão Tử. Khi Ngài đã đạt được Bát Quái
Đồ rồi, Ngài được trở nên vị Giáo Chủ danh vọng đến đời nay.
Bây
giờ tới Đức Chúa Jésus, vị Giáo Chủ danh vọng đương buổi nầy, gồm cả Vạn Quốc
các Dân Tộc Âu Châu trong khuôn khổ đạo đức của Ngài nếu không có 40 ngày Ngài
đã ra đồng sa mạc thiền định, Đức Chí Tôn không đến cùng Ngài và không bị quỉ
cám dỗ thì Bí Pháp của Ngài không hiện tượng ra được.
Bây
giờ đến Khổng Phu Tử, nếu Ngài không có khổ về Nhơn đạo của Ngài và xã hội của
Ngài giặc giả can qua, bởi Ngài sanh ra gặp buổi loạn ly đời Đông Châu Liệt
Quốc, nếu Ngài không có khổ về công danh của Ngài cho đến đổi và nếu Ngài không
khổ về tinh thần của Ngài vì hiếu, thì chắc tinh thần của Ngài chưa ngó toàn
thể các sắc dân, tức nhiên đồng chủng đồng bào của Ngài, thì tôi tưởng Đạo Nho
của Ngài chưa xuất hiện.
Nếu
Đức Chí Tôn không để Thánh Thể của Ngài xuống 60 năm trước ngày mở Đạo, không
phải ngày nay Ngài không sai các chơn linh xuống thế, không tạo hình ảnh Cửu
Thiên Khai Hóa, Ngài không mở rộng cửa Bạch Ngọc Kinh tại thế gian này thì dám
chắc nền chơn giáo của Ngài chưa hiện tượng. Huyền diệu thay nền chơn giáo của
Ngài! Lấy cả quyền năng vô biên Ngài làm Thể Pháp, Bí Pháp của Ngài, Ngài lấy
căn bản Vạn linh, Ngài tạo nên đặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật trên mặt
thế gian này.
Ấy
vậy Bần Đạo nói: Nơi cửa Tịnh Thất chúng ta có thể nói rằng: Nơi chúng ta đưa
bạn chúng ta đi cũng là cửa rước bạn chúng ta đến. Bí pháp ấy càng ngày con cái
Đức Chí Tôn càng ngó thấy, vì mới mở nên hình trạng chưa có rõ, chớ hoàn thành
rồi con cái Đức Chí Tôn sẽ ngó thấy đối tượng Thiêng Liêng của nó thế nào, phải
để đức tin vững vàng nơi Thánh Thể Đức Chí Tôn cho cường liệt, cường liệt Đức
Chí Tôn mới xoay chuyển xã hội nhơn quần và tạo hạnh phúc cho xã hội nhơn quần
được.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đọan thứ 3: Tiên Nho chúng ta có trạng tả một điều vô hình,... ... ....
Tiên Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt thế gian, tức là mặt địa cầu 68
nay là "Quán tục" ta là khách,...
Chúng
tôi xin đề nghị cho rõ nghĩa hơn: Tiên Nho chúng ta có trạng tả một điều vô
hình,... ... .... Tiên Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt thế gian, tức là
mặt địa cầu 68 nầy là "Quán tục" ta là khách,...
Q. 4/12: VỀ BÍ PHÁP.
Đền Thánh đêm 01-6 năm Tân Mão
(1951)
Bần
Đạo hứa mỗi kỳ Đàn thuyết về Bí Pháp. Tại sao Bần Đạo phải thuyết minh về Bí
Pháp? Đáng lẽ theo cổ truyền Bí Pháp là huyền bí không thể gì truyền một cách
rõ ràng được. Nhưng đối với Đạo Cao Đài tức nhiên đối với nền Chơn giáo của Đức
Chí Tôn nó không phải như trước, Đức Chí Tôn đã nói rõ ràng rằng: Ngài đến cốt
yếu để diệt trừ mê tín mà hại thay từ trước đến giờ các Đạo giáo nếu quả nhiên
có mê tín là do Bí Pháp hơn hết.
Thể
Pháp của Đạo Cao Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công quả ấy để
cho chúng ta lập đức, lập công và lập ngôn. Còn Bí Pháp Chơn truyền Đức Chí Tôn
tức nhiên cơ quan huyền bí để cho con cái của Ngài siêu thoát. Nói về Thể Pháp
chúng ta hân hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức, chính mình Đức Chí Tôn đã
cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh Thể của Ngài nơi mặt
thế này. Ôi! Quyền lực về phương pháp lập đức đối lại với cảnh Thiêng Liêng là
mua ngôi vị của chúng ta đó vậy. Lập công là Ngài đã tạo hình thể của Ngài tức
nhiên Đền Thánh đó là Đền thờ hữu hình của Ngài để tại mặt thế này, chúng ta
phải lập công với sanh chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để
cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy
Ngài phụng sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài,
do lập công mà ra. Bây giờ lập ngôn, chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ
bút viết dạy chúng ta từ lời nói việc làm, từ tánh đức, từ đạo lý. Còn ngôn, có
ngôn gì hơn Ngài nữa để cả thảy các thể pháp đặng chúng ta định vị chúng ta,
chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy.
Bí
Pháp là điều trọng yếu hơn hết, nếu không phải chúng ta cầu nơi quyền năng vô
biên của Ngài đặng đoạt cơ siêu thoát thì dám chắc rằng: Dầu Thánh Thể của Ngài
hay con cái yêu dấu của Ngài nam nữ cũng vậy, thì giờ phút này không có ai ngồi
đây, trong cửa Đạo Cao Đài này, chúng ta vì một kiếp sanh thọ khổ Tứ Diệu Đề
chúng ta chỉ mơ ước một điều là đạt đặng huyền linh Bí Pháp, trước khi thực
hiện đặng Bí Pháp, chúng ta phải có một đức tin mạnh mẽ, đức tin ấy phải đủ
năng lực trong tinh thần của Hội Thánh.
Muốn
có đức tin vững chắc thì chúng ta phải có đức tự tín, có tự tín mới đạt đặng
Thiên tín, tức nhiên đạt đặng Đạo tín của chúng ta. Muốn thấu đáo và muốn đạt
cho đặng tự tín chúng ta phải tự biết chúng ta, rồi ta mới biết địa vị đứng
trong hoàn vũ này đương đầu với Vạn Linh, ngôi vị ở trong hàng phẩm nào, chúng
ta phải biết ta ở đâu mà đến, chúng ta mới hiểu con đường chúng ta sẽ về, Bí
Pháp sẽ dìu dẫn chúng ta đi trên con đường ấy. Cả tinh thần nhơn loại hoang
mang giờ phút nay họ chưa hiểu họ là gì? Bần Đạo chỉ cười có một điều là trí
thức tinh thần con người đã đến địa vị cao trọng, cái hay biết của họ giờ phút
này Bần Đạo quả quyết rằng, họ đã tạo nhiều rồi, bằng cớ là ở Thư Viện tại New
York (Nữu ước) chứa 2 triệu 2 trăm ngàn quyển sách, chúng ta thử nghĩ kiếp sống
của chúng ta có ba vạn sáu ngàn ngày, chúng ta muốn đọc cho hết sách ấy ít nữa
bảy trăm năm, mỗi ngày chúng ta giỏi đọc một quyển.
Ôi!
cho cái hay biết của con người còn gì luận nữa, biết thật, giỏi thật, nhưng có
một điều là họ chưa biết họ, con người chưa biết con người do đâu mà có. Giờ
phút này dầu văn minh cực điểm, trí thức quá cao trọng mà họ chưa biết họ là gì
hết. Sự thật vậy, bởi họ không biết họ cho nên sản xuất ra thuyết duy vật và
duy tâm đang hy vọng lấy vật lý học họ tìm con người, nhứt hơn hết là họ tìm
căn nguyên con người, họ lấy theo vật lý học họ nói con người là con vật, họ
nói con vật này nó cũng đồng sống như vạn vật kia, họ tiềm tàng vật lý học họ
nói bổn căn con người do hai tinh trùng của nam nữ, là nam tinh trùng và nữ
tinh trùng, hai con tinh trùng ấy khi nam nữ giao cấu với nhau hai con tinh
trùng hiệp với nhau sanh ra con người, nó là con sâu, nguyên nhân nó là con
tinh trùng, hai con ấy hợp lại với nhau, tinh trùng nam là cốt, tinh trùng nữ
là nhục, hai con đó hiệp lại với nhau thành cục huyết đỏ lòm rồi lần lần mọc
đầu, mọc tay biến ra thành nhơn hình. Con thú gì trước kia cũng bởi do hai con
tinh trùng ấy nó hợp với nhau rồi biến ra hình tượng của nó vậy. Bây giờ đạo
cũng nhìn con người là con vật, nhưng lúc nó biến ra nhơn hình, quyền năng nào
biểu nó biến, do quyền năng nào cho phép nó biến, họ lấy vật lý học nói tầm
xàm, kẻ muốn tìm sự thật đem chơn lý đánh đổ tinh thần mà chơn lý của họ là
chơn lý mộng ảo.
Chính
Bần Đạo cũng nhìn sự thật chúng ta là con vật, Bần Đạo biết rằng nơi mặt địa
cầu này trước kia tượng hình ra nó là cây, điều động có rễ, có máu, bắt đầu lần
lần mọc lên cái đầu, hai cái tay, hai cái chân biến hình ra con dã nhơn, lần
lần biết đi như như con khỉ vậy. Mà lạ chướng hơn hết lúc biến thân ra nó, cái
linh cái sống của nó thế nào chúng ta không biết, hồi thời buổi nó tượng nhơn
hình của nó rồi, hỏi vậy cái sống của nó ở đâu? Ai cho mà có: Và cái linh ở đâu
mà có? Đạo giáo chúng ta có chối rằng thi hài chúng ta không phải là con vật
đâu. Chính Đạo giáo nhà Phật có nói con người chúng ta là con kỵ vật để cho Vạn
linh cỡi nó đi đường từ mặt địa cầu nầy qua mặt địa cầu khác, mà con thú ấy là
người của ta, mà người cỡi thú ấy là Phật, tức nhiên là cái linh của chúng ta
đó vậy. Bây giờ không phải thi hài nầy siêu thoát được, thú là thú, sanh ra tại
Thổ huờn tại thổ, còn người cỡi nó là Phật cho nên không có quyền năng nào giam
hãm hay trói lại được, Phật ấy mới thật là con cái của Đức Chí Tôn, chính mình
con thú vật lý học đã nói, con thú có người cỡi, mà người cỡi ấy là Phật là con
đẻ của Đức Chí Tôn. Ấy vậy cơ quan siêu thoát là Phật siêu thoát chớ không phải
con thú nầy siêu thoát được.
Kỳ
tới Bần Đạo sẽ thuyết cái sống của con người đối với Vạn linh nơi mặt địa cầu
nầy.
Q. 4/13: BAN PHÉP LÀNH VÀ TRẤN
THẦN CHỢ LONG HOA.
Long Hoa Thị, ngày 5 tháng 6
năm Tân Mão (1951)
Cái
cơ chuyển thế đã đến ngày lập hiệp nhứt Đạo Giáo, khiến toàn thể con cái Đức
Chí Tôn lo quay về một mối sống dưới lá cờ Nhân nghĩa của Đạo Cao Đài. Ngoài
thì được sự bảo vệ của Quân Đội, trong thì được sự dìu dắt của Hội Thánh, càng
ngày nhơn sanh qui tụ càng đông, vì thế nguồn sanh sống càng bị bóp nghẹt, nên
Bần Đạo cho lập gấp cái chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn
sanh.
Ngày
giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng
rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như
thế, nhưng Bần Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển
thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy.
Q. 4/14: KHUÔN LUẬT NÀO
CHÚNG TA ĐÃ SỐNG.
Đền Thánh đêm 30-06 Tân Mão
(dl. 02-08-1951)
Kỳ đàn trước Bần Đạo đã giảng và đã hứa kỳ đàn
nầy Bần Đạo giảng tiếp khuôn luật nào chúng ta đã sống nơi cõi thế gian nầy, kỳ trước Bần Đạo giảng vấn đề cái sống
của chúng ta nơi mặt địa cầu nầy và cái sống của ta nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, kiếp sống ấy là kiếp chết của người đời họ thường gọi.
Bần
Đạo nhớ lại khi học Đạo cùng các Đấng Thiêng Liêng, chúng ta đã có luận hai chữ
sống, chết. Các Đấng Thiêng Liêng cho rằng: Dùng hai tiếng ấy không có chơn thực
và không chơn lý, cái hữu ngã tướng của chúng ta, tức nhiên chúng ta hữu ngã
như bàn tay vậy, không lẽ bàn tay này lật ngửa là sống, bàn tay này lật úp là
chết bất quá xây qua xây lại gọi là xoay chuyển mà thôi chớ có chết sống đâu.
Sống chết không có nghĩa lý gì. Sống nơi mặt thế gian nầy và sống nơi cảnh
Thiêng Liêng Hằng Sống cũng gọi là cái sống mà thôi. Ấy vậy sống chết là chuyển
luân.
Hôm
nay Bần Đạo giảng khuôn luật nào chúng ta sanh ra nơi mặt thế nầy, hay chúng ta
sống nơi cửa Thiêng Liêng Hằng Sống. Đại Từ Phụ ta, cũng có tánh chất như ta
vậy thôi. Chúng ta nên lấy tỉ thí người Cha của chúng ta nơi mặt thế gian nầy,
chúng ta tìm biết thử coi Ông muốn cho chúng ta làm gì, hay là Ông định cho ta
làm gì, mà ta định làm theo ý thích của Ông, hay nói rõ cả toàn thể các Ông cha
đã muốn cho con cái làm gì, tức nhiên toàn thể nhơn loại muốn cho ta làm gì, ấy
là định luật đó vậy.
Đức
Chí Tôn là Đấng tự hữu hằng hữu quyền năng vô tận vô biên, vì cớ nào Ngài dựng
vạn vật và vạn linh trong khuôn luật nào? Đấng toàn năng toàn tri ấy muốn gì
không đặng mà tạo dựng ra vạn vật hữu hình nầy, do khuôn luật nào, do khuôn
luật nào chúng ta đã ngó thấy đã tìm khuôn luật nhỏ ấy rồi. Chúng ta có thể
đoán được khuôn luật của Ngài, chúng ta mới biết, chúng ta có hai cái sống.
Sở
năng chúng ta khi thức chúng ta đã muốn làm gì, khi chúng ta ngủ hành tàng
chúng ta đã làm gì? Định luật chúng ta đã làm gì, buổi chết chúng ta đã làm gì?
Hai khuôn luật ấy định chung nhau, Đức Chí Tôn có hai phần năng lực như ta
đương nhiên bây giờ, phần vô đối, vô cực, vô thượng của Ngài là phần "Dương năng" "huyền vi phạm
quảng đại" của Ngài vô cùng vô tận, nơi đó tạo Càn Khôn Vũ Trụ, bát
phẩm chơn hồn định số của Vạn linh. Còn về phần "Âm năng" của Ngài, tức nhiên Ngài cũng có như ta một luật
"thất tình lục dục" rồi
Ngài phân tánh ấy ra. Ngài chuyển Âm năng ra Phật Mẫu, chúng ta đang thờ buổi
nầy.
Cái
Dương năng của Ngài và Âm năng của Phật Mẫu, chính mình Phật Mẫu Ngài biến thân
ra cái Âm năng của Ngài chúng ta nói rằng: Phật Mẫu với Đức Chí Tôn, Đức Chí
Tôn với Phật Mẫu là hai quyền năng tạo dựng Càn Khôn Vũ Trụ Ngài cầm quyền tinh
thần, Đức Phật Mẫu cầm quyền hình thể.
Khi
Kim Bàn sản xuất, bát phẩm chơn hồn đi ra chính mình Đức Phật Mẫu tạo dựng hình
ảnh vạn linh, vì cớ cho nên Đức Chí Tôn quyền năng vô đối, Ngài muốn thế nào
cho toàn thể bát phẩm chơn hồn tức nhiên toàn thể vạn linh được hưởng một gia
tài dành để là: Toàn thiện toàn năng toàn tri của Ngài về tinh thần, về hình
thể, Ngài muốn quyền năng con cái của Ngài, tức nhiên vạn linh có đủ quyền năng
vô cực vô thượng của Ngài, đặng điều đình Tam thập lục thiên, Tam thiên thế
giái, và Tứ đại bộ châu. Ấy là Ngài dành cho con cái của Ngài, muốn cho đặng
toàn năng toàn tri vô cực, vô thượng như Ngài, Ngài phải cho sản xuất, hồi sản
xuất nơi Kim Bàn ra đơn sơ lắm, không đủ quyền năng điều khiển Càn Khôn Vũ Trụ
như Ngài, Ngài muốn cho chúng ta tạo dựng sự nghiệp, muốn cho chúng ta có đủ
trí thức tinh thần điều đình đại nghiệp ấy.
Q. 4/15: ĐỊNH PHẬN CỦA CON
NGƯỜI.
Đền Thánh đêm 14-07 năm Tân
Mão (1951)
Kỳ
đàn trước Bần Đạo có hứa kỳ này giảng về định phận của con người, tức nhiên
định phận của chúng ta. Dầu cá nhân, dầu xã hội nhơn quần hay là toàn thể nhơn
loại cũng vậy, chúng ta đã ngó thấy trước mắt một tấn tuồng đau khổ mà Đức Phật
Tổ đã tìm thấy chơn lý ấy là Tứ Diệu Đề. Chúng ta tự nhiên nhận biết rằng, sống
của ta ở nơi cõi thế này không phải sống đặng hưởng hạnh phúc, trái ngược lại
chúng ta đã sống nơi một cảnh khổ, Tứ Diệu Đề tức nhiên tứ khổ đó vậy.
Chúng
ta lại để mắt xem thấy cơ đời đã để trước mắt chúng ta nhiều lẽ bất công, chúng
ta đã ngó thấy một tấn tuồng, khôn hiếp ngu, mạnh hiếp yếu, sang hiếp hèn, hung
dữ hiếp hiền từ, tàn bạo hiếp đạo đức, lẽ bất công ấy dẫn loài người từ thử đến
giờ đi tới chỗ biết nguyên nhân của nó.
Chúng
ta đã thấy Đạo Pháp định chơn lý của kiếp sanh mình. Vậy chúng ta đến tại đời
này, hoặc đến đặng trả quả, hay đến đặng chia đau sớt thảm cùng bạn đồng khổ
của chúng ta nơi cảnh thế gian này, hai lẽ ấy chúng ta nên tìm hiểu chơn lý của
nó đặng định phận cho chúng ta.
Đáng
tiếc hơn hết những người không biết chơn lý Tứ Diệu Đề, phần nhiều họ không
biết tại sao họ đau khổ, vì thế nên họ đau khổ chừng nào, thì họ oán hận kiếp
sanh chừng nấy, bởi kiếp sanh họ khổ nhiều hơn hạnh phúc, họ giận mọi lẽ bất công
của xã hội. Họ hỏi: Người tại sao sanh ra nằm trên đống vàng, giàu có sang
trọng, thong dong, còn người đẻ ra trong cảnh hàn vi cơm không đủ bữa, còn
người đẻ ra ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, người lại đẻ ra nơi xó bếp chuồng gà.
Sống
trong cảnh bất đồng biểu sao họ không phẩn uất, không thù hận kiếp sanh, trong
kiếp sanh ấy họ thù hận mà không biết ai đặng trả cái thù hận ấy, thành thử họ
oán hận toàn thể bạn đồng sanh của họ, tức nhiên toàn thể nhơn loại.
Chúng
ta đã ngó thấy tấn tuồng họ đi tìm hạnh phúc, nhơn loại giờ phút này đương tìm
hạnh phúc. Ôi! Bần Đạo thấy họ muốn kết bạn với cả thiên hạ, kết bạn đặng họ
nhơn danh toàn thể thiên hạ, mà đánh đổ lẽ bất công ấy cho tới ngày giờ nào
nhơn loại nơi mặt địa cầu này hưởng đặng đồng đều của phú hữu, của trái địa cầu
này, và giờ phút nào cả giai cấp trong thiên hạ không còn nữa, đặng đồng đều
với nhau, ngày ấy họ tạo hạnh phúc cho nhơn loại đặng.
Họ
lầm, vì chúng ta không thể gì đem kẻ ngu mà sánh với người trí, đem trẻ mới
sanh sánh với ông già, dầu cho muốn đem lại nét công bình, kẻ trí phải dạy bảo
người ngu, ông già đủ lịch lãm thế tình dạy lẫn người trẻ, dạy đó bất quá là
một phương pháp giải kết mà thôi, chớ không đủ một vấn đề định vận mạng của họ
được, chúng ta ngó thấy từ buổi sanh ra và trong trường hợp cùng đồng thể với
nhau mà tại sao kẻ quan người dân.
Chúng
ta ngó thấy đặng người trí họ thông minh sáng suốt họ định phận lấy họ, họ định
đặng lấy mình, thì mình tự chủ được mình, còn có kẻ chỉ nương nơi người mà
sống, vì thế cho nên tinh thần ấy, đầu óc ấy là có giai cấp đặc biệt, chúng ta
không thế gì làm cho cả toàn thiên hạ đặng đồng tánh với nhau mà không đều với
nhau, thì quyết định tạo hạnh phúc cho nhơn loại của họ; điều ấy mơ mộng không
hề khi nào thiệt hiện ra đặng. Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Hội Thánh nam nữ,
những Đạo Giáo đã sản xuất nơi mặt địa cầu có một đặc phận cũng như ta, mỗi cá
nhân đều có một đặc phận, là đem cân công bình Thiêng liêng kia cân cái tình ái
của chúng ta cho bằng cái sống, chúng ta biết rằng: Bạn đồng sanh của ta tức
nhiên toàn thể nhơn loại đang khao khát hạnh phúc, chúng ta vẫn biết hạnh phúc
không bao giờ thiệt hiện đặng, chúng ta chỉ tìm phương pháp đặng an ủi tinh
thần họ, nếu chúng ta có phương pháp ấy thì mới sống gần Thánh Thể Đức Chí Tôn.
Giờ phút nào chúng ta ngó thấy trước mắt chúng ta một người bạn thiệt thòi ngu
dốt, ít oi bị một người khôn hơn, mạnh mẽ hơn hiếp đáp, lại có một người đứng
gần bên kẻ ấy mà nói với người kia rằng: Em tôi khờ khạo dốt nát, ông thì thông
minh sáng suốt không nên hiếp nó chi, ông cứ ăn hiếp tôi đây, tôi có thể đối
thủ lại với ông.
Hoặc
có một người bạn thiệt thà yếu đuối bị một kẻ mạnh mẽ oai quyền hiếp đáp thì
lại có một người đứng gần bên kẻ ấy nói: Em tôi yếu ớt bạc nhược không thể gì
đương đầu với người, nếu người muốn ra mặt anh hùng với người này, thì đương
đầu với tôi, tôi có đủ sức đương đầu với người, đem cân công lý chỉnh đốn sự
bất công của đời mà ai làm đặng, tức là làm trọn phận sự đối với đời đó vậy.
Các
nền Tôn Giáo kia dành cầm cân phân phát lẽ công bình ấy, chúng ta thấy Tôn Giáo
nào mới sản xuất, họ có định phận của họ rõ rệt, họ là bạn với những người khó,
an ủi những người khổ não, có nhiều khi chia từ miếng ăn, phát từ mảnh áo, tới
chừng đặng quyền trong tay rồi chính họ là người cầm cân công bình ấy không giữ
địa vị, kẻ cầm cân trở lại làm chúa cả thiên hạ, vì thế nên các nền Tôn Giáo ấy
ngày nay mất quyền.
Đạo
Cao Đài sản xuất đem công bình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn để tại mặt thế gian
này, Bần Đạo ước ao rằng: Cân công bình ấy sẽ còn tồn tại mãi mãi để chúng ta
định phận chúng ta, còn về quyền xoay chuyển do Đức Chí Tôn quyết đoán.
Q. 4/16: CÁI LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA NƠI CÕI TRẦN NÀY.
Đền Thánh đêm 29-07 năm Tân Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo thuyết cái
lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần này, mỗi người
của chúng ta có một cái thắc mắc, từ thử đến giờ con người bao giờ cũng tìm hiểu. Chúng ta thấy ta có nơi cõi
trần này không phải chúng ta muốn, có nhiều lý do làm cho chúng ta phải tìm
hiểu là cái định mệnh của chúng ta, chúng ta không có làm chủ, dầu cho bực trí
thức cao siêu thế nào chưa chắc mình
làm chủ định mệnh của mình đặng. Ôi! Cái thắc mắc của đường đời, kiếp sống của
chúng ta, chúng ta đã thấy nhiều lý lẽ làm cho chúng ta phải uất hận, nhưng không biết nguyên do thể nào loài người phải thọ lãnh, có nhiều kẻ uất hận ấy không có phương
thế giải quyết đặng, đến đổi xô đẩy họ đến một phương pháp chót của họ, là họ
tự sát lấy họ mà thôi. Định mạng của chúng ta, chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta
phải sống? Sống nơi cõi trần để làm gì? Khi biết được lý lẽ ấy chúng ta có
phương thế an ủi được mà nếu chúng ta không biết lý do ấy, chúng ta không biết
mạng sanh của chúng ta, hay là con người của chúng ta, giá trị sống của nó do
nơi đâu, thì không có phương thế nào an ủi được.
Có
hai lẽ sống, hoặc ta đến cõi thế gian này để trả nợ sống, bởi chúng ta trả nợ
sống ấy mà chúng ta mất hạnh phúc hưởng an nhàn cực lạc nơi cõi Thiêng Liêng
Hằng Sống ta đến đây trả nợ sống đặng đạt hạnh phúc nơi cõi Thiêng Liêng Hằng
Sống, cái lý do đầu tiên hết. Hễ chiếu theo lý do ấy, chúng ta ở trong thế gian
này do tại quả kiếp. Lý do thứ nhì nữa là chúng ta đến đây đặng chia khổ cùng
các bạn chúng ta đã chịu khổ nơi cõi thế gian này, chúng ta đến đặng tìm bạn.
Đức Chí Tôn đã nói: Biết đâu trong cánh hoa kia không phải là một vật mà là một
chơn linh giáng kiếp, biết đâu trong vạn linh, trong vật loại mà trong ấy lại
không có người bạn yêu ái của ta vô cùng vô tận nơi đó, bởi lẽ ta thiếu nợ sống
chúng ta phải trả. Ấy vậy chúng ta phải trả, đến đặng trả tức nhiên ta đến đặng
phụng sự cho vạn linh. Còn lý lẽ sau nữa. Nếu chúng ta đến tìm bạn, thì phải
xót thương họ nhưng không biết bạn ta là ai? Tới trong sự mơ hồ nên chúng ta
không biết bạn chúng ta đã đến nơi nào? Ở nơi thân một đứa bé, ở nơi thân của
người tôi đòi tàn tật, ở nơi người phụ nữ, ở nơi thân của người nam kia mà đã
bần hàn đói khó, hay là sống trong sang trọng vinh hiển chúng ta không biết. Vì
lẽ không biết ấy mà định lẽ sống của chúng ta sống đặng phụng sự vạn linh. Văn
minh Âu châu người ta đã nói : "Chacun pour soi" tức nhiên mỗi người
mình lo cho mình duy có Trời lo cho cả thảy thiên hạ.
Mấy
bạn đứng trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn chúng ta mấy em nam nữ, mấy đứa thư
sinh nam nữ các em đã đặng hạnh phúc ngồi trong lòng yêu ái vô tận vô biên của
Đức Chí Tôn, cả thảy mấy em cùng nói: Tôi đến nơi lòng Ổng đặng tôi mong mỏi
làm thế nào đặng đứng địa vị phần tử Thánh Thể của Ổng, mà giá trị phần tử
Thánh Thể của Ổng, tức nhiên làm Trời tại thế gian này thay thế cho Ổng làm mà
làm Trời, chúng ta thấy "thùy từ mẫn khổ" của Ổng vô tận vô biên, từ
thử đến giờ, thùy từ mẫn khổ nó buộc ta rằng: Cái lẽ sống của ta không phải
sống trong hạnh phúc của ta, mà ta sống trong hạnh phúc của toàn thể con cái
của Ngài.
Nếu
các bạn thấy mình đặng mạnh mẽ hơn người em người bạn của mình, tức nhiên Đức
Chí Tôn định cho cái mạnh của ta, để đặng gánh vác sự nặng nề cho em cho bạn.
Nếu chúng ta thấy trong đầu óc của chúng ta có khôn hơn em ta, cái khôn của
chúng ta ấy là Đức Chí Tôn ban cho để bênh vực sự dại dột của nó, nếu chúng ta
thấy chúng ta sống trong vinh hiển, thì chúng ta nói rằng Đức Chí Tôn ban cho
sự vinh hiển không phải để dành riêng cho ta hưởng, mà ta có phận sự đem cái
cái sang trọng vinh hiển ấy chia cho cả toàn thể em, bạn của ta; lẽ sống của
chúng ta là lẽ sống của toàn thể, lẽ sống của chúng ta là để lau giọt nước mắt
của kẻ khổ não, lẽ sống của chúng ta là nắm cho chắc Bình Cam Lồ Thủy của Ngài
chan rưới cho đồng đều đặng hưởng. Ngày giờ nào trong phần tử Thánh Thể của
Ngài làm như thế ấy, thì tới ngày về nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tôi dám
bảo kiết rằng: Cả thảy gặp được mặt Đức Chí Tôn là ngày vui hứng của mình, gặp
được Ngài và cả thảy Thần, Thánh, Tiên, Phật đều mừng mà thấy rằng Đức Chí Tôn
có phúc hạnh được bầy con chí hiếu của Ngài thay thế Ngài tại mặt thế gian này
xứng đáng phận của Ngài đã định, ấy là lẽ sống của chúng ta đó vậy.
Toàn
thể con cái của Ngài xin mỗi ngày, mỗi giờ mỗi phút đều để tâm thực hiện cho
được. "Thùy từ mẫn khổ" là điều mong mỏi của Ông cha vô hình chúng ta
đem tất cả sự yêu ái vô tận vô biên và đại tạo đại từ bi của Ngài mà rưới chan
nơi thế gian này. Giờ phút nào trong tay của chúng ta phân phát cho đồng đều đó
là lẽ sống của chúng ta hoàn toàn đó vậy. Nếu chúng ta không biết phân phát để
hao hớt đi thì cũng uổng một kiếp sanh vô lối.
Q. 4/17: LẼ SỐNG CỦA CHÚNG
TA NƠI CÕI TRẦN NÀY. (tiếp theo)
Đền Thánh đêm 15-08 năm Tân
Mão (1951)
Đêm nay Bần Đạo giảng tiếp lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần này Bần Đạo
thuyết minh rằng: Chúng ta có sanh tại thế, nguyên do tại sao và ta đương sống
đây cả cái sống chung cùng cái sống của vạn linh đặng làm gì? Bần Đạo đã thuyết
về phương pháp Bần Đạo đã
chỉ rõ rằng: Cái thi hài của chúng ta đồng sanh với vạn vật là con kỵ vật của
chúng ta đến cõi trần này đặng tìm bạn hay trả quả kiếp của chúng ta, Bần Đạo
đã thuyết minh hai lần. Hôm nay thuyết 2 cái lẽ sống, vả chăng, chúng ta đã
đồng sanh cùng vạn vật tức nhiên chúng ta cũng có đủ năng lực, đủ trí thức khôn
ngoan để định phận bảo vệ sanh mạng của chúng ta, và ta phải nhìn rằng: Cái
sống của chúng ta không khác cái sống của bạn đồng sanh với chúng ta. Bần Đạo
nói, bạn đồng sanh của chúng ta không phải là nhơn
loại mà thôi, mà cả vạn vật hết, bởi chúng ta thấy hiển nhiên trước mắt nơi cõi trần này, chúng ta đã sống chung cùng họ và họ đã giúp cho chúng ta sống,
chúng ta đã ngó thấy trong khuôn khổ cái sống của đời tạo ra hai lẽ; từ thượng
cổ đến giờ, Bần Đạo tưởng có loài người tới giờ họ đã định tìm hai lẽ sống ấy, đặng họ quyết định họ sống với thái bình hay
sống với loạn lạc, hai lẽ sống ấy nơi mặt địa cầu này nhường sống
thì thái bình, tranh sống tức nhiên loạn lạc. Nhường sống là gì? Chúng ta đã hiểu rằng: Chúng
ta đã chịu cùng một định luật chung sống với vạn vật, chính mình ta phải tôn
sùng kính trọng cái sống ấy, chúng ta phải liệu phương
nào định cái sống của chúng ta trong mực thước không phạm đến cái sống của Vạn
linh, tức nhiên không phạm đến cái sống của kẻ khác, mà nói họ có phương pháp
nhường sống cho nhau, từ thử đến giờ, các nhà triết học các Đạo Giáo, tìm lý thuyết đạo đức tinh thần dầu cho Nho, Thích, Đạo hay là các Tôn Giáo
khác chỉ có tìm mực thước bày ra phương pháp để tạo cho
nhơn loại biết kính trọng cái sống cho nhau tại mặt địa cầu này, làm một cái
định luật đặng họ biết cung kính biết nhịn nhường, tức nhiên có hòa bình an tịnh, được an ủi, được thỏa mãn, được hạnh phúc. Còn trái lại
nếu như cái sống của chúng ta đã
khó khăn bởi chúng ta sống trong thuyết Tứ Diệu Đề của nhà Phật là sanh, lão,
bịnh, tử, chúng ta đã ngó thấy trường đời chẳng buổi nào tìm đặng chơn hạnh phúc, cái sống ấy bảo tồn khó khăn lắm, nếu không có đạo
đức làm phương thuần tâm đặng định chí hướng của mình thì khó sống, tức nhiên cái khó ấy giục cho người
ta tranh sống, tấn tuồng đời chúng ta đã
ngó thấy, dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội, dầu cho toàn thể nhơn quần, họ chỉ vì cái tranh sống mà tiêu diệt lẫn
nhau, nếu chúng ta nói người biết nhường sống của người
trong cái khó khăn, mình phải có một tâm hồn cao thượng ái tuất thương sanh, mới có phương thế chúng ta chịu khổ có tâm đức
nhượng sống cho kẻ khác. Muốn cho đặng có tâm đức ấy ít ra phải có đạo đức và
lấy tinh thần làm căn bản, nếu bỏ tinh thần làm căn bản là xu hướng về duy vật,
chỉ chạy theo thuyết tranh sống với nhau mà thôi, tranh sống thì cơ tận diệt
lẫn nhau vẫn tiếp tục mãi mãi, chẳng hề buổi nào nhơn loại trên địa cầu này
trọng hưởng hạnh phúc hòa bình đặng.
Ấy
vậy nhượng sống cho nhau thì tồn tại, mà tranh sống với nhau là tự diệt đó vậy.
Q. 4/18: LỄ TRUNG THU NGÀY
CHÚNG TA ĐẶNG HỘI HIỆP TRONG ĐẠI GIA ĐÌNH THIÊNG LIÊNG CỦA ĐẠO.
Đền Thánh, tại Bao Lơn H.T.Đ.
ngày 15-08 năm Tân Mão (1951)
Trước khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo cúi đầu chào mừng toàn
thể con cái Đức Chí Tôn nam nữ. Mỗi một năm chúng ta đặng hân hạnh tụ hội lại
với nhau tỏ lòng luyến ái vô tận của Đức Mẹ, ngày rằm tháng tám, tức nhiên ngày
Trung Thu của chúng ta. Buổi lễ hôm nay nếu chúng ta lấy về ý nghĩa trong cửa
Đạo tức là ngày chúng ta đặng hân hạnh hội hiệp cùng nhau trong đại gia đình
thiêng liêng của Đạo. Mỗi một năm Bần Đạo xin thú thật rằng Bần Đạo được hưởng
một cái vui hứng và hạnh phúc là ngày hôm nay, ngày Bần Đạo còn đây đặng cả con
cái của Đức Chí Tôn chung hiệp lại với nhau trong cửa Thiêng liêng Hằng Sống
tức nhiên trong lòng yêu ái vô tận của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, Bần Đạo xin
mừng, để lời mừng toàn thể con cái của Ngài đó vậy.
Tiếp
theo đây Bần Đạo để lời căn dặn chiến sĩ Cao Đài tức nhiên chiến sĩ của Đạo,
cái định phận của nước nhà, của nòi giống Việt Nam sẽ kết liễu và đương kết
liễu một cách mỹ mãn, đặng thiệt hiện nền độc lập và thống nhứt của nước Việt
Nam theo chiều hướng sở vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam đã mong mõi, trước
lời tục của Việt Nam ta đã nói: Hễ có gánh phải có vác. Quân đội Cao Đài đã đảm
nhiệm từ thử đến giờ cái giải pháp Quốc Gia đặng giải quyết tình luyến ái của
Pháp Việt tương thân, đặng định vận mạng Quốc Gia Việt Nam trong tương lai của
nó, đã làm đặng trước tức nhiên phải làm đặng sau. Vận mạng ấy được kết liễu mà
nó mong mỏi có một điều là toàn thể dân tộc Việt Nam phải cố gắng, rồi thiên hạ
mới giúp mình nên đặng. Chúng ta chán biết rằng do nơi luật định của chúng ta,
chúng ta không ỷ lại nơi ai hết. Lời tuyên ngôn của Pháp thường hay nói
"Aide toi, le ciel t'aidera" mình phải cố gắng trước rồi Đức Chí Tôn
sẽ giúp mình.
Nòi
giống Việt Nam thời giờ định vận mạng, định tương lai của họ đã đến một chiều
hướng kiến thiết thì Quân Đội Cao Đài phải làm gương, phải hy sinh hơn nữa,
phải làm kiểu mẫu đem cái lòng ái quốc nồng nàn trước kia thế nào thì giờ phút
nầy cũng thế ấy, phải hy sinh xương máu cho toàn thể quốc dân Việt Nam đặng
định vận mạng của mình, ấy là về Quân Đội, còn về thiếu nhi và học sinh nam,
nữ, nhờ sức đảm đương giáo hóa khó nhọc, nguy hiểm, ngặt nghèo của Hội Thánh từ
trước tới giờ đã nuôi các con, đã giáo hóa các con chỉ mong mõi một điều các
con nên phận. Hôm nay ngày lễ của các con, các con coi đàn anh của các con
trước đã làm gì? Đã nên gì? Các con coi theo đó mà học đòi bắt chước theo và cả
toàn thể trong Đạo chính mình Bần Đạo dám nói rằng ngoài Đời hằng mong mõi cho
các con nên, đặng đem cái tình thương và định vận mạng tương lai cho Tổ Quốc.
Các
con! Nòi giống các con cả thảy để tâm nhìn nơi các con và Bần Đạo ẵm cả thảy
trong lòng của Bần Đạo hun hít các con một cách yêu mến vô hạn, không thể bằng
lời nói đặng. Bần Đạo xin để lời chào cả toàn thể.
Q. 4/19: LỄ KHÁNH THÀNH NỮ
ĐẦU SƯ ĐƯỜNG VÀ RƯỚC LINH VỊ CỦA BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH ĐỂ THỜ NƠI NỮ ĐẦU SƯ ĐƯỜNG.
Ngày 15-08 năm Tân Mão (1951)
Mấy
em, Qua đã có nói cả công nghiệp của mấy em cả sự khó nhọc của mấy em đều đổ
trút lên lưng Qua hết. Đó là cao thượng của mấy em hơn hết.
Thưa
cùng Hội Thánh nam, nữ các cơ quan, hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước khi
Đức Chí Tôn đến cùng chúng ta, cầm cây linh bút của Ngài tạo nền Chơn giáo. Ông
đến với một thân già nghèo của Ông, chính mình Ông khai rằng: Ông là một Ông
già nghèo Ổng nói: "Tròi trọi mình không mới thiệt bần". Ông đến cho
ta một danh thể là lập Hội Thánh cho con cái của Ông, nhưng Ông còn cỡi được
con Bạch hạc ở trên mây trắng, còn Thánh Thể của Ông ở ngoài mưa nắng cũng
không được nữa, nó khó lắm đó vậy, tình trạng rất khó khăn, Ông đến với một
thân nghèo để tạo dựng Thánh Thể cho con cái Ông. Mà ôi thôi! Dám Thánh Thể của
Ông nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó chúng ta có một năng lực cao
thượng vô giá không thể tưởng tượng được. Có lẽ cả thảy đều ngó thấy buổi phôi
thai, là khi Đền Thánh mới tạo, con cái của Ngài phải chịu biết bao nhiêu khổ
hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền Thánh, đến bây giờ thành tướng
làm cho vạn quốc ngó thấy trông vào đều khen ngợi, đó là khối muối của sắp nhỏ
trở nên hình đó, do sự nhẫn nại nhọc nhằn của sắp nhỏ mà nên đại nghiệp ngày
nay đó vậy.
May
thay, đám con chí hiếu của Ngài trước sao sau vậy, liều mảnh thân phàm nầy làm
con tế vật cho Đạo.
Cả
thảy Hội Thánh tưởng lại coi tạo dựng một dinh thự Nữ Đầu Sư Đường như vậy chỉ
có 250.000$ (hai trăm năm chục ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm
không? Tôi dám chắc không dám, bởi vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô
trong này bằng ba lần như vậy, đó chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hòa với
giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên hình tượng đó vậy. Các con, các em để ý coi Ông
già đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công nghiệp của mấy em, Ông trả nơi thế
nầy không đặng thì về cửa Thiêng Liêng Hằng Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới
nghe. Các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu hạnh của Ông giờ phút nầy có biết
định phận của nó thế nào đối với Thánh Thể. Mấy đứa trong Quân Đội bây giờ là
ai? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo rồi nó còn hy sinh xương máu
bảo vệ đại nghiệp cho con cái của Ngài nữa, đương đầu với những trở lực oai
quyền hiện giờ nó nuôi lại em nó chia từ miếng cơm manh áo cho mặc.
Cả
đại nghiệp nầy là nhờ đám con chí hiếu của Ngài tạo dựng nên, chớ tôi không làm
gì được hết, chỉ có là đốc thúc vô cho chúng nó làm chớ thân nầy ôm viên gạch
cũng không nổi. Bần Đạo chỉ mong có một điều là toàn thể con cái của Ngài nam,
nữ mỗi ngày đều tưởng tượng đến công khó nhọc anh em nó, khó nhọc của đồng bào
toàn thể nước nhà nòi giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy cả sự nghiệp nầy làm
môi giới, giữ đạo đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với nhau giữ nghĩa với nhau
cho đến bảy trăm ngàn năm (Thất ức niên) theo lời của Đức Chí Tôn đã định, dầu
Bần Đạo còn ở đây hay về cõi Hư Linh Cung ấy an lạc đi nữa, cũng nhớ đến đại
nghiệp con cái của Ngài và Bần Đạo dám đại ngôn với Ngài rằng: Con cái của Ngài
giữ tâm chí hiếu với Ngài và đối với Phật Mẫu cũng vậy.
Q. 4/20: LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ
LÀ GÌ?
Đài Cửu Long buổi chiều ngày
15-08 năm Tân Mão (1951)
Hôm
nay là ngày chúng ta, toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ hội hiệp trong
đại gia đình Thiêng Liêng của Chí Tôn đã đào tạo cho ta, Bần Đạo nhơn dịp này
giải nghĩa rõ rệt cái lễ Hội Yến Diêu Trì là gì? Cả thảy con cái Đức Chí Tôn
đều biết, chúng ta tu, cốt yếu mong mõi một điều trọng yếu hơn hết là đạt cho
đặng cơ giải thoát hay là có phương thế trở lại cựu vị Thiêng Liêng của chúng
ta, các phẩm chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn đã lấy quyền cho
Phật Mẫu đào tạo tám phẩm chơn hồn, tức là chơn hồn vật chất, thảo mộc, thú
cầm, nhơn loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Trong tám phẩm chơn hồn ấy xuất hiện
nơi Kim Bàn do theo luật Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, thì họ phải từ
từ tăng tiến mãi, cái luật tăng tiến ấy nó buộc ta mỗi kiếp sanh đều kiếm
phương tu, đặng chi? Đặng tạo Thiêng Liêng Vị cho chúng ta, các đẳng chơn hồn
ấy khi đã đến nhơn phẩm rồi chia ra hai phẩm hồn đặc biệt, ở trong vật loại
tăng tiến lên đạt nhơn phẩm của mình gọi là hóa nhân, các chơn hồn ở trong Kim
Bàn đã xuất hiện với địa vị nhơn phẩm của mình là nguyên nhân. Hai phẩm hồn ấy
nếu không noi theo đạo đức đặng từ từ bước lên con đường Thánh Đức của mình,
đặng đạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật Vị, lại làm tội lỗi thì phải sa vào
Quỉ Vị.
Ấy
vậy phần người có nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân. Hại thay 100 ức nguyên nhân
do Đức Chí Tôn đã để lại mặt thế này, đặng làm bạn với các đẳng chơn hồn trong
Vạn Linh sanh chúng của Ngài đã đào tạo thì Phật vị có sáu ức, Tiên Vị có hai
ức, còn chín mươi hai ức nguyên nhân bị đọa trần. Từ ngày Đạo bị bế họ có lắm
công tu mà thành thì không thành. Tội nghiệp thay, vì 92 ức nguyên nhân ấy mà
chính mình Đức Chí Tôn phải giáng trần mà lập nền chơn giáo của Ngài, chúng ta
đã ngó thấy cái thánh ân, đặc biệt hơn hết là Đức Chí Tôn đã thấy rõ rằng: Các
nguyên nhân ấy không phương gì tự giải thoát đặng vì quá tội tình, quá mê luyến
hồng trần hoặc đào tạo quả kiếp nặng nề quá đổi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà
thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại
mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết rằng không thế gì các nguyên nhân tự
mình đạt cơ giải thoát đặng.
Hôm
nay, Ngài đến lập nền chơn giáo của Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu ái vô
tận của Ngài là thế nào? Chúng ta thử suy đoán không ai nói cho mình nghe hơn
Mẹ của mình, không ai dạy dỗ mình có oai quyền hơn Mẹ của mình, cái tình trạng
ấy đối với mặt thế chúng ta thế nào thì quyền năng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng
Sống như in không có mảy may chi khác. Ngài lập giáo rồi còn một nỗi là kêu nó
không đến. Ngài dạy mà không biết chi, chính mình Ngài đã nhiều lần hạ trần lập
Đạo mà 92 ức nguyên nhân vẫn đui và điếc mà thôi, không biết để chun vào lòng
yêu ái vô tận của Ngài, đặng hưởng cái hạnh phúc vô biên của Ngài đã đào tạo.
Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu và Bần Đạo đã thuyết minh là
nắm quyền tạo hóa của Càn Khôn Vũ Trụ hữu hình trong tay Đức Phật Mẫu. Có thể
nói vào xác thịt chúng ta, để cho chúng ta nghe lời nói tinh thần thiêng liêng
của Đức Chí Tôn, lời nói mà từ trước đến giờ chúng ta không thế gì nghe được,
nhưng Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát ấy, phải làm thế nào
đặng tận độ 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị. Muốn cho đạt đặng bí pháp siêu
thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đã làm gì? Đức Chí Tôn giao cho Đức
Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết những cái chơn hồn khi đã đạt pháp tức
nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị mình đặng vào cái địa vị Thiêng Liêng, đạt đặng
thì phải về Hội Yến cùng Đức Phật Mẫu, lễ Diêu Trì Cung Hội Yến mà người ta gọi
là hội, nhưng thật ra chúng ta về hội hiệp vui cùng Mẹ sanh của chúng ta đó
vậy.
Đạo
Pháp gọi là "Hội Yến Diêu Trì" tức nhiên chúng ta đã đạt đặng cơ siêu
thoát nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, chưa biết nếu chúng ta không tu thì
con đường ấy là gì mà chớ. Chính mình Đức Chí Tôn biểu Đức Phật Mẫu tức nhiên
Mẹ sanh của chúng ta cầm cả quyền năng giải thoát trong tay đến lập Hội Yến
Diêu Trì tại mặt thế này và cả con cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên nhân ấy,
nếu nhập vào cửa Đạo tùng theo chơn pháp thì đặng hồng ân của Đức Chí Tôn cho
hưởng cái Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì tại thế này, cái cơ siêu thoát thiên hạ đã
đạt trong tay họ sẵn, tức nhiên giờ phút cuối cùng này là giờ phút hứng thú,
giờ phút chết của họ, thì họ đạt vị một cách dễ dàng, ngôi vị nào cơ quan siêu
thoát Đức Chí Tôn đã cho không họ đó vậy. Nhờ đó mà cơ quan tận độ Vạn Linh của
Đức Chí Tôn đã lập lại tại thế này, từ đây sẽ mở rộng cửa Thiêng Liêng Hằng
Sống đặng đến gom góp cả con cái của Ngài, trở về hiệp một cùng Ngài, bí pháp
Hội Yến Diêu Trì là vậy đó.
Q. 4/21: NGÀY LỄ ĐỨC MẸ
"ĐỨC DIÊU TRÌ" CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG GIA ĐÌNH ĐÔNG CON.
Đền Thánh, ngày 16-8 năm
Tân Mão (1951)
Mấy em, vợ chồng mấy em nhơn ngày lễ Đức Mẹ, Qua làm lễ
đặc biệt đặng cầu nguyện cho gia đình mấy em, Đức Chí Tôn đã
giao phó cho mấy em nắm cơ nhơn luân trong tay, đào tạo
nhơn loại tại mặt thế này, mấy em không có chồng vợ chắc nhơn loại không có tại
thế này. Đức Chí Tôn giao phó trách nhậm trọng yếu cho mấy em thay Ngài đặng
tạo Đời, trong kinh luật, Đức Chí Tôn đã giải rõ, Qua nói ít mấy em hiểu nhiều.
Mấy em trước kia chỉ nghe Nho Tông phú thác cho mấy em một phận sự tối yếu, tối
trọng, biểu mấy em gìn giữ tông đường nặng ... ... ...(*1) nợ máu thịt của mấy
em đối với Đấng đã sanh thành mấy em, nếu mấy em không có con cái để kế nghiệp
hương quả cho tông đường, thì con người của mấy em bị bất hiếu, "Bất hiếu
hữu tam vô hậu kế đại" luật thiên nhiên đã định vậy, vì lo nhơn luân tối
trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu đáo. Hôm nay Đức Chí Tôn đã đến giao
cho mấy em một phận sự tối yếu, tối trọng hơn nữa, giao trong khí huyết của mấy
em, Ngài gởi gấm Thánh Thể của Ngài cho mấy em. Con của mấy em nó không phải là
của mấy em mà chính là của Ngài đã cho mấy em đó vậy. Mấy em tự nghĩ đại nghiệp
của Đạo tức nhiên gia tài của gia đình nhơn luân của mấy em đây. Thoảng như mấy
em không có con cái đặng mà nối cơ nghiệp của Đức Chí Tôn, công nghiệp mà chúng
ta từ giọt nước mắt, từ giọt mồ hôi đào tạo cho chúng nó đây làm chủ, rồi Thánh
Thể của Đức Chí Tôn ai kế truyền? Ấy vậy, Qua nói con cái của mấy em sanh ra là
khách của Đức Chí Tôn đã giao, đã gởi gấm, mấy em đạo đức đầy đủ, mấy em xứng
đáng làm cha làm mẹ nó, nếu mấy em thiếu đạo đức Qua e cho mấy em không tròn
phận, thì có thể nào mấy em định nghiệp kia cho đặng? Qua nói thật, cả của cải
đào tạo cho Đạo đây đặc biệt của mấy em, ấy là của mấy em đó.
Mỗi
năm, kỳ trước Bần Đạo đã nói, chỉ trừ hai nơi Bần Đạo không dám xâm phạm tới :
1 . Là Đền Thờ của Đức Chí Tôn,
2 . Là Đền Thờ của Đức Mẹ để tượng trưng hình ảnh vô tận vô biên của hai Đấng
ấy, Qua không dám đá động tới. Nếu ngày nào con cái của mấy em nghèo đói khổ não
quá, Qua dám lấy từ miếng gạch, miếng gói của Đạo đem bán đặng nuôi con cái của
mấy em.
Ấy
vậy, Qua nhơn danh Hội Thánh của Đạo và nhơn danh Đức Chí Tôn, Qua để lời với
mấy em rằng: Của cải vô tận của Đức Chí Tôn và toàn thể Hội Thánh cũng nhờ nơi
tay của mấy em. Qua cúi đầu trước cái khổ não nhân nghĩa của mấy em vì gia đình
thế nào, Qua chỉ biết cúi đầu gởi gấm cho mấy em, sự nên hư của Đạo trong tay
của mấy em, mấy em phải sống cho đáng giá. Thánh Thể của Đức Chí Tôn do nơi mấy
em mà thôi.
Phụ ghi:
(*1)
Nơi đoạn thứ 1: Bản photocopy không rõ. Đồng đạo nào có được nguyên bản in rõ
ràng xin đóng góp. Đa tạ.
Q. 4/22: TÌM COI CÁI LẼ CHƠN
GIẢ CỦA CÁC ĐẠO GIÁO TỪ THỬ.
Đền Thánh ngày 30-08 năm Tân
Mão (1951)
Đêm
nay Bần Đạo mời cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn và con cái của Ngài nam, nữ hiệp
trí lại đặng tìm coi cái lẽ chơn giả của các Đạo giáo từ thử đến giờ, cả trí
não con người đã tầm Đạo phân vân bất nhứt.
Bao
giờ cũng vậy, từ thượng cổ đến giờ, những tinh thần mộ Đạo, lẽ thường người ta
nói tầm chơn, cái chơn ở đâu? mà giã thế nào? Họ lấy phương tiện nào phân biệt
được cái chơn mà họ tầm chơn.
Vả
chăng luật tương đối của vạn vật hữu hình nó khó phân biệt lẽ tương đối của nó.
Thảng như chúng ta không ngó thấy cái chơn, thì chúng ta không thể gì nói đến cái
giả. Chúng ta không ngó thấy cái chơn, thì chúng ta không thể gì nói đến cái
thiệt. Luật tương đối ấy vẫn một mà thôi.
Chúng
ta thử đoán xét từ cái thử coi, tỷ như Nho Giáo của Đức Khổng Thánh tạo thành,
mà người ta còn trích điểm cái chơn, cái giả, miệng lưỡi và đầu óc của nhơn
sanh bao giờ cũng thế. Luận người ta có thể nói Ngài sanh ra trong nước Lỗ,
Ngài là một Giáo Chủ của Nho Tông, tức nhiên Giáo Chủ của nhơn luân chi Đạo, mà
tại sao Đạo của Ngài không thể gì cứu nước Lỗ cho còn tồn tại đến ngày nay? Ấy
vậy Đạo của Ngài bất lực.
Đạo
của Ngài sản xuất ra hồi buổi Đông Châu Liệt Quốc thiên hạ thống khổ đảo huyền,
nếu nói rằng: Nhơn luân chi Đạo của Ngài đủ năng lực có thể đem hòa bình cho
thiên hạ buổi đó, trái lại Đông Châu Liệt Quốc đã loạn, và vì loạn ấy mới sản
xuất nhơn luân chi Đạo của Ngài, trong tam cang ngũ thường của Ngài bị Đạo
chích công kích triệt để. Thử nắm quyền hành của Ngài và kiếm lý luận điều đó,
trích điểm điều đó, chúng ta khó định được cái phải cái quấy chỗ ấy.
Đức
Khương Tử Nha khi Ông lãnh lịnh lập bảng Phong Thần, đi giữa đường còn bị Thân
Công Báo trích điểm, chính người sau lên án Đức Khương Tử Nha phản Trụ đầu
Châu, so sánh Đức Khương Tử Nha với Bà Di Thúc Tề, người ta trích điểm một cách
kịch liệt, người ta cho Ngài đã thất nhơn luân chi Đạo của Ngài, như thế thì
đầu óc trí não của chúng ta khó suy nghĩ lắm.
Nếu
đến Jésus Christ giờ phút này Do Thái vẫn chờ Chúa Cứu Thế. Họ không nhìn nhận
Đức Jésus Christ là Chúa Cứu Thế, vì lý do gì? Vì
lý do không theo đúng trong tiên tri đã định. Dân Do Thái vẫn chờ Chúa Cứu Thế
mà thôi.
Đức Phật Thích Ca khi lên núi, bốn người môn đệ của Ngài ngồi dưới
chân núi mà đợi Ngài, Ngài hành Đạo sáu năm trường ép xác mãi mà không đạt pháp gì hết, Ngài xuống núi bốn môn đệ của Ngài bỏ Ngài, cho
Ngài là giả không có chơn.
Còn
nữa, còn Đạo Brahma, tức là Đạo Bà La Môn cho rằng, thuyết giải thoát của Ngài
là thuyết do nhiên chứ không có gì hết, sau chính mình Ngài tạo phẩm vị đi từ
nhơn vị, Tiên vị, lên đến Phật vị, ai cũng có thể đi đến được hết. Luật giải
thoát của Ngài do nhiên chứ không có chi lạ.
Những
lý lẽ ấy làm cho đầu óc con người tầm chơn càng suy nghĩ càng khó quyết định
được. Ta tự hỏi, thế nào gọi là chơn? Thế nào gọi là giả? Theo lý trí của con
người có lẽ này "Tầm chơn là đúng sự thật hơn hết". Vả thân tôi đang
sống về phần hồn, nhưng phần hồn đã đau khổ, nếu làm thế nào cho tâm hồn an ủi
được, tầm chơn hạnh phúc được, có thể nương nơi nào mà tôi gởi tâm hồn tôi được
an ủi, chỗ đó là chơn.
Bần
Đạo có luận với mấy người bạn bên Hiệp Thiên Đài không thế gì luận cái chơn cái
giả được.
Buổi
Trương Vĩnh Ký còn sinh tiền, ông học tiếng Chàm, người đó các thứ tiếng đều
học đủ hết, người đời đã cho ông là vị Trạng cũng không quá đáng. Khi Ngài học
tiếng Chàm, theo Ngài học thì phải cần chuyện vãn với người Chàm, đặng đạt cho
được cái giọng nói của họ mới đúng, khi đi có ba người một ông Cha, và người Vú
đỡ của Bần Đạo cùng có theo năm người nữa, dắt nhau vô xóm Chàm, đặng thí
nghiệm sự học hỏi của Ông, khi vô Ông hỏi trong xóm Chàm ở đây người Chàm có
đạo đức chi chăng? Cách thờ phượng thế nào? Người ta trả lời ở đây không có thờ
phượng chi hết, Ông trọng yếu là tìm Đạo đặng biết cái sự thờ phượng của người
Chàm mà định sự tiến bộ về tinh thần của họ. Ông hỏi nữa, chí quyết tìm xóm này
coi anh em nào biết về đạo đức dân Chàm hay không? Có thờ phượng chi chăng, thì
có người nói: Ở đây không có ai đạo đức và cũng không thờ phượng gì hết. Người
đó chỉ ở trên kia có Bà già đó, Bả đạo đức hiền lương lắm, Bả ở góa từ hồi nào
tới giờ, ở vậy mà thôi. Bả thờ phượng hình cốt.
Ông
Trương Vĩnh Ký cùng năm người nữa dẫn nhau lại chỗ Bà già Chàm, đến nơi thì
thấy Bà đang quì lạy, xoay lưng ra ngoài cửa, ở mé trong có một cái tượng cốt
một Ông Chàm mà chỉ có cái đầu không mà thôi. Còn chân tay mình đều không có,
chỉ một khúc cây còn vỏ mà thôi.
Năm
người tới đứng đàng sau lưng Bả, ngó thấy Bà già Bả thờ cúng một cách đạo đức,
tưởng ra không có Đạo nào được cung kính như thế, năm người đợi Bả làm lễ xong
vừa xoay mình ra đến cung kính hỏi chuyện Bả.
- Bả
ở đây với ai ? Tới chừng đó Bả mới nói:
- Tôi
có hai đứa con, đã nên gia thất hết rồi, chỉ ở một mình tôi mà thôi.
Ông
Trương Vĩnh Ký tọc mạch hỏi nữa:
-
Hình Ông gì mà Bà thờ đó?
-
Hình đó hình chồng tôi.
- Tại
sao có cái đầu không, còn cái mình ở dưới còn cây nguyên vậy ?
- Cái
cây này là cây của ông chồng tôi lúc trước ổng trồng mà vì ổng cưng nó lắm, cho
nên tới chừng ổng khoảng tôi mướn thợ chạm cái hình Ổng đặng tôi thờ. Nhưng thợ
làm được cái đầu, còn mình mẫy và chân tay thì làm không được, nên tôi để vậy
tôi thờ mà thôi.
- Vậy
Bà không có thờ ai nữa sao ?
- Tôi
chỉ biết thờ chồng tôi, chứ không biết thờ ai hết. Từ thử đến giờ tôi thương có
một mình Ổng, tôi biết có một mình ổng mà thôi.
Ông
Trương Vĩnh Ký day lại nói: Tôi đố với ba Cha, ba Cha làm thế nào độ được người
này theo Thiên Chúa Giáo. Nếu ai đem hình nào khác hơn ông chồng của Bà thì Bà
không biết, Bả chỉ biết Ông chồng của Bả là Ông Trời của Bả. Nếu ai đem hình
nào khác hơn Ông chồng của Bả, thì Bả không chịu đâu, không Đạo chi hơn là Đạo
thờ chồng của Bà. Hỏi vậy có ai chối cái chơn của Bả không? Cái chơn của Bả là
Bả chỉ biết một ông chồng của Bả và chỉ biết thờ ông chồng của Bả như một ông
Thần sống, như một ông Trời tại thế này mà thôi. Trong thế gian này, không ai
chơn, không ai giả, và cũng không phân biệt thế nào là chơn với giả được chỉ có
trí óc của mình nhận biết được, suy đoán được, chớ chẳng hề khi nào ngôn ngữ
nói ra được.
Ấy
vậy từ thử đến giờ có người tầm chơn mà không biết đặng chơn ở đâu. Đạo Cao Đài
mà chúng ta đã theo, chúng ta đã gởi tâm hồn xác thịt cho Đấng Tạo Đoan rồi có
ai kiêu ngạo là giả, chúng ta cứ tưởng chơn mà thôi. Ngoài Đấng Tạo Đoan ra,
không ai sanh mình ra được, mình cứ tưởng Ông đó là chơn, ngoài ra ai nói cái
gì cũng thấy kệ.
Q. 4/23: KHAI MẠC HỘI NHƠN SANH CỦA QUYỀN VẠN LINH.
Nữ Đầu Sư Đường ngày 30-08 năm
Tân Mão (1951)
Bần
Đạo xin toàn cả nam, nữ tịnh tâm để nghe lời thuyết minh khai mạc hội nhơn sanh
của Quyền Vạn Linh.
1. Từ
kỳ hội trước, là kỳ hội năm Binh Tuất, khi Bần Đạo mới về, sau năm năm vắng
mặt, Bần Đạo liền trả quyền Vạn Linh lại cho con cái của Đức Chí Tôn, bởi cớ
cho nên Bần Đạo liền ra lịnh phục hồi quyền Vạn Linh.
Trót
năm năm qua, sự tiến triển của nền Đạo như thế nào trước mắt toàn cả con cái
Chí Tôn đều nghe thấy, Bần Đạo chẳng cần lên tiếng tuyên truyền khoe khoang chi
nữa, đây trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều được thấy sự cố gắng của
Hội Thánh và sự vẻ vang của con đường Chánh trị Đạo.
Bây
giờ Bần Đạo xin để lời luận về chính trị đạo tổng quát của Đạo hiện thời và trong
thời gian năm năm đã qua. Cả thảy đều biết rằng trong thời loạn ly này, nước
Việt Nam ta đương vươn mình đứng đây để xung đột cùng Vạn Quốc. Bần Đạo nói đó
là do sở định của Đức Chí Tôn mới kết liễu như thế đó.
Trong
nước đang đảo lộn loạn ly đau khổ, thì cũng giống như người đàn bà kia lúc sanh
đẻ cũng phải chịu đau đớn khi sanh một đứa con. Tình thế nước Việt Nam phải
chịu ở trong một khuôn luật ấy, đặng định vận mạng tương lai của nó.
Trong
đời loạn ly, số phận của Đạo phải chịu nhiều gay trở khó khăn hơn trước. Bần
Đạo tưởng nên so sánh với buổi nọ dưới quyền chuyên chế mà Đạo lại được nhiều
sự dễ dãi hơn bây giờ. Trong buổi nước nhà đang trở mình biến chuyển đi đến độc
lập, thật ra Đạo Cao Đài đang gánh một trách vụ nặng nề không ai tưởng trong lúc
cơ đời đảo ngược, Quốc thể chênh nghiêng dân tâm bất nhứt.
Ban
sơ, sau buổi đồ lưu Bần Đạo trở về cố quốc, thấy tình hình của nước nhà đang ở
trong một tấn tuồng không thể tưởng tượng được, chủ quyền của nước thì không
có, giặc giã chiến tranh tàn phá, lúc đó nước ta ở trong tình trạng chánh thể
quốc gia tiêu hủy, hai dân tộc Pháp Việt đang gây hấn chiến tranh, nhân dân
thống khổ trong vòng binh cách, hai lý tưởng chia rẽ thiên hạ là đôi đường
chiến đấu đang giành giựt chủ quyền nước nhà vô chủ để mặt cho ai đồ vương
tranh bá.
Bần
Đạo nhận thấy muốn giải quyết tình thế thì phải dùng tâm Đạo và tinh thần cương
quyết mới mong định vận mạng cho nước nhà. Huống chi Đạo Cao Đài là bình Tịnh
Thủy giục tắt hết lòng phàm, xa vòng danh lợi quyền thế, tránh những điều ham
chuộng thường tình. Bần Đạo nói thật, Bần Đạo rất gớm ghê điều ấy, mà cả con
cái Đức Chí Tôn cũng thế .
Muốn
giải quyết cho được dung hòa tất cả thì không phải một cá nhân đối với một cá
nhân, mà lại cả một Quốc Dân nầy đối với một Quốc Dân nọ, muốn hòa giải một
chủng tộc với chủng tộc là việc chẳng phải dễ, hai nước Pháp-Việt phải dung hòa
để chung sống trong hạnh phúc, Bần Đạo nhận thấy cái năng lực ấy nếu không có
bàn tay Thiêng Liêng giúp sức không một ai làm được.
Bần
Đạo nói cho đúng thì chỉ có Đạo mới làm đặng và đã thực hiện đường lối ấy mà
thôi. Có đủ bằng cớ hiển nhiên, chúng ta có thể hãnh diện ở buổi tương lai tốt
đẹp và một ngày kia để lại được một trang lịch sử vẻ vang không thẹn với các
Tôn Giáo khác đương quyền giáo Đạo.
Nhưng
lạ gì cái tuồng đời, duy có những kẻ không làm nên gì hết thì không ai trích
điểm, vì có làm gì đâu mà có nên, có hư, trắng trợn như vậy thôi thì có gì mà
trích điểm, chúng ta có làm gì thì lẽ cố nhiên chúng ta phải gặp việc nên hư,
phải quấy, ấy là lẽ thường chúng ta có làm, nên chúng ta bị trích điểm và ta
biết cầu cho thiên hạ trích điểm.
Giờ
phút nầy Bần Đạo nói về Đạo Cao Đài đối với tương lai vận mạng của nước Việt
Nam chúng ta. Đạo Cao Đài đã tròn phận sự của nó là đeo đuổi theo cái nguồn gốc
tinh thần đạo đức. Bần Đạo nói: "Nó là Quốc hồn nước Việt Nam vì nước Việt
Nam vi chủ nó không được, lại là tinh thần và tín ngưỡng của toàn nhơn loại tức
là nó phải chịu dưới chủ quyền Quốc tế".
Ấy
vậy Thánh Thể của Đức CHÍ TÔN, hay nói là Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài,
tỷ như đứng về mặt khách quan khi thấy điều bất chánh bất bình của nhơn quần xã
hội, nên phải đảm đương đem chơn lý và công bình nêu trên mặt thế mà thôi. Đạo
làm dùm phận sự tạo thế cho Đời. Mà sự làm ấy rất nên đắc lực hay là nói rõ Đạo
đảm nhiệm phận sự của mình với cử chỉ vô thân vô vị.
Đó là
nói về chính trị tổng quát của Đạo.
2 . Còn luận về việc đối nội của Đạo.
Hơn
năm năm qua, trải nhiều nỗi khó khăn nghèo khổ, toàn thể con cái Đức Chí Tôn
phải đảm đương gánh vác nặng nề để tạo nghiệp mà Đức Chí Tôn ban chung cho toàn
con cái của Ngài.
Xem
qua các cơ quan ba vị Thái Thượng Ngọc Chánh Phối Sư nắm chủ quyền giữ vững nền
Chánh Trị Đạo với 9 viện. Trong thời buổi khó khăn loạn lạc, Đạo muốn thực hiện
Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng nên mới xuất hiện ra Quân đội. Cái thêm ấy, chúng
ta cho vinh diệu chớ không phải là cái nhục, thảng có kẻ nghi kỵ trích điểm
hoặc giả một ngày kia thiên hạ nói: Đạo thì không thể có Quân đội, hay là họ
đem ra tố cáo chúng ta giữa Liên Hiệp Quốc đi nữa, thì chúng ta xin trả lời
rằng: chúng ta hy sinh tánh mạng để bảo vệ và dìu dắt nhơn sanh tiến đến con
đường Đại đồng thế giới và tinh thần Đạo Đức nhơn nghĩa. Cái phận sự tối trọng
ấy chẳng phải dễ làm chúng ta dám cố gắng hy sinh cho thiên hạ, thì thiên hạ
không ai làm đặng vì không có cơ quan nào đứng ra đương đầu để đảm đương một
lời hy sinh dường đó. Thật Bần Đạo chưa hân hạnh ngó thấy vậy. Ngoài ra họ có
thể mượn quyền lực để lập danh phận quyền lợi cho họ mà thôi, chớ chưa hề dám
hy sinh đảm nhiệm một trách vụ Thiêng Liêng như Quân Đội Cao Đài đã khấn hứa.
Hiện
nay Bần Đạo phân đoán chí lý nội tình của Đạo nhận thấy một bên là Hội Thánh
thì mấy ông già nua, còn một bên Quân đội là trai trẻ có tinh thần giục tấn.
Một
bên là hình ảnh Thánh Thể Đức Chí Tôn đi trên đường mực thước từ từ nhi tiến,
còn một đàn thì chạy theo cho kịp trào lưu biến chuyển, nên chí quyết tiến cho
hơn, một đàn thì mỗi khi đi để chơn đi thì sợ đạp nhầm đến con kiến. Còn một
đàn thì nếu thân mình không nhanh chóng lẹ làng thì một mũi đạn đủ đưa họ làm
người thiên cổ.
Hai
đàn bất đồng với nhau làm cho Bần Đạo ngồi giữa bực mình làm sao đâu!
Hạng
thanh niên thì xô đẩy quyết đi cho mau nên cho hạng già nua đi như rùa bò quá
chậm. Thật Bần Đạo kiếm phương thế dung hòa đôi đàng vừa quá mệt.
Bần
Đạo thú thật rằng: nhờ lý do đó mà Đạo Cao Đài tiển triển đến đường nầy cũng đã
mau chóng và tốt đẹp lắm rồi.
Một
đàng muốn tiến mạnh dầu có níu cũng không chuyển.
Một
đàng nếu không ngó đến thì ngồi bí xị đó không đi.
Hai
đàng cặp kè với nhau mà đi dầu chậm cũng phải đi từ từ nhi tiến. Nhờ hai lý
thuyết dung hòa nhau nên giờ này Đạo mới có hình ảnh và phương diện này.
3. Về
việc đối ngoại từ ngày lập Quân Đội đến nay, các cơ quan Chánh Trị Đạo đối với
cơ thể của Đời hổn tạp dường như lãnh đạm, vì cơ Đời còn ở trong tình trạng
biến hình, Bần Đạo nghĩ đưa người ra đảm nhiệm cũng vô ích. Chúng ta chờ để coi
nó tượng hình ra sao cho biết, huống chi làm Đạo là cốt yếu dung hòa tâm lý cần
gì phải tìm chánh sách để xen vào sửa cải chủ quyền của người cho mích bụng.
Bần
Đạo nói thật giờ này dầu sửa cải cũng vô ích. Trong buổi day trở biến hình của
nó thì phải để cho nó nên người, miễn là chúng ta để nó tự do biến tướng mà
không ra khỏi cái khuôn khổ của nó mà thôi. Chúng ta giữ sao đừng cho nó ra
khỏi cái văn hiến bốn ngàn năm tối cổ của nó. Cần gì phải can thiệp vào đó mà
làm chi?
Bây
giờ Bần Đạo thuyết về tài chánh của Đạo đương buổi loạn ly này.
Trong
buổi thống khổ nghèo nàn, tài nguyên của con cái Đức Chí Tôn gởi về để tạo dựng
cái nhà hương quả chung của họ. Thoạt nghĩ chúng ta gầy dựng được đây là vì
giỏi tiện tặng lắm mới còn, bằng không nuôi ăn cũng chưa đủ; còn về Quân đội
thì chúng ta đi làm mướn hy sinh tiện tặng sớt bớt ra để nuôi nấng mấy đứa con
côi cút góa bụa, gánh vác học đường đào tạo đám thơ sinh, phải chịu ăn không
no, mặc không lành mọi bề thiếu thốn.
Nếu
để cho Hội Thánh gánh vác thì tài sản của Hội Thánh không còn tồn tại như bây
giờ, tiêu hết mà chớ! Điều ấy quyền Vạn Linh trọn quyền quan sát kiểm điểm tận
tường thì rõ.
Toàn
cả con cái Đức Chí Tôn về Tòa Thánh hiển nhiên đều thấy hết, hỏi sao không thay
đổi được, vì nhận thấy cả thảy đều hy sinh, đều cố gắng nên bây giờ mới nên
hình, nên tướng, sự nghiệp vĩ đại Thiêng Liêng này do biết bao mồ hôi nước mắt.
Không
phải là buổi giàu có mà đem về đây rồi lãng phí bỏ rơi bỏ rớt, Hội Thánh tìm
kiếm từ đồng làm nên cho Đạo. Bần Đạo không khoe khoang, hiện nay Châu Thành
Thánh Địa đã được mở rộng, con cái Đức Chí Tôn về có đất để dựng nghiệp nhà có
phương thế để nuôi vợ con no đủ.
Bây
giờ luận về việc tạo dựng cơ quan xã hội giúp tay cho Chánh Phủ.
Trong
thời buổi loạn ly nầy, toàn xứ Việt Nam đều sống trong vòng thống khổ, con cái
Đức Chí Tôn có về đây mới nhận thấy không có chỗ nào hạnh phúc hơn là Tòa
Thánh. Nếu Bần Đạo nói không đúng thì xin trích điểm lại. Nói thật ra, đây chỗ
nuôi sống thiên hạ và là chỗ nuôi dưỡng của kẻ thống khổ nghèo nàn.
Chúng
ta thấy một gia đình kéo cả bè về Tòa Thánh là sống được. Ấy là nhờ sự chăm nom
nuôi dưỡng của Hội Thánh vì khi mới về Tòa Thánh có người không có một cái chén
ăn cơm, làm lụng ít lâu rồi cũng sống được.
Hỏi
vậy các cơ quan của Chánh Phủ có tạo nghiệp cho họ được vậy chăng Chánh Phủ bị
lo lắng điều gay trở khó khăn nên chỉ bố thí một số tiền vậy thôi, chớ nào có
thì giờ rảnh đặng để tâm lo lắng đến sự sống cho thiên hạ.
Về
cái thắng lợi của Đạo chỉ có mặt tinh thần hơn cả.
Bần
Đạo luận về sự truyền bá chơn lý Đạo:
a. Cả
con cái Đức Chí Tôn nên hiểu rằng: triết lý cao thượng của Đạo Cao Đài lấy tính
chất nó ở buổi sơ khởi khai thiên lập địa của Đức Chí Tôn sanh hóa vạn loại nơi
mặt địa cầu nầy. Trong tạo đoan Đạo Cao Đài chỉ thờ kỉnh có hai quan niệm mà
thôi. Trên là thờ Thiên Thượng là Đức Chí Tôn, dưới là thờ Vạn vật, mà tối linh
của Vạn vật là nhơn loại ấy là thờ thiên hạ.
Nó
không biết trích điểm ai, dầu các Tôn Giáo trích điểm hay đàm thuyết thế nào
cũng mặc. Đạo Cao Đài chỉ biết nắm lấy cái căn bản cái nguyên lý của nó mà
thôi.
Trong
Nho Giáo có nói: "Thiên ngôn vạn ngữ bất quá hồ thiệt", thì chúng ta
chỉ thấy chơn lý chỉ có một, không phải ngôn ngữ diệt tiêu chơn lý đặng.
Đạo
Cao Đài nắm chặt cái căn bản của nó, nên không trích điểm ai từ từ nó đi theo
con đường chơn chánh của nó. Đạo Cao Đài để cho hàng trí thức họ tìm hiểu mà
đến, chớ không dụ dỗ hay là cám dỗ cho người biết nó. Để hết trí não tìm hiểu,
con người nhận thấy trí thức cao siêu và nhận định chơn lý của nó. Tiếng Pháp
nói đức tin là sự nhận thức chơn lý (Foi raison née) do nơi đức tin ấy mà định
quyết cái tinh thần đạo đức của mình, chớ không phải do nơi sự cám dỗ nhồi sọ,
tạo thành mê tín.
Đạo
Cao Đài truyền bá là do ngôn ngữ chỉ hơn, chỉ thiệt, vì cớ nên đối với các Tôn
Giáo, Đạo Cao Đài thường bị trích điểm là vậy. Cái đức tin của Đạo Cao Đài
không cần cầu chứng nơi ai, nó chỉ cầu chứng với trí thức tinh thần của nó, về
việc truyền giáo Đạo Cao Đài đi từ từ bước một, Chức Sắc trong hàng Thánh Thể
Đức Chí Tôn cầm quyền mối Đạo là phát ngôn viên của Đức Chí Tôn từ từ tiến bước
chớ không cần chi phải giục tấn.
b. Về
việc truyền bá ở Ngoại Quốc, Phối Sư Thượng Vinh Thanh đã mở ở Pháp nhiều cơ
quan, do theo thời thế đoán ra, thấy được đắc lực tiến triển mãi mãi.
Trong
kỳ Hội nầy có đem ra hai người Pháp để cầu quyền Vạn Linh ân tứ, nhờ Hội Nhơn
Sanh định vị.
Đến
đây Bần Đạo nói đến việc chỉnh đốn nội dung nền Chánh Trị Đạo trong buổi hỗn
tạp này, ta sẽ phân tách ra Đạo và Thế phân biệt, không thể để Thế và Đạo lẫn
lộn nhau được, cũng như quyền năng Chí Tôn phân ra tả hữu vậy. Tả là Đời, hữu
là Đạo, giữa là Pháp, Đời là Đời, Đạo là Đạo đôi ngã phân minh.
Từ
đây toàn thể con cái Đức Chí Tôn sẽ chỉnh đốn lại hai đường ấy, dầu hiện nay
còn hỗn tạp cũng không hại gì.
Bây
giờ nói về vấn đề đào tạo Thiên Phong Chức Sắc. Việc nầy không phải quyền của
Hội Thánh mà không phải quyền của Chí Tôn, quyền Chí Tôn chỉ giao phó phận sự
cho toàn con cái của Ngài.
Chí
Tôn đến lập Đạo, Ngài để quyền Vạn Linh là quyền con cái của Ngài mạnh hơn
quyền Ngài.
Quyền
Chí Tôn là quyền một Ông Cha chỉ để dung hòa các con cái của Ngài chớ không
phải để trị. Có trị chăng là quyền Vạn Linh đó vậy.
Việc
đào tạo Chức Sắc là quyền sở hữu của Vạn Linh, nếu Chức Sắc trong Thánh Thể Đức
Chí Tôn thiếu thì Bần Đạo có thể đỗ cho quyền Vạn Linh bất lực.
Bần
Đạo đã nói do quyền Vạn Linh thì việc đào tạo Chức Sắc do quyền Vạn Linh định
quyết, chớ Học Đường. Hạnh Đường lập ra trọng yếu là để tạo nhơn tài mà thôi,
chỉ có con đường chơn lý của Đạo mới đào tạo tánh đức cho họ. Ngài muốn lập
thân danh phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn.
- Lập
Đức thì phải nhớ Đạo lý.
- Lập
Công thì phụng sự Nhơn sanh.
- Lập
Ngôn thì phải để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao
sâu để thuyết minh chánh giáo.
Học
đường là nơi con người học hỏi để lập Ngôn.
Lập
Đức là do đường Đạo lý.
Lập
Công là do quyền Vạn Linh định đoạt.
Người
biết dùng ba điều trên thì nên, còn không thì phải chịu mai một và do quyền Vạn
Linh biết dùng họ thì họ mới lập công với Đạo được.
Gần
đây Bần Đạo sẽ định phương châm truyền giáo Ngoại Quốc, Bần Đạo sẽ mạo hiểm,
cưỡng bách tuyển chọn Chức Sắc xuất đương giáo Đạo.
Bần
Đạo cho biết trước trong kỳ xin ân phong này, có người được tuyển chọn xuất
dương mà Giáo Đạo. Ấy đừng nói đó là việc tình cờ.
Tiếp
đây Bần Đạo nói về việc đối với các Tôn Giáo hiện hữu.
Đối
với các Tôn giáo Bần Đạo đã nói cho nghe rồi.
Toàn
thể con cái Chí Tôn đều được nghe, Bần Đạo đã bao phen len lỏi cầu thân với họ,
thế nên bên Quân đội để lời trách cứ Bần Đạo sao lại hạ mình quá lẽ, len lỏi
theo họ mà làm gì.
Biết
đâu sự hạ mình của Bần Đạo sẽ là một dấu hỏi để trong lịch sử sau này. Tại sao
Bần Đạo phải chìu lụy các Tôn Giáo, thiên hạ sẽ tìm hiểu. Bần Đạo thiết nghĩ
càng hạ mình chừng nào thì Đạo Cao Đài càng cao thượng chừng ấy, chớ đừng tưởng
là nhục, trái lại cái kết quả tốt đẹp ngày kia toàn thể con cái Chí Tôn sẽ được
ngó thấy.
Còn
nói với các đảng phái Bần Đạo thấy, nay họ lập nơi này, mai họ lập nơi khác,
bao nhiêu đảng phái đều lập tư riêng để làm chi không biết, trước mắt cái đại
nghiệp Đức Chí Tôn ban cho đây rất cao trọng sang cả vô đối mà không kẻ tô
điểm.
Thật
không hiểu họ lập ra những cái chòi mòng để làm gì vô ích quá.
Cái
phương hướng tương lai của Đạo, trọng, khinh, nên, hư, vinh, nhục, Bần Đạo gởi
trọn trong tinh thần đạo đức rồi lại giao cho quyền Vạn Linh sử dụng.
Vậy
Bần Đạo xin nhường quyền chủ tọa cho quyền Thượng Chánh Phối Sư, Bần Đạo xin kiếu
từ.
Q. 4/24: KHAI MẠC HỘI NHƠN
SANH PHƯỚC THIỆN.
Cửu Viện Phước Thiện ngày
30-08 năm Tân Mão (1951)
Bần
Đạo xin khai mạc của Hội Thánh Phước Thiện.
Trước
khi mở hội, Bần Đạo lược giải cái chánh tâm của Đạo đã từ 5 năm nay, tức là kể
từ Hội Nhơn sanh kỳ trước, mơ vọng của toàn thể Thánh Thể Đức Chí Tôn, dầu cho
Hành Chánh hay Phước Thiện cũng thế, chúng ta trông mong gì hơn hết? Đương
nhiên thiên hạ đương sống khó khăn trong thời buổi loạn ly. Bần Đạo tưởng cả
toàn con cái Đức Chí Tôn đều có hai sở vọng, sở vọng đầu tiên hơn hết là làm
sao bảo vệ sanh mạng và tài sản thiên hạ cho khỏi bị tiêu diệt, sở vọng thứ hai
nữa là tìm phương nào làm cho thiên hạ bớt khổ. Hai cơ quan ấy chúng ta sẵn có
trong cửa Đạo. Hành Chánh thì giữ mực thước cho nền chơn giáo của Đức Chí Tôn.
Bần Đạo cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn nam, nữ đều biết rằng: Đạo phải
giữ nền văn hiến của nòi giống chúng ta bốn ngàn năm sẵn có từ thử đến giờ ở
trong khuôn khổ đạo đức tinh thần của Tổ Phụ chủng tộc nước nhà cho còn tồn
tại. Ấy là phận sự của Hành Chánh. Còn muốn bảo sanh là quân đội đã thiệt hiện
nhơn nghĩa để dìu dẫn thiên hạ đi đến cảnh Đại đồng.
Bây
giờ cơ quan cứu khổ, dầu không nói mấy người cũng đã biết, ấy là trách vụ của
người Phước Thiện đó vậy.
Đức
Chí Tôn đến, có điều thiết yếu hơn hết, Ngài đến là vì con cái của Ngài quá
khổ, Ngài đến với cái sở định của Ngài, là đến cứu khổ cho toàn thể con cái của
Ngài. Cơ cứu khổ ấy trong lúc ban sơ, Đức Chí Tôn đã đưa trong tay Hiệp Thiên
Đài. Bần Đạo không biết làm sao thiệt hành ra được. Hồi đó Hội Thánh Phước
Thiện chưa thành lập, giao cơ cứu khổ, Bần Đạo không biết phải làm thế nào,
nhưng chẳng bao lâu Ngài lập thành Hội Thánh Phước Thiện, chừng đó Bần Đạo mới
biết cơ cứu khổ là đây.
Ấy
vậy, Hội Thánh Cửu Trùng Đài là Hội Thánh của Giáo Tông, còn Hội Thánh Phước
Thiện là của Hộ Pháp. Hội Thánh bên kia bảo vệ văn hiến Tôn Giáo. Hội Thánh bên
này cứu khổ, còn có chỗ nào hay ho hơn nữa. Nay thêm một cơ quan nữa do cơ đời
ly loạn nên mới xuất hiện ra Quân đội đặng bảo sanh nhơn nghĩa đặng đến cảnh
đại đồng, còn có nơi nào hay ho hơn trong cửa Đạo chăng? Điều ấy chưa Tôn Giáo
nào có, Bần Đạo quả quyết vậy.
Ấy
vậy, phận sự Hội Thánh Phước Thiện là phận sự tượng trưng hình ảnh Đức Chí Tôn
đặng cứu khổ cho con cái của Ngài, xin nhớ. Thử nghĩ coi trách vụ đơn sơ mà
nặng nề làm sao. Hiểu nghĩa lý sâu xa của nó, chúng ta sợ không bao giờ thực
hiện trách vụ nặng nề đó được. Bao giờ cũng vậy, nền Tôn Giáo từ hai ngàn năm
nay là nền Thiên Chúa Giáo hay là Đạo Gia Tô mà về Phước Thiện họ còn sơ sót
chưa mỹ mãn, huống chi mình, Bần Đạo không trách nhưng chỉ có một điều là trong
Thánh Thể Đức Chí Tôn gánh vác cái khổ cho con cái của Ngài rất nên yếu ớt.
Không đủ tâm lực, không đủ phương chước. Chỉ ước mong Đức Chí Tôn ban ân riêng
đặc biệt vì trách vụ nặng nề ấy, đặng cầm cơ cứu khổ của Đức Chí Tôn mạnh mẽ và
cương quyết, nhưng ta cũng nên biết thêm rằng: An ủi cho được một người thống
khổ không phải dễ, đem cơ cứu khổ ấy thiệt hiện ra đặng cho cả thiên hạ được
hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn, chúng ta thấy lại càng thêm khó. Phải cố gắng đã
đành, xong nên chăng là do quyền năng Thiêng Liêng giúp sức.
Những
yếu nhân đương quyền về Phước Thiện, Bần Đạo thấy giờ phút nầy tin là mấy em Kỳ
Lão Phạm Môn, nhưng họ lại có đặc quyền khác, họ còn ở Phước Thiện là bởi Phước
Thiện thiếu người cầm quyền chấp chánh, nên Bần Đạo để họ qua cầm quyền, không
phải là đặt phận sự của họ. Đức Chí Tôn định mở Phạm Môn là mở cửa tu chơn, thi
hành Bí Pháp chớ không phải Thể Pháp. Phước Thiện không phải (*1) là phận sự của
họ. Giờ phút này những phần tử Phạm Môn còn cầm quyền Phước Thiện, do Hội Thánh
Phước Thiện còn thiếu người. Chủ quyền của họ là ở các nơi tịnh thất trong cửa
tu chơn, là đặc điểm của họ. Đã hai mươi sáu năm họ chịu khổ nhọc đã nhiều. Hy
sinh từ tóc xanh đến bạc đầu, lao tâm lao lực. Bần Đạo tưởng đến càng làm thêm
ra nữa là càng thêm khổ cho họ. Hai mươi mấy năm lập Phước Thiện đoàn tiền bối
qui liễu lần hồi, chỉ đám thanh niên lúc nọ còn lại năm bảy người, họ cũng đã
da mồi tóc bạc.
Mấy
người đã biết sở yếu của mình là thiếu Chức Sắc Thiên Phong thì do nơi mấy
người định vị cho họ, xúm đưa họ lên cầu nguyện cùng Đức Chí Tôn, cho có các
chơn linh hiếu hạnh của Ngài cùng Phật Mẫu, đem vô làm Thánh Thể của Ngài cho
cường liệt mạnh mẽ. Bần Đạo nói gánh khổ của đời nặng nề lắm, đã nghe nói nặng
nề lắm thì không tâm lực, không đủ quyền hành gánh gồng chi nỗi. Đặc phận ấy
muốn làm cho trọn vẹn phải cố gắng cho lắm làm mới được, xem đàn anh họ đã hy
sinh thế nào rồi, đàn em bắt chước theo. Họ dám hy sinh cả sanh mạng tài sản,
cả kiếp sanh của họ, không biết gì là gia đình, không biết gì là danh vọng,
không biết gì tới thân hình. Có nhiều người phải lao lực mà chết biết bao nhiêu
kể, mấy em hiển nhiên ngó thấy.
Về
phương pháp hành thiện Bần Đạo nói: Chơn Pháp bên Phước Thiện có điều này trọng
yếu hơn hết, từ bực Hành Thiện muốn lên Giáo Thiện phải tạo nghiệp cho đủ 12
gia đình theo chơn pháp.
Giáo
Nhi từ trước cho lên Giáo Thiện là thể theo lòng từ bi bác ái của Đức Chí Tôn
mà ân tứ, nhưng Giáo Nhi có thể lên Lễ sanh chớ không được lên Giáo Thiện, vì
thiếu luật tạo nghiệp cho 12 gia đình. Nếu thiếu một người trong số 12 người
ấy, thì phải dừng lại bực Hành Thiện mà thôi, chớ không thăng lên Giáo Thiện.
Tạo nghiệp cho 12 gia đình không phải đem bà con vào đó mà được, tạo nghiệp cho
mỗi gia đình phải có bằng chứng là ngoại nhân chớ không phải đem bà con cật
ruột thì truất bỏ chẳng kể công nghe vậy chưa? Bởi vì bậc Hành Thiện phải làm
thiện, nhưng nếu làm cho thân bằng mình, anh em của mình, làm cho gia đình mình
thì không phải kể cho là hành thiện.
Ấy
vậy cơ quan cứu khổ Hội Thánh phải chọn người tâm đức biết hy sinh mình đặng
thực hiện cơ quan cứu khổ ấy. Phải tuyển chọn người tâm đức hiền lương từ bi
bác ái vị tha vô vị kỷ mới đáng giá phẩm vị mình.
Nên
nhớ, Hội Thánh Phước Thiện không có hàm chức như Hành Chánh, phải đi theo lên
cho tới tột phẩm Phật Tử. Những Chức Sắc hàm chức ngày nay Bần Đạo sẽ kiếm thế
đưa qua Ban Kỳ Lão hết.
Tiếp
tục đây rồi, Bần Đạo sẽ rút cả mấy vị Chức Sắc Thiên Phong ở Phạm Môn đặng mở con
đường tu chơn, nam cũng vậy, nữ cũng vậy.
Trí
Huệ Cung bên Phạm Môn tạo tác đây là nhà tu của nữ phái, giờ phút này Bần Đạo
mới nói thiệt tại sao làm nhà tu cho Phái Nữ trước. Đáng lẽ Bần Đạo phải làm
cho Phái Nam trước trên Sơn Đình mới phải chớ. Nhưng, nếu Bần Đạo làm cho Phái
Nam trước rồi họ sẽ bỏ Phái Nữ không làm. Bần Đạo làm cho Phái Nữ trước đặng họ
phân bì, dầu Bần Đạo có qui thì họ cũng cố tâm làm cho nên việc.
Phải
cố gắng, Hội Thánh Phước Thiện phải cố gắng, mấy vị Giáo Thiện, mấy bạn Kỳ Lão.
Bần Đạo cho hay trước cả Chức Sắc bên Phạm Môn Bần Đạo sẽ rút hết và sẽ giao
quyền Phước Thiện cho mấy vị Tân phong điều khiển.
Bây
giờ Bần Đạo xin giao quyền lại cho Đạo Nhơn Cương và hai vị Chí Thiện trọn
quyền chủ hội nam, còn Phái nữ thì bà Phối Sư Hương Nhiều làm chủ hội.
Phụ ghi:
(*1) Nơi đoạn thứ 7: Những yếu nhân đương
quyền về Phước Thiện, Bần Đạo thấy giờ phút nầy tin là mấy em Kỳ Lão Phạm Môn,
... ... .... Đức Chí Tôn định mở Phạm Môn là mở cửa tu chơn, thi hành Bí Pháp
chớ không phải Thể Pháp. Phước Thiện không phải là phận sự của họ....
Nguyên
bản chánh in là: Những yếu nhân đương quyền về Phước Thiện, Bần Đạo thấy giờ
phút nầy tin là mấy em Kỳ Lão Phạm Môn, ... ... .... Đức Chí Tôn định mở Phạm
Môn là mở cửa tu chơn, thi hành Bí Pháp chớ không phải Thể Pháp. Phước Thiện là
phận sự của họ....
Q. 4/25: CÁI CHƠN HẠNH PHÚC
CỦA KIẾP SANH CHÚNG TA THẾ NÀO?
Đền Thánh ngày 14 tháng 9 năm
Tân Mão (dl. 14-10-1951)
Đêm
nay Bần Đạo giảng cái chơn hạnh phúc của kiếp sanh chúng ta thế nào? Và chúng ta
sẽ gặp nó tại nơi đâu?
Chúng
ta đã chán biết rằng: Ta sống nơi thế này chẳng hề buổi nào gặp được chơn hạnh
phúc, vì nếu chúng ta gặp nó một cách dễ dàng, thì dám chắc thuyết Tứ Diệu Đề
của Đức Phật Thích Ca không có giá trị chi hết.
Sống
nơi cảnh khổ mà tìm hạnh phúc khó lắm, hạnh phúc ấy có hay chăng. Bần Đạo để
dấu hỏi? Có chớ, thật ra nếu chúng ta biết tìm nó cũng có thể được.
Chúng
ta thấy trước mắt dầu cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này họ đã khác
tánh đức, tinh thần, tâm lý với nhau, cái gì cũng khác hết, chỉ có cái cười và
cái khóc là giống nhau mà thôi. Tai sao cái cười và cái khóc của con người lại
giống nhau? Cười ấy phải chăng là tượng trưng cho hạnh phúc. Khóc phải chăng là
tượng trưng đau khổ của loài người.
Bần
Đạo nói đây chỉ có cái cười giả dối là cười thì cay đắng như ớt, gừng, cũng có
cái khóc giả dối là khóc cũng có nước mắt, nhưng cái khóc của họ là khóc giả
dối mà thôi. Bần Đạo nói cười thế nào mới tượng trưng hạnh phúc, dầu hạnh phúc
đó như ngọn gió thoảng qua, như giọt sương đầu cỏ, còn khóc thế nào mới đau đớn
và quả quyết thống khổ? Chúng ta đã ngó thấy kiếp sống của chúng ta khóc nhiều
mà cười ít. Thử hỏi một kiếp sống của chúng ta có thú vị hay chăng? Xin trả
lời: Từ lọt lòng mẹ dĩ chí ngày chung qui chúng ta chỉ hưởng được hạnh phúc
bóng dáng mà thôi, chớ chẳng hề khi nào chúng ta hưởng được chơn hạnh phúc.
Ấy
vậy, chơn hạnh phúc của ta, ta có thể tìm nó được, tìm nó ở trong cái cười hạnh
phúc của các bạn đồng sanh với ta nhưng họ ở trong cảnh khổ thì làm sao họ có
cái cười hạnh phúc được? Chúng ta phải làm thế nào, cho họ hưởng được hạnh
phúc, mặc dầu hạnh phúc ấy mảy mún, chúng ta phải làm thế nào cho họ có cái
cười hạnh phúc ấy, chúng ta lúc nào cũng muốn cho họ hưởng được mãi mãi hạnh
phúc, tuy hạnh phúc ấy chỉ thoảng qua như gió thổi hay một đám sương sa, mà có
hưởng, còn hơn không có chi hết.
Khi
chúng ta ngó thấy người bạn đồng khổ của chúng ta hưởng được điều chi của ta đã
làm cho được hạnh phúc vui vẻ, cái đó phải chăng là cái hạnh phúc của ta đây.
Hại
thay! Đâu có người nào có cái tâm yêu ái vô tận vô biên hy sinh mình đặng tạo
hạnh phúc cho kẻ khác, họ chỉ ngó thấy cái khổ của họ và họ chỉ tìm cách đạt
cái hạnh phúc giả dối của họ mà thôi, họ dám lấy cái khổ trọn kiếp sanh mua
trận cười giả dối, họ chưa biết lấy khổ nhọc của đời thiệt hiện một trận cười
hạnh phúc cho bạn đồng sanh của họ thảng như chúng ta thấu đáo được triết lý ấy
chúng ta nên để cái trí não tinh thần, chúng ta hy sinh tạo hạnh phúc cho con
cái Đức Chí Tôn, tức nhiên tạo hạnh phúc cho toàn thể nhơn loại, thì cái hạnh
phúc mà họ hưởng mỗi người đó, có thể tổng số lại làm cái hạnh phúc lớn cho ta
chớ có mất đâu.
Hại
thay! Nhơn loại chỉ vì tranh sống, thay vì họ gieo rắc rối trong tâm hồn bạn
đồng sanh của họ, cái cười hạnh phúc ấy, trái lại họ chỉ làm cho đổ lụy mà
thôi, cái suối cửu tuyền kia, nếu chúng ta ngó thấy được cái suối cửu tuyền là
nước mắt của nhơn sanh đã thống khổ, thì dám chắc rằng kiếp sanh của chúng ta
không có hạnh phúc gì hết. Chỉ giành cái sống mà tạo khổ cho nhau, chớ chưa hề
biết hy sinh mình đem cả tâm hồn bác ái từ bi vô tận vô biên đặng tạo hạnh phúc
cho người, làm nên cho người, họ chỉ giành hạnh phúc ấy mà hưởng được hay
không, không biết, cứ giành để mà hưởng cái hạnh phúc giả dối mà thôi. Nếu thế
họ chẳng hề buổi nào hưởng được chơn hạnh phúc.
Bần
Đạo đã nói hôm nay con cái của Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng vậy, sẽ có hạnh phúc.
Bần Đạo nói quả quyết điều ấy, Bần Đạo để lời hỏi, tỉ như ngày giờ nào con cái
Đức Chí Tôn hoàn toàn thay thế hình ảnh cho Ngài, dám hy sinh mình đem lòng thương
yêu vô tận vô biên, tạo hạnh phúc cho nhơn loại, Để dấu hỏi? cả thảy con cái
Đức Chí Tôn suy gẫm. Bần Đạo thú thật những người tạo hạnh phúc cho gia đình,
gầy con cháu tông đường sum hiệp lại với nhau gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc ấy
bền vững hay chăng? Không bền vững được, chỉ như ngon gió thoảng qua mà thôi.
Biết bao nhiêu gia đình ở mặt thế gian này sang cả, mà họ hưởng được cái thiệt
hạnh phúc hay chưa? Bần Đạo nói: họ hưởng đặng tạm thời trong giây phút mà
thôi.
Bây
giờ kiếm nó nơi đâu mà có? Chúng ta chỉ hưởng được là giờ chót, giờ hấp hối của
chúng ta đó thôi. Nếu chúng ta còn trí lự, còn sống sót trong 5 phút thấy cả
cái sống của kẻ đồng loại không còn đau khổ, thì cái chết của ta mới thiệt là
hạnh phúc. Bởi chúng ta có thể đến trước mặt Đức Chí Tôn mà nói rằng: Thưa
Thầy, con đã làm tròn bổn phận của con đối với Thầy, Thầy muốn con thay thế
hình ảnh cho Thầy đặng tạo hạnh phúc cho con cái của Thầy, con đã làm đặng. Rồi
day lại nói với các bạn đồng sanh của chúng ta rằng: Nầy các bạn, tôi xin kiếu
từ các bạn và trông đợi các bạn. Lúc nào tâm hồn cũng rung chuyển cho mấy người.
Giờ phút này tôi còn trông mong nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống kia, là nơi
chúng ta hưởng được hạnh phúc thiệt thọ với nhau, tôi mong các bạn đến đó đặng
tạo dựng một hạnh phúc lâu dài. Tôi xin đợi mấy người tại chỗ đó.
Q. 4/26: LỄ HIỆP CHÚNG QUỐC -
TỔ CHỨC QUỐC TẾ ĐỂ BẢO THỦ HÒA BÌNH THẾ GIỚI.
Đền Thánh, đêm 24-09 năm Tân
Mão (1951)
Ngày
hôm nay là lễ Hiệp Chúng Quốc, Bần Đạo cũng nên thuyết minh cái lễ này là cái
lễ gì? Và nó ra sao? Bần Đạo nói: Nó đối với nền Đạo của Đức Chí Tôn tức nhiên
Đạo Cao Đài cũng trọng hệ lắm vậy.
Hiệp
Chúng Quốc là một tổ chức Quốc Tế để bảo thủ hòa bình tự do hạnh phúc cho nhơn
loại. Tổ chức ấy nó đương tiếp tục với Liên Hiệp Quốc buổi nọ. Do sao Liên Hiệp
Quốc đề xướng ra? Ban sơ chỉ có Ngũ Cường là Pháp, Trung Hoa, Anh, Mỹ và Nga,
mà ngày nay đã có trên 50 nước hội viên và nước Việt Nam ta cũng có thể nương
vào hội ấy đặng bảo thủ nhơn quyền.
Cái
vinh diệu của nước Pháp hơn hết, là hội nhơn quyền buổi nọ để bảo thủ tự do
nhơn loại của Pháp đề xướng, ngày hôm nay Hiệp Chúng Quốc đã công nhận và
truyền bá cho cả toàn cầu thi hành thiệt hiện ra cũng như nước Pháp đã thi hành
từ thử.
Ấy
vậy, chúng ta đã biết rõ rằng: Hiệp Chúng Quốc cốt yếu bảo thủ hòa bình và tự
do cho nhơn loại, tức là muốn đem cả toàn cầu làm một, làm một cái đại gia đình
Quốc Tế, tức nhiên là đại gia đình của nhơn loại đó vậy. Thật ra chúng ta ngó
thấy cái tổ chức ấy đang gặp nhiều nỗi khó khăn gay trở, nhưng Bần Đạo quả
quyết rằng: Ấy là một cơ thể do nơi Thiên thơ đã tiền định. Chính Đức Chí Tôn
buổi nọ (năm 1925) giáng dạy. Ngài nói rằng: Nhơn loại sẽ cộng hiệp với nhau mà
thôi, một về xã hội, một về chủng tộc, một về tín ngưỡng. Ấy vậy, cái chơn pháp
của Đức Chí Tôn Thiên cơ đã muốn cho toàn thể nhơn loại hiệp nhứt cùng nhau
trong đại gia đình Quốc Tế, vì cớ cho nên khiến ra các Liệt Cường trên mặt địa
cầu, giờ phút này chỉ chủ hướng theo một mục đích là làm thế nào cho cả toàn
cầu chung hiệp với nhau trong đại gia đình của nhơn loại. Bần Đạo có thể mơ
mộng một ngày kia, một ngày gần đây các chủng tộc trên toàn cầu này sẽ duy nhứt
một Chánh Phủ mà thôi. Chỉ có một phương ấy thiên hạ mới hòa bình và toàn cả nhơn
loại mới mơ ước hưởng được tự do hạnh phúc.
Cái
chánh nghĩa của Hiệp Chúng Quốc ngày nay thiên hạ đều ngó thấy trên con đường
duy nhứt phải đi, và con đường ấy có thể tạo hạnh phúc cho nhơn loại, phải có
sự hiệp một cùng nhau không còn tranh quyền lợi giai cấp, họ sẽ đi đến một cảnh
hòa bình trong bác ái, trong công chánh, cũng như Đạo Cao Đài đã theo dõi từ
ban sơ đến giờ. Biết đâu cái cơ quan Hiệp Chúng Quốc là một tổ chức Quốc Tế, để
giúp cho chơn pháp của Đạo Cao Đài được thực hiện, tức nhiên để giúp Đạo Cao
Đài làm tròn phận sự, hiệp nhứt con cái Đức Chí Tôn vào lòng yêu ái vô tận vô
biên của Ngài.
Q. 4/27: KIẾP DUYÊN KIẾP
QUẢ CỦA CHÚNG TA.
Đền Thánh đêm 30-09 năm Tân
Mão (1951) (*1)
Đêm nay Bần Đạo giảng kiếp duyên, kiếp quả của chúng ta, chúng ta phải hiểu
nghĩa kiếp duyên là gì? và kiếp quả là gì? Chúng ta biết đương nhiên kiếp sanh
của chúng ta bây giờ đây ở trong cái tình trạng nào?
Kiếp quả theo chơn lý
của Phật đã nói rõ rằng: Cái nhơn quả của ta nó làm cho chúng
ta sanh nơi cõi trần này. Chúng ta có xác thịt thi hài làm người nơi mặt địa cầu này do nơi nhơn quả của chúng ta mà ra, đã mang căn kiếp số đương nhiên của chúng ta, do nơi
nhơn quả của tiền kiếp, tức nhiên kiếp trước, rồi cái kiếp tương lai, cái kiếp
sắp tới của chúng ta do nơi nhơn quả của kiếp bây giờ, chúng ta đã đào tạo ra nhân, bởi chúng ta đã đào tạo ra nhân, mới sanh ra quả, mà có
quả tức nhiên chúng ta phải tái kiếp đặng đền cái quả ấy. Gọi là kiếp quả.
Bây giờ kiếp duyên là chúng ta có đủ làm phận sự trong kiếp sanh trước của chúng ta trọn vẹn nhơn đạo, trọn vẹn cái đạo làm người của chúng ta
và đã gieo cái tình ái vô biên trong tâm thần của bạn đồng
sanh của chúng ta, ta đã thi ân cho họ, ngày giờ này ta đến cho có mặt đặng cho
họ trả cái quả kiếp của họ. Gọi là kiếp duyên hay là cái căn tu của chúng ta đã
đạt đến một địa vị Thiêng Liêng của chúng ta gọi là siêu thoát, thì ta tái kiếp
đặng mà đạt cái phẩm vị ấy nơi cõi này, tại mặt địa cầu này. Đó là chúng ta đã
đào tạo cái nhơn duyên của chúng ta vậy.
Trong
cái kiếp duyên của chúng ta có cái kiếp ngộ đạo là hạnh phúc hơn hết, và trọng
hệ hơn hết, mà chính cái ngộ Đạo ấy, chúng ta có thể may duyên đến hội hiệp
cùng Đại Từ Phụ, tức nhiên vào ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn vậy. Cái kiếp
duyên cao trọng hơn hết là đấy. Bần Đạo nói rõ. Mấy bạn yêu ái của chúng ta
đương ở trong lòng thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn nhập trong cái đại gia đình
Thiêng Liêng của Ngài. Ngài đến nơi mặt địa cầu này là để cái dấu chơn của Ngài
trên cái Cao Đài này, đặng Ngài làm cái dấu hiệu cho toàn thể con cái của Ngài
đã hữu duyên gặp đặng Ngài, nó là nơi hội hiệp của nó, nghĩa là chúng ta ngày
hôm nay ngồi trong cái Đền Thánh này, tức nhiên trong một cái cơ thể tượng
trưng lòng yêu ái vô tận của Đức Chí Tôn, nó không phải tình cờ mà được vậy,
chúng ta chung hiệp với nhau ngày hôm nay trong lòng yêu ái của Ngài nơi Đền
Thánh này không phải do nơi cái may mà ra, chúng ta đã đạt đặng một kiếp duyên
của chúng ta, hội hiệp cùng nhau chung cả hạnh phúc của chúng ta làm một khối
Thiêng Liêng vô đối trong lòng yêu ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn, đặng cầm cái
quyền năng yêu ái ấy rải khắp cho toàn thiên hạ được hưởng, có nghĩa là chúng
ta có cái duyên phận đến đặng thọ mạng lịnh của Đức Chí Tôn phụng sự con cái
của Ngài, cái phụng sự ấy là để tạo kiếp duyên cho họ, cũng như ta đã được may
phước ngộ Đạo gặp Ngài nơi thế này.
Vị
Thanh Tâm Tài Nữ trước kia vì tình mà chết, nên phải đầu kiếp, trước khi người
đến tại nước Anh, người có đến đặng từ biệt chúng tôi, buổi ấy chúng tôi hỏi:
Sao lại đến nước Anh, chớ không đến nước khác? Thanh Tâm Tài Nữ nói: Nhơn duyên
của em nơi đó. Em cốt yếu đến nước Anh đặng đón đường Đức Chí Tôn đi ngang qua
đấy. Thanh Tâm Tài Nữ làm như vậy là:
"Phải đủ căn sanh mới thấy
Trời,
Ai ơi đừng tưởng dễ như chơi.
Nghe danh tuy chất chồng bên gối,
Cổ Phật không duyên khó gặp
người".
Bần
Đạo nói thật: Mấy bạn nam cũng thế, nữ cũng thế, đương chung hiệp cùng nhau nơi
đây, cái buổi hạnh phúc của chúng ta là buổi nầy "Bá Thiên vạn kiếp nan
tạo ngộ" không phải dễ mà gặp. Ta đã gặp đặng tưởng chắc nếu chúng ta hiểu
rõ giá trị của nó, thì cái kiếp duyên của chúng ta đây dầu có của phú hữu tại
mặt địa cầu này, cái danh giá cao trọng như thế mấy, cái hạnh phúc giá trị sang
trọng thế mấy cũng xa cái giá trị của kiếp duyên như Trời với vực.
Q. 4/28: KỂ ĐẠI CÔNG NGHIỆP
CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.
Đền Thánh đêm 12-10 năm Tân
Mão (1951)
Ngày
mai này là ngày Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Bần Đạo xin để lời
yêu cầu cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn phải có mặt đông đủ đặng tỏ cái nghĩa
của chúng ta đối với Người, một vị Đại Tiên đã giáng phàm, phận sự yếu trọng là
đến đặng lập nền chơn giáo nơi thế gian này. Cái tiểu sử của Ngài, ngày mai này
Bần Đạo sẽ minh tả. Chúng ta chỉ tìm hiểu thử coi cái hành tàng trong kiếp sống
của Ngài để lại cho chúng ta một cái gương quí báu, Bần Đạo muốn nói ra đây
đặng toàn thể con cái Đức Chí Tôn đối với Đạo hiểu cái phận của mình đặng định
phận Đạo của chúng ta, đối lại với Đức Chí Tôn và đàn anh của chúng ta thế nào,
cái kiếp sanh của chúng ta nơi thế gian này có hai sự nghiệp, sự nghiệp về linh
hồn của chúng ta, nói rõ ra là cái sự nghiệp do nơi năng lực của tâm hồn ta gây
tạo và cái sự nghiệp phần đời của chúng ta, nẽo đời nơi cõi thế này duy có mấy
điều trọng yếu: Công danh, quyền lợi. Chúng ta nên xét đoán tìm thử coi công
danh thể nào bền vững chắc chắn, công danh thể nào là tiêu hủy, mơ hồ bóng
dáng.
Đức
Quyền Giáo Tông buổi nọ lúc sanh tiền của Ngài, nếu nói rằng có một người Việt
Nam đã được phẩm vị cao trọng, có thể phẩm vị ấy tạo công danh phú quí của Ngài
toàn mãn đặng. Bần Đạo vốn là bạn thiết của Ngài nên biết rằng: Dầu cho cả
chủng tộc buổi nọ, một vị Thượng Nghị Viên sang giàu mà Bần Đạo nói rằng chẳng
hề buổi nào hưởng đặng cái hạnh phúc. Chính Ngài đã tỏ với Bần Đạo cái tình chí
thiết nói rằng: Có nhiều chỗ của Ngài không muốn sống, Ngài muốn tự diệt Ngài
đi mà chớ. Vì lẽ bất công, bất công cả thảy trong xã hội, nhứt là xã hội đồng
bào của Ngài. Ngài bỏ cái công danh phú quí ấy, buổi nọ ai cũng chê Ngài khờ
khạo, dại dột, Ngài đã bỏ, ta thử nghĩ Ngài bỏ đặng chi? Ngài bỏ cái công danh
phú quí bóng dáng đó đặng Ngài tìm cái gì mà chớ? Có phải chăng Ngài đem công
danh phú quí đổi lại một công danh phú quí trường tồn hay chăng?
Hôm
nay chúng ta đến đây ai cũng có một cái tình cảm xúc, tại sao? Tại vì anh cả
của chúng ta đã chịu khổ hạnh bảo tồn nền chơn giáo, ai cũng ngậm ngùi tình
luyến ái.
Chúng
ta xét cổ kim, chúng ta đã ngó thấy thiên hạ sống trong vinh hiển đã nhiều, đời
sang giàu ai cho bằng Thạnh Sùng, Vương Khải, ai mà giàu sang quyền thế đạt một
ngôi vị Đế Vương, giàu có bốn biển, thống nhứt cả nước Trung Hoa buổi nọ, Kiệt,
Trụ, Sở Bá Vương, Tần, mà chúng ta thử xem lại coi cái công danh phú quí sang
trọng ấy giờ phút này còn tồn tại chi chăng? Có tồn tại một món là Tần Thủy
Hoàng tạo đặng Vạn Lý Trường Thành, thiên hạ nhìn nhận một vật phi thường số 8
mà giờ phút này chúng ta ngó thấy thiên hạ sửa soạn đập phá nó, để lấy cái
nguyên liệu ấy đặng xây dựng đền đài, tiêu hủy tên tuổi Tần Thủy Hoàng để lại.
Cái sống trong vinh hiển của đời này nó phải tùng theo khuôn luật, hình chất
của con người còn công danh phú quí ấy vẫn còn, mà mất thì công danh phú quí ấy
vẫn mất.
Hại
thay! Còn mất ấy nó ở trong đời tạm con người một trăm năm là quá cao rồi.
Chúng ta đã ngó thấy một người ăn mày với một bình bát đi xin đặng độ nhựt,
đặng sống vì Đạo, cái bình bát ấy nó đựng cả Càn Khôn Vũ Trụ, cái bình bát ấy
nó "đựng" cả tinh thần tâm hồn toàn thể nhơn loại là Đức Phật Thích
Ca.
Một
kẻ bị xử án, tội nhơn chết trên cây Thánh Giá không có một manh áo, chỉ trơ mình
tấm thân trần (lỗ), kẻ ấy hôm nay làm Chúa của toàn thiên hạ trên thế gian này.
Hai công danh tôi tưởng không cần gì để lên mặt cân mà lường, cả toàn thể con
cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy Quyền Giáo Tông của chúng ta biết lựa con đường ấy
biết cái trọng, cái khinh, Ngài khôn ngoan hơn hết, bỏ cái khinh giữ cái trọng.
Chúng
ta thử nghĩ, chúng ta vì gia đình là cho Tông đường ta và ông cha ta, tưởng ra
nó còn lại với một cái tình yêu ái của toàn thể thiên hạ, cái nào hơn, cái nào
thua, cái nào trọng, cái nào khinh, chúng ta không nói cũng có thể hiểu được.
Ước
mong đoàn em của Ngài biết cái lập trường quí báu của mình đứng trong lập
trường ấy thế nào đặng vững tinh thần, giữ danh thể, giữ cái oai võ của mình
cho toàn vẹn giá trị mình.
Q. 4/29: LỄ KỶ NIỆM NGÀY
QUI TIÊN CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG.
Tại Tháp Đức Quyền GIÁO
TÔNG ngày 13-10 năm Tân Mão (1951)
Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong lưỡng phái, Quân đội cùng
các anh em nam nữ, con yêu dấu của Đức Chí Tôn.
Ngày
hôm nay là ngày vía của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, một ngày kỷ niệm
nồng nàn. Khi Qua bước lên giảng đài này thì dường như Qua sống lại hai mươi
mấy năm về trước, cái thời gian hai mươi mấy năm ấy, giờ phút này Qua tưởng
tượng như giấc ngủ, giấc chiêm bao, chẳng có chi để lại cho ta hơn là một cái tình
cảm nồng nàn.
Đức
Quyền Giáo Tông đã vâng mạng lịnh và đã lãnh một trách nhiệm Thiêng Liêng đến
tạo nền chơn giáo nơi đất Việt Nam nhỏ bé, bạc nhược, nếu Qua không nói là hèn
hạ buổi nọ. Lãnh một cái sứ mạng ấy là cái sứ mạng đem cả công lý cả yêu ái
đặng để nơi mặt thế gian này. Thật ra nhơn loại không buổi nào đặng hạnh phúc vì
cái tình ái tuất thương sanh Đức Chí Tôn đã đem để vào tâm não của mỗi đứa, đã
tiêu hủy.
Thật
ra hồi ban sơ chỉ có ba người, Bần Đạo nói không có gì, Đức Chí Tôn đã đến một
cách tình cờ, một cách không ai tưởng tượng được, khi Ngài đến thì chỉ có Đức
Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo mà thôi, về sau Bần Đạo và Đức Cao Thượng Phẩm mới
đến nhà Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãn cùng người.
Bần Đạo nói thật, Bần Đạo lấy làm ngạc nhiên một người đã đứng đầu trong một
trường chánh trị đã chịu một ảnh hưởng của tình thế trích điểm cũng có, tôn
sùng cũng có, khen cũng có, chê cũng có, buổi ấy bị họ ghen ghét nên chê nhiều
hơn khen, chính mình Bần Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí Tôn biểu Thượng Phẩm và
Bần Đạo đến nơi đó? Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi thường,
giờ phút này Bần Đạo nói đến lấy làm lạ, một là từ thử đến giờ Bần Đạo chưa ngó
thấy. Đến chuyện vãn cùng Ngài, Đức Chí Tôn nói cái chi, chỉ có hai người biết
với nhau mà thôi, Bần Đạo và Thượng Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì
hết mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi. Trong 24 giờ một người đã
là Thượng Nghị Viên, một cái gia nghiệp đủ vinh hiển đủ cao trọng đủ đương đầu
với thiên hạ. Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Một cái là hơn hết là
đương hút á phiện, người phong lưu như ai kia vậy, bỏ một cái một, rồi trường
trai đó vậy. Một người của Bần Đạo ban sơ thấy Thượng Phẩm là có một, rồi sau
lại có người này nữa. Ngồi nghĩ thầm cái đức tin gì mà lạ lùng như thế? Giờ
phút này Bần Đạo mới hiểu hai vị Đại Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề
Đức Chí Tôn đã giao phó một sứ mạng nặng nề khó khăn, để đảm nhiệm trách vụ tạo
dựng gánh vác nền chơn giáo của Ngài nơi mặt thế này. Nói thật ra, thưa cùng
Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài nam nữ cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái
ngôi Giáo Tông Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ
để nơi đất Việt Nam này một cái báu vật quí giá vô cùng từ thử đến giờ chưa hề
có.
Bần
Đạo ngó qua bên Vatican, cái ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pièrre thế nào thì
Bần Đạo có lẽ nói và có thể mơ ước rằng: Cái ngôi của Thượng Trung Nhựt lưu lại
nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy. Anh em nam nữ lưỡng phái, giờ phút Thiêng
Liêng này Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt ngự nơi đây để cho Bần Đạo nói
với Ngài một đôi lời.
Anh
Thượng Trung Nhựt, cái khổ nhục của anh, cái nghèo khổ của anh, ngày hôm nay nó
đã được tượng hình, tượng hình vĩnh viễn nầy. Cái khổ nhục của anh đó, các em
đã dùng nó đặng tạo nghiệp Thiêng liêng cho thế gian này, cái khổ nhục của anh
nó làm ngọn huệ kiếm đặng bảo trợ đoàn em của anh, đem cái công lý, cái bác ái
làm chúa của mặt địa cầu đặng chuyển lại cơ tận diệt trở nên một cái cơ tận độ.
Anh ngó lại cái tương lai của Việt Nam và cái tương lai của Đạo. Em có một lời
yếu thiết là đoàn môn đệ, đoàn con Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã phú thác cho
những tay cầm vận mạng tương lai của Đạo. Anh đã chán biết mỗi một sanh mạng
của nó trong quân sĩ, nó phải cỗi áo cà sa mặc chiến bào đặng chuyển thế, gieo
bảo sanh nhơn nghĩa đại đồng cho toàn nhơn loại, mà anh đã biết cái tương lai
của Đạo, em đã để nơi chúng nó một tình thương nồng nàn. Mỗi một sanh mạng của
nó là một giọt huyết lệ của em. Em giao cái vận mạng của nó trong tay anh, anh
đã có làm anh, có thể bảo thủ nên hư thời vận tương lai sẽ tới, em để trọn vẹn
và em đã phú thác trọn trong tay của anh đó vậy.
Q. 4/30: LỄ KỶ NIỆM DI LIÊN
ĐÀI CỦA NGÀI QUA THÁP MỚI.
Tại Tháp Đức Quyền Giáo
Tông ngày 13 tháng 10 năm Tân Mão (1951)
Hôm nay là ngày kỷ niệm qui tiên của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt,
Bần Đạo chỉ cần nhắc tiểu sử của Ngài, bởi vì toàn thể con cái của Đức Chí Tôn
nam, nữ, đều biết rõ kiếp sanh của người anh cả chúng ta thể nào
rồi, Bần Đạo có thuyết ra đi nữa cũng thừa. Có một điều về tâm lý cao thượng
của tinh thần, Bần Đạo trạng tả ra đây là khi Bần Đạo đặng hạnh phúc làm tròn
cái phận làm em.
Anh
cả chúng ta thiên hạ tưởng là chết, nhưng vẫn sống... Chết gì còn nói được,
chết gì mà để khối tinh thần trong đầu óc anh em còn hiện diện tại đây?
Chúng
ta đương hành lễ, anh cả của chúng ta về để lời cám ơn, trong lời cám ơn ấy có
điều yếu trọng hơn hết, Bần Đạo giải nghĩa điều yếu trọng ra đây cho toàn con
cái Đức Chí Tôn đều biết, tưởng nếu lời trọng yếu ấy mà anh cả của chúng ta không
có nói thì chưa ai tưởng tượng lời cảm ơn ấy được. Tuy vẫn biết xác thịt người
là xác chết, xác phàm này là con vật không có gì hết, mà mấy em nam nữ tôn sùng
quí trọng, là cốt mấy em sùng bái Thánh Thể Đức Chí Tôn mà thôi, nói nội bấy
nhiêu đó cũng đủ làm bài học quí báu cho toàn thể Chức Sắc nam nữ. Hội Thánh là
thánh thể Đức Chí Tôn vậy.
Xác
chết đã hết giá trị rồi, mà chúng ta còn muốn tôn sùng cái giá trị ấy cao thượng
hơn, giờ phút này lời anh cả chúng ta đã nói, so sánh lại xác chết của anh cả
chúng ta và cái kiếp của Thánh Thể Đức Chí Tôn, hai cái địa vị như thế nào,
chúng ta đã có can đảm tôn sùng xác chết của Đức Quyền Giáo Tông như thế này,
thì đối với giá trị tôn sùng xác sống của Đức Chí Tôn, tức nhiên là Hội Thánh,
thì nó còn giá trị quí báu hơn nữa chớ! Sự thật nó vẫn vậy, chúng ta tự hỏi:
Nếu chúng ta muốn đạt cho đặng cái giá trị cao thượng ấy, chúng ta phải làm thế
nào? Và làm thể nào cho đáng giá? Ấy là câu hỏi nên để mãi trong đầu óc hay hơn
lời của Đức Chí Tôn để trong lòng chúng ta nữa. Những lời hay của anh cả chúng
ta, một người vì đức tin nơi Đức Chí Tôn, dám hy sinh cùng Ngài, làm cho chúng
ta phải học.
Thảng
như chúng ta suy gẫm đến điều này thì thấy trước kia anh cả chúng ta sống trong
trường quan lại, là một vị Thượng Nghị Viên tức nhiên là một tước phẩm tối cao
của xã hội Việt Nam buổi nọ, Ngài đã biết cái giá trị thọ lãnh nơi Đức Chí Tôn
và cái giá trị thọ lãnh cùng đời và có can đảm quyết đoán cái khinh, cái trọng,
mới có can đảm bỏ cái hình đương thời có giá trị hiển nhiên, mà lấy cái bóng
không có giá trị gì hết, buổi nọ họ mạt sát khi rẻ, mà Ngài có can đảm hay
chăng chúng ta đã ngó thấy, người cầm con cờ nơi tay và chỉ có nước ăn, nước
thua, mà Ngài biết cầm con cờ đi nước thắng. Ngài dám gởi tâm hồn hình thể của
Ngài nơi tay của Đức Chí Tôn giá trị buổi nọ coi rẻ thế nào? Mà ngày giờ này,
cái giá trị ấy nó có uy quyền thế nào, Bần Đạo để cho toàn thể con cái Đức Chí
Tôn ngó thấy.
Nơi
mặt địa cầu này, dầu cho giá trị nào, hay hàng phẩm nào, dầu cho bực vương đế
đi nữa, mà không có tinh thần của Đức Chí Tôn để trong đó là đồ bỏ không có giá
trị gì hết, mà cũng không khi nào vĩnh cửu, trường tồn được. Chúng ta đã ngó
thấy đài Tần, đỉnh Hớn kia như thế nào mà dám chắc tương lai của nó không bằng
cái tháp này. Cái tháp này sẽ trường cửu, đài Tần, đỉnh Hớn kia sẽ bị tiêu tan.
Bần
Đạo nói ra đây cho toàn thể con cái của
Đức Chí Tôn hiểu biết cái sứ mạng tối yếu, tối trọng của chúng ta là thể nào đó
vậy.
Q. 4/31: NGÀY LỄ CỦA HỘI QUỐC
LIÊN NHƠN QUYỀN.
Đền Thánh đêm 11 tháng 11 năm
Tân Mão (1951)
Hôm
nay là ngày Hội Quốc Liên, là ngày kỷ niệm tuyên dương của Hội Nhơn quyền. Nhơn
Quyền của Hội Quốc Liên hôm nay do căn bản của Hội Nhơn Quyền do Pháp đào tạo
và là cái danh dự cao trọng của Pháp hơn hết. Y như lời Bần Đạo đã thuyết minh
ngày lễ của Hội Quốc Liên về cái danh dự tạo Hội Nhơn Quyền cho nhơn loại, cái
danh dự nước Pháp đã đạt đặng và đã đem lại cái danh thể cho nước Pháp thêm lớn
lao với toàn cả thiên hạ, là chính nước Pháp đã đề xướng Nhơn quyền. Phàm mỗi
việc nó khởi đương ra vẫn nhỏ rồi mới biến sanh ra lớn, mỗi sự chi ở thế gian
này, vận mạng con người vẫn do theo cái luật tiến triển của tinh thần của hình
thể, của năng lực cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu này. Ban sơ tại sao và do
nơi cớ gì đã xuất hiện Hội Nhơn Quyền của nước Pháp buổi nọ? Có một vị sĩ quan
kia tên Dreyfus bị cường bức phải mất chức và bị lao tù, nhưng cái lẽ bất công
ấy một người không thể chi minh oan đặng. Các bạn đồng kiếm phương giải cứu.
Một khối người họ nghĩ cũng chưa đủ, thế nên họ phải đề xướng lên làm thế nào
cho toàn cả quốc dân nước Pháp phải chung hiệp với họ, đặng đem nhơn đạo lại
cho kẻ hàm oan nhờ và tranh đấu đặng quyết định thâu hoạch nhơn quyền, các Hội
viên của Hội Nhơn Quyền gọi danh là Dreyfusards, thành thử buổi nọ có nhiều
trường hợp chiến đấu kịch liệt, một bên nhà cầm quyền, một bên nhứt định phản
kháng cái bất công của chánh phủ làm phương nào cứu đặng Dreyfus ra.
Họ
chiến đấu một cách khó khăn nhưng mà họ đã đắc thắng. Ngày hôm nay cả toàn thể
thiên hạ tức nhiên các liệt cường điều nhìn nhận rằng: Tổ chức ấy rất trọng
yếu, chánh đáng cho toàn thể nhơn loại được hưởng vậy, vì cớ cho nên Hội Quốc
Liên mới tuyên dương ra các nước dân chủ trên mặt địa cầu này, cả thảy điều
tùng theo cái tổ chức ấy và thiệt hiện cho toàn thể quốc dân hưởng quyền sở hữu
làm người của họ. Cái sở năng của họ muốn cho nhơn quyền đạt đặng làm thế nào
cho cả toàn thể dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội nhơn quần điều đặng tự do, tự
do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do sinh sống, tự do định phận của mình đối
với mọi người bất cứ xã hội nào, cần yếu là trong tự do ấy họ có cái đặc phận
đối với xã hội của họ mà thôi.
Ấy
vậy, hôm nay tại sao chúng ta là Đạo Cao Đài mà làm lễ long trọng dâng sớ cho
Đức Chí Tôn, cầu nguyện Thiêng Liêng bảo hộ, binh vực cái tổ chức ấy được thiệt
hiện nơi mặt địa cầu này. Bởi chúng nó là khuôn khổ cho nhơn đạo, nó phải có để
giúp Đạo Cao Đài dìu dắt nhơn loại đi đến đại đồng thiên hạ trong bác ái công bình.
Bao
giờ cái phản động lực của mình cũng do nơi quyền năng vô đối của năng lực nhơn
quyền Thiêng Liêng kia đã đem đến, hễ có dữ, có hiền, vì có bất công, vì có đau
khổ, của những kẻ cô thế bị cường quyền áp bức, họ không biết nương tựa nơi đâu
đặng họ tự vệ lấy họ, tự bảo lấy họ, cái bất công ấy dẫy đầy nơi mặt thế gian
này. Vì cớ mới sản xuất phản động chủ nghĩa, phải có một phương pháp chi bảo vệ
nhơn quyền của họ, bằng chẳng vậy cái lẽ bất công trên mặt địa cầu này, chúng
ta đã đoán xét thấy một tấn tuồng trước mắt làm cho thiên hạ đau khổ không thể
gì giúp đặng, nên mới sản xuất ra phản động lực mạnh mẽ bảo vệ Hội Nhơn Quyền.
Phải có một năng lực bảo vệ đặng đối thủ với lẽ bất công xã hội ấy đã làm cho
thiên hạ phải thống khổ, làm cho thiên hạ phải ly loạn, phải tương tàn tương
sát với nhau, sanh ra một cơ tận diệt.
Muốn
đem lại hạnh phúc hòa bình, hòa bình thiệt hiện được, phải bảo vệ quyền hành
cho cá nhân, cho xã hội và cho toàn thể nhơn loại, tất phải đem lại công chánh
bác ái để nơi mặt thế gian này mới đặng. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn khiến Hội
Quốc Liên dung nạp cái tổ chức Hội Nhơn Quyền của Pháp đặng tuyên dương cùng
toàn mặt địa cầu đặng thiệt hiện đại đồng thiên hạ đó vậy.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ] [ 11 ] [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét